id
int64
0
23k
passage
stringlengths
27
4.61k
metadata
dict
22,600
Title: When I Think of You "When I Think of You" là đĩa đơn thứ ba của ca sĩ người Mỹ Janet Jackson trích từ album phòng thu thứ ba của cô, "Control" (1986). Được sáng tác và sản xuất bởi bộ đôi Jimmy Jam & Terry Lewis với sự tham gia hỗ trợ viết lời của Jackson, bài hát nói về cảm giác vui vẻ khi ở bên người mình yêu. Đây là đĩa đơn quán quân đầu tiên của nữ ca sĩ trên bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100, giúp cô trở thành nghệ sĩ trẻ nhất kể từ Stevie Wonder đứng đầu Hot 100 (lúc đó Jackson mới 20 tuổi). Janet Jackson đã biểu diễn "When I Think of You" trong tất cả các chuyến lưu diễn trong sự nghiệp của mình.
{ "split": 0, "title": "When I Think of You", "token_count": 160 }
22,601
Title: When Knowledge Conquered Fear When Knowledge Conquered Fear là tập 3 trong tổng số 13 tập trong bộ phim tài liệu về khoa học ở nước Mỹ: (Vũ trụ: Chuyến du hành không-thời gian), được trình chiếu vào năm 2014. Chương trình này dựa theo phim tài liệu trước đó của Carl Sagan được trình chiếu trên PBS(Public Broadcasting Service - "Dịch vụ Truyền thông Công cộng". Có thể nói, đây được coi là một cột mốc quan trọng cho phim tài liệu khoa học. Chương trình được trình bày bởi nhà vật lý thiên văn Neil deGrasse Tyson. - Đạo diễn: Brannon Braga - Ngày chiếu: 23/3/2014 - Lượng người xem (Ở Mỹ): 4.25 triệu người Mở đầu tập phim, Neil deGrasse Tyson đã mô tả cách nhận dạng mẫu, thể hiện trong nền văn minh sớm nhất là cách sử dụng thiên văn học và chiêm tinh học để dự đoán sự đi qua của các mùa trong năm, kể cả việc thông qua một sao chổi thường được coi như là một điềm báo. Tyson tiếp tục diễn thuyết nguồn gốc của sao chổi chỉ được biết đến trong thế kỷ 20, nhờ Jan Oort và giả thuyết của ông về đám mây Oort trên vũ trụ. Tyson sau đó tiếp tục đề cập đến sự hợp tác giữa Edmond Halley vàIsaac Newtontrong thời gian cuối thế kỷ 17 ở Cambridge. Sự hợp tác này sẽ cho kết quả trong các ấn phẩm của "Philosophiæ Naturalis Principia Mathematica" (Các nguyên lý toán học của triết học tự nhiên), công việc quan trọng đầu tiên để mô tả các định luật vật lý trong thuật ngữ toán học, bất chấp sự phản đối về việc ăn cắp ý tưởng mà Robert Hooke nghĩ ra và những khó khăn tài chính của Hội Hoàng gia London. Tyson giải thích cách làm việc này thách thức quan điểm: Chúa đã tạo nên vũ trụ ở trên thiên đường, nhưng sẽ tạo tiền đề cho nhiều yếu tố của cuộc sống hiện đại, bao gồm cả việc bay vào không gian.
{ "split": 0, "title": "When Knowledge Conquered Fear", "token_count": 440 }
22,602
Title: When Knowledge Conquered Fear Tyson mô tả thêm sự đóng góp của Halley dựa trên công việc của Newton, trong đó có việc xác định khoảng cách từ Trái đất đến Mặt trời, chuyển động của các ngôi saovà dự đoánquỹ đạo của sao chổi Halley bằng việc sử dụng định luật Newton. Tyson đối chiếu các phương pháp tiếp cận khoa học để hiểu biết thêm về thiên hà so với những gì mà các nền văn minh trước đó đã được thực hiện, và cho rằng, những tiến bộ này là những bước đi đầu tiên của nhân loạitrên con đường khám phá vũ trụ. Tập phim kết thúc với một hình ảnh động. Đó là hình ảnh hợp nhất của thiên hà Milky Way và các thiên hà Andromeda dựa trên các nguyên tắc định luật Newton.
{ "split": 1, "title": "When Knowledge Conquered Fear", "token_count": 168 }
22,603
Title: Whiston, Merseyside Whiston là một ngôi làng lớn và giáo xứ dân sự trong Metropolitan Borough of Knowsley ở Mer Jerseyide, Anh. Nó nằm 8 dặm (12,8 km) về phía đông của Liverpool. Dân số được ghi nhận là 13.629 tại Tổng điều tra dân số năm 2001, sau đó tăng lên 14.263 tại Tổng điều tra dân số năm 2011. Một ngôi làng mới, Halsnead Garden Village, đã được đề xuất với sự hỗ trợ của chính phủ và sẽ được đặt tại khu vực Halsnead của thị trấn. Ngôi làng mới sẽ chứa hơn 1500 ngôi nhà, một trường tiểu học, một công viên nông thôn và các cơ sở giải trí và cộng đồng khác nhau. Chi phí xây khoảng 270 triệu bảng.
{ "split": 0, "title": "Whiston, Merseyside", "token_count": 162 }
22,604
Title: Whitney Thompson Whitney Thompson (sinh 26 tháng 9 năm 1987) là người mẫu thời trang Mỹ, tạo được ấn tượng từ danh vị người chiến thắng mùa thi mười của loạt chương trình truyền hình thực tế "America's Next Top Model". Whitney là thí sinh "ngoại cỡ" đầu tiên chiến thắng trong lịch sử chương trình này. Thuở nhỏ. Trước khi tham gia chương trình, Whitney Thompson đã làm việc tại bắc Florida, ba lần làm mẫu trên trang bìa tạp chí "Jacksonville". Bên cạnh nghề người mẫu ảnh bìa, Whitney còn làm bảo mẫu tại trường tiểu học "Chets Creek". Cô thi đỗ trung học "Duncan U. Fletcher" và đại học Bắc Florida. [[America's Next Top Model]]. Whitney Thompson đã tham gia chương trình cùng mười ba thí sinh nữ khác và đã giành chiến thắng một cách thuyết phục trở thành người thắng cuộc thứ mười của chương trình "America's Next Top Model". Nhiều giám khảo cho rằng phần thể hiện và cá tính của cô có phần 'kênh kiệu' và 'giả tạo'. Whitney Thompson là người chiến thắng bốn lần bị xếp cuối bảng, nhiều hơn tất cả những người chiến thắng trước của [[America's Next Top Model|ANTM]]. Sau chiến thắng từ cuộc thi "[[America's Next Top Model]]", Whitney ký được nhiều hợp đồng thương mại, trong đó phải kể đến hợp đồng cho chiến lược quảng cáo của mỹ phẩm [[CoverGirl]], gia nhập và công ty quản lý người mẫu hàng đầu [[Elite Model Management]]. Cô cũng nhận lời làm người mẫu bìa cho nhiều tạp chí và báo uy tín. Sự nghiệp sau này. Sau chiến thắng, tên tuổi Whitney ngày càng nổi tiếng. Cô thường xuyên tham gia vào nhiều chương trình phỏng vấn trên báo đài: với [[tạp chí People]], tuần san "In Touch", chương trình truyền hình: "Live with Regis and Kelly", "Entertainment Tonight", "Extra", "The Big Idea with Donny Deutsch", "E! News" & "The Morning Show with Mike and Juliet".
{ "split": 0, "title": "Whitney Thompson", "token_count": 455 }
22,605
Title: Whitney Thompson Hiện tại, cô đang làm đại diện ngôn luận cho Smile-Stylist and Right Fit.. Cùng bạn đồng nghiệp [[Dani Evans]], [[Jaslene Gonzalez]] và [[Saleisha Stowers]](người chiến thắng [[america's Next Top Model, Mùa thi 6|mùa 6]]-[[america's Next Top Model, Mùa thi 8|8]]-[[america's Next Top Model, Mùa thi 9|9]]) đóng quảng cáo Metrostyle. Tháng 8, 2008, cô xuất hiện trên trang bìa tạp chí Jacksonville cùng một bài phỏng vấn tổng hợp. Cô cũng làm người mẫu ảnh trong catalog "Silhouette", "Supermodels Unlimited", "Salon Z" và "trang sức Eclectic" Tại tuần lễ thời trang [[thành phố New York|New York]] 2008, cô tham gia trình diễn cho thương hiệu "JCPenney" và "Saks Fifth Avenue".. Chiến thắng của Whitney Thompson là đòn mạnh giáng vào ngành thời trang vốn dĩ dành riêng cho những người mẫu [[biếng ăn]], gầy nhom, cô tuyên bố rằng hình tượng người phụ nữ mảnh khảnh là thông điệp xấu gửi cho những người phụ nữ không đẹp đang yêu quý họ. Cô đang lên kế hoạch hành động chống lại tình trạng kén ăn, bắt chước theo kiểu mẫu của những người nổi tiếng, mở đầu là một vai trong "Little in the Middle". Whitney vẫn liên kết thường xuyên với [[America's Next Top Model]], cô tham gia một tập trong [[America's Next Top Model, Mùa thi 11|Mùa thi 11]] và tham gia đêm chung kết. Liên kết ngoài. [[Thể loại:Sinh năm 1987]] [[Thể loại:Người mẫu Mỹ|W]] [[Thể loại:America's Next Top Model|W]] [[Thể loại:Nhân vật còn sống]]
{ "split": 1, "title": "Whitney Thompson", "token_count": 413 }
22,606
Title: Wi-Fi Wi-Fi (phiên âm: ; goai-phai) là một họ các giao thức mạng không dây, dựa trên các tiêu chuẩn của họ IEEE 802.11, được sử dụng rộng rãi trong cho việc kết nối không dây của thiết bị trong mạng nội bộ và việc kết nối Internet, cho phép các thiết bị điện tử trong phạm vi ngắn chia sẻ dữ liệu thông qua sóng vô tuyến. Ngày nay, WiFi được sử dụng phổ biến trong các hệ thống mạng máy tính trên thế giới, như trong các hộ gia đình, văn phòng làm việc cho việc kết nối các máy tính bàn, laptop, tablet, điện thoại thông minh, máy in... mà không cần đến cáp mạng, cũng như việc kết nối Internet cho các thiết bị này. Các địa điểm công cộng như như sân bay, quán café, thư viện hoặc khách sạn cũng được bố trí WiFi để phục vụ nhu cầu kết nối Internet cho các thiết bị di động, khi các thiết bị đó nằm trong khu vực có sóng của những hệ thống WiFi này. Tên gọi "Wi‑Fi" là một nhãn hiệu của Wi-Fi Alliance (tạm dịch: Hiệp hội WiFi), một tổ chức phi thương mại đã giới hạn việc sử dụng thuật ngữ Wi-Fi Certified (tạm dịch: chứng chỉ Wi-Fi) cho những sản phẩm hoàn tất việc kiểm tra chứng nhận khả năng tương tác. Tên gọi 802.11 bắt nguồn từ viện IEEE (Institute of Electrical and Electronics Engineers). Viện này tạo ra nhiều chuẩn cho nhiều giao thức kỹ thuật khác nhau, và nó sử dụng một hệ thống số nhằm phân loại chúng; 6 chuẩn thông dụng của WiFi hiện nay là 802.11a/b/g/n/ac/ax. Hoạt động. Truyền thông qua mạng không dây là truyền thông vô tuyến hai chiều. Cụ thể: Quy trình này vẫn hoạt động với chiều ngược lại, router nhận thông tin từ Internet, chuyển chúng thành tín hiệu vô tuyến và gửi đến adapter không dây của máy tính. Sóng Wi-Fi. Các sóng vô tuyến sử dụng cho WiFi gần giống với các sóng vô tuyến sử dụng cho thiết bị cầm tay, điện thoại di động và các thiết bị khác. Nó có thể chuyển và nhận sóng vô tuyến, chuyển đổi các mã nhị phân 1 và 0 sang sóng vô tuyến và ngược lại. Tuy nhiên, sóng WiFi có một số khác biệt so với các sóng vô tuyến khác ở chỗ: Adapter.
{ "split": 0, "title": "Wi-Fi", "token_count": 504 }
22,607
Title: Wi-Fi Các máy tính nằm trong vùng phủ sóng WiFi cần có các bộ thu không dây, adapter, để có thể kết nối vào mạng. Các bộ này có thể được tích hợp vào các máy tính xách tay hay để bàn hiện đại. Hoặc được thiết kế ở dạng để cắm vào khe PC card hoặc cổng USB, hay khe PCI. Khi đã được cài đặt adapter không dây và phần mềm điều khiển (driver), máy tính có thể tự động nhận diện và hiển thị các mạng không dây đang tồn tại trong khu vực./. Router. Nguồn phát sóng WiFi là máy tính với: Hầu hết các router có độ phủ sóng trong khoảng bán kính 30,5 m về mọi hướng.
{ "split": 1, "title": "Wi-Fi", "token_count": 150 }
22,608
Title: Wiam Dislam Wiam Dislam (sinh ngày 22 tháng 10 năm 1987 tại Rabat, Maroc) là một học viên taekwondo người Maroc. Cô ấy cao 180 cm. Cô thi đấu trong nội dung +67 kg tại Thế vận hội Mùa hè 2012 và là người mang cờ cho Morocco trong lễ khai mạc. Cô đã tham gia sự kiện +67 kg tại Thế vận hội mùa hè 2016. Cô đã bị Maria Espinoza của México đánh bại ở tứ kết. Cô đã đánh bại Kirstie Alora của Philippines trong cuộc tái đấu và sau đó bị Bianca Walkden của Vương quốc Anh đánh bại trong trận tranh huy chương đồng. Cô là người mang cờ cho Maroc trong lễ bế mạc.
{ "split": 0, "title": "Wiam Dislam", "token_count": 153 }
22,609
Title: Wiching Wiching hay Viching  là giám mục đầu tiên của Nitra, thuộc Slovakia ngày nay. Ông mục vụ từ năm 880 đến năm 891 sau Công nguyên.  Wiching vốn là một tu sĩ dòng Benedictine từ Swabia. Vào cuối năm 879, ông được bổ nhiệm làm giám mục của Great Moravia, sau St Methodius. Năm 880, ông đến thăm Giáo hoàng ở Rome, và được Giáo hoàng phong làm Giám mục Nitra. Ông được biết đến với việc buộc tội các Thánh Cyril và Methodius là dị giáo vì đã tổ chức Phụng vụ Thần thánh bằng tiếng Slavonic của Nhà thờ Cổ thay vì tiếng Latinh theo tiêu chuẩn của Nhà thờ La Mã vào thời điểm đó. Wiching là phó giám mục của Tổng giám mục Methodius.  Wiching nổi tiếng vì tranh chấp với St. Methodius. Ông ở lại Rome và gửi cho vua Svätopluk một bức thư được cho là giả mạo từ giáo hoàng, khiến Svätopluk lật tẩy Methodius. Vào năm 881, Methodius biết được từ Giáo hoàng về sự giả mạo và thỉnh cầu Giáo hoàng đã phế truất Wiching. Năm 885, không lâu trước khi Methodius qua đời, Wiching rời Ba Lan và với sự đồng ý của Svatopluk đến Rome, nơi ông ta buộc tội với Giáo hoàng mới, Stephen V. Vào mùa hè năm 885, khi Giáo hoàng biết tin về cái chết của Methodius, ông đã bổ nhiệm Wiching một lần nữa làm giám mục của Nitra và ngoài ra, còn phong cho ông danh hiệu Quản trị viên Giáo hội. Wiching đã sử dụng vị trí này để đuổi học các học sinh của Methodius. Wiching là một phần của phái đoàn được cử đến Svatopluk để đàm phán hòa bình. Sau khi Arnulf của Carinthia chết và với sự sụp đổ củaMoravia, Wiching rút lui khỏi chsinh trị. Ông qua đời trong khoảng thời gian từ năm 900 đến năm 912, có thể vào ngày 12 tháng 9.
{ "split": 0, "title": "Wiching", "token_count": 431 }
22,610
Title: Wide Awake "Wide Awake" (tạm dịch: Kịp bừng tỉnh) là một bài hát của nữ ca sĩ người Mỹ Katy Perry từ album tái phát hành của cô, "Teenage Dream: The Complete Confection" (2012). Bài hát được sáng tác bởi chính cô, cùng với Bonnie McKee, Dr. Luke, Max Martin, Cirkut và được sản xuất bởi Dr. Luke cùng Cirkut. Nó còn được dùng làm nhạc phim cho bộ phim sắp tới của cô, "". Bài hát được phát hành dưới dạng đĩa đơn vào ngày 22 tháng 5, cùng với một đoạn video quảng bá cho clip nhạc chính thức được đưa lên YouTube vào tháng 6. Đây là đĩa đơn cuối cùng trong "thời kỳ "Teenage Dream"", giai đoạn album "Teenage Dream" của Katy Perry làm mưa làm gió trong thị trường âm nhạc. "Wide Awake" mang thể loại dance-pop cùng với nhạc điện tử, với mặt ca từ gợi nhớ lại về sự thật và tiếp tục đi lên. Ca khúc được các nhà phê bình đánh giá tích cực, với sự chú ý về việc sản xuất đĩa đơn cũng như sự đi lên về giọng hát của Katy Perry. Bài hát được xếp hạng khá nhiều nơi trên thế giới, và lọt vào tốp mười tại Canada, New Zealand và Mỹ. "Wide Awake" trở thành đĩa đơn thứ 11 của cô lọt vào top 10 bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100. Một video âm nhạc cho ca khúc "Wide Awake", đạo diễn bởi Tony T. Datis, ra mắt trên YouTube ngày 19 tháng 6 năm 2012. Đoạn quảng cáo được đạo diễn bởi Datis và Lance Drake, phát hành ngày 12 tháng 6. Nó giống như một câu chuyện cổ tích với một bé gái nhìn vào một cuốn sách cũ và thấy những hình ảnh trích từ những đĩa đơn trong "Teenage Dream", với mỗi một đĩa đơn là một chương của cuốn sách. Chương thứ tám cũng là chương cuối cùng của cuốn sách, quảng cáo về video âm nhạc "Wide Awake" sắp phát hành. Vào ngày 23 tháng 4 năm 2023, video "Wide Awake" đạt hơn 1 tỷ lượt xem, đưa Perry trở thành nghệ sĩ nữ đầu tiên có 7 video âm nhạc vượt qua con số này. Thực hiện và thu âm.
{ "split": 0, "title": "Wide Awake", "token_count": 502 }
22,611
Title: Wide Awake Vào tháng 2 năm 2012, bìa đĩa nhạc và chi tiết của album "Teenage Dream: The Complete Confection" được tiết lộ. Album được phát hành tại Mỹ vào ngày 26 tháng 3 năm 2012, gồm ba bản phối khí lại (remix) của ba ca khúc: "E.T." (hợp tác với ca sĩ nhạc rap Kanye West), "Last Friday Night (T.G.I.F.)" và "The One That Got Away". Album này cũng ba bài hát mới chưa có tại album "Teenage Dream" cũ của cô: "Part of Me", "Wide Awake" và "Dressin' Up", và có thêm một bản phối khí cho sáu đĩa đơn của "Teenage Dream", được thực hiện bởi Tommie Sunshine. Perry giải thích rằng bài hát được truyền cảm hứng và viết riêng cho bộ phim một nửa là ký sự cuộc đời của cô, một nửa là các buổi hòa nhạc, "", được định dạng 3D. Sáng tác. "Wide Awake" là một bài hát có nhịp đập trung bình, với thể loại dance-pop và nhạc điện tử ballad mạnh với một sự sản xuất được mở rộng, được so sánh với các tác phẩm của Ryan Tedder. Theo bản nhạc của bài hát được đăng tải trên trang mạng Musicnotes.com, bài hát được viết theo gam Fa trưởng và có nhịp đập 80 nhịp trên một phút. Giọng hát của Perry trong bài chuyển đổi từ một nốt trầm, C4-Đô 4, tới nốt cao hơn, D5-Rê 5. Bài hát được thêm vào những điệu trống, nhịp synth, một chiếc đàn đệm ghi-ta, và thêm nhịp điệu vù vù. Phần ca từ của ca khúc nói về việc đổ vỡ, nhưng vẫn tiếp tục đi lên, và được tin rằng Perry chỉ để ẩn dụ tới chồng cũ của cô, Russel Brand, từ khi nó được viết và thu âm sau cuộc đổ vỡ.
{ "split": 1, "title": "Wide Awake", "token_count": 423 }
22,612
Title: Wikipedia tiếng Bosnia Wikipedia tiếng Bosnia () là phiên bản tiếng Bosnia của Wikipedia, điều hành bởi Wikimedia Foundation. Phiên bản ngôn ngữ này được mở cửa vào ngày 12 tháng 12 năm 2002, và bài viết đầu tiên là "". Đến ngày 4 tháng 11 năm 2008, phiên bản này có trên 25.200 bài viết. Ngày 30 tháng 9 năm 2016, phiên bản này đã có 70.000 bài viết, và vào năm là bài viết. Cộng đồng. Vào ngày 17 tháng 2 năm 2007, thành viên của Wikipedia tiếng Bosnia đã tổ chức một cuộc họp mặt tại Sarajevo. Những hoạt động như thế này dần trở nên thường lệ hơn, sau đó là những cuộc gặp mặt vào các năm 2008 và 2011.
{ "split": 0, "title": "Wikipedia tiếng Bosnia", "token_count": 146 }
22,613
Title: Wikipedia tiếng Việt Wikipedia tiếng Việt là phiên bản tiếng Việt của Wikipedia. Website lần đầu kích hoạt vào tháng 11 năm 2002 và chỉ có bài viết đầu tiên của dự án là bài Internet Society. Wikipedia tiếng Việt không có thêm bài viết nào cho đến tháng 10 năm 2003 khi Trang Chính ra mắt. Tiếp theo đó là bài Alexandre De Rhodes, sau đó là các bài Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Nha Trang... Vào tháng 7 năm 2003 đã có thành viên Wikipedia tiếng Việt yêu cầu về hỗ trợ Unicode cho tiếng Việt. Website này đã nâng cấp qua phần mềm wiki Phase III sau đó là MediaWiki vào ngày 12 tháng 11 năm 2003. Phiên bản MediaWiki nào đó có hỗ trợ Unicode hỗ trợ viết tiếng Việt. Phiên bản này không hỗ trợ gõ chữ Việt trực tiếp trong trang web mà cần thông qua bộ gõ từ bên ngoài. Vào tháng 9 năm 2005, để giải quyết vấn đề này, có những thành viên đã cộng tác để cài đặt bộ gõ JavaScript (nay là AVIM) vào website. Tại Wikipedia tiếng Việt từng xuất hiện việc đặt quy tắc về , tên gọi các quốc gia, dùng thay vì phiên âm, cách viết ngày tháng, cách viết hoa. Thống kê. Wikipedia tiếng Việt có và phương tiện. Từ khi dự án bắt đầu đi vào hoạt động lại tại 1 thời điểm vào năm 2003 cho đến tháng 2 năm 2005, có thống kê cho thấy Wikipedia tiếng Việt phát triển chậm hơn là từ tháng 3 năm 2005. Năm 2008, lần nữa dự án có bước nhảy về tốc độ: có thêm bài viết khi có những thành viên tập trung vào viết 1 số lượng bài về các địa danh còn thiếu. Wikipedia tiếng Việt vượt từ vị trí thứ 43 về số lượng bài viết trong số các phiên bản của Wikipedia vào tháng 1 năm 2008 đạt vị thứ 11 vào tháng 5 năm 2014. Đa số bài viết của Wikipedia tiếng Việt xuất bản bằng cách dịch (thủ công hoặc tự động) bài viết của các dự án Wikipedia ngôn ngữ khác trong đó dịch từ Wikipedia tiếng Anh nhiều nhất. Đồng thời, Wikipedia tiếng Việt nằm trong 50 wiki "lớn nhất" toàn cầu sử dụng phần mềm MediaWiki. Đầu tháng 2 năm 2013, Wikipedia tiếng Việt đã có hơn 10.000.000 sửa đổi và đạt hơn 750.000 bài viết trong đó vào khoảng nửa là do tạo ra. Vào ngày 15 tháng 6 năm 2014, Wikipedia tiếng Việt đạt mốc 1 triệu bài viết. Lịch sử.
{ "split": 0, "title": "Wikipedia tiếng Việt", "token_count": 495 }
22,614
Title: Wikipedia tiếng Việt Cùng với sự thay đổi của Wikipedia tiếng Việt, cộng đồng những thành viên đóng góp cho dự án dần thay hình. Trong thời gian từ một thời điểm năm 2003 đến một thời điểm năm 2005, xây dựng cho phiên bản ngôn ngữ này của Wikipedia này có thể đa phần là những người Việt sống ở nước ngoài và người nước ngoài sống ở Việt Nam (thành viên Joakim Löfkvist), các thảo luận thời kỳ này đa phần là bằng tiếng Anh. Có thể chưa có ai sử dụng khái niệm Bách khoa toàn thư mở để định nghĩa về Wikipedia tiếng Việt. Lúc đó, cộng đồng có thể mới chỉ dùng khái niệm Bách khoa tự do. Các quy tắc và hướng dẫn đầu tiên của cộng đồng cũng như việc bầu các đầu tiên diễn ra vào thời gian này (, và đắc cử quyền bảo quản viên từ cuối năm 2003). Đến tháng 2 năm 2005, Nguyễn Xuân Minh nhận được tín nhiệm để trở thành đầu tiên của dự án (khi đó Minh chưa đầy 18 tuổi và vẫn là học sinh phổ thông trung học). Báo chí Việt Nam cũng có bài viết giới thiệu Wikipedia tiếng Việt. Điều này có thể tăng thêm lượng người sử dụng tiếng Việt biết đến dự án. Từ đó đến nay cộng đồng đã phát triển góp phần giúp Wikipedia góp mặt trong 30 trang web có số lượng truy cập nhiều nhất tại Việt Nam theo bảng xếp hạng của Alexa. Báo chí còn đăng và truyền bá giúp Wikipedia quyên tiền để Wikipedia và các dự án con của nó có thể tiếp tục thay đổi để phục vụ cộng đồng miễn phí, không cần phải kiếm tiền từ quảng cáo. Họp mặt giữa các thành viên ngoài đời thật ghi nhận từng diễn ra vào tháng 7 năm 2006 tại Hà Nội. Ngày 23 tháng 6 năm 2014, đã có đồng thuận chấp nhận việc tạo bài hàng loạt bằng tài khoản . Phá hoại nội dung. Vì tính mở cho tất cả mọi người đều có thể chỉnh sửa nội dung, Wikipedia có thể có nhiều hơn một số trang không có tính mở như vậy. Có trang báo đưa tin về việc Wikipedia tiếng Việt chịu phá hoại nội dung chủ yếu là các bài về ca sĩ, diễn viên hay các nhân vật. Phá hoại từng nhắm đến Hồ Ngọc Hà, Bảo Thy, Nguyễn Cao Kỳ Duyên và hoa hậu trùng tên Kỳ Duyên hay Isaac Newton và những chủ đề khác. Hoa hậu Đỗ Mỹ Linh cũng có trong vòng xoáy trùng tên tương tự sự kiện trùng tên Kỳ Duyên năm 2014.
{ "split": 1, "title": "Wikipedia tiếng Việt", "token_count": 510 }
22,615
Title: Wikipedia tiếng Việt Tác động. Đối tượng nghiên cứu. Wikipedia tiếng Việt là một đối tượng nghiên cứu khoa học, trong đó có các chuyên ngành như web ngữ nghĩa và xử lý ngôn ngữ tự nhiên. Nguồn tham khảo. Wikipedia tiếng Việt là nguồn tham khảo không chính thức, đôi khi chính quyền còn sử dụng nó làm tư liệu để "xây dựng hoạch định chính sách". Quảng cáo. Có những trang web chuyên về SEO cũng xem Wikipedia tiếng Việt là đối tượng để quảng cáo, chèn link có thể nhằm thăng hạng website của khách hàng, đối tác hay cá nhân. Vì lý do Google ưu tiên các đề mục bài viết của Wikipedia đứng ở các vị trí đầu trong các kết quả tìm kiếm (chỉ đối với các bài viết có chất lượng nhất định), có ý kiến cho rằng chèn link ở các bài viết Wikipedia có thể thăng thứ hạng website.
{ "split": 2, "title": "Wikipedia tiếng Việt", "token_count": 179 }
22,616
Title: Wiktor Wołczyński Wiktor Wołczyński (mất ngày 17 tháng 7 năm 1905) là nhiếp ảnh gia người Ba Lan. Ông đồng thời là nhà báo, nhà lý luận nhiếp ảnh, tác giả của những cuốn sách và bài viết về nhiếp ảnh. Ông là thành viên hội đồng quản trị của Hội nhiếp ảnh Lviv. Sơ yếu lý lịch. Wiktor Wołczyński tốt nghiệp trường trung học tại Kraków. Sau khi hoàn thành quá trình đào tạo tại xưởng chụp ảnh của nhiếp ảnh gia Józef Sebald, ông định cư tại Lviv. Ban đầu ông làm việc tại studio chụp ảnh của Maria Kalapus, và sau đó làm nghề chỉnh sửa ảnh tại studio của Edward Trzemeki. Wiktor Wołczyński là một nhà báo tích cực, tác giả của những cuốn sách về nhiếp ảnh, những bài báo liên quan đến nhiếp ảnh với nội dung nghệ thuật, tiểu sử và lịch sử. Ông tham gia cống hiến tác phẩm của mình cho Câu lạc bộ những người yêu thích nghệ thuật nhiếp ảnh ở Lviv. Năm 1903, ông trở thành thành viên chính thức của hội nhiếp ảnh Lviv với tư cách là thành viên của Hội đồng quản lý của Hội. Ông tích cực tham gia vào công việc của Hội, là ban giám khảo trong "Triển lãm ảnh nghệ thuật quốc gia thường niên lần thứ nhất của Ba Lan", do Hội nhiếp ảnh Lviv tổ chức. Trong những năm 1903-1905, ông là tổng biên tập của tạp chí "Wiadomości Fotograficzne" - một tạp chí xuất bản cách tuần về các chủ đề liên quan đến nghệ thuật nhiếp ảnh và chương trình nghị sự của Hội nhiếp ảnh Lviv. Sau khi Wiktor Wołczyńsk qua đời vào ngày 17 tháng 7 năm 1905, tạp chí được quản lý bởi Józef Świtkowski cho đến khi đóng cửa vào cuối năm 1905. Ấn phẩm (sách). Nguồn:
{ "split": 0, "title": "Wiktor Wołczyński", "token_count": 410 }
22,617
Title: Wilda, Poznań Wilda (German "Wilda" hoặc "Wilde") là một phần phía nam của thành phố Poznań ở phía tây Ba Lan. Đó là quận nhỏ nhất trong năm quận của chính phủ "(dzielnicas)" mà thành phố được chia trước năm 1990, và được giữ lại cho các mục đích hành chính nhất định. Cái tên được sử dụng "Wilda" phổ biến hơn cả, đề cập đến một khu vực hẹp hơn - khu phố cũ (và làng cũ) của Wilda, trung tâm là chợ "Rynek Wildecki". Điều này dẫn đến việc phần phía bắc của quận Wilda rộng hơn được thảo luận trong bài viết này, và tương ứng chặt chẽ với "osiedle" có tên Wilda trong bộ phận hành chính mới của Poznań. Khu vực rộng lớn hơn của Wilda cũng có hai "osiedles" khác: Zielony Dębiec ("Green Dębiec") và Świerczewo. Huyện Wilda có diện tích , chiếm 5,8% tổng diện tích của Poznań. Dân số 63.800 người chiếm 11,1% tổng số thành phố. Mật độ dân số là 4.253 người / km² Wilda được giới hạn bởi các quận Stare Miasto ("Phố cổ") ở phía bắc, Grunwald ở phía tây và Nowe Miasto ("Thị trấn mới") qua sông Warta ở phía đông. Nó cũng giáp với thị trấn Luboń ở phía nam. Địa lý. Khu phố cổ của Wilda nằm ở phía đông của nhà máy ZNTK. Điểm trung tâm của nó là Rynek Wildecki (Khu chợ Wilda), nơi có một khu chợ ngoài trời. "Wilda" trước đây có rạp chiếu phim ở phía bắc này (xây dựng 1962) đã bị đóng cửa từ năm 2006, nhưng bây giờ có một rạp chiếu phim mới ("Multikino 51", mở 1998) nằm ở rìa phía bắc của huyện. Một vành đai đất xanh chạy dọc theo sông Warta ở rìa phía đông của huyện. Ở phía nam, bao gồm khu phức hợp công viên Dębina và mạng lưới cấp nước. Ở phía tây của Dębina là khu dân cư của Dębiec, và phía tây của Dębiec là Świerczewo.
{ "split": 0, "title": "Wilda, Poznań", "token_count": 488 }
22,618
Title: Wilhelm Röntgen Wilhelm Conrad Röntgen (phiên âm: Rơngen) (27 tháng 3 năm 1845 – 10 tháng 2 năm 1923), sinh ra tại Lennep, Đức, là một nhà vật lý, giám đốc Viện vật lý ở Đại học Würzburg. Năm 1869, khi mới 25 tuổi, ông nhận bằng Tiến sĩ tại Đại học Zurich. Suốt các năm tiếp theo ông công tác tại nhiều trường đại học khác nhau và trở thành nhà khoa học xuất sắc. Năm 1888, ông được bổ nhiệm làm giáo sư vật lý và là giám đốc Viện Vật lý của Đại học Würzburg. Vào ngày 8 tháng 11 năm 1895, ông đã khám phá ra sự bức xạ điện từ, loại bức xạ không nhìn thấy có bước sóng ngắn (10 pm < lamda < 10 nm) mà ngày nay chúng ta được biết đến với cái tên tia x-quang hay tia Röntgen. Nhờ khám phá này ông trở nên rất nổi tiếng. Năm 1901 ông được nhận giải Nobel Vật lý lần đầu tiên trong lịch sử. Thời trẻ và sự giáo dục. Röntgen sinh tại Lennep (ngày nay là một phần của Remscheid) thuộc Đức. Gia đình ông đã di chuyển đến Apeldoorn ở Hà Lan khi ông 3 tuổi. Ông được giáo dục tại Đại học của Martinus Herman van Doorn. Năm 1862, ông nhập học tại trường Utrecht Technical School, tại đây ông bị đuổi vì đã tạo ra một bức tranh bức biếm họa một giáo viên, một người mà ông gọi là "tội phạm", một người vô trách nhiệm. Năm 1865, ông đã thử để được nhận vào Đại học Utrecht mà không có giấy ủy nhiệm đòi hỏi với các sinh viên chính quy. Nghe thấy có thể vào trường Federal Polytechnic Institute ở Zurich (ngày nay là trường ETH Zurich), ông đã thi vào trường này và trở thành sinh viên của trường. Năm 1869, ông tốt nghiệp với bằng tiến sĩ từ Đại học Zurich. Nghề nghiệp.
{ "split": 0, "title": "Wilhelm Röntgen", "token_count": 426 }
22,619
Title: Wilhelm Röntgen Năm 1874 Röntgen trở thành giảng viên tại Đại học Strasbourg. Năm 1875 ông trở thành một giáo sư tại Học viện Nông nghiệp ở Hohenheim, Württemberg. Năm 1876, ông trở lại Strasbourg làm giáo sư vật lý và năm 1879 ông được bổ nhiệm là giáo sư vật lý của Đại học Giessen. Năm 1888, ông trở thành giám đốc Viện vật lý của Đại học Würzburg và năm 1900 của Đại học München. Röntgen có gia đình ở Iowa thuộc Hoa Kỳ. Mặc dù ông đã chấp nhận sự bổ nhiệm tại Đại học Columbia ở New York và trên thực tế đã mua vé tới đó nhưng Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra đã làm thay đổi kế hoạch của ông, ông đã ở lại München. Một vài địa điểm ở Lennep-Remscheid, nơi ông sinh ra. Ngày nay ở Remscheid, 40 km về phía đông Düsseldorf, chúng ta có thể nhìn thấy ngôi nhà nơi Roentgen đã sinh ra, và bảo tàng Röntgen.
{ "split": 1, "title": "Wilhelm Röntgen", "token_count": 213 }
22,620
Title: Will Poulter William Jack Poulter (sinh ngày 28 tháng 1 năm 1993) là diễn viên người Anh. Anh lần đầu được biết tới rộng rãi với vai Eustace Scrubb trong phim điện ảnh phiêu lưu "" (2010). Anh cũng nhận được nhiều đánh giá tích cực cho vai chính trong "We're the Millers" (2013), phim mang về cho nam diễn viên một giải BAFTA Rising Star Award. Thời thơ ấu. Poulter sinh năm 1993 tại Hammersmith, thành phố London. Cha anh là Neil Poulter, một giảng viên khoa tim mạch tại Học viên Hoàng gia London (Imperial College London), mẹ anh là Caroline (họ gốc: Barrah), một cựu y tá lớn lên ở Kenya. Thời đi học, Poulter là học sinh trường Harrodian, nơi từng rèn luyện những diễn viên nổi tiếng như George MacKay hay Robert Pattinson. Ở trường, anh gặp khó khăn vì mắc chứng khó đọc và rối loạn điều phối phát triển (DCD). Năm 2012, anh vào Đại học Bristol, sau khi học được một năm thì xin nghỉ.
{ "split": 0, "title": "Will Poulter", "token_count": 239 }
22,621
Title: Willem Barentsz Willem Barentsz ( – 20 tháng 6 năm 1597) là một nhà hàng hải và thám hiểm người Hà Lan, một người tiên phong trong các cuộc thám hiểm về cực Bắc. Vào năm 1594, ông rời Amsterdam với hai chiếc tàu biển để tìm kiếm lối đi về phía Đông Bắc cho vùng Bắc Siberia và tiến vào vùng Đông Á. Ông đã đến được bờ biển phía tây của Novaya Zemlya, và đi tiếp về hướng bắc, cuối cùng buộc phải quay lại khi tiến gần đến cực Bắc của vùng này. Vào năm sau (1595), ông chỉ huy một đội thám hiểm khác gồm bảy con tàu biển để đi thám hiểm eo biển giữa bờ biển Siberia và đảo Vaygach, nhưng không thu được kết quả. Chuyến đi thứ ba của ông cũng thất bại và dẫn đến cái chết của ông. Lần này ông chỉ huy đội tàu gồm hai tàu biển, với hai thuyền trưởng là Jan Rijp và Jacob van Heemskerk. Ở trên biển, họ đã quan sát thấy Biển Gấu và quần đảo Svalbard (chính xác hơn là đảo Spitsbergen) và lạc nhau. Con tàu của Barentsz mà van Heemskerk làm thuyền trưởng đã bị kẹt lại trong băng sau khi đi vòng quanh phía bắc của Novaya Zemlya. Thủy thủ đoàn đã phải trải qua mùa đông lạnh giá ở Novaya Zemlya, phá phần bên trong của con tàu và kiếm gỗ để dựng lên một túp lều. Do con tàu không thể thoát khỏi băng nên vào năm 1597, thủy thủ đã rời tàu Barentsz trên hai chiếc xuồng vào ngày 13 tháng 6. Hầu hết thủy thủ đoàn đều thoát và được tàu của Jan Rijp cứu tại bán đảo Kola gần Murmansk. Tuy nhiên Barentsz chết vào ngày 20 tháng 6. Câu chuyện về mùa đông khủng khiếp tại Novaya Zemlya được kể lại và xuất bản trong nhật ký của Gerrit de Veer, người thợ mộc của tàu, là người đầu tiên quan sát thấy sự bất thường của không khí, còn được gọi là hiệu ứng Novaya Zemlya.
{ "split": 0, "title": "Willem Barentsz", "token_count": 463 }
22,622
Title: Willem Barentsz Năm 1853, Biển Murmean trước đây được đổi tên thành Biển Barents để vinh danh ông. Barentsburg, một khu định cư lớn thứ hai trên Svalbard, Barentsøya (Đảo Barents) và Vùng đất Barents cũng được đặt theo tên của Barentsz. Năm 1871, ngôi nhà mà Barentsz và thủy thủ đoàn đã ở được phát hiện với tình trạng không bị phá huỷ, còn lại nhiều di vật, hiện được bảo quản tại Den Haag, và năm 1875 người ta đã tìm ra những ghi chép của ông.
{ "split": 1, "title": "Willem Barentsz", "token_count": 126 }
22,623
Title: Willem III của Hà Lan Willem III (tiếng Anh: William Alexander Paul Frederick Louis; 19 tháng 2 năm 1817 - 23 tháng 11 năm 1890) là Vua của Hà Lan và Đại công tước Luxembourg từ năm 1849 cho đến khi ông qua đời vào năm 1890. Ông cũng là Công tước của Limburg từ năm 1849 cho đến khi công quốc bị bãi bỏ vào năm 1866. Willem là con trai của Vua Willem II của Hà Lan và mẹ là Anna Pavlovna của Nga. Khi ông nội Willem I thoại vị vào năm 1840, ông trở thành Hoàng tử của Orange. Sau cái chết của vua cha năm 1849, ông lên kế vị ngai vàng làm vua Hà Lan. Willem kết hôn với người em họ Sophie của Württemberg vào năm 1839 và họ có với nhau 3 con trai, gồm: William, Hoàng tử của Orange, Hoàng tử Maurice của Hà Lan và Alexander, Hoàng tử của Orange, cả 3 người con trai này đều không thể kế vị ngai vàng vì đều qua đời trước vua cha Willem II. Sau cái chết của Sophie vào năm 1877, ông kết hôn với Emma của Waldeck và Pyrmont vào năm 1879 và họ có với nhau 1 con gái là Công chúa Wilhelmina, người sẽ trở thành nữ vương của Hà Lan trong tương lai. Cuộc sống đầu đời. Willem sinh ngày 19/02/1817 tại Cung điện Quốc gia ở Brussels, thời điểm đó vẫn thuộc Vương quốc Hà Lan (ngày nay là thủ đô của Vương quốc Bỉ). Ông là con trai cả của Hoàng tử Willem xứ Orange (sau là Vua Willem II) và mẹ là Anna Pavlovna của Nga. Ông có 3 em trai, một trong số họ đã qua đời khi còn bé, và một em gái. Năm 1827, khi mới 10 tuổi, ông được phong quân hàm đại tá danh dự trong Quân đội Hoàng gia Hà Lan. Trong năm 1830, ông giữ chức trung uý trong Trung đoàn Grenadiers. Năm 1834, ông được phong làm chỉ huy danh dự của Trung đoàn Grenadiers của Kiev, thuộc Đế quốc Nga.
{ "split": 0, "title": "Willem III của Hà Lan", "token_count": 430 }
22,624
Title: Willem III của Hà Lan Ông kết hôn với người em họ đầu tiên của mình - Công chúa Sophie, con gái Vua William I của Württemberg và mẹ của cô là Catherine Pavlovna của Nga. Họ thành hôn tại Stuttgart vào ngày 18/06/1839 và cuộc hôn nhân này đã không hạnh phúc. Sophie là một trí thức tự do, ghét mọi thứ thể hiện tư tưởng độc tài, chẳng hạn như quân đội. Trong khi đó Willem III lại là một vị quân chủ bảo thủ, yêu thích quân đội. Thông qua thư từ với Sophie, Nữ hoàng Victoria của Anh đã gọi Willem III là "một nông dân thất học". Willem rất ghét những thay đổi Hiến pháp năm 1848, do cha ông là Willem II của Hà Lan và Johan Rudolf Thorbecke khởi xướng. Cha ông xem bản hiến pháp này là chìa khoá để giúp nền quân chủ Hà Lan tiếp tục tồn tại. Sophie, một người theo chủ nghĩa tự do cũng có chung quan điểm này. Bản nhân Willem thì xem đây là bức tường hạn chế quyền lực hoàng gia và ông thích cai trị đất nước theo kiểu chuyên chế khai sáng theo khuôn mẫu của ông nội mình, Vua Willem I của Hà Lan. Ông đã từng nghĩ đến việc nhường ngôi cho em trai mình là Hoàng từ Henry và sau đó là cho người con trai lớn, nhưng mẹ của ông đã thuyết phục ông hủy bỏ quyết định này. Vào ngày 17/03/1849, cha của ông qua đời, lúc đó Willem đang là khách của Nữ công tước Cleveland trong Lâu đài Raby. Các đại diện của chính phủ Hà Lan đã đến London để đưa ông về Hà Lan. Willem miễn cưỡng quay trở về. Tuy ông đã đồng ý với mẹ mình lên ngôi vua, nhưng trong một thời gian dài ông đã phân vân về quyết định này.
{ "split": 1, "title": "Willem III của Hà Lan", "token_count": 377 }
22,625
Title: William Byrd William Byrd (1540/1543-1623) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ đàn organ người Anh. Ông cùng với Thomas Tallis trở thành hai nhà soạn nhạc quan trọng nhất của thời kỳ Phục hưng Anh. Có thể nói, William Byrd là một trong những nhà soạn nhạc xuất sắc nhất của nước Anh trong mọi thời đại. Đồng thời ông còn có chỗ đứng trong hàng những nhà soạn nhạc châu Âu xuất sắc của một trong những thời đại đáng nhớ nhất của châu Âu và thế giới. My Ladye Nevells Booke. My Ladye Nevells Booke là một bản thảo âm nhạc gồm 42 mảnh dành cho nhạc cụ phím của William Byrd, bản thảo này cũng là một trong những bản thảo quan trọng nhất thời kỳ phục hưng. "Ladye Nevells" có khả năng là Elizabeth Bacon, con gái của nữ hoàng Elizabeth I. Cuốn sách có thể là món quà mà William Byrd gửi tặng.
{ "split": 0, "title": "William Byrd", "token_count": 200 }
22,626
Title: William Calley William Laws Calley, Jr. (sinh 8 tháng 6 năm 1943 ở Miami, Florida) là một cựu sĩ quan Lục quân Mỹ, người bị buộc tội có kế hoạch tàn sát và giết hại 504 người dân thường Việt Nam trong cuộc thảm sát Mỹ Lai vào ngày 16 tháng 3 năm 1968, khi chỉ huy một nhóm quân nhân Mỹ (đại đội Charlie thuộc lữ đoàn bộ binh 11) nhận nhiệm vụ chiếm đóng làng Sơn Mỹ và tìm du kích Quân Giải phóng. Thông tin cá nhân. Calley tốt nghiệp từ trường trung học ở Miami, sau đó học tại trường đại học Palm Beach Community khoảng một năm từ 1963 đến 1964, nhưng bị rời khỏi trường do kết quả học yếu, gồm 2 điểm C, một điểm D và bốn điểm F. Sau đó Calley làm nhiều nghề như bán hàng, rửa bát, bảo hiểm, người bán vé.. Calley gia nhập quân đội vào 26 tháng 7 năm 1966, đúng vào thời điểm căng thẳng của chiến tranh Việt Nam. Calley phải trải quan một đợt huấn luyện cơ bản ở Fort Benning, Georgia. Calley nộp đơn và được chấp nhận vào Trường tuyển sĩ quan (OCS) năm 1967, sau đó tốt nghiệp từ OCS lớp No. 51 khóa 1967, và được bổ nhiệm quân hàm trung uý. Calley được bổ nhiệm vào đại đội Charliey, tiểu đoàn số 1, trung đoàn bộ binh 20, lữ đoàn bộ binh 11, và bắt đầu huấn luyện tại doanh trại Schofield ở Hawaii trước khi lữ đoàn được triển khai đến miền Nam Việt Nam. Ở Việt Nam, lữ đoàn này trở thành một bộ phận của Sư đoàn Mỹ. Ở cương vị một chỉ huy chiến đấu, Calley gần như không được để ý nhiều lắm. Bản báo cáo về vụ Thảm sát Mỹ Lai lần đầu trước công chúng khi đó chỉ mô tả về Calley là một sự "bình thường". Sau đó, một cuộc điều tra được tiến hành, nhiều sự việc bị che đậy trong cuộc thảm sát được phanh phui. Một vài thành viên trong trung đội nói với các điều tra viên rằng anh ta thiếu những kiến thức chung và thậm chí không thể đọc được bản đồ hay la bàn một cách chính xác.. Phiên tòa và kết quả.
{ "split": 0, "title": "William Calley", "token_count": 473 }
22,627
Title: William Calley Calley bị buộc tội vào 5 tháng 9 năm 1969, với tội danh được ghi rõ, có kế hoạch tàn sát và giết hại 109 người dân thường Việt Nam ở làng Mỹ Lai. Cũng trong văn kiện về vụ việc này, 500 người trong làng, hầu hết là phụ nữ, trẻ em, vị thành niên và người già, bị tập trung lại và bị bắn chết bởi các binh lính của đại đội Charlie. Calley bị tuyên án chung thân, nhưng thực chất chỉ phải ngồi tù ba năm sau khi được tổng thống Mỹ Nixon ân xá.
{ "split": 1, "title": "William Calley", "token_count": 121 }
22,628
Title: William II của Anh William II của Anh (tiếng Norman cổ: Williame) (khoảng 1056 - 2 tháng 8 năm 1100), người con thứ ba của "William Nhà chinh phạt", là vua nước Anh từ 1087 tới 1100. Ông là vị vua nắm quyền lực vùng Normandie và có nhiều ảnh hưởng ở Scotland. Dù vậy, William II không mấy thành công trong việc bành trướng quyền kiểm soát ở xứ Wales. William II thường được gọi là "Rufus", tên gọi này xuất phát từ khuôn mặt luôn đỏ rực của ông. Mặc dù là một chiến binh xuất chúng nhưng William II lại là một người cai trị tàn nhẫn và không mấy khi được lòng dân; theo như cuốn "Anglo-Saxon Chronicle" (Biên niên sử Anglo-Saxon), ông "bị ghét bởi hầu hết mọi người". Các nhà ghi chép biên niên sử thời đó cũng chỉ có những cái nhìn rất mơ hồ về Rufus, chỉ yếu là vì thời đó rất nhiều tri thức đều là người của nhà thờ, nơi mà luôn đấu tranh chống lại Rufus bền bỉ và lâu dài, thêm vào đó là trong truyền thống Normandie, William Rufus coi rẻ người Anh và văn hoá của họ. Bản thân William thì có vẻ là một nhân vật khoa trương và triều đại của ông được biết đến với sự hiếu chiến. Ông không bao giờ kết hôn và cũng không có người con ngoại hôn nào; một trong những nhân vật lấy được lòng của William là Ranulf Flambard, người được phong là Giám mục xứ Durham ("Bishop of Durham") năm 1099. Vào thời của mình và cả sau khi qua đời, William vẫn bị lên án khắp nơi vì vô số mối quan hệ đồng tính luyến ái của ông. Cái chết của William vẫn là một nghi vấn cho tới ngày nay sau khi nhà vua trúng tên trong một cuộc đi săn. Nhiều sử gia đã cho rằng cái chết của William không phải do một tai nạn mà ông đã bị sát hại. Sau khi William qua đời, người em trai Henry nhanh chóng kế vị và trở thành vua Henry I.
{ "split": 0, "title": "William II của Anh", "token_count": 443 }
22,629
Title: William II của Anh Nói về William, sử gia Frank Barlow nhận xét rằng William là một người chiến binh tàn nhẫn, máu lạnh, cũng như ít khi biểu hiện đức tin và những phẩm hạnh đạo đức. Tuy vậy, William lại là một nhà cai trị thông thái và là một chiến tướng bách thắng. Chính vì thế, dù vẫn đưa ra những chỉ trích về tính cách của William, sử gia Barlow vẫn viết về William như một người hào hiệp và có nhiều chiến công, người đã mang trật tự và hòa bình đến cho nước Anh và đất Normandie. Thời thơ ấu. Ngày sinh của William II không được ghi chép chính xác, tuy nhiên năm sinh phỏng đoán của ông nằm trong khoảng từ 1056 đến 1060, là người con trai thứ ba trong bốn người con trai của vua William I của Anh và hoàng hậu Matilda xứ Flanders. Những người anh trai của ông lần lượt là Robert, Richard và người em trai Henry. Sau khi William I qua đời năm 1087, William II trở thành nhà vua mới của nước Anh trong khi đất Normandie được thừa kế bởi người anh trai Robert. Richard không may qua đời khi đang đi săn ở New Forest năm 1075. William II cũng có 5 hoặc 6 người chị em gái, 4 trong số đó được biết danh tính đích xác, nhưng Adeliza và Matilda thì vẫn chưa được xác định: Mối quan hệ của William với những người anh em của mình không thật sự hòa hợp. Orderic Vitalis còn thuật lại một câu chuyện chứng minh cho điều này. Khoảng 1077-1078, William cùng người em Henry đã bày trò đổ một thùng phân lên người anh trai Robert từ trên cao khiến cho Robert vô cùng tức giận và cảm thấy bị xúc phạm. Sự việc này khiến cho vua cha William I phải đứng ra phân xử. Giữa nước Anh và nước Pháp.
{ "split": 1, "title": "William II của Anh", "token_count": 389 }
22,630
Title: William II của Anh Sự phân chia đất nước thành hai phần thừa kế sau cái chết của William I đã khiến cho những lãnh chúa mà đất phong của họ nằm giữa lãnh địa của William II và người anh trai Robert - công tước Normandie cảm thấy khó xử khi mà đứng giữa sự thù địch của hai anh em nhà William, họ khó lòng có thể làm hài lòng cho cả hai và lo sợ sẽ bị một trong hai người tấn công. Do sự lo sợ đó, họ quyết định hành động để đưa đất nước thống nhất dưới một nhà cai trị duy nhất. Vụ nổi loạn năm 1088 nổ ra chống lại William dưới sự lãnh đạo của viên giám mục đầy quyền lực và là anh em cùng cha khác mẹ với William I - Odo xứ Bayeux. Robert, trong khi đó lại không kịp có mặt trên đất Anh để thu hút sự ủng hộ của phe cánh của mình, cho nên William II đã có đủ thời gian để mua chuộc nhân tâm bằng tiền bạc cũng như lời hứa hẹn sẽ cai trị tốt hơn. Sau cùng William II đã đánh bại hoàn toàn cuộc nổi dậy. Đến năm 1091, William II đưa quân đánh xứ Normandie, khuất phục lực lượng của Robert và bắt Robert phải cắt cho mình một phần lãnh thổ. Tuy vậy, cả hai nhanh chóng bỏ qua những nỗi bất hòa và William II đã lên kế hoạch giúp sức cho Robert giành lại những vùng lãnh thổ đã mất cho nước Pháp, chủ yếu là Maine. Kế hoạch này đã không được thực hiện, nhưng William II tiếp tục duy trì một thái độ hiếu chiến đối với những vùng lãnh thổ của Pháp đến cuối thời cai trị của mình.
{ "split": 2, "title": "William II của Anh", "token_count": 339 }
22,631
Title: William II của Anh Đương thời, William II đã trở thành vị quân vương quyền lực nhất châu Âu, che mờ tầm ảnh hưởng của các hoàng đế dòng họ Salian tộc Đức. Về tôn giáo, nhà vua không chịu nhiều sự khống chế của Đức Giáo hoàng từ Tòa thánh La Mã. Các giám mục và chức sắc tôn giáo trong nước đều được sắc phong và chịu sự ràng buộc phong kiến với nhà vua. Trong khi đó, tại châu Âu, những quân vương khác có ý định thoát khỏi ảnh hưởng của Tòa thánh thì dễ dàng bị rút phép thông công như trường hợp của hoàng đế La Mã Thần thánh Heinrich IV. Quyền lực và luật pháp của vua Anh bấy giờ là rất lớn, khiến cho William II trở nên tương đối độc lập với Giáo hoàng. Tuy vậy, năm 1097, William II cho khởi công xây dựng Cung điện Westminster để biểu dương quyền lực của mình. Tòa cung điện được hoàn thành năm 1099 và trở thành cung điện lớn nhất châu Âu thời đó. Quan hệ với giáo hội và đức tin. Tổng Giám mục Canterbury dưới thời vua cha William I là Lanfranc qua đời năm 1087, hai năm sau khi nhà vua lên ngôi nhưng William II lại trì hoãn việc bổ nhiệm một vị Tổng Giám mục mới và tạm thời chiếm đoạt những nguồn thu của giáo hội. Đến năm 1093, nhà vua trong một cơn bạo bệnh đã vội vàng bổ nhiệm triết gia nổi tiếng nhất thời đó, Anselm vào chức vụ Tổng Giám mục Canterbury. Sự bổ nhiệm này tạo nên một mối bất hòa lâu dài giữa vương quyền và giáo hội. Trên cương vị Tổng Giám mục, Anselm tỏ ra là một người ủng hộ mạnh mẽ cho những cuộc cải cách tôn giáo của Giáo hoàng Gregory VII hơn là người tiền nhiệm Lanfranc.
{ "split": 3, "title": "William II của Anh", "token_count": 371 }
22,632
Title: William II của Anh Mối quan hệ của William II và Anselm nhìn chung là không tốt, bất đồng trong rất nhiều những vấn đề của giáo hội, đến nỗi nhà vua từng nói về Anselm rằng "Ngày hôm qua ta thù ghét hắn ta, ngày hôm nay ta thù ghét hắn ta hơn và hắn ta có thể chắc chắn rằng từ nay về sau ta sẽ còn thù ghét hắn dữ dội và cay đắng hơn nữa." Hàng giáo sĩ Anh, vốn ủng hộ nhà vua hơn do nhận được nhiều lợi ích thiết thân, đã không ủng hộ những chính sách của Anselm. Năm 1095, William II triệu tập một hội đồng tại Rockingham để hòng ép buộc Anselm làm việc theo ý mình, tuy nhiên, Tổng Giám mục vẫn không bị lay chuyển, do đó, Anselm bị lưu đày vào tháng 10 năm 1097. Sự việc này đến tai của tân Giáo hoàng Urban II, vốn là người linh họa và có đường lối mềm dẻo hơn trong ngoại giao. Urban II vốn đang xung đột gay gắt với hoàng đế La Mã Thần thánh Heinrich IV về vấn đề tôn giáo, không muốn có thêm một rắc rối, cho nên đã quyết định kí với William II một hòa ước. Theo hòa ước vừa kí, William II thừa nhận địa vị giáo hoàng của Urban II và ngược lại giáo hoàng sẽ phê chuẩn cho giáo hội Anglo-Norman của nước Anh được giữ nguyên như cũ. Anselm vẫn tiếp tục bị đi đày và những nguồn thu của Tổng Giám mục Canterbury tiếp tục chảy vào túi của nhà vua cho đến cuối thời cai trị của William II.
{ "split": 4, "title": "William II của Anh", "token_count": 349 }
22,633
Title: William II của Anh Sự xung đột này có thể được xem là dấu hiệu của sự thiếu ổn định trong chính trị nước Anh thời trung cổ, mà điển hình là vụ ám sát Thomas Becket dưới triều đại vua Henry II nhà Plantagenet sau này, cũng như những chính sách của vua Henry VIII hàng thế kỉ sau, chứ không phải chỉ là khiếm khuyết riêng của triều đại William II. Tuy vậy, những chức sắc tôn giáo đương thời lại không hề dính dáng đến chính trị. Khi Tổng Giám mục Lanfranc báo cáo với vua William I rằng ông ta đã bỏ tù giám mục nổi loạn Odo xứ Bayeux, nhà vua đã sửng sốt nói rằng "Sao! Ông ta là một giáo sĩ cơ mà?" Lanfranc vặn lại nhà vua "Bệ hạ không bắt giữ giám mục xứ Bayeux, mà đã bắt giữ Bá tước xứ Kent" (trên thực tế, Odo nắm giữ cả hai tước vị này). Ngoài ra, tuy William II thường bị người đương thời chỉ trích về những hành vi của mình, nhà vua vẫn được ca ngợi vì đã thành lập nên Tu viện Bermondsey. Việc này đã chứng tỏ rằng nhà vua cũng có những đức tin tôn giáo của riêng mình, chứ không phải một ông vua ác cảm với tôn giáo. Qua đời. William đã qua đời do bị một mũi tên xuyên qua phổi, khi đang đi săn bắn trong rừng New Forest, có thể là gần Brockenhurst ngày nay vào ngày 2 tháng 8 năm 1100. Cái chết của nhà vua đến nay vẫn là một nghi án trong lịch sử. Ghi chép sớm nhất còn lại về vụ việc này là ở trong cuốn Biên niên sử Anglo-Saxon, chép rằng "nhà vua bị bắn bởi chính một kẻ hầu cận của mình". Càng về sau, nhiều chi tiết mới, cả sự thật lẫn bịa đặt, đã được thêu dệt thêm về cái chết của William II. Một nhà quý tộc tên Walter Tirel được cho rằng đã giết vua. Địa điểm chính xác mà nhà vua bị giết được đề cập sớm nhất bởi John Leland vào năm 1530, theo đó William II bị bắn tại Thorougham. Cái tên này ngày nay đã không còn được sử dụng nữa, nhưng ngày nay có thể nằm ở Park Farm thuộc lãnh địa Beaulieu.
{ "split": 5, "title": "William II của Anh", "token_count": 484 }
22,634
Title: William II của Anh Xác của nhà vua bị bỏ lại và sau đó được phát hiện bởi một người nông dân. Em trai của nhà vua, Henry, vội vàng trở về Winchester để kiểm soát kho báu hoàng gia, rồi sau đó nhanh chóng tới London để trở thành nhà vua mới ngay trước cả khi vị Tổng Giám mục có thể đến để gia miện. Sử gia William xứ Malmesbury cho rằng thi thể của William II đã được người ta đưa tới Nhà thờ Winchester.
{ "split": 6, "title": "William II của Anh", "token_count": 103 }
22,635
Title: William Jackson Bean William Jackson Bean (26 tháng 5 năm 1863, Yorkshire – 19 tháng 4 năm 1947, Kew, Surrey) là một nhà thực vật học và chuyên gia trồng trọt, và là người phụ trách Vườn thực vật hoàng gia Kew từ năm 1922 đến năm 1929. Ông là tác giả của một số loài cây gỗ vào thảo mộc được trồng ở đây. Ông là người viết hai công trình tham khảo gồm hai tập "Trees and Shrubs Hardy in the British Isles", được xuất bản vào năm 1914. Tái bản có sửa chữa được của công trình này vẫn còn đóng vị trí cuốong sách tham khảo tiêu chuẩn đối với cây thân gỗ ở nước Anh ngày nay.
{ "split": 0, "title": "William Jackson Bean", "token_count": 152 }
22,636
Title: William Kaelin Jr. William "Bill" G. Kaelin Jr. (sinh ngày 23 tháng 11 năm 1957) là một nhà khoa học, bác sĩ, giáo sư y khoa tại Đại học Harvard và Viện Ung thư Dana-Farber. Phòng thí nghiệm của ông nghiên cứu các protein ức chế khối u. Ông là người nhận giải thưởng Lasker cho Nghiên cứu Y học Cơ bản năm 2016. Ông cũng đã giành được Giải thưởng Khoa học Ung thư ASCO năm 2016 và Giải thưởng Công chúa Takaha năm 2016 của AACR. Năm 2019, ông được trao giải Nobel Sinh lý và Y khoa cùng với Peter J. Ratcliffe và Gregg L. Semenza. Cuộc đời và Học vấn. Kaelin sinh tại thành phố New York vào ngày 23 tháng 11 năm 1957. Ông tốt nghiệp Cử nhân ngành Toán học và Hóa học Đại học Duke, và tiếp tục tại ngôi trường này cho đến năm 1982 sau khi tốt nghiệp với tấm bằng Tiến sỹ y khoa. Ông hoàn tất thực tập nội trú (tiếng Anh: residency) ngành nội khoa tại Đại học John Hopkins và thực tập chuyên khoa (tiếng Anh: fellowship) tại Viện Ung thư Dana-Farber (DFCI). Mặc dù ở Đại học Kaelin tự nhận thấy rằng nghiên cứu không phải là thế mạnh của ông, nhưng khi làm việc trong phòng thí nghiệm với David Livingston tại DFCI, ông đã gặt hái được thành công trong việc nghiên cứu về gen gây nên u nguyên bào võng mạc. Năm 1992, ông có cho mình một phòng thí nghiệm riêng tại DFCI và chuyên nghiên cứu về các loại bệnh gây ra do ung thư di truyền như Hội chứng von Hippel-Lindau. Năm 2002, Kaelin trở thành giáo sư tại Đại học Y khoa Havard. Sự nghiệp. Ông trở thành trợ lý giám đốc khoa học cơ bản tại Trung tâm ung thư Dana-Farber / Harvard vào năm 2008. Nghiên cứu của ông tại Dana-Farber đã tập trung vào việc tìm hiểu sự ảnh hưởng của đột biến gen ức chế khối u trong sự phát triển ung thư. Phần lớn các công trình khoa học của ông xoay quanh u nguyên bào võng mạc, Hội chứng von Hippel-Lindau, và các gen ức chế khối u tạo nên protein ức chế p53.
{ "split": 0, "title": "William Kaelin Jr.", "token_count": 480 }
22,637
Title: William Kaelin Jr. Công trình của ông đã được Viện Y tế Quốc gia, Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, Quỹ từ thiện Doris Duke và các tổ chức khác tài trợ. Kaelin là Phó Chủ tịch của Chương Petrình Khoa học thuộc Tổ chức Nghiên cứu Ung thư Damon Runyon, và cũng là thành viên ban giám đốc và là chủ tịch ủy ban tuyển chọn và trao thưởng cho các nhà khoa học và bác sĩ được đào tạo tại tổ chức này. Ngoài ra, ông còn là thành viên ban giám đốc của công ty dược Eli Lilly và là thành viên của ủy ban tư vấn khoa học của chương trình từ thiện Stand up to Cancer. Nghiên cứu.
{ "split": 1, "title": "William Kaelin Jr.", "token_count": 142 }
22,638
Title: William Kaelin Jr. Sau khi hoàn thành chương trình sau Tiến sĩ, Kaelin bắt tay xắp đặt phòng thí nghiệm riêng của mình tại Dana-Farber năm 1993 để tiếp tục nghiên cứu về ức chế khối u. Dần dần, ông bắt đầu hứng thú với việc nghiên cứu Hội chứng von Hippel-Lindau (VHL). Các khối u do bệnh VHL phát triểu do đột biến gen di truyền và thường được biết đến với việc tạo mạch máu để cơ thể tiết ra erythropoietin (EPO), một loại hormon đóng vài trò quan trọng giúp cơ thể phản ứng với môi trường thiếu hoặc ít oxy trong máu. Từ đây, Kaelin lập nên giả thuyết rằng có một sự liên kết giữa sự hình thành các khối u do VHL và sự suy yếu của cơ chế giúp phát hiện thay đổi oxy trong cơ thể. Nghiên cứu của Kaelin cho thấy rằng, trong những bệnh nhân bị VHL, có sự biểu hiện gen giúp hình thành nên các protein thiết yếu cho việc sản xuất EPO trong cơ thể, tuy nhiên quá trình này đã bị ức chế do gen đột biến. Công trình của Kaelin cũng có sự tương đồng với 2 nhà khoa học khác là Peter J. Ratcliffe và Gregg L. Semenza khi họ đã phát hiện ra một loại protein gồm 2 phần mang tên HIF - một yếu tố cần thiết trong việc sản xuất EPO và chỉ hoạt động khi có sự thay đổi nồng độ oxy trong cơ thể. Nghiên cứu của Kaelin cũng cho thấy rằng một số protein của bệnh nhân VHL điều tiết lượng protein HIF trong cơ thể khi trong những đối tượng thí nghiệm mà không mắc VHL, protein HIF sẽ sản xuất dư chất EPO và dẫn đến ung thư. Công trình nghiên cứu của cả Kaelin, Ratcliffe, và Semenza đã giúp xác định cơ chế các tế bào phát hiện và phản ứng với từng mức độ oxy khác nhau trong cơ thể và đã giúp phát triển nhiều loại thuốc khác nhau cho bệnh nhân bị thiếu máu hoặc suy thận. Đời tư. Kaelin kết hôn với Carolyn Kaelin (Scerbo), một bác sĩ giải phẫu ung thư vú, vào năm 1988. Cả hai sống với nhau cho đến khi Carolyn qua đời do u nguyên bào thần kinh đệm vào năm 2015. Vợ chồng Kaelin có với nhau 2 người con.
{ "split": 2, "title": "William Kaelin Jr.", "token_count": 499 }
22,639
Title: William Mikelbrencis William Mikelbrencis (sinh ngày 25 tháng 2 năm 2004) là cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Pháp đang chơi ở vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ Hamburger SV tại Bundesliga 2. Đời tư. Sinh ra tại Forbach, Lorraine, William Mikelbrencis bắt đầu chơi bóng ở gần Montbronn, trước khi gia nhập lò đào tạo của FC Metz vào năm 2015. Sự nghiệp thi đấu. Sự nghiệp câu lạc bộ. Mikelbrencis gia nhập Metz vào tháng 4 năm 2021. Mùa giải sau đó, anh ta chơi cho đội dự bị tại National 2, ghi bàn đầu tiên trong trận đấu gặp Sainte-Geneviève vào ngày 6 tháng 11. Khoảng tháng 1 năm 2022, anh ta có một pha kiến tạo trong chiến thắng 1–0 trước CS Sedan Ardennes, anh ta ra mắt Metz trong trận thua 2-0 trước Strasbourg tại Ligue 1. Vào ngày 31 tháng 8 năm 2022, Mikelbrencis gia nhập Hamburger SV bằng bản hợp đồng kéo dài 4 năm. Sự nghiệp quốc tế. Anh ta bắt đầu chơi từ U-16 Pháp vào năm 2019, sau đó, anh ta được triệu tập lên đội U-17, trước khi được triệu tập lên U-18 Pháp vào năm 2021, có một pha kiến tạo trong chiến thắng 3–0 trước U-18 Ý.
{ "split": 0, "title": "William Mikelbrencis", "token_count": 276 }
22,640
Title: William Morris Hughes Billy Hughes (William Morris Hughes 25 tháng 9 năm 1862 - 28 tháng 10 năm 1952) là một nhà chính trị Úc. Ông là thủ thướng thứ 7 của Úc. Thời gian đảm nhận chức vụ thủ tướng của ông từ ngày 27 tháng 10 năm 1915 đến ngày 9 tháng 2 năm 1923, kéo dài trong 7 năm 3 tháng 14 ngày. Ông thuộc Đảng Lao động Úc và Đảng Dân tộc Úc. Ông được biết đến với vai trò lãnh đạo đất nước trong Thế chiến thứ nhất. , nhưng ảnh hưởng của ông đối với nền chính trị quốc gia kéo dài vài thập kỷ. Hughes là thành viên của quốc hội liên bang  từ Liên bang vào năm 1901 cho đến khi ông qua đời, người duy nhất đã phục vụ hơn 50 năm. Ông đại diện cho sáu đảng phái chính trị trong suốt sự nghiệp của mình, lãnh đạo năm đảng, đứng đầu bốn đảng và bị khai trừ khỏi ba đảng. Hughes sinh ra ở London với cha mẹ là người xứ Wales . Anh di cư đến Úc năm 22 tuổi, và tham gia vào phong trào lao động non trẻ của Úc. Ông được bầu vào Hội đồng Lập pháp New South Wales năm 1894,  với tư cách là thành viên của Đảng Lao động New South Wales , và sau đó được chuyển sang Quốc hội liên bang mới vào năm 1901. Hughes kết hợp sự nghiệp chính trị ban đầu của mình với các nghiên cứu pháp lý bán thời gian. , và được gọi đến quán bar vào năm 1903. Ông lần đầu tiên gia nhập nội các vào năm 1904, trong Chính phủ Watson tồn tại trong thời gian ngắn , và sau đó là Tổng chưởng lý của Úc trong mỗi Andrew Fishercủa các chính phủ. Ông được bầu làm phó lãnh đạo Đảng Lao động Úc vào năm 1914.
{ "split": 0, "title": "William Morris Hughes", "token_count": 363 }
22,641
Title: William Randal Cremer Sir William Randal Cremer (18.3.1828 – 22.7.1908) thường được biết đến dưới tên đệm "Randal", là một Nghị sĩ Hạ nghị viện Vương quốc Anh, một đảng viên đảng Tự do (Anh) và người theo chủ nghĩa Hòa bình. Cremer được bầu làm thư ký Hiệp hội các người lao động quốc tế ("International Workingmen's Association") tức Quốc tế Cộng sản I năm 1865, nhưng từ chức 2 năm sau. Ông là đảng viên đảng Tự do (Anh), được bầu vào Hạ nghị viện (Anh) ở khu vực bầu cử Haggerston quận Shoreditch vùng Hackney (ngoại ô London) từ năm 1885 tới 1895, rồi từ năm 1900 tới khi từ trần. Cremer được thưởng giải Nobel Hòa bình năm 1903, là người đầu tiên đoạt giải một mình (các giải trước tặng cho 2 người), chủ yếu cho việc làm "trọng tài quốc tế" của ông, nhất là cho Hiệp ước trọng tài Anh-Mỹ ("Anglo-American arbitration treaty") năm 1897. Ông là người đồng sáng lập Liên minh liên nghị viện ("Inter-Parliamentary Union") và Liên đoàn Trọng tài quốc tế ("International Arbitration League"). Ông cũng được thưởng huân chương Bắc đẩu bội tinh của Pháp, huân chương hiệp sĩ thánh Olav của Na Uy và trở thành hiệp sĩ (Na Uy) năm 1907. Có một trường tiểu học ở Haggerston, Hackney (London) đặt theo tên Randal Cremer để biết ơn mọi việc làm vất vả và kiên trì của ông cho khu vực này.
{ "split": 0, "title": "William Randal Cremer", "token_count": 344 }
22,642
Title: William Wakefield Baum William Wakefield Baum (1926 – 2015) là một Hồng y người Hoa Kỳ của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông từng đảm nhận vai trò Hồng y Đẳng Linh mục Nhà thờ S. Croce in Via Flaminia và Tổng giám mục đô thành Tổng giáo phận Washington trong 7 năm, từ năm 1973 đến năm 1980. Vốn là một giáo sĩ trong vai trò lãnh đạo giáo hội địa phương, ông từng đảm trách vai trò Giám mục chính tòa Giáo phận Springfield–Cape Girardeau từ năm 1970 đến năm 1973 khác nhau trước khi tiến đến trở thành Tổng giám mục đô thành Washington. Ngoài lãnh đạo các giáo phận được bổ nhiệm, sau này ông còn đảm nhận nhiều vị trí quan trong tại Giáo triều Rôma như: Tổng trưởng Thánh bộ Tu sĩ (1980 – 1990), Chánh án Tòa Ân giải Tối cao (1990 – 2001). Ông được vinh thăng Hồng y ngày 24 tháng 5 năm 1976, bởi Giáo hoàng Phaolô VI. Tiểu sử. Hồng y William Wakefield Baum sinh ngày 21 tháng 11 năm 1926 tại Dallas, Texas, Hoa Kỳ. Sau quá trình tu học dài hạn tại các cơ sở chủng viện theo quy định của Giáo luật, ngày 12 tháng 5 năm 1951, Phó tế Baum, 25 tuổi, tiến đến việc được truyền chức linh mục. Cử hành nghi thức truyền chức cho tân linh mục là giám mục Edwin Vincent O’Hara, giám mục chính tòa Giáo phận Kansas City, Missouri. Tân linh mục là đồng thời cũng là thành viên linh mục đoàn Giáo phận Kansas City.
{ "split": 0, "title": "William Wakefield Baum", "token_count": 325 }
22,643
Title: William Wakefield Baum Sau 19 năm thi hành các công việc mục vụ với thẩm quyền và cương vị của một linh mục, ngày 18 tháng 2 năm 1970, Tòa Thánh loan tin Giáo hoàng đã quyết định tuyển chọn linh mục William Wakefield Baum, 44 tuổi, gia nhập Giám mục đoàn Công giáo Hoàn vũ, với vị trí được bổ nhiệm là Giám mục chính tòa Giáo phận Springfield–Cape Girardeau. Lễ tấn phong cho vị giám mục tân cử được tổ chức sau đó vào ngày 6 tháng 4 cùng năm, với phần nghi thức chính yếu được cử hành cách trọng thể bởi 3 giáo sĩ cấp cao, gồm chủ phong là Hồng y John Joseph Carberry, Tổng giám mục đô thành Tổng giáo phận Saint Louis, Missouri; hai vị giáo sĩ còn lại, với vai trò phụ phong, gồm có giám mục Charles Herman Helmsing, Giám mục chính tòa Giáo phận Kansas City-Saint Joseph và Giám mục Joseph Vincent Sullivan, giám mục phụ tá giáo phận Kansas City-Saint Joseph. Tân giám mục chọn cho mình châm ngôn:"MINISTERIUM RECONCILIATIONIS". Chỉ 3 năm sau khi được chọn làm giám mục, Giám mục Baum được Tòa Thánh thăng Tổng giám mục, qua việc bổ nhiệm giám mục này làm Tổng giám mục đô thành Tổng giáo phận Washington. Thông báo về việc bổ nhiệm này được công bố cách rộng rãi vào ngày 5 tháng 3 năm 1973. Tân Tổng giám mục đã đến cử hành các nghi thức nhận giáo phận sau đó vào ngày 9 tháng 5 cùng năm. Bằng việc tổ chức công nghị Hồng y năm 1976 được cử hành chính thức vào ngày 24 tháng 5, Giáo hoàng Phaolô VI đưa ra quyết định vinh thăng Tổng giám mục William Wakefield Baum tước vị danh dự của Giáo hội Công giáo, Hồng y. Tân Hồng y thuộc Đẳng Hồng y Linh mục và Nhà thờ Hiệu tòa được chỉ định là Nhà thờ S. Croce in Via Flaminia. Bốn năm sau khi được vinh thăng Hồng y, ông được chọn về Giáo triều Rôma, đảm nhận cương vị Tổng trưởng Thánh bộ Tu sĩ. Thông báo về quyết định này được công bố vào ngày 15 tháng 1 năm 1980. Ngày 15 tháng 3 cùng năm, ông từ nhiệm khỏi vị trí tổng giám mục Washington. Mười năm đảm nhiệm vai trò Tổng trưởng, ngày 6 tháng 4 năm 1990, Tòa Thánh điều chuyển Hồng y Baum làm Chánh án Tòa Ân giải Tối cao.
{ "split": 1, "title": "William Wakefield Baum", "token_count": 498 }
22,644
Title: William Wakefield Baum Ngày 22 tháng 1 năm 2001, Tòa Thánh chấp thuận đơn từ nhiệm của ông vì lý do tuổi tác, theo Giáo luật. Ông qua đời vào ngày 23 tháng 7 năm 2015, thọ 89 tuổi.
{ "split": 2, "title": "William Wakefield Baum", "token_count": 45 }
22,645
Title: Willoughby Smith Willoughby Smith (6 Tháng tư 1828, Great Yarmouth, Norfolk — 17 tháng bảy 1891, Eastbourne, Sussex) là một kỹ sư điện người Anh, ông là người khám phá ra tính quang dẫn của nguyên tố Selen. Khám phá này đã dẫn đến việc phát minh ra pin mặt trời. Năm 1848, ông bắt đầu làm viêc cho công ty Gutta Percha, London nơi ông phát triển các dây sắt và đồng được cách điện bằng Gutta-percha phục vụ cho mạng lưới điện tín. Năm 1849, Smith giám sát việc sản xuất và lắp đặt 30 dặm cáp điện tín ngầm dưới nước chạy từ Dover tới Calais. Ông làm việc cùng với Charles Wheatstone người thiết kế thiết bị sản xuất và lắp đặt tuyến cáp. Dự án thành công và suốt một thập kỷ sau đó, Smith và công ty nơi ông làm việc đã đảm nhận rất nhiều dự án cáp ngầm dưới nước khác. Năm 1873. Smith phát triển một phương thức để kiểm tra một cách liên tục một đoạn cáp ngầm khi nó đã được đặt ngầm dưới biển. Để làm mạch điện thử nghiệm, ông cần một loại vật liệu bán dẫn với điện trở cao và ông ấy đã chọn que selen để thử nghiệm. Selen có vẻ là một sự lựa chọn hợp lý, tuy nhiên khi sử dụng trong thực tế, thiết bị cho ra những kết quả mâu thuẫn. Bằng việc khảo sát, ông khám phá ra rằng, độ dẫn điện của que selen tăng lên đáng kể khi bị phơi ra dưới ánh sáng mạnh. Smith mô tả "Tác dụng của ánh sáng lên Selen trong quá trình truyền tải dòng điện" trong một bài viết đăng trên tạp chí Nature vào ngày 20 tháng hai 1873.
{ "split": 0, "title": "Willoughby Smith", "token_count": 375 }
22,646
Title: Willy Marshall Willy Marshall là một chính trị gia Libertarian người Mỹ và trở thành thị trưởng đồng tính công khai đầu tiên ở Utah khi ông được bầu vào năm 2001 để làm thị trưởng của thị trấn Big Water, Utah. Để tuân thủ các nguyên tắc tự do của mình, Marshall đã bãi bỏ tiền lương của thành phố. Ông cũng cắt giảm thuế thành phố 50% và cố gắng phi pháp hóa cần sa. Chính quyền quận đã ngăn chặn việc thực hiện đầy đủ việc phi hạt nhân hóa. Marshall vận động không thành công từ năm 1982 đến 1996 để bầu làm thành viên của Hạ viện Utah, Thượng viện Utah và Hạ viện Hoa Kỳ trước chiến dịch thị trưởng của ông năm 2000.
{ "split": 0, "title": "Willy Marshall", "token_count": 147 }
22,647
Title: Wilton Daniel Gregory Wilton Daniel Gregory (sinh 1947) là một Hồng y người Hoa Kỳ của Giáo hội Công giáo Rôma. Ông hiện đảm nhận chức Tổng giám mục Tổng giáo phận Washington, Trưởng Giáo tỉnh Washington. Ông từng đảm nhận vai trò Chủ tịch Hội đồng Giám mục Hoa Kỳ từ năm 2001 đến năm 2004. Tiểu sử. Wilton Daniel Gregory sinh ngày 7 tháng 12 năm 1947 tại Chicago, bang Illinois (về mặt cơ cấu Giáo hội, thuộc Tổng giáo phận Chicago. Sau quá trình tu học, ông được thụ phong linh mục ngày 9 tháng 5 năm 1973, theo cơ cấu thuộc linh mục đoàn Tổng giáo phận Chicago. Chủ phong là Hồng y John Patrick Cody, Tổng giám mục Tổng giáo phận Chicago. Sau 10 năm thi hành tác vụ linh mục, Wilton Daniel Gregory được bổ nhiệm làm Giám mục phụ tá Tổng giáo phận Chicago vào ngày 18 tháng 10 năm 1983, khi chưa tròn 36 tuổi. Cùng với vai trò Giám mục phụ tá, ông cũng nhận danh hiệu Giám mục hiệu tòa Oliva. Lễ tấn phong giám mục cho giám mục tân cử Gregory được cử hành sau đó vào ngày 13 tháng 12 cùng năm, tại Nhà thờ chính tòa Thánh Danh (Holy Name), Tổng giáo phận Chicago. Tham gia nghi lễ truyền chức giám mục, có chủ phong là Hồng y Joseph Louis Bernardin, Tổng giám mục Chicago và hai phụ phong, gồm: Giám mục Alfred Leo Abramowicz, Giám mục phụ tá Chicago và Giám mục Nevin William Hayes, O. Carm., Giám mục phụ tá Chicago. Sau 10 năm thi hành tác vụ giám mục, Gregory được bổ nhiệm đảm trách vai trò Giám mục chính tòa Giáo phận Belleville, Illinois vào ngày 29 tháng 12 năm 1993 và ông đã chính thức nhậm chức vào ngày 10 tháng 2 năm 1994. Ngày 9 tháng 12 năm 2004, Tòa Thánh thăng Giám mục Gregory làm Tổng giám mục, chức vị Tổng giám mục Tổng giáo phận Atlanta, Georgia. Ông nhận nhiệm vụ này sau đó vào ngày 17 tháng 1 năm 2005.
{ "split": 0, "title": "Wilton Daniel Gregory", "token_count": 418 }
22,648
Title: Wilton Daniel Gregory Ngày 4 tháng 4 năm 2019, Tòa Thánh bổ nhiệm Tổng giám mục Gregory làm Tổng giám mục Tổng giáo phận Washington, Washington D.C. Ông nhận nhiệm sở mới vào ngày 21 tháng 5 năm 2019. Một năm sau đó, ngày 18 tháng 9 năm 2020, ông được bổ nhiệm kiêm nhiệm vai trò Giám quản Tông Tòa giáo phận Saint Thomas, Quần đảo Virgin thuộc Mỹ. Cùng năm, ngày 28 tháng 11, ông dự kiến được thăng tước Hồng y của Giáo hội Công giáo Rôma.
{ "split": 1, "title": "Wilton Daniel Gregory", "token_count": 114 }
22,649
Title: Win Tin Win Tin (, , 12 tháng 3 năm 1929 – 21 tháng 4 năm 2014) là một chính trị gia và cựu tù nhân chính trị người Myanmar. Ông đã bị chính quyền Myanmar bắt trong tháng 7 năm 1989 và bị giam tù 19 năm vì giữ một cương vị cao trong Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ ("National League for Democracy") và vì các bài viết của ông. Win Tin đã bị xử 20 năm tù vì bị cáo buộc là "tuyên truyền chống chính phủ" và bị nhốt ở nhà tù Insein (gần Yangon). Một trong các nguyên nhân khiến ông bị giam là việc ông tìm cách báo cho Liên Hợp Quốc về những vi phạm nhân quyền tiếp tục diễn ra trong các nhà tù của Myanmar. Ở tuổi 81, sức khỏe của ông vốn đã suy yếu, lại trầm trọng thêm vì cách đối xử ở trong nhà tù, trong đó có tra tấn, chữa trị thuốc men thiếu thốn, bị nhốt trong một xà lim được thiết kế cho các con chó của quân đội, không có giường nệm, và bị tước đoạt thực phẩm cùng nước uống trong thời gian dài. Từ đầu năm 2006 ông đã không được quyền gặp Ủy ban Chữ thập đỏ quốc tế tới thăm. Ngày 23.9.2008, ông được phóng thích trước thời hạn, sau 19 năm bị cầm tù Sau khi được phóng thích, Win Tin đã nỗ lực tổ chức lại "Liên đoàn Dân chủ quốc gia". Ông đã tái phát động các cuộc họp hàng tuần Ủy ban chấp hành Trung ương của đảng, vốn đã không được tổ chức thường xuyên từ năm 2003. Ông cũng đã lại tiếp tục tổ chức hội nghị bàn tròn thường xuyên, gọi là "Giới trẻ và Tương lai" với sự tham gia của Aung San Suu Kyi trước đây. Win Tin cũng thường tới thăm gia đình các tù nhân chính trị để hỗ trợ tinh thần và động viên họ.
{ "split": 0, "title": "Win Tin", "token_count": 394 }
22,650
Title: Win32-loader win32-loader là một thành phần của bản phân phối Debian hoạt động trên Windows có khả thể tải trình cài đặt Debian có sẵn từ mạng hoặc từ đĩa CD-ROM. win32-loader được phát sinh như một dự án độc lập, với chỉ có có sẵn các phiên bản mạng. Sau đó mã nguồn của nó đã trải qua một quá trình đánh giá và quảng cáo lâu dài trước khi trở thành một phần của Debian. Ảnh hưởng. win32-loader dựa rất nhiều vào các dự án như , ,  và  để thực hiện nhiệm vụ của mình. Ngoài ra, nó đã thu hút được nguồn cảm hứng và ý tưởng từ các dự án tương tự như Wubi và .
{ "split": 0, "title": "Win32-loader", "token_count": 155 }
22,651
Title: Winamp Winamp (dạng viết ngắn của "Windows amplifier" trong tiếng Anh) là một trong những phần mềm nghe nhạc phổ biến nhất trên toàn thế giới, với ước tính hơn 250.000.000 lần được cài đặt (2004). Winamp có một giao điện đơn giản, có thể thay đổi, dễ sử dụng, hỗ trợ nhiều dạng tập tin, miễn phí và là một trong những phần mềm đầu tiên hỗ trợ chơi nhạc MP3. Thuở ban đầu Winamp được lập trình bởi Justin Frankel, sau đó Justin Frankel rủ thêm một số bạn của mình để hoàn thiện thêm Winamp và sáng lập nên Nullsoft. Justin Frankel rời Nullsoft vào tháng 4, 2004 vì bất đồng với cách điều hành độc tài của AOL Time Warner, công ty mẹ của Nullsoft. Lịch sử. Winamp1 và Winamp2. Winamp (bản đầu tiên phát hành vào tháng 6, 1997) dưới dạng phần mềm chia sẻ, tuy nhiên lúc này Winamp vẫn còn rất nhiều hạn chế về nhiều mặt. Winamp 2 được phát hành năm 1998, vẫn dựa trên giao diện quen thuộc dưới dạng phần mềm miễn phí, đã trở thành một cơn sốt trên Internet và là một trong những phần mềm được tải về nhiều nhất. Winamp3. Một dự án Winamp khác đã được phát hành độc lập là Winamp3 (đánh vần là "Wina" "mp3") để đưa cụm từ "mp3" vào trong cách đọc. Đây là phiên bản được viết lại hoàn toàn từ phiên bản Winamp2 dựa trên nền tảng ứng dụng công nghệ Wasabi cho phép bổ sung nhiều tính năng linh hoạt. Winamp3 được phát triển song song cùng với Winamp2. Tuy nhiên nhiều người sử dụng phát hiện thấy phiên bản này tiêu tốn nhiều tài nguyên hoặc không ổn định (hoặc thậm chí bỏ sót một số chức năng được ưa thích như khả năng tìm kiếm tổng số của các bài trong danh sách thể hiện theo kiểu số và thời gian). Kết quả là nhiều người quay lại với phiên bản Winamp2. Công ty Nullsoft nắm bắt được điều này từ phản hồi của người tiêu dùng và trở lại với định hướng phát triển phiên bản trước là phiên bản ổn định hơn. Winamp 5.0.
{ "split": 0, "title": "Winamp", "token_count": 472 }
22,652
Title: Winamp Winamp 5.0 được xây dựng trên cơ sở hòa trộn Winamp2 với Winamp3, việc đánh số 5.x được chọn vì 2 + 3 = 5, hàm ý dòng phiên bản mới này cho phép lựa chọn những phần tốt nhất từ hai dòng phiên bản trước: một số tính năng đặc biệt của Winamp3 được giữ lại trong khi vẫn duy trì sự ổn định của Winamp2. Đội ngũ tác giả còn đùa là: "Nobody wants to see a Winamp 4 skin" ("chẳng ai muốn thấy Winamp 4 skin đâu" - chữ "Winamp 4 skin" vừa mang nghĩa là giao diện Winamp4, vừa có thể hiểu là "bao quy đầu Winamp", bởi "4 skin" đọc giống "foreskin"). Winamp 5.0 được phát hành vào tháng 12 năm 2003. Phần lớn nền tảng công nghệ Wasabi được xây dựng cho Winamp3 đã trở thành mã nguồn mở và nó được sử dụng để phát triển một chương trình hoàn thiện là wasabi.player, đây là phần chủ yếu của phiên bản mã nguồn mở cho Winamp3. Winamp 5.0 có hai phiên bản: Chuẩn và Chuyên nghiệp. Bản Chuẩn miễn phí, còn bản Chuyên nghiệp cung cấp nhiều tính năng hơn, đặc biệt là các tính năng liên quan đến chất lượng âm và ghi đĩa. Bản Chuyên nghiệp hiện tại được bán với giá USD 14.95.
{ "split": 1, "title": "Winamp", "token_count": 289 }
22,653
Title: Winchester Model 1894 Winchester Model 1894, còn được biết với cái tên Winchester 1894 hoặc Model 1894 là loại súng trường nạp đạn bằng đòn bẩy rất nổi tiếng trên thế giới. Nó được thiết kế bởi John Browning vào năm 1894 và ban đầu nó sử dụng hai loại đạn là .32-40 Winchester và .38-55 Winchester. Khẩu 1894 được sản xuất bởi công ty Winchester Repeating Arms Company và năm 1980 và sau đó là U.S. Repeating Arms với thương hiệu Winchester chi đến khi họ ngưng sản xuất vào năm 2006. Bản sao của Winchester 1894 được sản xuất bởi công ty Nhật Bản là Miroku và được nhập vào Mỹ thông qua công ty Browning Arms ở Morgan, Utah. Hiện có một khẩu M1894 được trưng bày tại Viện bảo tàng Mỹ thuật Metropolitan. Thay đổi thiết kế. Ba thay đổi lớn đã được thực hiện trong việc thiết kế và chế tạo Winchester 1894 kể từ Thế chiến II. Thay đổi đầu tiên được thực hiện vào năm 1964, sau khi ông John M. Olin từ chức chủ tịch công ty do ông sáng lập, Olin Corporation. Thay đổi thứ hai vào năm 1982, sau khi Olin bán công ty Winchester cho nhân viên của mình, người đã thành lập U.S. Repeating Arms Company (USRAC). Lần thứ ba vào năm 1992, sau khi URSAC phá sản năm 1989, nó được mua bởi công ty nổi tiếng của Bỉ là FN Herstal. Trong văn hóa đại chúng. Winchester Model 1894 là loại súng trường xuất hiện rất nhiều trong các tựa game và phim có bối cảnh là miền Viễn Tây hay trong các cuộc chiến tranh (nó thỉnh thoảng cũng xuất hiện trong thời hiện đại). Winchester 1894 được biết đến nhiều khi xuất hiện trong game PUBG với tên gọi Win94 và sử dụng loại đạn .45 ACP (điều này khá phi thực tế bởi nó dùng loại đạn như đã nêu trên). Nó nổi tiếng đến mức những người chơi nào không hiểu biết về súng vẫn gọi những khẩu súng trường nạp đạn bằng đòn bẩy (như súng trường Henry) là Win94.
{ "split": 0, "title": "Winchester Model 1894", "token_count": 459 }
22,654
Title: Winchester Winchester là một City và hạt lỵ của Hampshire, Anh. Thành phố này nằm ở trung tâm của huyện City of Winchester, rộng lớn hơn, và nằm ở cuối phía tây của vườn quốc gia South Downs, dọc theo dòng sông Itchen. Nó nằm về phía tây nam của Luân Đôn và từ Southampton, thành phố lớn gần nhất. Tại thời điểm Tổng kiểm tra năm 2011, Winchester có dân số 45.184. Huyện Winchester bao gồm các thị trấn: như Alresford và Bishop's Waltham có dân số 116.800 Winchester phát triển từ thị trấn La Mã Venta Belgarum, mà lại phát triển từ một khu định cư có tường thành từ thời đồ sắt. Biểu tượng chính của Winchester là nhà thờ chính tòa Winchester, một trong những nhà thờ lớn nhất ở châu Âu, đặc biệt là gian giữa và chiều dài tổng thể dài nhất trong tất cả các nhà thờ Gothic ở châu Âu. Thành phố này có trường đại học Winchester và Winchester College, trường public school lâu đời nhất ở Vương quốc Anh vẫn còn được sử dụng tòa nhà ban đầu của nó. Tòa nhà lịch sử. Nhà thờ chính tòa. Nhà thờ Winchester là nhà thờ dài thứ hai ở châu Âu và được xây dựng 1079. Thiết kế độc đáo của nó kết hợp phong cách kiến trúc từ thế kỷ XI cho đến thế kỷ XVI. Bên trong nhiều vị giám mục của Winchester được chôn ở đây, trong số đó có William von Wykeham. Những ngôi mộ của các vị vua, như Egbert của Wessex, Canute đại đế và William Rufus, cũng ở đó bên cạnh của những người nổi tiếng như Jane Austen. Trước đó, nhà thờ là một nơi hành hương được ưa thích vì nó có đền thờ thánh Swithin. Ngay cả con đường hành hương tới Canterbury cũng bắt đầu tại Winchester. Bên cạnh nhà thờ bạn có thể thấy trên bãi cỏ nền móng của nhà thờ trước đó. Nhà thờ có một dàn hợp xướng con trai và một dàn cho con gái, trình diễn thường xuyên trong nhà thờ. Trong sân nhà thờ có một số tòa nhà lịch sử từ thời kỳ, khi Nhà thờ cũng bao gồm một tu viện. Đặc biệt, nhà ở của trưởng tu viện từ thế kỷ XIII đáng xem qua. Năm 1486, Arthur Tudor, thái tử và Thân vương xứ Wales, sinh ra ở đó.
{ "split": 0, "title": "Winchester", "token_count": 509 }
22,655
Title: Winchester Cách đó không xa là cheyney Court, một ngôi nhà có sườn bằng gỗ (timber framing, Fachwerkhaus) từ giữa thế kỷ XV, mà ban đầu phục vụ như là cổng nhà của tu viện và sau đó thuộc về cung điện của Đức Giám mục. Ngay cả tòa nhà đầu tiên xây năm 1308 với mái gỗ có dầm chống (hammer-beamed) cũng nằm ở sân nhà thờ bên cạnh vườn của trưởng tu viện. Nó được gọi là Pilgrim Hall và trước đây là một phần của một quán trọ, nơi khách hành hương cư trú khi đến thăm đền thờ Swithin. Ngày nay tòa nhà được sử dụng như một thính đường của trường học, hoặc cho các buổi lễ và sân khấu.
{ "split": 1, "title": "Winchester", "token_count": 160 }
22,656
Title: Windjet Windjet tên đầy đủ là Wind Jet S.p.A. (mã IATA = IV, mã ICAO = JET) là hãng hàng không của Ý, trụ sở ở Catania. Hãng có các tuyến đường thường xuyên và các chuyến bay thuê bao chở khách tới các điểm đến trong nước và quốc tế. Căn cứ chính của hãng ở Sân bay Catania-Fontanarossa. Lịch sử. Windjet được Antonino Pulvirenti - giám đốc điều hành hiện nay - thành lập năm 2003, tiếp theo việc giải thể của hãng Air Sicilia. Hãng bắt đầu hoạt động từ ngày 17.6.2003 và do Finaria Group hoàn toàn làm chủ. Các nơi đến. (Tháng 11/2007): Đội máy bay. (Tháng 1/2008):
{ "split": 0, "title": "Windjet", "token_count": 166 }
22,657
Title: Windows 11 Windows 11 là một hệ điều hành của Microsoft được công bố vào ngày 24 tháng 6 năm 2021, là một phần của họ hệ điều hành Windows NT. Windows 11 được phát hành rộng rãi vào ngày 5 tháng 10 năm 2021 dưới dạng bản nâng cấp miễn phí thông qua Windows Update cho các thiết bị đủ điều kiện chạy Windows 10. Microsoft phổ biến Windows 11 sẽ được cải thiện hiệu suất và dễ sử dụng hơn Windows 10; và có những thay đổi lớn đối với Windows Shell của Windows 10X, bao gồm cả Start menu được thiết kế lại, thay thế các "live tiles" bằng các ô riêng biệt chứa các biểu tượng ứng dụng. "Widget" là tính năng được kế thừa từ tính năng "News and Interest" có thể được truy cập từ thanh tác vụ, khả năng tạo nhóm cửa sổ xếp gạch có thể được thu nhỏ và khôi phục từ thanh tác vụ dưới dạng một nhóm và các công nghệ chơi game mới được kế thừa từ Xbox Series X và Series S, chẳng hạn như Auto HDR và DirectStorage trên phần cứng tương thích. Internet Explorer được thay thế hoàn toàn bằng Microsoft Edge, trong khi Microsoft Teams được tích hợp vào Windows shell. Microsoft cũng đã công bố kế hoạch cung cấp hỗ trợ cho ứng dụng Android để chạy trên Windows 11, với hỗ trợ cho Amazon Appstore cũng như cài đặt thủ công thông qua tệp APK. Windows 11 có các yêu cầu phần cứng nghiêm ngặt hơn Windows 10, trong đó Microsoft chỉ hỗ trợ hệ điều hành này với các bản cập nhật trên các thiết bị sử dụng CPU thế hệ thứ tám Intel Core hoặc mới hơn, AMD Ryzen CPU dựa trên vi kiến ​​trúc Zen+ hoặc mới hơn, hoặc Qualcomm Snapdragon 850 và ARM. Secure Boot và Trusted Platform Module (TPM) 2.0 cũng được yêu cầu. Ngoài ra, Windows 11 không còn hỗ trợ kiến ​​trúc 32-bit x86 hoặc các hệ thống sử dụng BIOS cũ. Phát triển.
{ "split": 0, "title": "Windows 11", "token_count": 404 }
22,658
Title: Windows 11 Sau khi phát hành Windows 10, Microsoft tuyên bố phiên bản này sẽ là "phiên bản Windows cuối cùng". Hệ điều hành được định hướng là một dịch vụ, với việc bản dựng và bản cập nhật mới sẽ được phát hành theo thời gian. Tuy nhiên, những đồn đoán về một phiên bản mới hoặc thiết kế lại của Windows đã xuất hiện sau khi một danh sách công việc đề cập đến việc "trẻ hóa toàn diện" Windows được Microsoft đăng tải. Có tên mã được biết đến là "Sun Valley", việc thiết kế lại được thực hiện để hiện đại hóa hệ thống giao diện người dùng. Công bố. Tại hội nghị dành cho các nhà phát triển Microsoft Build 2021, CEO Satya Nadella đã đề cập thế hệ tiếp theo của Windows trong bài phát biểu quan trọng của hội nghị. Theo Nadella, ông đã tự tổ chức bài phát biểu trong vài tháng. Ông ấy cũng trêu chọc rằng một thông báo chính thức sẽ đến rất sớm. Chỉ một tuần sau bài phát biểu quan trọng của Nadella, Microsoft bắt đầu gửi lời mời tham gia sự kiện dành riêng cho Windows lúc 11 giờ sáng giờ ET vào ngày 24 tháng 6 năm 2021. Sự kiện bắt đầu lúc 11 giờ sáng, thời gian khá bất thường đối với một sự kiện của Microsoft. Nhiều người tin rằng đây là một hàm ý. Microsoft cũng đăng một video âm thanh khởi động Windows dài 11 phút lên YouTube vào ngày 10 tháng 6, được cho là tham chiếu đến tên của hệ điều hành Windows 11. Thực tế, video âm thanh khởi động Windows đều chậm xuống ở tốc độ 4000%, chỉ có 3 âm thanh khởi động của Windows là Windows 95, Windows XP và Windows 7. Vào ngày 24 tháng 6 năm 2021, Microsoft chính thức công bố Windows 11. Theo Nadella, Windows 11 là "sự phát triển lại hệ điều hành". Các chi tiết khác dành cho nhà phát triển là bản cập nhật cho Microsoft Store, ứng dụng mới Windows App SDK (có mã "Project Reunion"), thiết kế Fluent Design và hơn thế nữa đã được thảo luận về một sự kiện khác dành cho nhà phát triển cùng ngày. Phát hành.
{ "split": 1, "title": "Windows 11", "token_count": 440 }
22,659
Title: Windows 11 Windows 11 đã được phát hành trong một tài liệu hỗ trợ chính thức của Microsoft vào tháng 6 năm 2021. Hình ảnh về bản dựng alpha 21996.1 có chủ đích của Windows 11 đã bị rò rỉ trực tuyến sau đó vào ngày 15 tháng 6 năm 2021, sau đó là sự rò rỉ của bản dựng nói trên vào cùng ngày. Ảnh chụp màn hình và bản dựng bị rò rỉ cho thấy một giao diện giống với giao diện của Windows 10X đã bị khai tử, cùng với trải nghiệm ngoài hộp (OOBE) và thương hiệu Windows 11 được thiết kế lại. Microsoft sau đó đã xác nhận tính xác thực của bản beta bị rò rỉ, với Panay nói rằng đó là một "bản dựng kỳ lạ ban đầu". Tại sự kiện truyền thông ngày 24 tháng 6, Microsoft cũng thông báo rằng Windows 11 sẽ được phát hành chính thức vào "Holiday 2021" (cuối năm 2021) nhưng không đưa ra ngày cụ thể. Bản phát hành sẽ có sẵn dưới dạng bản nâng cấp miễn phí cho các thiết bị Windows 10 đủ điều kiện thông qua Windows Update. Vào ngày 28 tháng 6, Microsoft đã công bố phát hành bản dựng xem trước và SDK đầu tiên của Windows 11 cho các thành viên Windows Insider. Vào ngày 31 tháng 8 năm 2021, Microsoft thông báo rằng Windows 11 dự kiến ​​sẽ phát hành vào ngày 5 tháng 10 năm 2021. Việc phát hành sẽ được triển khai theo từng giai đoạn, với các thiết bị đủ điều kiện mới hơn sẽ được cung cấp bản nâng cấp đầu tiên. Microsoft dự kiến ​​việc triển khai sẽ hoàn thành vào giữa năm 2022. Kể từ khi Windows 10 được phát hành vào ngày 29 tháng 7 năm 2015, thì hơn 6 năm trước đó là khoảng thời gian dài nhất giữa các bản phát hành liên tiếp của hệ điều hành Microsoft Windows, vượt cả khoảng thời gian giữa Windows XP (phát hành vào ngày 25 tháng 10 năm 2001) và Windows Vista (phát hành vào ngày 30 tháng 1 năm 2007). Các tính năng.
{ "split": 2, "title": "Windows 11", "token_count": 421 }
22,660
Title: Windows 11 Windows 11, bản phát hành Windows lớn đầu tiên kể từ năm 2015, được xây dựng dựa trên phiên bản tiền nhiệm bằng cách cải tiến giao diện người dùng để tuân theo các nguyên tắc Fluent Design. Việc thiết kế lại tập trung vào tính dễ sử dụng và tính linh hoạt, đi kèm với các tính năng mới và hiệu suất cũng như các bản cập nhật về bảo mật và khả năng truy cập, giải quyết một số thiếu sót của Windows 10. Microsoft Store, đóng vai trò như một cửa hàng thống nhất cho các ứng dụng và nội dung khác, cũng được thiết kế lại trong Windows 11. Microsoft hiện cho phép các nhà phát triển phân phối Win32, các ứng dụng web nội bộ và các công nghệ đóng gói khác trong Microsoft Store, cùng với các ứng dụng Universal Windows Platform tiêu chuẩn. Nền tảng cộng tác Microsoft Teams được tích hợp vào giao diện người dùng Windows 11 và có thể truy cập thông qua thanh tác vụ. Skype sẽ không còn được cài đặt cùng với hệ điều hành theo mặc định. Microsoft đã thúc đẩy các cải tiến về hiệu suất như kích thước bản cập nhật nhỏ hơn, duyệt web nhanh hơn trong "bất kỳ trình duyệt nào", thời gian đánh thức nhanh hơn từ chế độ ngủ và xác thực Windows Hello nhanh hơn. Ứng dụng Xbox được cập nhật đi kèm với Windows 11. Công nghệ Auto HDR và DirectStorage được phát triển bởi Xbox Series X và Series S sẽ được tích hợp vào Windows 11; thứ hai yêu cầu một card đồ họa hỗ trợ DirectX 12 và một ổ cứng SSD. Giao diện người dùng. Giao diện được thiết kế lại hiện diện trong toàn bộ hệ điều hành, với việc độ mờ, bóng, bảng màu mới và các góc bo tròn đều xuất hiện trong toàn bộ hệ thống. Các nút trên thanh tác vụ được căn giữa theo mặc định, và nút "Tiện ích" mới hiển thị một bảng có các tiện ích cùng với nguồn cấp tin tức do Microsoft News cung cấp (thay thế cho bảng "tin tức và sở thích" được giới thiệu trong các phiên bản Windows 10 mới hơn). Thanh tác vụ được cố định vĩnh viễn vào cạnh dưới của màn hình và không thể di chuyển lên các cạnh trên cùng, trái hoặc phải của màn hình trong Windows 11 (mặc dù các biểu tượng ở giữa có thể được chuyển sang bên trái).
{ "split": 3, "title": "Windows 11", "token_count": 484 }
22,661
Title: Windows 11 Menu Start đã được thiết kế lại đáng kể, thay thế các "live tiles" được giới thiệu trong Windows 8.x và 10 bằng một lưới các ứng dụng "được ghim" và danh sách các ứng dụng và tài liệu gần đây. Task View, một tính năng được giới thiệu trong Windows 10, có thiết kế được làm mới và hỗ trợ cung cấp các hình nền riêng biệt cho từng màn hình ảo. Chức năng chụp cửa sổ đã được cải tiến với hai tính năng bổ sung; "snap layouts" cho phép người dùng chọn một bố cục được xác định trước mà họ muốn sử dụng để xếp nhiều cửa sổ lên màn hình. Việc sắp xếp các cửa sổ theo kiểu lát gạch có thể được thu nhỏ và khôi phục từ thanh tác vụ dưới dạng "snap group". Windows 11 có phông chữ mới, Segoe UI Variable. Phông chữ được thiết kế để mở rộng tỷ lệ tốt hơn với màn hình có số lượng điểm trên inch cao hơn, điều mà giao diện người dùng Segoe cũ không có. Các thay đổi khác đối với hệ thống bao gồm các biểu tượng hệ thống mới, hoạt ảnh, âm thanh và tiện ích. Phần lớn giao diện và menu start được lấy cảm hứng từ Windows 10X đã bị khai tử. Windows 11 cũng có các thiết kế mới cho ứng dụng File Explorer và Windows Settings. Windows Subsystem cho Android. Windows 11 cũng sẽ cho phép người dùng cài đặt và chạy các ứng dụng Android trên thiết bị của họ bằng "Windows Subsystem for Android (WSA)" và Dự án nguồn mở Android (AOSP). Người dùng có thể cài đặt các ứng dụng Android từ Microsoft Store thông qua Amazon Appstore. Tính năng này sẽ yêu cầu tài khoản Microsoft, tài khoản Amazon và bản cài đặt một lần cho ứng dụng khách Windows Amazon Appstore. Người dùng cũng có thể cài đặt ứng dụng Android thông qua bất kỳ nguồn nào bằng cách sử dụng gói ứng dụng Android (APK). Hệ thống bảo mật.
{ "split": 4, "title": "Windows 11", "token_count": 417 }
22,662
Title: Windows 11 Là một phần của các yêu cầu hệ thống tối thiểu, Windows 11 chỉ hoạt động trên các thiết bị có bộ đồng xử lý bảo mật Trusted Platform Module 2.0. Theo Microsoft, bộ đồng xử lý TPM 2.0 là một "yếu tố quan trọng" để bảo vệ khỏi các cuộc tấn công phần mềm và tấn công mạng. Ngoài ra, Microsoft hiện yêu cầu các thiết bị chạy Windows 11 phải bao gồm bảo mật dựa trên ảo hóa (VBS), tính toàn vẹn của mã được bảo vệ bởi siêu giám sát (HVCI), và Secure Boot được bật theo mặc định. Hệ điều hành cũng có tính năng bảo vệ ngăn xếp được thực thi bằng phần cứng cho các bộ xử lý Intel và AMD được hỗ trợ để bảo vệ chống lại lỗ hổng zero-day. Giống như phiên bản tiền nhiệm, Windows 11 cũng hỗ trợ xác thực đa yếu tố và xác thực sinh trắc học thông qua Windows Hello. Yêu cầu hệ thống. Yêu cầu hệ thống tối thiểu của Windows 11 cao hơn nhiều so với Windows 10. Windows 11 chỉ hỗ trợ các hệ thống 64-bit, chẳng hạn như các hệ thống sử dụng x86-64 hoặc ARM64; hỗ trợ cho bộ xử lý IA-32 đã bị loại bỏ. Yêu cầu về RAM và bộ nhớ trong tối thiểu cũng được nâng lên; Windows 11 hiện yêu cầu ít nhất 4GB RAM và 64GB dung lượng lưu trữ. Chế độ S chỉ được hỗ trợ cho phiên bản Home của Windows 11. Kể từ tháng 6 năm 2021, chỉ Intel Core thế hệ thứ 8 (Coffee Lake, Whiskey Lake) trở lên, AMD Zen + (ngoại trừ phiên bản Ryzen 1st Gen "AF") trở lên và Qualcomm Snapdragon 850, cũng như các bộ xử lý mới hơn được hỗ trợ. Legacy BIOS kế thừa không còn được hỗ trợ; thay vào đó là hệ thống UEFI kết hợp với Secure Boot và bộ đồng xử lý bảo mật TPM 2.0. Yêu cầu TPM nói riêng đã dẫn đến nhiều tranh cãi vì nhiều bo mạch chủ không hỗ trợ TPM, cũng như yêu cầu về mô đun TPM tương thích được cài đặt bo mạch chủ hoặc có TPM tích hợp trên CPU hay phần cứng bị tắt theo mặc định, có thể giải quyết bằng cách thay đổi cài đặt trong UEFI của máy tính để kích hoạt.
{ "split": 5, "title": "Windows 11", "token_count": 484 }
22,663
Title: Windows 11 Các phiên bản xem trước của Windows 11 có thể được cài đặt trên các hệ thống có BIOS cũ, không có Secure Boot hoặc TPM 2.0. Đã có nhiều chỉ trích đáng kể về tác động môi trường của việc Microsoft bỏ rơi hàng triệu máy tính cũ, hay nhiều máy tính vẫn đáp ứng được nhu cầu của người dùng nhưng không đáp ứng được yêu cầu của Windows 11 khi Windows 10 bị loại bỏ dần. Đón nhận. Phiên bản xem trước. Phần lớn Windows 11 đều nhận được các phản hồi tích cực vì các thiết kế mới. Tuy nhiên, Windows 11 cũng gây ra nhiều tranh cãi đối với các yêu cầu hệ thống tối thiểu. Mặc dù vậy, các yêu cầu hệ thống được nâng lên (so với yêu cầu của Windows 10) do Microsoft công bố ban đầu có thể khiến 60% PC chạy Windows 10 hiện tại không thể nâng cấp lên Windows 11. Windows 11 Home cũng yêu cầu tài khoản Microsoft khi thiết lập thiết bị nhưng một số người dùng không muốn. Quá trình thiết lập cũng yêu cầu kết nối Internet trong phiên bản Home để đáp ứng việc bắt buộc phải đăng nhập bằng tài khoản Microsoft. Các sự cố về hiệu suất và trải nghiệm người dùng.
{ "split": 6, "title": "Windows 11", "token_count": 244 }
22,664
Title: Windows 11 Kể từ khi Microsoft ra mắt Windows 11, hệ điều hành này đã nhận được nhiều báo cáo từ người dùng là hệ điều hành chưa hoàn thiện và vẫn còn tồn đọng nhiều lỗi, nhiều trang công nghệ lớn đã cho rằng Microsoft đã quá vội vàng khi lên kế hoạch phát triển Windows 11 và phát hành đến tay người dùng quá nhanh dẫn đến đội ngũ phát triển không có đủ thời gian để kiểm tra và sửa các lỗi tồn đọng bên trong hệ điều hành, dẫn đến khi phát hành Windows 11 thì hệ điều hành gặp rất nhiều lỗi nghiêm trọng. Một số lỗi nghiêm trọng được phát hiện và báo cáo là lỗi rò rỉ bộ nhớ RAM, lỗi giảm hiệu năng trên các vi xử lý AMD Ryzen lên đến 15% so với Windows 10, do sự cố độ trễ của bộ nhớ cache L3 và sự cố UEFI không chủ động giao nhiệm vụ cho các lõi xử lý có hiệu năng cao nhất (CPPC2). Ngoài ra, Windows 11 còn gặp một số vấn đề tương tích với trình điều khiển như trình điều khiển Intel Smart Sound Technology, gặp các vấn đề tương tích đối với phần mềm máy ảo Oracle VirtualBox, trình duyệt Cốc Cốc, lỗi rò rỉ bộ nhớ trong File Explorer khiến cho lượng RAM sử dụng bị tăng đột biến lên đến 70 - 90%, lỗi rò rỉ bộ nhớ trên tiến trình Windows Desktop Manager khiến cho lượng RAM sử dụng bị tăng đột biến, lỗi giảm hiệu năng trên các ổ cứng SSD NVMe và ổ cứng HDD, thường xuyên gặp lỗi màn hình xanh chết chóc, gặp các vấn đề về hiển thị đồ họa, vấn đề về hiển thị thanh tác vụ, lỗi hiển thị sai các biểu tượng hệ thống. Một số người dùng không thể mở được Start Menu (nhấn vào biểu tượng Start trên Windows 11 nhưng máy tính không có phản hồi gì), hay một số người dùng không thể nhấn chuột phải trên màn hình Desktop, lỗi quạt tản nhiệt trên máy tính (kể cả laptop) luôn chạy với tốc độ cao, nhưng nhiệt độ trên máy vẫn tăng cao lên đáng kể so với Windows 10 sau khi nâng cấp lên Windows 11. Một vài người dùng khác cho biết sau khi cài đặt Windows 11, máy tính hoạt động rất nhẹ và mượt, nhưng một thời gian lại rơi vào tình trạng giật, lag, chạy chậm bất thường. Đặc biệt một số người dùng máy tính của 2 hãng HP và Dell đã báo cáo rằng sau khi họ nâng cấp máy tính lên Windows 11 thì máy tính của họ bị đột tử và không thể khởi động, nguyên nhân ban đầu được xác định là do Windows Update của Windows 11 bắt người dùng cài đặt bản cập nhật BIOS và làm hỏng BIOS của máy tính, một số người dùng khác báo cáo rằng máy tính của họ đã khởi động được trở lại sau khi để yên máy tính khoảng 15 - 20 phút. Tất cả các trường hợp trên đều rơi vào máy tính đã được Windows kiểm tra và đáp ứng các yêu cầu phần cứng cho bản cập nhật Windows 11. Windows 11 hiện tại vẫn còn tồn tại nhiều lỗi chưa được khám phá và Microsoft đang trong quá trình lên kế hoạch sửa hết tất cả những lỗi tồn đọng thông qua bản cập nhật lớn Sun Valley 2. Nhiều người dùng cho rằng Windows 11 sẽ tiếp tục dính lời nguyền vòng lặp thất bại của Microsoft, sẽ trở thành phiên bản Windows 8 thứ hai. Lời nguyền được ví như rằng có 1 bản Windows thành công và được người dùng đón nhận thì sẽ nối tiếp là 1 phiên bản Windows thất bại và không được người dùng ưa chuộng.
{ "split": 7, "title": "Windows 11", "token_count": 735 }
22,665
Title: Windows Clock Windows Clock (ban đầu có tên là Clock & Alarms trên Pocket PC 2000 và Alarms trên Windows 8.1) là một ứng dụng quản lý thời gian được đi kèm với Windows và Windows 10 Mobile với 4 tính năng chính: báo thức, đồng hồ thế giới, đồng hồ đếm ngược và đồng hồ đếm giờ. Các tính năng đều được liệt kê ở dải menu phía trên. Ứng dụng này có chức năng và thiết kế tương tự như ứng dụng Clock trên iOS. Alarms & Clock đã có mặt trên các thiết bị di động trong hơn một thập kỷ trước khi nó được đưa lên máy tính cá nhân với việc giới thiệu Windows 8.1. Các ô xếp cho báo thức, đồng hồ đếm ngược và đếm giờ có thể được ghim vào Menu Start. Phiên bản mới nhất của ứng dụng sử dụng API Universal Windows Platform và sử dụng cài đặt hệ thống cho chủ đề sáng hoặc tối. Alarms & Clock không được tích hợp với đồng hồ trên thanh tác vụ. Báo thức. Các báo thức được sắp xếp và hiển thị theo hàng dọc theo thời gian trong ngày và có thể được kích hoạt và vô hiệu bằng công tắc bật/tắt hình oval. Có thể xóa nhiều báo thức cùng một lúc bằng cách nhấp vào nút danh sách và chọn các báo thức cần xóa. Người dùng có thể tạo báo thức bằng cách nhấn vào nút có hình dấu cộng và chỉnh sửa bằng cách nhấp hoặc chạm vào chúng. Người dùng có thể thay đổi thời gian, tên, thời gian lặp lại trong tuần, âm thanh và thời gian bỏ qua báo thức. Danh sách các âm bao thức hiện tại theo thứ tự được hiển thị là Chimes, Xylophone, Chords, Tap, Jingle, Transition, Descending, Bounce, Echo, và Ascending.
{ "split": 0, "title": "Windows Clock", "token_count": 394 }
22,666
Title: Windows Clock Các báo thức được hiển thị bằng một loại thông báo toast đặc biệt dành riêng cho báo thức. Do hạn chế phần cứng, báo thức không thể luôn hiển thị trên một số thiết bị đã được tắt. Để báo thức reo khi PC tắt, PC bắt buộc phải có trang bị InstantGo. Trước bản cập nhật Windows 10 Creators Update, Alarms & Clock là ứng dụng duy nhất có thể đưa ra thông báo báo thức trong giờ yên lặng, nhưng các ứng dụng báo thức bên thứ ba chạy trên Windows 10 phiên bản 1704 về sau cũng có thể reo trong giờ yên lặng theo mặc định. Đồng hồ thế giới. Danh sách đồng hồ thế giới sẽ phát hiện vị trí của người dùng và hiển thị giờ địa phương và vị trí của người dùng trên bản đồ thế giới. Người dùng có thể tìm kiếm thêm các vị trí hiển thị trên bản đồ. Khi hiển thị thời gian ở nơi khác, tính năng Đồng hồ thế giới sẽ tính xem giờ ở đó nhanh hơn hay chậm hơn bao nhiêu so với giờ địa phương của người dùng. Cũng có thể so sánh thời gian tại những nơi khác vào một thời điểm tùy chỉnh. Khi bản đồ được thu nhỏ ở dạng dọc, thời gian sẽ được liệt kê theo hàng dọc bên dưới bản đồ thay vì ngay trên nó. Người dùng chỉ muốn mở cửa số với một đồng hồ đơn giản có thể nhập "timedate.cpl" trong Hộp thoại Run (). Đồng hồ đếm ngược. Người dùng có thể tạo và đặt tên đồng hồ đếm ngược bằng cách nhấn nút dấu cộng ở dưới, giống như báo thưc; tuy nhiên, hoàn toàn không có cách chỉnh sửa đồng hồ đếm ngược. Chỉ có thể đặt lại hoặc xóa đồng hồ đếm ngược. Có thể đặt cho nhiều đồng hồ đếm ngược chạy cùng lúc. Nút phóng to trên đồng hồ sẽ thay thế nền bằng màu chủ đề của Windows, ẩn tất cả các đồng hồ và dải menu khác, và phóng to thời gian được hiển thị. Các nút điều hướng hình mũi tên cho phép người dùng chuyển giữa các đồng hồ đếm ngược trong chế độ xem này. Đồng hồ đếm ngược sẽ đưa ra thông báo khi kết thúc. Chúng không thể được đặt lại từ phần thông báo. Đồng hồ đếm giờ.
{ "split": 1, "title": "Windows Clock", "token_count": 479 }
22,667
Title: Windows Clock Mỗi lần chỉ có thể chạy một đồng hồ đếm giờ. Một nút hình lá cờ cho phép người dùng ghi lại thời gian giữa các vòng chạy và một nút chia sẻ cho phép người dùng chia sẻ thời gian với các ứng dụng UWP khác. Giống với đồng hồ đếm ngược, đồng hồ đếm giờ cũng có một nút thay đổi kích thước làm đơn giản hóa giao diện bằng cách thay đổi nền và ẩn giá trị vòng chạy.
{ "split": 2, "title": "Windows Clock", "token_count": 99 }
22,668
Title: Windows Insider Windows Insider () là một chương trình kiểm thử phần mềm mở của Microsoft cho phép người dùng có giấy phép Windows 10,Windows 11 hoặc Windows Server 2016 hợp lệ đăng ký sử dụng các bản dựng tiền phát hành của hệ điều hành mà trước đây chỉ có các nhà phát triển phần mềm mới có thể tiếp cận. Microsoft ra mắt Windows Insider dành cho các nhà phát triển, các nhà thử nghiệm doanh nghiệp và những người dùng "kỹ thuật" thử nghiệm các tính năng mới trên các bản dựng & phần mềm tiền phát hành (không được phát hành rộng rãi), từ đó thu thập dữ liệu phản hồi nhằm xác định, kiểm tra, sửa lỗi và cải thiện cho hệ điều hành Windows 10 và Windows 11 thông qua sự hỗ trợ và hướng dẫn của những người tham gia chương trình. Họ có thể trao đổi trực tiếp với các kỹ sư của Microsoft thông qua một kênh liên lạc & chẩn đoán riêng. Chương trình được công bố ngày 30 tháng 9 năm 2014 cùng với Windows 10. Tới tháng 9 năm 2015, hơn 7 triệu người đã tham gia chương trình Windows Insider. Vào ngày 12 tháng 2 năm 2015, Microsoft bắt đầu cho phép thử nghiệm các bản xem trước của Windows 10 Mobile. Microsoft thông báo chương trình Windows Insider sẽ tiếp tục sau khi Windows 10 được phát hành chính thức để tiếp tục thử nghiệm các bản cập nhật trong tương lai. Gabriel Aul là trưởng nhóm cũ của chương trình Windows Insider. Hiện tại Dona Sarkar là trưởng bộ phận Windows Insider. Tương tự như chương trình Windows Insider, các nhóm phát triển của Microsoft Office, Bing, Xbox và Visual Studio Code cũng đã thiết lập các chương trình Insider của riêng họ. Lịch sử. Microsoft ban đầu khởi động chương trình Windows Insider cho những người dùng thử doanh nghiệp và các bên kỹ thuật để thử nghiệm các tính năng mới cho nhà phát triển và thu thập phản hồi để cải thiện các tính năng được xây dựng trên Windows 10, và cho tới thời điểm ra mắt chính thức hệ điều hành Windows 10 cho PC đã có tổng cộng 5 triệu người dùng Windows Insider đã đăng ký trên cả Windows 10 và Windows 10 Mobile và những Người dùng nội bộ này là những người được nhận bản phát hành chính thức của Windows 10 đầu tiên.
{ "split": 0, "title": "Windows Insider", "token_count": 456 }
22,669
Title: Windows Insider Với sự ra mắt của Windows 10, ứng dụng Windows Insider đã được tích hợp trong phần Cài đặt khiến nó trở thành một thành phần được tích hợp sẵn trong Windows 10, làm cho việc cài đặt các bản dựng xem trước Windows Insider trở thành một tính năng tùy chọn có thể được truy cập trực tiếp trong hệ điều hành Windows 10 mà không cần cài đặt một ứng dụng riêng biệt. Vào tháng 5 năm 2017, Microsoft thông báo chương trình sẽ được mở rộng cho Windows Server 2016. Bản dựng Insider đầu tiên cho hệ điều hành này được phát hành ngày 13 tháng 7 năm 2017. Vào ngày 28 tháng 6, Microsoft đã công bố phát hành bản dựng xem trước và SDK đầu tiên của Windows 11 cho các thành viên Windows Insider. Các cấp độ. Các bản cập nhật Windows 10 Insider Preview được đưa tới những người dùng thử nghiệm thông qua các cấp độ ("ring") khác nhau: Người dùng nội bộ Windows ở cấp độ "Fast Ring" nhận các bản cập nhật trước người dùng ở cấp độ "Slow Ring" nhưng có thể gặp nhiều lỗi và các vấn đề khác hơn. Vào tháng 2 năm 2016, Microsoft đã giới thiệu thêm các cấp độ mới cho chương trình Windows Insider. Các thiết bị được hỗ trợ. Các vi xử lý được hỗ trợ. Vào ngày 17 tháng 7 năm 2017, một số báo cáo cho thấy phiên bản Windows 10 Creators Update không thể được cài đặt trên các PC và máy tính bảng sử dụng bộ xử lý Intel Atom "Clover Trail". Ban đầu, người ta cho rằng Microsoft và các đối tác phần cứng đã tạm thời chặn cài đặt để sửa lỗi khiến hệ điều hành hoạt động không ổn định. Tuy nhiên sau đó, Microsoft xác nhận các thiết bị chạy bộ vi xử lý "Clover Trail" Intel Atom sẽ không được nhận bản cập nhật Creators Update, do vi xử lý này không còn được Intel hỗ trợ và không có firmware phù hợp để chạy các phiên bản Windows 10 mới hơn bản cập nhật Anniversary Update. Các bộ vi xử lý sau không còn được hỗ trợ và sẽ chỉ được cập nhật tới bản Windows 10 Anniversary Update: Vì các PC chạy những bộ xử lý này không thể nhận các bản cập nhật tính năng mới, Microsoft đã đồng ý kéo dài thời gian hỗ trợ cho các PC này với các bản cập nhật sửa lỗi và vá bảo mật cho phiên bản tương thích mới nhất của Windows 10.
{ "split": 1, "title": "Windows Insider", "token_count": 494 }
22,670
Title: Windows Insider Các phiên bản Windows 10 được phát hành trước thời điểm ra mắt một bộ vi xử lý cũng không được hỗ trợ và có thể sẽ không thể cài đặt trên các máy tính chạy bộ vi xử lý đó. Ví dụ, Windows 10 phiên bản 1507 LTSB sẽ không chạy trên bộ vi xử lý Kaby Lake. Các thiết bị di động được hỗ trợ. Microsoft ban đầu phát hành các bản Windows 10 Insider Preview (trước đó là Windows 10 Technical Preview) cho các điện thoại Lumia cụ thể và dần dần ra mắt cho nhiều thiết bị hơn trong suốt giai đoạn thử nghiệm. Sau khi nhiều người dùng Windows Insider chỉnh sửa số model được hiển thị trên điện thoại của họ và tải các bản xem trước kỹ thuật của Windows 10 trên các thiết bị không được hỗ trợ, Microsoft đã đáp lại bằng việc chặn các bản xem trước cho tất cả các mẫu không được hỗ trợ. Để quay lại phiên bản Windows Phone 8.1, Microsoft đã phát hành công cụ Windows Phone Recovery Tool gỡ bỏ Windows 10 và khôi phục lại bản phần mềm và firmware được ra mắt chính thức mới nhất. Bản xem trước 10080, ra mắt ngày 14 tháng 5 năm 2015, là bản dựng đầu tiên hỗ trợ thiết bị không phải Lumia, chiếc HTC One M8 for Windows. Sau đó Xiaomi, công ty đang hợp tác với Microsoft, phát hành bản ROM của Windows 10 tới chiếc Mi 4 vào 1 tháng 6 năm 2015. Bản ROM này lúc đó chỉ được phát hành cho một số người dùng tại Trung Quốc. Bản 10080 và 10166 cũng hỗ trợ thêm các thiết bị Lumia thế hệ thứ tư (dòng x40); vì vậy, tất cả các điện thoại Lumia Windows Phone 8 và về sau đã hỗ trợ bản xem trước.
{ "split": 2, "title": "Windows Insider", "token_count": 355 }
22,671
Title: Windows Insider Vào tháng 8 năm 2015, Microsoft thông báo dù tất cả thiết bị Windows Phone, bao gồm các thiết bị từ các đối tác phần cứng mới của Microsoft đã được giới thiệu vào năm trước sẽ được cập nhật bản Windows 10 Mobile chính thức, không phải tất cả sẽ nhận các bản xem trước qua chương trình Insider. Tuy nhiên, lúc đó họ không cung cấp thêm thông tin nào về việc thêm các thiết bị mới vào chương trình, dấu hiệu của việc Windows 10 Mobile chưa đi vào giai đoạn hoàn thiện. Microsoft thay vào đó tập trung vào các thiết bị được cài đặt sẵn Windows 10 Mobile, bao gồm 2 chiếc điện thoại cao cấp Lumia 950 và Lumia 950 XL, và 2 chiếc điện thoại giá rẻ Lumia 550 và Lumia 650. Sau đó, các thiết bị Windows 10 mới này cũng bắt đầu nhận các bản xem trước qua chương trình Insider, bắt đầu từ bản 10586 vào ngày 4 tháng 12 năm 2015. Chiếc LG Lancet phiên bản Windows Phone cũng nhận bản cập nhật này nhưng không còn được cập nhật sau đó nữa. Ngày 19 tháng 2 năm 2016, Microsoft ra mắt bản xem trước Windows 10 Mobile "Redstone" đầu tiên, bản 14267. Từ bản dựng này, các bản xem trước sau này sẽ chỉ dành cho các thiết bị đã đang chạy phiên bản không qua chương trình Insider, ngoại trừ bản ROM cho Mi4. Tiếp tục sau đó, bản 14291 được phát hành cho các thiết bị Windows 10 sẵn có vào 17 tháng 3 năm 2016 cùng với phiên bản RTM của Windows 10 Mobile cho các điện thoại Lumia thế hệ thứ ba và thứ tư. Trong tuần kế tiếp, nó tiếp tục được phát hành cho các thiết bị Lumia cũ hơn vừa nhận bản Windows 10 Mobile chính thức ngoài các thiết bị đã được cài đặt Windows 10 Mobile trước đó.
{ "split": 3, "title": "Windows Insider", "token_count": 364 }
22,672
Title: Windows Insider Bản dựng xem trước Insider cuối cùng dành cho các thiết bị được hỗ trợ là bản dựng 15063, tức bản cập nhật "Creators Update", phát hành ngày 20 tháng 3 năm 2017. Trong đó đã bao gồm bản phát hành chính thức bản cập nhật "Anniversary Update" mang số hiệu 14393 vào ngày 2 tháng 8 năm 2016. Tuy nhiên, vào tháng 4 năm 2017, Microsoft thông báo nhiều thiết bị, bao gồm toàn bộ các thiết bị Lumia thế hệ thứ ba, sẽ không nhận được phiên bản RTM của bản cập nhật Creators Update và các bản dựng phát triển mang tên mã "Redstone" trong tương lai, dựa theo những phản hồi từ người dùng. Trong số các thiết bị còn được hỗ trợ, gần như tất cả, chỉ trừ Lumia 640 và Lumia 640 XL, được cài đặt sẵn Windows 10 Mobile thay vì Windows Phone 8.1.
{ "split": 4, "title": "Windows Insider", "token_count": 182 }
22,673
Title: Windows Registry Windows Registry (viế́t tắt là Regedit) là một cơ sở dữ liệu phân cấp lưu trữ các cài đặt cấp thấp cho hệ điều hành Microsoft Windows và cho các ứng dụng chọn sử dụng sổ đăng ký. Các hạt nhân, trình điều khiển thiết bị, dịch vụ, Security Accounts Manager, và giao diện người dùng đều có thể sử dụng registry. Windows registry cũng cho phép truy cập vào các bộ đếm để định hình hiệu năng hệ thống. Nói một cách đơn giản, registry hoặc Windows Registry chứa thông tin, cài đặt, tùy chọn và các giá trị khác cho các chương trình và phần cứng được cài đặt trên tất cả các phiên bản hệ điều hành Microsoft Windows. Ví dụ: khi chương trình được cài đặt, một khóa con mới chứa các cài đặt như vị trí của chương trình, phiên bản của chương trình và cách khởi động chương trình, tất cả đều được thêm vào Windows Registry. Khi được giới thiệu với Windows 3.1, Windows Registry chủ yếu lưu trữ thông tin cấu hình cho các thành phần dựa trên COM. Windows 95 và Windows NT đã mở rộng việc sử dụng để hợp lý hóa và tập trung hóa thông tin trong việc truyền file INI, giữ cấu hình cho các chương trình riêng lẻ và được lưu trữ tại nhiều vị trí khác nhau. Các ứng dụng Windows không yêu cầu sử dụng Windows Registry. Ví dụ, . Các ứng dụng NET Framework sử dụng các tệp XML để cấu hình, trong khi các ứng dụng di động thường giữ các tệp cấu hình của chúng với các tệp thực thi của chúng. Cơ sở lý luận.
{ "split": 0, "title": "Windows Registry", "token_count": 336 }
22,674
Title: Windows Registry Trước Windows Registry, các tệp codice_1 được lưu trữ các cài đặt của mỗi chương trình dưới dạng tệp văn bản, thường nằm ở vị trí được chia sẻ không cung cấp cài đặt dành riêng cho người dùng trong kịch bản nhiều người dùng. Ngược lại, Windows Registry lưu trữ tất cả các cài đặt ứng dụng trong một kho lưu trữ logic (nhưng một số tệp riêng biệt) và ở dạng chuẩn. Theo Microsoft, điều này cung cấp một số lợi thế hơn tập tin codice_1. Vì phân tích tệp được thực hiện hiệu quả hơn nhiều với định dạng nhị phân, nên nó có thể được đọc từ hoặc ghi đến nhanh hơn tệp INI. Hơn nữa, dữ liệu kiểu mạnh có thể được lưu trữ trong sổ đăng ký, trái ngược với thông tin văn bản được lưu trữ trong. Tập tin INI. Đây là một lợi ích khi chỉnh sửa khóa theo cách thủ công bằng codice_3, Windows Registry Editor tích hợp. Vì cài đặt đăng ký dựa trên người dùng được tải từ đường dẫn dành riêng cho người dùng thay vì từ vị trí hệ thống chỉ đọc, nên sổ đăng ký cho phép nhiều người dùng chia sẻ cùng một máy và cũng cho phép các chương trình hoạt động cho người dùng ít đặc quyền hơn. Sao lưu và khôi phục cũng được đơn giản hóa vì có thể truy cập sổ đăng ký qua kết nối mạng để quản lý / hỗ trợ từ xa, bao gồm từ các tập lệnh, sử dụng bộ API tiêu chuẩn, miễn là dịch vụ Remote Registry đang chạy và quy tắc tường lửa cho phép điều này.
{ "split": 1, "title": "Windows Registry", "token_count": 329 }
22,675
Title: Windows Registry Bởi vì registry là một cơ sở dữ liệu, nó cung cấp tính toàn vẹn của hệ thống được cải thiện với các tính năng như cập nhật nguyên tử. Nếu hai quy trình cố gắng cập nhật cùng một giá trị đăng ký cùng một lúc, một thay đổi của quy trình sẽ đi trước quy trình khác và tính nhất quán chung của dữ liệu sẽ được duy trì. Trường hợp thay đổi được thực hiện tới các tệp INI, các cuộc đua cập nhật như vậy có thể dẫn đến dữ liệu không nhất quán không khớp với cập nhật của cả hai. Windows Vista và các hệ điều hành mới hơn cung cấp các bản cập nhật giao dịch cho cơ quan đăng ký bằng Trình quản lý giao dịch hạt nhân, mở rộng bảo đảm nguyên tử qua nhiều thay đổi chính và/hoặc giá trị, với ngữ nghĩa hủy bỏ cam kết truyền thống. (Tuy nhiên, lưu ý rằng NTFS cũng cung cấp hỗ trợ như vậy cho hệ thống tệp, do đó, về mặt lý thuyết, các bảo đảm tương tự có thể có được với các tệp cấu hình truyền thống.) Cấu trúc. Khóa và giá trị. Sổ đăng ký chứa hai yếu tố cơ bản: khóa và giá trị. "Khóa registry" là các đối tượng chứa tương tự như các thư mục. "Giá trị" registry là các đối tượng không chứa tương tự như các tệp. Khóa có thể chứa giá trị và khóa con. Các khóa được tham chiếu với một cú pháp tương tự như tên đường dẫn của Windows, sử dụng dấu gạch chéo ngược để biểu thị mức phân cấp. Các khóa phải có tên không phân biệt chữ hoa chữ thường và không có dấu gạch chéo ngược. Hệ thống phân cấp của các khóa đăng ký chỉ có thể được truy cập từ một tay cầm khóa gốc đã biết (ẩn danh nhưng có giá trị hiệu quả là một số xử lý số không đổi) được ánh xạ tới nội dung của khóa đăng ký được tải trước bởi kernel từ "hive" được lưu trữ hoặc đến nội dung của khóa con trong khóa gốc khác hoặc được ánh xạ tới dịch vụ đã đăng ký hoặc DLL cung cấp quyền truy cập vào các khóa con và giá trị được chứa.
{ "split": 2, "title": "Windows Registry", "token_count": 467 }
22,676
Title: Windows Registry Ví dụ HKEY_LOCAL_MACHINE \ Software \ Microsoft \ Windows dùng để chỉ khóa con "Windows" của khóa con "Microsoft" của khóa con "Phần mềm" của khóa gốc HKEY_LOCAL_MACHINE. Có bảy khóa gốc được xác định trước, được đặt tên theo truyền thống theo các thẻ điều khiển không đổi được xác định trong API Win32 hoặc bằng các chữ viết tắt đồng nghĩa (tùy thuộc vào ứng dụng): Giống như các tệp và dịch vụ khác trong Windows, tất cả các khóa registry có thể bị hạn chế bởi danh sách kiểm soát truy cập (ACL), tùy thuộc vào đặc quyền người dùng hoặc mã thông báo bảo mật mà ứng dụng có được hoặc theo chính sách bảo mật hệ thống được thi hành bởi hệ thống (những hạn chế này có thể được xác định trước bởi chính hệ thống và được cấu hình bởi quản trị viên hệ thống cục bộ hoặc bởi quản trị viên tên miền). Người dùng, chương trình, dịch vụ hoặc hệ thống từ xa khác nhau chỉ có thể thấy một số phần của cấu trúc phân cấp hoặc phân cấp khác nhau từ cùng một khóa gốc. "Giá trị" registry là các cặp tên / dữ liệu được lưu trữ trong các khóa. Giá trị registry được tham chiếu riêng từ khóa đăng ký. Mỗi giá trị registry được lưu trữ trong khóa đăng ký có một tên duy nhất có trường hợp chữ cái không đáng kể. Các hàm Windows API truy vấn và thao tác các giá trị registry lấy các tên giá trị riêng biệt với đường dẫn khóa và/hoặc xử lý xác định khóa cha. Các giá trị registry có thể chứa dấu gạch chéo ngược trong tên của chúng, nhưng làm như vậy khiến chúng khó phân biệt với các đường dẫn chính khi sử dụng một số chức năng Windows Registry API cũ (việc sử dụng bị phản đối trong Win32).
{ "split": 3, "title": "Windows Registry", "token_count": 405 }
22,677
Title: Windows Registry Thuật ngữ này hơi sai lệch, vì mỗi khóa registry tương tự như một mảng kết hợp, trong đó thuật ngữ tiêu chuẩn sẽ đề cập đến phần tên của mỗi giá trị đăng ký là "khóa". Các thuật ngữ này được lưu giữ từ registry 16 bit trong Windows 3, trong đó các khóa registry không thể chứa các cặp tên/dữ liệu tùy ý, mà chỉ chứa một giá trị không tên (phải là một chuỗi). Theo nghĩa này, registry Windows 3 giống như một mảng kết hợp duy nhất, trong đó các khóa (theo nghĩa của cả 'khóa đăng ký' và 'khóa mảng liên kết') đã tạo thành một hệ thống phân cấp và các giá trị đăng ký là tất cả các chuỗi. Khi registry 32 bit được tạo, khả năng bổ sung của việc tạo nhiều giá trị được đặt tên cho mỗi khóa cũng như vậy và ý nghĩa của các tên có phần bị bóp méo. Để tương thích với hành vi trước đó, mỗi khóa registry có thể có giá trị "mặc định", có tên là chuỗi trống. Mỗi giá trị có thể lưu trữ dữ liệu tùy ý với độ dài và mã hóa thay đổi, nhưng được liên kết với một loại ký hiệu (được xác định là hằng số) xác định cách phân tích dữ liệu này. Các loại tiêu chuẩn là: Khóa gốc. Các khóa ở cấp gốc của cơ sở dữ liệu phân cấp thường được đặt tên theo định nghĩa API Windows của chúng, tất cả đều bắt đầu bằng "HKEY". Chúng thường được viết tắt thành một tên ngắn ba hoặc bốn chữ cái bắt đầu bằng "HK" (ví dụ: HKCU và HKLM). Về mặt kỹ thuật, chúng là các thẻ điều khiển được xác định trước (với các giá trị không đổi đã biết) cho các khóa cụ thể được duy trì trong bộ nhớ hoặc được lưu trữ trong các tệp trung tâm được lưu trữ trong hệ thống tệp cục bộ và được nạp bởi nhân hệ thống khi khởi động và sau đó được chia sẻ (với các quyền truy cập khác nhau) giữa tất cả các quy trình đang chạy trên hệ thống cục bộ, hoặc được tải và ánh xạ trong tất cả các quy trình bắt đầu trong phiên người dùng khi người dùng đăng nhập vào hệ thống.
{ "split": 4, "title": "Windows Registry", "token_count": 484 }
22,678
Title: Windows Registry Các khóa HKEY_LOCAL_MACHINE (dữ liệu cấu hình dành riêng cho máy cục bộ) và các khóa HKEY_CURRENT_USER (dữ liệu cấu hình dành riêng cho người dùng) có cấu trúc tương tự nhau; các ứng dụng người dùng thường tìm kiếm cài đặt của họ bằng cách kiểm tra đầu tiên chúng trong "HKEY_CURRENT_USER \ Software \ Vendor name \ Application's \ \ \ . Tuy nhiên, điều ngược lại có thể áp dụng cho các cài đặt chính sách do quản trị viên thực thi trong đó HKLM có thể được ưu tiên hơn HKCU. Chương trình Logo Windows có các yêu cầu cụ thể về nơi có thể lưu trữ các loại dữ liệu người dùng khác nhau và phải tuân theo khái niệm đặc quyền tối thiểu để không cần truy cập cấp quản trị viên để sử dụng ứng dụng. HKEY_LOCAL_MACHINE (HKLM). HKLM, HKEY_LOCAL_MACHINE viết tắt các cài đặt dành riêng cho máy tính cục bộ. Khóa được định vị bởi HKLM thực tế không được lưu trữ trên đĩa, nhưng được duy trì trong bộ nhớ bởi nhân hệ thống để ánh xạ cho tất cả các khóa con khác. Các ứng dụng không thể tạo thêm bất kỳ khóa con nào. Trên Windows NT, khóa này chứa bốn khóa con, "SAM", "SECURITY", "SYSTEM" và "SOFTWARE", được tải vào lúc khởi động trong các tệp tương ứng của chúng nằm trong thư mục%SystemRoot%\System32\config. Một khóa con thứ năm, "HARDWARE", không ổn định và được tạo ra một cách linh hoạt, và như vậy không được lưu trữ trong một tệp (nó hiển thị chế độ xem của tất cả các thiết bị Plug-and-Play hiện được phát hiện). Trên Windows Vista trở lên, một khóa con thứ sáu và thứ bảy, "COMPONENTS" và "BCD", được ánh xạ vào bộ nhớ theo kernel theo yêu cầu và được tải từ% SystemRoot%\system32\config\COMPONENTS hoặc từ dữ liệu cấu hình khởi động, \boot\BCD trên phân vùng hệ thống.
{ "split": 5, "title": "Windows Registry", "token_count": 482 }
22,679
Title: Windtalkers Windtalkers (tựa tiếng Việt: Những người đọc mã) là một bộ phim chiến tranh - hành động Mỹ của đạo diễn Ngô Vũ Sâm (John Woo) thực hiện. Phim được công chiếu vào năm 2002, có sự tham gia của nam diễn viên gạo cội Nicolas Cage cùng với Adam Beach, Christian Slater, Roger Willie và Peter Stormare. Câu khẩu hiệu của bộ phim là "The Navajo Has the Code. Protect the Code at All Costs" (dịch tiếng Việt: "Bộ tộc Navajo có mật mã. Bảo vệ mật mã bằng mọi giá"). Nội dung. Năm 1944, ở mặt trận Thái Bình Dương trong Thế chiến thứ hai, quân đội Mỹ rất đau đầu khi những thông tin họ truyền cho nhau đều bị quân Nhật giải mã thành công, gây ra thương vong lớn cho quân Mỹ. Cuối cùng, quân Mỹ quyết định sử dụng ngôn ngữ của bộ tộc da đỏ Navajo trên cao nguyên Arizona, vì người Nhật chưa từng biết đến sự tồn tại của bộ tộc này. Những người đàn ông Navajo bắt đầu tham gia quân đội Mỹ, họ được đào tạo thành lính điện đài, trong đó có đôi bạn thân Ben Yahzee và Charlie Whitehorse.
{ "split": 0, "title": "Windtalkers", "token_count": 260 }
22,680
Title: Windtalkers Ngày tấn công hòn đảo Saipan đã cận kề, hai Trung sĩ Joe Enders và Pete "Ox" Henderson được cấp trên ra lệnh bảo vệ Yahzee và Whitehorse, họ không được để hai chàng da đỏ bị quân Nhật bắt trong tình trạng còn sống. Vài ngày sau, quân Mỹ đổ bộ vào đảo Saipan, họ bị pháo binh Nhật bắn trả dữ dội. Khi tất cả mọi người đều hăng say bắn giết thì Yahzee lại không hề xả súng về phía quân Nhật, anh hơi nhút nhát do lần đầu ra chiến trường. Yahzee và Whitehorse lấy điện đài gọi các tàu chiến ngoài biển bắn vào các đội pháo binh Nhật, từ đó quân Mỹ chiếm được bờ biển. Quân Mỹ tiến sâu vào hòn đảo, trên đường đi họ bị bắn nhầm bởi pháo binh Mỹ, lúc đó lính Nhật cũng đang tràn lên, điện đài thì bị hỏng. Enders và Yahzee nghĩ ra cách để Yahzee cải trang thành lính Nhật, còn Enders giả vờ làm tù binh. Hai người đi đến chỗ quân Nhật, giết vài tên lính Nhật rồi cướp điện đài của chúng gọi pháo binh Mỹ đổi hướng bắn về phía quân Nhật. Cả trung đội rất nể phục trí thông minh cũng như lòng can đảm của Enders và Yahzee. Buổi tối, Enders và Yahzee uống rượu với nhau. Enders chia sẻ rằng trước đây anh cùng một số đồng đội khác từng nhận lệnh phòng thủ khu đầm lầy ở đảo Guadalcanal, anh là người duy nhất sống sót sau trận đánh, nhưng hình ảnh nhóm đồng đội tử trận cứ luôn ám ảnh trong đầu anh. Ngày hôm sau, quân Mỹ tìm thấy một ngôi làng chỉ toàn phụ nữ và trẻ em, dân trong làng rất thân thiện chứ không xem họ là kẻ thù. Quân Nhật bất ngờ tấn công ngôi làng, lính Mỹ tập hợp lại để chiến đấu. Một nhóm lính Nhật giết Ox rồi cố gắng bắt giữ Whitehorse vì chúng biết anh là người Navajo, Enders thấy thế nên ném lựu đạn giết hết nhóm lính Nhật lẫn Whitehorse. Khi trận đánh kết thúc, Yahzee vô cùng giận Enders vì đã làm chết người bạn thân của mình.
{ "split": 1, "title": "Windtalkers", "token_count": 490 }
22,681
Title: Windtalkers Quân đội Mỹ tiếp tục tiến sâu vào đảo Saipan, đoàn xe tăng - thiết giáp Mỹ bị phục kích bởi các đơn vị pháo binh Nhật trên đồi, còn đội của Enders phải chạm trán quân lính cảm tử. Yahzee bắn giết điên cuồng như muốn trả thù cho Whitehorse, hành động của anh khiến Enders cũng như cả đội ngạc nhiên. Yahzee gọi máy bay đến hỗ trợ, sau đó anh nhìn thấy lính Nhật xông lên ồ ạt nên bảo Enders bắn mình để không bị lính Nhật bắt. Tuy nhiên Enders đã cõng Yahzee chạy đến chỗ an toàn chứ không giết anh, và Enders không may bị trúng đạn ngay ngực. Một lát sau, máy bay đến thả bom vào pháo binh Nhật trên đồi, cứu mạng lực lượng thiết giáp Mỹ. Trước khi chết, Enders cho Yahzee biết rằng anh giết Whitehorse cũng vì mệnh lệnh cấp trên giao. Khi chiến tranh kết thúc, Yahzee trở về Arizona và cầu nguyện cho linh hồn Enders theo phong tục Navajo để tỏ lòng biết ơn người đã bảo vệ mình ngoài chiến trường.
{ "split": 2, "title": "Windtalkers", "token_count": 248 }
22,682
Title: WingStreet WingStreet là một chuỗi nhà hàng của Mỹ chuyên về các món gà. Chuỗi nhà hàng thuộc sở hữu của Yum! Brands, công ty cũng sở hữu các thương hiệu chị em Taco Bell, Pizza Hut và KFC. Tính đến tháng 3 năm 2014, WingStreet có gần 5.000 địa điểm ở Mỹ và Canada. Họ luôn đồng hành cùng Pizza Hut. Lịch sử. Năm 2003, Yum! ra mắt WingStreet như một sự kết hợp kết hợp với việc nhượng quyền các cửa hàng Pizza Hut hiện có. Năm 2007, Pizza Hut/WingStreet mở nhà hàng thứ 1.000 của họ. Trong các năm 2007 và 2008, có hơn 1000 cửa hàng WingStreet được mở mỗi năm. Vào ngày 19 tháng 10 năm 2009, chủ tịch công ty Scott Bergren đã công bố sự ra mắt trên toàn quốc của WingStreet. Chuỗi nhà hàng được dự đoán có tăng trưởng mạnh mẽ, và điều đó được thể hiện bằng việc có thêm hơn 4.000 địa điểm được mở mới vào năm 2010. Năm 2012, Pizza Hut đã mở một cửa hàng thí điểm độc lập ở Denton, Texas. Cửa hàng đã không thành công trong việc thu tiền bán hàng và đóng cửa vào năm sau đó. Cánh gà. Các nhà hàng WingStreet bán cánh gà tẩm bột theo công thức truyền thống để mang đi và giao hàng tận nơi theo yêu cầu. Nước sốt dùng kèm với cánh gà bao gồm các chủng loại như Teriyaki, Tỏi cay, BBQ mật ong, Parmesan tỏi và Buffalo (Nhẹ, Trung bình và Nóng), cũng như cajun và chà bông tiêu chanh. Họ cũng cung cấp các món cánh gà phiên bản "Naked" không có nước sốt. Ngoài cánh gà, nhà hàng thường cung cấp thêm các món phụ ăn kèm như phô mai que chiên, gà xé, bánh táo, khoai tây chiên (kiểu Ranch hoặc Cajun) và khoai tây chiên kiểu Pháp. Hơn nữa, một số địa điểm nhất định có thể cung cấp khoai tây chiên, jalapeno poppers và hành tây.
{ "split": 0, "title": "WingStreet", "token_count": 458 }
22,683
Title: Witold Dederko Witold Dederko (sinh ngày 26 tháng 3 năm 1906 tại Siedlce, mất ngày 10 tháng 9 năm 1988 tại Warszawa) là phóng viên-nhiếp ảnh gia, giáo viên và diễn viên điện ảnh người Ba Lan. Tiểu sử. Trong những năm 1920, Witold Dederko có mối liên hệ với Hội những người yêu nhiếp ảnh Ba Lan. Từ năm 1929 ông làm việc tại Cơ quan Điện tín Ba Lan, từ năm 1931 ông là thành viên của Câu lạc bộ ảnh Ba Lan , từ năm 1935 ông là khoa trưởng phòng thí nghiệm Kodak ở Warszawa. Trong những năm 1938–1939, ông là thành viên của Câu lạc bộ Ảnh Warsaw . Từ năm 1956, ông là thành viên của Hội đồng Nhiếp ảnh Ba Lan. Witold Dederko là tác giả của 12 cuốn sách về lĩnh vực nhiếp ảnh. Ông là giảng viên tại Trường Điện ảnh Quốc gia và Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh Bang Leon Schiller tại Łódź. Khi qua đời, thi hài được chôn cất tại Nghĩa trang Quân đội Powązki tại Warsaw (khu 17A-7-7) . Đời tư. Ông là con trai của nghệ sĩ nhiếp ảnh gia Marian Dederka. Các tác phẩm. Witold Dederko là tác giả của cuốn sách "Phong cách chụp ảnh Druhem: hướng dẫn dành cho các nhiếp ảnh gia nghiệp dư trẻ tuổi nhất" "(Jak fotografować Druhem: poradnik dla najmłodszych fotoamatorów)." Cuốn sách hướng dẫn về cách sử dụng máy ảnh này và cung cấp kiến thức chung nhất về nhiếp ảnh. Năm 2006, Polskie Wydawnictwo Fotograficzne đã xuất bản "Chiếu sáng trong nhiếp ảnh" ("Oświetlenia w fotografii"), có tựa đề "Sáng và bóng trong nhiếp ảnh" ("Światło i cień w fotografii"). Năm 2007 xuất bản "Vật thể thực và Hình ảnh của nó". Năm 2009, nhà xuất bản cho ra quyển sách "Nghệ thuật Nhiếp ảnh" </ref name="kbn"> bổ sung các bức ảnh của Witold Dederka. Năm 2017 nhà xuất bản ra mắt sách tựa đề "Những yếu tố"... "Sáng tác trong nhiếp ảnh" () và ấn bản tiếp theo của sách "Sáng và bóng trong nhiếp ảnh" ().
{ "split": 0, "title": "Witold Dederko", "token_count": 501 }
22,684
Title: Witold Dederko Ông đóng nhiều tập phim và tham gia vai phụ với tư cách là diễn viên không chuyên. Phim ảnh. Nguồn:
{ "split": 1, "title": "Witold Dederko", "token_count": 32 }
22,685
Title: Witold Wojtkiewicz Witold Wojtkiewicz (sinh ngày 29 tháng 12 năm 1879 tại Warsaw – mất ngày 14 tháng 6 năm 1909 tại Warsaw) là một họa sĩ, họa sĩ minh họa, họa sĩ thiết kế và in ấn người Ba Lan. Dù ông thường được xem là một họa sĩ theo chủ nghĩa biểu hiện, một số tác phẩm của ông là tiền thân của chủ nghĩa siêu thực. Tiểu sử. Witold Wojtkiewicz xuất thân trong một gia đình có mười một người con. Cha ông làm thủ quỹ trưởng của Ngân hàng Handlowy và không ủng hộ mơ ước trở thành họa sĩ của ông. Tuy nhiên, ông vẫn theo học Trường hội họa Warsaw, làm học trò của Jan Kauzik. Sau một thời gian ngắn cố gắng theo học tại Học viện Nghệ thuật Hoàng gia, Witold Wojtkiewicz tiếp tục học tại Học viện Mỹ thuật Kraków từ năm 1903 đến năm 1904, làm học trò của Leon Wyczółkowski. Ông trang trải cuộc sống bằng công việc vẽ minh họa cho tạp chí châm biếm "Liberum Veto". Năm 1905, Witold Wojtkiewicz là nhân chứng của cuộc Khởi nghĩa Warsaw và đã vẽ một số bản phác thảo được lưu truyền rộng rãi về sự kiện này. Cuối năm đó, ông trở thành thành viên của "Grupa Pięciu" (Group of Five), cùng nhóm với Leopold Gottlieb, Wlastimil Hofman, và Jan Rembowski. Năm 1908, ông gia nhập Hội Nghệ sĩ Ba Lan "Sztuka" và bắt đầu triển lãm tác phẩm tranh của mình khắp Ba Lan và Áo. Witold Wojtkiewicz từng hợp tác với các thành viên của cabaret Zielony Balonik để vẽ ra những bức tranh màu nước hiện vẫn có thể được chiêm ngưỡng tại quán cà phê Jama Michalika. Ông cũng vẽ minh họa cho các tác phẩm của bạn ông là nhà văn . Ngoài ra, ông còn vẽ họa tiết và chữ cái mạ vàng cho nhiều sách và bưu thiếp. Tại một triển lãm ở Berlin vào năm 1906, Witold Wojtkiewicz thu hút sự chú ý của André Gide. Năm 1907, André Gide đã tổ chức cho ông một triển lãm tại ở Paris.
{ "split": 0, "title": "Witold Wojtkiewicz", "token_count": 462 }
22,686
Title: Witold Wojtkiewicz Witold Wojtkiewicz mắc bệnh tim bẩm sinh không thể chữa được nên qua đời ở tuổi 29. Theo yêu cầu của mẹ ông, cuốn nhật ký của ông được đặt chung trong quan tài cùng với hài cốt của ông. Một cuộc truy điệu lớn đã được tổ chức tại Bảo tàng Quốc gia, Kraków vào năm 1976.
{ "split": 1, "title": "Witold Wojtkiewicz", "token_count": 75 }
22,687
Title: Wittstock Wittstock là một thị xã ở huyện Ostprignitz-Ruppin, tây bắc bang Brandenburg, Đức. Đô thị Wittstock có diện tích 417,2 km², dân số thời điểm 31 tháng 12 năm 2006 là 15.907 người. Đô thị này nằm bên sông Dosse, 20 km về phía đông Pritzwalk, và 95 km về phía tây bắc Berlin. Năm 1636, đây là nơi xảy ra trận Wittstock giữa Thụy Điển là một liên minh giữa Đế quốc La Mã Thần thánh và Sachsen. Công trình nổi bật của thị xã là một tòa thánh đường Trung cổ. Các khu vực dân củ của Wittstock/Dosse:
{ "split": 0, "title": "Wittstock", "token_count": 152 }
22,688
Title: Wizz Air Wizz Air Hungary Airlines Ltd (tiếng Hungary:. Wizz Air Hungary Légiközlekedési Kft) là một hãng hàng không giá rẻ Hungary có trụ sở chính trong Liszt Ferenc Budapest tại Budapest. Hãng hàng không thường sử dụng các sân bay thứ cấp phục vụ nhiều thành phố trên khắp châu Âu, và Azerbaijan, Ai Cập, Israel, Thổ Nhĩ Kỳ và Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất Hãng này có đội tàu bay lớn nhất trong các hãng hàng không Hungary mặc dù hãng không phải là một hãng hàng không quốc gia. Wizz Air hiện đang phục vụ 35 quốc gia.. Lịch sử. Hãng được thành lập vào tháng 9 năm 2003. Nhà đầu tư chính là Indigo Partners, một công ty cổ phần tư nhân Mỹ chuyên đầu tư giao thông vận tải. Chuyến bay đầu tiên đã được thực hiện từ Katowice ngày 19 tháng 5 năm 2004, 19 ngày sau khi Ba Lan và Hungary vào Liên minh châu Âu và thị trường hàng không châu Âu đơn nhất. Hãng hàng không đã vận chuyển 250.000 hành khách trong 3,5 tháng đầu tiên của nó, và gần 1,4 triệu hành khách trong năm đầu tiên hoạt động. Trong năm 2007, Wizz Air vận chuyển 2,9 triệu hành khách trên các tuyến bay Ba Lan của mình. Giám đốc điều hành và chủ tịch của hãng hàng không này là József Váradi, cựu CEO của Malév Hungarian Airlines. Công ty được đăng ký trong hạt Pest (Hungary) với các công ty con hoạt động ở Ba Lan, Hungary và Bulgaria. Wizz Air Bulgaria được thành lập vào tháng 9 năm 2005. Váradi giành được giải thưởng của 'Brave Innovator "Ernst & Young năm 2007. Trong năm 2011, Wizz Air vận chuyển 11 triệu hành khách (hơn 15% so với năm 2010), trong đó có 4,2 triệu hành khách trên các tuyến bay Ba Lan (chỉ hơn 2% so với năm 2010). Gần đây Wizz mở căn cứ mới ở Bosnia-Herzegovina, Bulgaria, Cộng hòa Séc, Latvia, Litva, Macedonia, Romania và Serbia. Tuy nhiên, Ba Lan vẫn là thị trường vốn lớn nhất cho Wizz Air. Điểm đến. Wizz Air thích hạ cánh tại sân bay nhỏ hoặc thứ cấp để giảm chi phí và lệ phí.
{ "split": 0, "title": "Wizz Air", "token_count": 476 }
22,689
Title: Wizz Air Wizz Air bắt đầu dịch vụ bay mới giữa Katowice và sân bay London Gatwick vào năm 2008. Bay mùa đông từ Warsaw là Milan Bergamo và Grenoble. Vào tháng 1 năm 2008, chuyến bay bắt đầu từ Gdansk đến Gothenburg, Bournemouth và Coventry. Đội bay. Tính đến tháng 1/2022:
{ "split": 1, "title": "Wizz Air", "token_count": 77 }
22,690
Title: Wolverhampton Wanderers F.C. Women Wolverhampton Wanderers Women's Football Club, còn được gọi là Wolves Women, là một đội bóng đá nữ có trụ sở tại Anh có liên kết với câu lạc bộ Wolverhampton Wanderers - một đội bóng đang thi đấu tại Premier League. Wolves Women hiện đang thi đấu ở FA Women's National League North. Lịch sử. Đội bóng bắt đầu hoạt động vào năm 1975 dưới tên Heathfield Rovers. Rồi đổi tên thành Wolverhampton & Wednesbury Tube LFC vào mùa giải sau đó, họ sau đó tiếp tục đổi sang cái tên Wolverhampton Ladies. Chỉ ngay trước mùa giải 1993-93, đội bóng có được sự cho phép của Wolverhampton Wanderers để thi đấu dưới tên Wolverhampton Wanderers Women's Football Club và họ được thăng hạng lên FA Women's Premier League National Division cũng vào mùa giải đó. Tuy nhiên, chỉ hai mùa giải sau đó họ đã phải xuống chơi tại Northern Division. Rachel Unitt được đôn lên từ hệ thống đào tạo trẻ của đội và ghi 12 bàn trong mùa giải 1999-00, trước khi chuyển tới Everton mùa giải sau đó. Tháng 5 năm 2001, Dennis Mortimer được bổ nhiệm làm huấn luyện viên. Ông đưa đội vào cuộc chiến giành tấm vé thăng hạng trong ba mùa giải đương nhiệm trước khi rời đi vào năm 2004. Mùa giải 2004-05, Wolves Women về đích ở vị trí Á quân, sau Sunderland nhưng hai cầu thủ quan trọng Emily Westwood và Amy McCann đã rời đội để chuyển tới Everton vào mùa hè, Wolves Women chỉ về đích thứ sáu trong mùa giải 2005-06. Wolves Women phải xuống chơi tại Midland Combination sau khi chỉ về đích thứ 11 trong mùa 2006-07. Tháng 5 năm 2008, đội bóng được gia cố sau khi liên kết hoàn toàn với Wolverhampton Wanderers và trở thành đối tác của Wolverhampton College. Vào ngày 19 tháng 4 năm 2012, Wolves Women lên ngôi vô địch Midland Combination và giành quyền thăng hạng trở lại Northern Division cho mùa giải 2012-13. Họ sau đó đánh bại Stoke trong trận chung kết League Cup để hoàn thành cú đúp danh hiệu.
{ "split": 0, "title": "Wolverhampton Wanderers F.C. Women", "token_count": 476 }
22,691
Title: Wolverhampton Wanderers F.C. Women Mùa giải 2014-15 với Wolves Women là một mùa giải đáng quên. Họ phải xuống hạng sau khi đứng đội sổ ở Northern Division. Wolves Women chỉ có được 8 điểm sau 22 trận, và đội bóng đã thay đổi đội ngũ huấn luyện vào cuối mùa. Đầu mùa giải 2015-16, Steve Cullis trở thành huấn luyện viên và được giao mục tiêu đưa đội trở lại Northern Division, cùng với đó là phát triển hệ thống đào tạo trẻ của đội. Wolves Women cũng rút đội dự bị ra khỏi FA Women's Premier League Reserves (Midlands), đội bóng đã thi đấu ở WPL trong 13 mùa giải qua. Tháng 10 năm 2016, Cullis chuyển sang làm Giám đốc kĩ thuật cho Trung tâm đào tạo tài năng địa phuơng của đội. Tim Dudding được bổ nhiệm làm người thay thế Cullis trên băng ghế huấn luyện. Dudding đã dẫn dắt đội đến với một mùa giải thành công, kết thúc bằng việc dành quyền thăng hạng lên Northern Division. Sau khởi đầu mùa giải thất vọng, Dan McNamara được bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng vào đầu năm 2018 và đưa đội chiến đấu quả cảm trong cuộc chiến trụ hạng, nhưng vẫn phải chấp nhận xuống hạng vì thua hiệu số. Sau khi kim tự tháp bóng đá nữ được tái cấu trúc vào mùa hè cùng năm, Wolves Women sẽ thi đấu tại FA Women's National League Midlands Division One. Cho mùa giải 2018-19 đội bóng đã cho ra mắt đội Dự bị. Cuối mùa giải 2020-21, Wolves được thăng hạng lên FA Women's National League North. Ở mùa giải kế tiếp (2021–22), Wolves có được vị trí để tiến đến vòng play-off cùng cơ hội có thêm một lần thăng hạng, lần này là tới FA Women’s Championship, đánh bại Sheffield F.C. Ladies 2-0 với 3 trận còn lại trước khi mùa giải khép lại. Họ đã để thua trong trận play-off với tỉ số 0-1 trước đội vô địch giải miền Nam Southampton F.C. Sân vận động. Wolves Women chơi các trận đấu sân nhà tại sân New Bucks Head ở Telford, sân nhà của câu lạc bộ A.F.C. Telford United. Các cựu cầu thủ nổi bật. "Các cựu cầu thủ của Wolves Women đã từng được thi đấu ở cấp độ đội tuyển."
{ "split": 1, "title": "Wolverhampton Wanderers F.C. Women", "token_count": 501 }
22,692
Title: Wonderful Tonight "Wonderful Tonight" là ca khúc được viết bởi Eric Clapton, nằm trong album năm 1977 có tên "Slowhand". Clapton viết ca khúc này cho người tình của mình khi đó là Pattie Boyd. Bối cảnh. Clapton sáng tác "Wonderful Tonight" tặng Boyd trong khi đợi cô chuẩn bị tham dự bữa tiệc Buddy Holly hàng năm của Paul và Linda McCartney ngày 7 tháng 9 năm 1976. Về ca khúc này, Boyd nói: "Trong nhiều năm, nó đã xé nát tâm can tôi. Vì nó gợi nhớ về Eric, và George trước đó nữa. Viết nên giai điệu như vậy thật sự quá bốc đồng. 'Wonderful Tonight' là lời nhắc nhở sâu sắc nhất về tất cả những gì tốt đẹp trong mối quan hệ giắc chúng tôi, và khi mọi thứ tan vỡ, nó lại trở thành nỗi giày vò." Bài hát cũng được nhắc tới trong cuốn tự truyện của cô "".
{ "split": 0, "title": "Wonderful Tonight", "token_count": 216 }
22,693
Title: Workstation Workstation (một số tài liệu gọi là "máy trạm") được sử dụng theo các nghĩa: Workstation là một Microcomputer được thiết kế dành để chạy các ứng dụng kỹ thuật hoặc khoa học. Mục đích chính cho việc tạo ra máy tính này là để phục vụ cho 1 người tại 1 thời điểm, có thể kết nối với nhau qua mạng máy tính và phục vụ nhiều User cùng lúc. Một nhóm các máy trạm có thể xử lý các công việc của một máy tính lớn Main Frame nếu như được kết nối mạng với nhau. Các máy trạm cung cấp hiệu suất cao hơn máy tính để bàn, đặc biệt là về CPU, đồ họa, bộ nhớ và khả năng xử lý đa nhiệm. Nó được tối ưu hóa cho việc xử lý các loại dữ liệu phức tạp như các bản vẽ 3D trong cơ khí, các mô phỏng trong thiết kế, vẽ và tạo ra các hình ảnh động, các logic toán học. Thông thường các bộ phận giao tiếp với máy trạm bao gồm: màn hình với độ phân giải cao, bàn phím và chuột. Đôi khi cũng cấp kết nối với nhiều màn hình, máy tính bảng đồ họa và chuột 3D. Hiện nay, thị trường máy trạm do các ông lớn trong ngành máy tính như DELL, HP... và bán cũng các bản Windows/ Linux chạy trên CPU Intel Xeon/AMD Ryzen Threadripper. Và một dòng máy chạy trên MacOS của Apple. Lịch sử của máy trạm. Có lẽ máy tính đầu tiên có thể hội đủ điều kiện như là một "máy trạm" là IBM 1620, nó là một máy tính nhỏ được thiết kế để tương tác với 1 người dùng đơn. Nó được giới thiệu năm 1960, một điểm đặc biệt của máy tính này là không có mạch số học. Để có thể thực hiện được các phép tính số học nó cần một bảng bộ nhớ để lưu lại các quy tắc được định nghĩa. Điều này làm giảm chi phí cho việc sản xuất các máy tính của IBM. Năm 1965 IBM cho ra đời máy tính khoa học 1130, nó như là một sự kế thừa của máy tính 1620. Cả hai hệ thống trên đều có thể chạy được các chương trình viết bằng ngôn ngữ Fortran và các ngôn ngữ khác. Cả 1620 và 1130 đều được thiết kế với kích thước như một máy tính để bàn. Tất cả đều có đầy đủ các tiện ích như ổ đĩa, máy in, băng giấy và các thiết bị nhập xuất.
{ "split": 0, "title": "Workstation", "token_count": 509 }
22,694
Title: Workstation Các máy Lisp được phát triển bởi MIT vào năm 1970 đi tiên phong cho các máy trạm như là hiệu suất cao, có kết nối mạng, đơn người dùng với nhiều tác vụ. Máy Lisp được bán vào những năm 1980 bởi các công ty như là: Symbolics, Lisp Machines, Texas Instruments (the TI Explorer) và Xerox (the Interlisp-D workstations). Máy tính đầu tiên được thiết kế cho 1 người sử dụng đơn với đồ họa phân giải cao (Đúng nghĩa một máy trạm hiện đại) đó là Xerox Alto được phát triển tại Xerox PARC vào năm 1973. Các máy trạm đầu tiên khác bao gồm Terak 8510 / a (1977), Three Rivers PERQ (1979) và Xerox sau Star (1981).
{ "split": 1, "title": "Workstation", "token_count": 167 }
22,695
Title: World Scholar's Cup World Scholar's Cup (viết tắt: WSC) là một chương trình học tập theo đội quốc tế với các thí sinh tham gia từ hơn 65 quốc gia. Cuộc thi được thành lập bởi DemiDec, đặc biệt là Daniel Berdichevsky, vào năm 2006. Tổ chức World Scholar's Cup đã tuyên bố rằng mục đích của nó là thu hút học sinh quan tâm đến việc học ngoài chương trình học điển hình và tập trung vào việc đưa sinh viên từ các nền văn hóa khác nhau đến thảo luận các vấn đề và ý tưởng liên quan đến hiện tại.
{ "split": 0, "title": "World Scholar's Cup", "token_count": 127 }
22,696
Title: Wren Evans Lê Phan (sinh ngày 13 tháng 11 năm 2001), thường được biết đến với nghệ danh Wren Evans là một nam ca sĩ kiêm sáng tác nhạc người Việt Nam. Anh có khả năng chơi nhiều nhạc cụ, beatbox, sản xuất, biểu diễn và sáng tác nhạc tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, theo định hướng dòng nhạc Âu Mỹ (US-UK). Anh cũng được ghi nhận là một trong những nghệ sĩ Việt Nam nổi bật trong trào lưu sáng tác các bài hát toàn bộ bằng tiếng Anh. Tiểu sử. 2001–2019: Thiếu thời và khởi đầu sự nghiệp. Wren Evans sinh ngày 19 tháng 11 năm 2001 tại Hà Nội, từng theo học tại trường Alexandre Yersin Hà Nội. Ông ngoại anh là NSND Phan Muôn. Evans tiếp xúc với piano cổ điển từ năm 10 tuổi trong trạng thái đôi khi đầy gượng ép và chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu từ phía gia đình. Ba dòng nhạc disco, jazz là trap những dòng nhạc anh gắn bó trong giai đoạn đầu. Evans cũng gặp khó khăn trong việc thuyết phục gia đình và từng có một thời gian gặp sự ngăn trở mong muốn theo con đường nghệ thuật. Anh dùng các băng nhạc cũ của anh trai để tập cảm nhạc và sáng tác nhạc. Anh có khả năng chơi piano nhạc cổ điển, guitar và guitar bass. Evans từng thành lập nhóm nhạc SundayBars năm 2019 (về sau đổi tên thành "Jeune Homme"), với thành viên là 5 học sinh cùng trường và đã biểu diễn các sáng tác của nhóm vào tháng 12 năm 2019 tại Bar Polygon, Hà Nội. Tình hình dịch COVID-19 và một số yếu tố từ gia đình tác động đến khả năng du học của Evans và anh quyết định ra mắt với vai trò ca sĩ. Việc học thông qua hình thức trực tuyến đã giúp anh có thời gian sáng tác nhạc tại nhà. Trước khi chính thức ra mắt công chúng, Wren Evans từng phát hành nhiều ca khúc mang phong cách hip hop và rap âm hưởng Âu Mỹ trên trang cá nhân của mình. Một số ca khúc anh song ca cùng ca sĩ Mỹ Anh. 2020–2021: "Fever", "Fashion 3" và "Thích em hơi nhiều".
{ "split": 0, "title": "Wren Evans", "token_count": 454 }
22,697
Title: Wren Evans Wren Evans cộng tác cùng K-ICM trong video âm nhạc "Fever", phát hành ngày 28 tháng 5 năm 2020. Nói về lần cộng tác này, K-ICM cho biết giữa gia đình anh và Evans có mối quan hệ thân thiết và anh đã được giới thiệu về Evans. Sản phẩm âm nhạc này được hoàn thành trong 4 tuần và hai ca sĩ đã sống chung với nhau tại Thành phố Hồ Chí Minh trong quá trình thực hiện. Nam ca sĩ đã thực hiện 56 bản thu cho bản nhạc này. Một phiên bản đặc biệt sau đó được phát hành với giọng hát của riêng Evans, do điều kiện dịch bệnh COVID-19 ảnh hưởng đến khả năng hợp tác do cách trở địa lý của hai ca sĩ. Dự án cá nhân đầu tiên của Evans, mang tên "Fashion 3", được thể hiện bằng tiếng Anh, phát hành ngày 15 tháng 7 năm 2020 với chủ đề chính là âm nhạc thời trang và kêu gọi bình đẳng chủng tộc. Decao đóng vai trò "Art Director" cho dự án âm nhạc này của Evans. Bài hát mang thuộc dòng nhạc funk và hip hop. Ngoài những ý kiến tích cực, một số ý kiến cho rằng bài hát không bắt tai và việc lời bài hát bằng tiếng Anh làm người nghe không cảm nhận được bài hát. Tác giả Mai Quỳnh Nga viết trên báo "Công an Nhân dân Online" đánh giá hai ca khúc đầu tay [bằng tiếng Anh] của Wren Evans là một thất bại, và anh đã phải chuyển sang viết nhạc bằng tiếng Việt để quảng bá tên tuổi.
{ "split": 1, "title": "Wren Evans", "token_count": 325 }
22,698
Title: Wren Evans Tháng 6 năm 2021, Wren Evans kết hợp cùng nhạc sĩ Mew Amazing trong một ca khúc dòng nhạc Bossa-Pop, "Thích em hơi nhiều" ("I like you a lot"). Ca khúc có lời bằng tiếng Việt, theo Evans là một trở ngại trong quá trình sáng tác, do anh là học sinh sử dụng tiếng Anh và tiếng Pháp trong quá trình học tập. Đây là ca khúc solo đầu tiên và là hoạt động nghệ thuật đầu tiên của anh trong năm 2021. MV âm nhạc này có sự góp mặt của Hieuthuhai, Nicky (nhóm Monstar)... Bài hát là một sản phẩm kết hợp với ứng dụng hẹn hò Tinder nhằm thể hiện thông điệp tốt đẹp về tình yêu của thế hệ mới. Sau một tuần phát hành, video ca khúc đạt top 2 trending âm nhạc YouTube Việt Nam với 2,7 triệu lượt xem. Sau 10 ngày phát hành, ca khúc đạt top 1 ở nhiều nền tảng âm nhạc trực tuyến. 2022–nay: "Gặp may" và "Cơn đau". Ngày 19 tháng 1 năm 2022, Wren Evans phát hành ca khúc "Gặp may". Khác với ca khúc trước đó, sản phẩm lần này do chính anh tự sáng tác và sản xuất. Video ca nhạc được đạo diễn bởi Kiên Ứng và cameo là rapper Low G xuất hiện gián tiếp trong video. Nội dung video âm nhạc chứa đựng nhiều hình ảnh tối giản và mang nặng tính ẩn dụ. Bản nhạc được thu âm bởi công nghệ Dolby Atmos, bởi kỹ sư âm thanh Sergei Groshev, với chủ đích tạo trải nghiệm mới cho khán giả và một không gian sống động cho bài hát.
{ "split": 2, "title": "Wren Evans", "token_count": 355 }
22,699
Title: Wren Evans Wren Evans được đề cử ở hạng mục "Gương mặt mới xuất sắc" cho giải thưởng Làn Sóng Xanh 2021. Đây là lần đầu tiên Evans được đề cử tại giải thưởng này. Tháng 7 năm 2022, Wren Evans phát hành video ca khúc "Cơn đau" ("The Pain"), do chính anh sáng tác và sản xuất âm nhạc. Bản nhạc là kết quả của việc pha trộn năm thể loại nhạc khác nhau: funk, pop, wave, synth và rap. Nội dung hình ảnh video ca nhạc dùng hình ảnh từ câu chuyện Tây Du Ký để thể hiện cách vượt qua nỗi đau của giới trẻ. Bốn cameo đã tham gia video âm nhạc này gồm: Chiêu Dịp, LilThu, Trần Thanh Tín và Minh Nguyễn. Cảm hứng để viết nên ca khúc đến từ việc trở lại thăm căn phòng chất chứa nhiều kỷ niệm của Evans tại Hà Nội. Wren Evans trở thành ca sĩ độc quyền của Công ty monoX, với tư cách là ca sĩ, nhạc sĩ, KOL và fashionista. Anh là ca sĩ đầu tiên ký hợp đồng độc quyền đối với công ty monoX. Công ty đã có buổi công bố chính thức thông tin này vào ngày 20 tháng 7 năm 2022. Video ca nhạc "Gặp may" của Evans chiến thắng giải bình chọn "MTV Fan Choice 2022" ở hạng mục "Sản phẩm âm nhạc được yêu thích nhất" và được đưa đi tranh giải hạng mục "Video âm nhạc hay nhất" của Giải thưởng Truyền hình châu Á (Asian TV Awards (ATA)).
{ "split": 3, "title": "Wren Evans", "token_count": 333 }