instruction
stringclasses 1
value | input
stringlengths 1.12k
1.5k
| output
stringlengths 328
1.5k
|
---|---|---|
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ngài lập một cái am, gọi là am An Dưỡng, rồi Ngài mời bà mẹ về để được dịp sống gần mẹ già.
Các quan trong triều tới thăm, xin cất một ngôi chùa, Ngài nói: “Thôi, thôi, tôi đã trú trì nhiều chùa rồi, mục đích của tôi xin vua về nghỉ là để khỏi phải giữ chùa, không lý bây giờ các vị lại bắt tôi làm chùa nữa?” Từ đó ngài sống những ngày rất an lạc cùng bà mẹ.
Có một hôm mẹ ngài bị bệnh nặng, bà nói: “Con, sao mẹ muốn ăn cháo cá quá”.
Ngài đi xuống chợ Bến Ngự, thản nhiên xin một con cá đem về nấu cháo cho mẹ ăn.
Ngài xách con cá trong tay, đi từ dưới chợ lên núi.
Nhiều người nói: “Sao thầy tu mà làm như vậy?” Nhưng vì Ngài không còn nệ vào hình thức nữa, thành ra Ngài thản nhiên: “Làm cái gì cũng được hết”, trong thiền học gọi là đói ăn khát uống.
Người ta chỉ làm được như vậy khi đã đạt tới tự do và vượt thoát thường tục.
Diệt tức là sự chấm dứt những nguyên do gây khổ đau.
Người ta sống có hạnh phúc, an lành và thảnh thơi mà không tự biết.
Trước khi bị khổ đau trấn ngự ta đã có tình trạng diệt, nhưng ta không biết quý.
Vì dại dột, ta có thể tự phá hạnh phúc tự nhiên sẵn có của ta.
Nguyên do là ta sống không chánh niệm, ta thiếu thầy, thiếu bạn để chỉ cho ta thấy hạnh phúc ta đang có.
Những điều kiện hạnh phúc có thể đang có mặt trong ta và xung quanh ta nhưng ta không có khả năng tiếp xúc để sống hạnh phúc.
Hạ thủ công phu
Tu tập cũng là quán chiếu để nhận diện hạnh phúc, bằng những bài thực tập chánh niệm.
Ví dụ: “Tôi đang thở vào và tôi biết là tôi có hai con mắt. | Hạ thủ công phu
Tu tập cũng là quán chiếu để nhận diện hạnh phúc, bằng những bài thực tập chánh niệm.
Ví dụ: “Tôi đang thở vào và tôi biết là tôi có hai con mắt.
Tôi đang thở ra và tôi mỉm cười với hai mắt của tôi.” Đó là một trong những bài tập giúp ta tiếp xúc được với những điều kiện hạnh phúc đang có của mình.
Ta là người đã tiếp nhận nhiều điều kiện hạnh phúc ấy từ cha, mẹ, ông, bà, tổ tiên và trời đất nhưng ta đã không biết thừa hưởng kho tàng hạnh phúc đó.
Kinh gọi đó là người cùng tử.
Trong lúc quán chiếu như vậy ta thấy được ngay trong diệt cũng đã có sẵn mầm khổ.
Cách sống hàng ngày của ta có thể tiêu diệt hạnh phúc của ta và tạo ra khổ đau.
Rõ ràng là quán chiếu hạnh phúc thì ta thấy khổ đau nằm sẵn trong ấy.
Và khi thấy điều đó, ta thấy được đạo.
Bụt dạy phép an trú trong hiện tại (hiện tại lạc trú), tức là sống tỉnh thức trong từng giây phút, biết quý trọng từng giây phút của đời sống.
Con đường rõ ràng như vậy, chỉ có điều ta thực tập hay không mà thôi.
Nghe Bụt ta biết là lời Bụt hay lắm, cần đem ra rao giảng cho thế gian, nhưng chính ta lại không chịu thực hành.
Cho nên ta phải quyết chí thực tập chứ không còn nói lý thuyết suông, đó gọi là Hạ thủ công phu (get down to the real practice).
Thiền hành mỗi ngày, tụng kinh mỗi ngày, thực tập mỉm cười và hơi thở ý thức mỗi ngày, và tập nhìn mọi người bằng con mắt hiểu và thương.
Ta nấu cơm, rửa chén và quét nhà như thế nào để có thể có hạnh phúc ngay trong khi ta nấu cơm, rửa chén và quét nhà. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Hạ thủ công phu
Tu tập cũng là quán chiếu để nhận diện hạnh phúc, bằng những bài thực tập chánh niệm.
Ví dụ: “Tôi đang thở vào và tôi biết là tôi có hai con mắt.
Tôi đang thở ra và tôi mỉm cười với hai mắt của tôi.” Đó là một trong những bài tập giúp ta tiếp xúc được với những điều kiện hạnh phúc đang có của mình.
Ta là người đã tiếp nhận nhiều điều kiện hạnh phúc ấy từ cha, mẹ, ông, bà, tổ tiên và trời đất nhưng ta đã không biết thừa hưởng kho tàng hạnh phúc đó.
Kinh gọi đó là người cùng tử.
Trong lúc quán chiếu như vậy ta thấy được ngay trong diệt cũng đã có sẵn mầm khổ.
Cách sống hàng ngày của ta có thể tiêu diệt hạnh phúc của ta và tạo ra khổ đau.
Rõ ràng là quán chiếu hạnh phúc thì ta thấy khổ đau nằm sẵn trong ấy.
Và khi thấy điều đó, ta thấy được đạo.
Bụt dạy phép an trú trong hiện tại (hiện tại lạc trú), tức là sống tỉnh thức trong từng giây phút, biết quý trọng từng giây phút của đời sống.
Con đường rõ ràng như vậy, chỉ có điều ta thực tập hay không mà thôi.
Nghe Bụt ta biết là lời Bụt hay lắm, cần đem ra rao giảng cho thế gian, nhưng chính ta lại không chịu thực hành.
Cho nên ta phải quyết chí thực tập chứ không còn nói lý thuyết suông, đó gọi là Hạ thủ công phu (get down to the real practice).
Thiền hành mỗi ngày, tụng kinh mỗi ngày, thực tập mỉm cười và hơi thở ý thức mỗi ngày, và tập nhìn mọi người bằng con mắt hiểu và thương.
Ta nấu cơm, rửa chén và quét nhà như thế nào để có thể có hạnh phúc ngay trong khi ta nấu cơm, rửa chén và quét nhà. | Ta nấu cơm, rửa chén và quét nhà như thế nào để có thể có hạnh phúc ngay trong khi ta nấu cơm, rửa chén và quét nhà.
Trong khi rửa chén, nấu cơm, kê bàn, dọn ghế, uống nước và cưa cây, ta tự hỏi: “Ta đang làm gì đây?
- What am I doing?” Ta tự trả lời: Ta đang rửa chén.
Rửa chén như thế nào để có an lạc, quét nhà như thế nào để có an lạc đó là điều quan trọng.
Khi ta tự hỏi: Ta đang làm gì đây?
Ta sẽ rửa chén một cách khác và quét nhà một cách khác.
Trong chánh niệm ta thấy hạnh phúc tràn lan.
Ta sẽ không còn xem rửa chén và quét nhà là những công tác nặng nhọc và muốn làm cho xong.
Hỏi xong ta mỉm cười, và chuyện rửa chén quét nhà bỗng tạo ra một niềm vui trong đời sống hàng ngày.
Đó gọi là Hạ thủ công phu.
Ngoài việc thực tập trong cuộc sống cá nhân, chúng ta còn thực tập trong đời sống chung với mọi người.
Giả dụ vì xung khắc mà hai người cùng đau khổ.
Chúng ta có cơ hội thực tập để làm giảm bớt khổ đau.
Cơ hội thứ nhất là cả hai người cùng thực tập.
Hai người đều quán chiếu, hai người đều dùng mắt thương nhìn cuộc đời.
Cơ hội thứ hai là người này thực tập nếu người kia không thực tập.
Khi ta thực tập và nhìn người kia bằng con mắt từ bi thì không những ta thay đổi mà người đó cũng sẽ thay đổi.
Ta không cần hai người mới ký được hòa ước, một mình ta ta đã có thể ký hòa ước rồi.
Trong tự tâm ta có thể hòa giải, ta tự bắt đầu trước, và sự chuyển hóa sâu xa và chân thật của ta sẽ đưa tới sự chuyển hóa của người kia. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ta nấu cơm, rửa chén và quét nhà như thế nào để có thể có hạnh phúc ngay trong khi ta nấu cơm, rửa chén và quét nhà.
Trong khi rửa chén, nấu cơm, kê bàn, dọn ghế, uống nước và cưa cây, ta tự hỏi: “Ta đang làm gì đây?
- What am I doing?” Ta tự trả lời: Ta đang rửa chén.
Rửa chén như thế nào để có an lạc, quét nhà như thế nào để có an lạc đó là điều quan trọng.
Khi ta tự hỏi: Ta đang làm gì đây?
Ta sẽ rửa chén một cách khác và quét nhà một cách khác.
Trong chánh niệm ta thấy hạnh phúc tràn lan.
Ta sẽ không còn xem rửa chén và quét nhà là những công tác nặng nhọc và muốn làm cho xong.
Hỏi xong ta mỉm cười, và chuyện rửa chén quét nhà bỗng tạo ra một niềm vui trong đời sống hàng ngày.
Đó gọi là Hạ thủ công phu.
Ngoài việc thực tập trong cuộc sống cá nhân, chúng ta còn thực tập trong đời sống chung với mọi người.
Giả dụ vì xung khắc mà hai người cùng đau khổ.
Chúng ta có cơ hội thực tập để làm giảm bớt khổ đau.
Cơ hội thứ nhất là cả hai người cùng thực tập.
Hai người đều quán chiếu, hai người đều dùng mắt thương nhìn cuộc đời.
Cơ hội thứ hai là người này thực tập nếu người kia không thực tập.
Khi ta thực tập và nhìn người kia bằng con mắt từ bi thì không những ta thay đổi mà người đó cũng sẽ thay đổi.
Ta không cần hai người mới ký được hòa ước, một mình ta ta đã có thể ký hòa ước rồi.
Trong tự tâm ta có thể hòa giải, ta tự bắt đầu trước, và sự chuyển hóa sâu xa và chân thật của ta sẽ đưa tới sự chuyển hóa của người kia. | Trong tự tâm ta có thể hòa giải, ta tự bắt đầu trước, và sự chuyển hóa sâu xa và chân thật của ta sẽ đưa tới sự chuyển hóa của người kia.
Cơ hội thứ ba: nếu người này không thực tập thì người kia bắt đầu thực tập.
Thành ra lúc nào ta cũng có ba cơ hội để tạo niềm thông cảm.
Tình trạng không phải là một tình trạng tuyệt vọng.
Xung quanh ta, bất cứ một lời kinh, một tiếng mõ, một tiếng chuông, một bước chân nào cũng nhắc ta rằng ta có ba cơ hội đó.
Hạ thủ công phu là việc ta có thể làm được và có thể làm ngay.
Ta có thể thành công trong mấy phút đồng hồ, chứ không hẳn phải chờ ngày này sang ngày khác.
Nếu ta biết thay đổi cách nhìn thì tự nhiên bể khổ cuộc đời sẽ tiêu tan.
Mắt thương nhìn cuộc đời là một phương pháp rất mầu nhiệm.
Chính ta có thể thay đổi được tình trạng.
Đừng nói rằng nếu người kia không thay đổi thì ta làm sao thay đổi.
Phương pháp tu tập này là tiếp xúc với an lạc và tạo tác niềm vui trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Đây là thực tập hiện tại lạc trú, thực tập phép lạ.
Cuốn Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức bản dịch tiếng Pháp nhan đề là Le Miracle, cíest de marcher sur terre -Phép lạ là đi trên mặt đất.
Đi trên mặt đất đã là thần thông.
Phép lạ là biết mình đang sống.
Chỉ đi bộ thôi cũng đã là thần thông.
Chỉ cần rửa chén, chỉ cần nhìn một thân cây thôi, cũng đã là một phép thần thông.
Phép lạ là biết rằng hễ mở mắt thì thấy được trời xanh.
Phép lạ ấy, ta có thể thực hiện trong từng giây phút để nuôi dưỡng và chuyển hóa, để an lạc tăng trưởng, và để thấy đạo. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Trong tự tâm ta có thể hòa giải, ta tự bắt đầu trước, và sự chuyển hóa sâu xa và chân thật của ta sẽ đưa tới sự chuyển hóa của người kia.
Cơ hội thứ ba: nếu người này không thực tập thì người kia bắt đầu thực tập.
Thành ra lúc nào ta cũng có ba cơ hội để tạo niềm thông cảm.
Tình trạng không phải là một tình trạng tuyệt vọng.
Xung quanh ta, bất cứ một lời kinh, một tiếng mõ, một tiếng chuông, một bước chân nào cũng nhắc ta rằng ta có ba cơ hội đó.
Hạ thủ công phu là việc ta có thể làm được và có thể làm ngay.
Ta có thể thành công trong mấy phút đồng hồ, chứ không hẳn phải chờ ngày này sang ngày khác.
Nếu ta biết thay đổi cách nhìn thì tự nhiên bể khổ cuộc đời sẽ tiêu tan.
Mắt thương nhìn cuộc đời là một phương pháp rất mầu nhiệm.
Chính ta có thể thay đổi được tình trạng.
Đừng nói rằng nếu người kia không thay đổi thì ta làm sao thay đổi.
Phương pháp tu tập này là tiếp xúc với an lạc và tạo tác niềm vui trong mỗi giây phút của cuộc đời.
Đây là thực tập hiện tại lạc trú, thực tập phép lạ.
Cuốn Phép Lạ Của Sự Tỉnh Thức bản dịch tiếng Pháp nhan đề là Le Miracle, cíest de marcher sur terre -Phép lạ là đi trên mặt đất.
Đi trên mặt đất đã là thần thông.
Phép lạ là biết mình đang sống.
Chỉ đi bộ thôi cũng đã là thần thông.
Chỉ cần rửa chén, chỉ cần nhìn một thân cây thôi, cũng đã là một phép thần thông.
Phép lạ là biết rằng hễ mở mắt thì thấy được trời xanh.
Phép lạ ấy, ta có thể thực hiện trong từng giây phút để nuôi dưỡng và chuyển hóa, để an lạc tăng trưởng, và để thấy đạo. | Phép lạ là biết rằng hễ mở mắt thì thấy được trời xanh.
Phép lạ ấy, ta có thể thực hiện trong từng giây phút để nuôi dưỡng và chuyển hóa, để an lạc tăng trưởng, và để thấy đạo.
đạo không phải chỉ được thấy nhờ học Kinh và nghe giảng mà nhờ thực tập.
Càng thực tập ta càng thấy rõ đạo.
Theo công phu tu tập này, những niềm vui hời hợt và giả tạo sẽ được chuyển hóa thành những niềm vui đích thật và sâu sắc.
Tuy biết rằng cái gì cũng vô thường, cũng thay đổi, nhưng ta không còn sợ hãi, vì ta đã biết cách tạo niềm vui.
Thực tập như vậy, ta sẽ đạt tới mức độ vững chãi, sẽ không sợ hãi vô thường, sợ hãi thay đổi, đó là tự do, là không vướng bận.
Không phải chờ tới một trình độ cao nào đó ta mới đạt được vững chãi và thảnh thơi.
Công trình tu tập càng ngày liên tục đem lại cho ta vững chãi và thảnh thơi.
Cho đến khi ta đạt tới sự vững chãi và thảnh thơi vượt trên những khổ vui thông tục thì diệt đế có tên là niết bàn (nirodha trở thành nirvana).
Diệt không phải chỉ là sự vắng mặt của đau khổ.
Sự vắng mặt tạm thời của khổ đau sẽ dẫn tới sự vắng mặt vĩnh viễn của khổ đau.
Tục đế sẽ đưa tới chân đế.
Đó là chân như, có khi gọi là Pháp giới tánh hay là Pháp thân (dharmakaya).
Và niềm vui lớn này, ta không thể diễn tả bằng lời nói được nữa, vì nó đã vượt ra khỏi ngôn ngữ của tục đế.
Niềm vui lớn này, Bụt và các vị bồ tát đã thực chứng được.
Các vị có thể gật đầu xác nhận rằng niềm vui đó có mặt, nhưng họ diễn tả không được, và chính ta phải tự tìm lối vào. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Phép lạ là biết rằng hễ mở mắt thì thấy được trời xanh.
Phép lạ ấy, ta có thể thực hiện trong từng giây phút để nuôi dưỡng và chuyển hóa, để an lạc tăng trưởng, và để thấy đạo.
đạo không phải chỉ được thấy nhờ học Kinh và nghe giảng mà nhờ thực tập.
Càng thực tập ta càng thấy rõ đạo.
Theo công phu tu tập này, những niềm vui hời hợt và giả tạo sẽ được chuyển hóa thành những niềm vui đích thật và sâu sắc.
Tuy biết rằng cái gì cũng vô thường, cũng thay đổi, nhưng ta không còn sợ hãi, vì ta đã biết cách tạo niềm vui.
Thực tập như vậy, ta sẽ đạt tới mức độ vững chãi, sẽ không sợ hãi vô thường, sợ hãi thay đổi, đó là tự do, là không vướng bận.
Không phải chờ tới một trình độ cao nào đó ta mới đạt được vững chãi và thảnh thơi.
Công trình tu tập càng ngày liên tục đem lại cho ta vững chãi và thảnh thơi.
Cho đến khi ta đạt tới sự vững chãi và thảnh thơi vượt trên những khổ vui thông tục thì diệt đế có tên là niết bàn (nirodha trở thành nirvana).
Diệt không phải chỉ là sự vắng mặt của đau khổ.
Sự vắng mặt tạm thời của khổ đau sẽ dẫn tới sự vắng mặt vĩnh viễn của khổ đau.
Tục đế sẽ đưa tới chân đế.
Đó là chân như, có khi gọi là Pháp giới tánh hay là Pháp thân (dharmakaya).
Và niềm vui lớn này, ta không thể diễn tả bằng lời nói được nữa, vì nó đã vượt ra khỏi ngôn ngữ của tục đế.
Niềm vui lớn này, Bụt và các vị bồ tát đã thực chứng được.
Các vị có thể gật đầu xác nhận rằng niềm vui đó có mặt, nhưng họ diễn tả không được, và chính ta phải tự tìm lối vào. | Niềm vui lớn này, Bụt và các vị bồ tát đã thực chứng được.
Các vị có thể gật đầu xác nhận rằng niềm vui đó có mặt, nhưng họ diễn tả không được, và chính ta phải tự tìm lối vào.
Không thể diễn tả được niết bàn (nirvana).
Cho nên trong lãnh vực này thì diệt đế là ngôn ngữ đạo đoạn: con đường của ngữ ngôn đã bị cắt đứt.
Không có ngữ ngôn nào có thể diễn tả được niết bàn, được niềm vui lớn, được sự vững chãi và thảnh thơi của người đã đạt tới cái niềm vui lớn.
Không những ngôn ngữ không chuyên chở được mà các ý niệm cũng không chuyên chở được.
Không suy tưởng được, không khái niệm được, gọi là tâm hành xứ diệt.
Nó không thuộc về lãnh vực của tư tưởng nữa.
Niết bàn không thể suy tư, không thể so sánh, không thể tưởng tượng được.
Niết bàn chỉ có thể tự thân tác chứng.
Vậy thì sự thật thứ ba, diệt, cũng có hai phần.
Phần thứ nhất là phần hữu lậu và phần thứ hai là phần vô lậu.
Hữu lậu là asvara, như nước rỉ ra.
Trong lãnh vực hữu lậu, chúng ta còn tùy thuộc vào ngôn ngữ và khái niệm.
Tới lãnh vực vô lậu rồi thì không còn ngôn ngữ và khái niệm nữa.
Nhưng trong quá trình văn, tư và tu, chúng ta đã có thể thấy được những hạt giống vô lậu trong cõi hữu lậu rồi.
Cũng như không phải đợi chấm dứt sóng thì mới có nước.
Ngay trong khi sóng là sóng thì đồng thời nó cũng đã là nước rồi.
Đức Khổng Tử nói rằng: “Năm 30 tuổi, tôi đã có thể đứng vững.
Đến 40 tuổi, tôi bỏ được tất cả những điều nghi hoặc.
Đến năm 50 tuổi, tôi biết được lẽ vận hành của trời đất. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Niềm vui lớn này, Bụt và các vị bồ tát đã thực chứng được.
Các vị có thể gật đầu xác nhận rằng niềm vui đó có mặt, nhưng họ diễn tả không được, và chính ta phải tự tìm lối vào.
Không thể diễn tả được niết bàn (nirvana).
Cho nên trong lãnh vực này thì diệt đế là ngôn ngữ đạo đoạn: con đường của ngữ ngôn đã bị cắt đứt.
Không có ngữ ngôn nào có thể diễn tả được niết bàn, được niềm vui lớn, được sự vững chãi và thảnh thơi của người đã đạt tới cái niềm vui lớn.
Không những ngôn ngữ không chuyên chở được mà các ý niệm cũng không chuyên chở được.
Không suy tưởng được, không khái niệm được, gọi là tâm hành xứ diệt.
Nó không thuộc về lãnh vực của tư tưởng nữa.
Niết bàn không thể suy tư, không thể so sánh, không thể tưởng tượng được.
Niết bàn chỉ có thể tự thân tác chứng.
Vậy thì sự thật thứ ba, diệt, cũng có hai phần.
Phần thứ nhất là phần hữu lậu và phần thứ hai là phần vô lậu.
Hữu lậu là asvara, như nước rỉ ra.
Trong lãnh vực hữu lậu, chúng ta còn tùy thuộc vào ngôn ngữ và khái niệm.
Tới lãnh vực vô lậu rồi thì không còn ngôn ngữ và khái niệm nữa.
Nhưng trong quá trình văn, tư và tu, chúng ta đã có thể thấy được những hạt giống vô lậu trong cõi hữu lậu rồi.
Cũng như không phải đợi chấm dứt sóng thì mới có nước.
Ngay trong khi sóng là sóng thì đồng thời nó cũng đã là nước rồi.
Đức Khổng Tử nói rằng: “Năm 30 tuổi, tôi đã có thể đứng vững.
Đến 40 tuổi, tôi bỏ được tất cả những điều nghi hoặc.
Đến năm 50 tuổi, tôi biết được lẽ vận hành của trời đất. | Đức Khổng Tử nói rằng: “Năm 30 tuổi, tôi đã có thể đứng vững.
Đến 40 tuổi, tôi bỏ được tất cả những điều nghi hoặc.
Đến năm 50 tuổi, tôi biết được lẽ vận hành của trời đất.
Tới năm 60 tuổi, thì tai nghe đã xuôi.
Tuổi 70, tôi muốn làm gì thì làm mà không trái lại với đạo lý.
(Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mệnh, lục thập chi nhơi thuận, thất thập tùng tâm sở dục bất du củ).
Bài 06: Quá trình văn tư tu
Hôm nay là ngày mùng 9 tháng 12 năm 1993, chúng ta ở tại Xóm Thượng và học tiếp về Tứ Diệu Đế.
Chúng ta đang nói về chánh kiến, tức là cái thấy chính xác, trước hết là cái thấy về bốn sự thật là khổ, tập, diệt và đạo.
Hôm nay chúng ta quán chiếu về sự thật thứ tư là đạo.
Đạo tức là con đường (marga).
Có con đường đưa chúng ta thoát khổ đau, có con đường chuyển hóa khổ đau.
Dịch ra tiếng Anh một cách đơn giản thì khổ là ill hay là ill-being (duhkha).
Tập là sự tập hợp của những nguyên do đưa tới khổ, có thể dịch là arising (samudaya).
Diệt là cessation, tức là chấm dứt, không tạo tác ra khổ nữa.
Có thấy đạo thì mới có chánh kiến.
Chúng ta đã biết rằng khi quán chiếu về khổ một cách sâu sắc ta có thể thấy tập, thấy diệt và thấy đạo.
Khi nhìn vào tập, chúng ta cũng thấy khổ, thấy diệt và thấy đạo.
Nhìn vào diệt, chúng ta cũng thấy khổ, thấy tập và thấy đạo.
Và bây giờ nhìn vào đạo, chúng ta cũng thấy rõ khổ, tập và diệt.
Cho nên đạo chỉ có thể thấy được từ sự đau khổ.
Nếu không nhận ra khổ thì không thể nào tìm ra đạo. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Đức Khổng Tử nói rằng: “Năm 30 tuổi, tôi đã có thể đứng vững.
Đến 40 tuổi, tôi bỏ được tất cả những điều nghi hoặc.
Đến năm 50 tuổi, tôi biết được lẽ vận hành của trời đất.
Tới năm 60 tuổi, thì tai nghe đã xuôi.
Tuổi 70, tôi muốn làm gì thì làm mà không trái lại với đạo lý.
(Tam thập nhi lập, tứ thập nhi bất hoặc, ngũ thập tri thiên mệnh, lục thập chi nhơi thuận, thất thập tùng tâm sở dục bất du củ).
Bài 06: Quá trình văn tư tu
Hôm nay là ngày mùng 9 tháng 12 năm 1993, chúng ta ở tại Xóm Thượng và học tiếp về Tứ Diệu Đế.
Chúng ta đang nói về chánh kiến, tức là cái thấy chính xác, trước hết là cái thấy về bốn sự thật là khổ, tập, diệt và đạo.
Hôm nay chúng ta quán chiếu về sự thật thứ tư là đạo.
Đạo tức là con đường (marga).
Có con đường đưa chúng ta thoát khổ đau, có con đường chuyển hóa khổ đau.
Dịch ra tiếng Anh một cách đơn giản thì khổ là ill hay là ill-being (duhkha).
Tập là sự tập hợp của những nguyên do đưa tới khổ, có thể dịch là arising (samudaya).
Diệt là cessation, tức là chấm dứt, không tạo tác ra khổ nữa.
Có thấy đạo thì mới có chánh kiến.
Chúng ta đã biết rằng khi quán chiếu về khổ một cách sâu sắc ta có thể thấy tập, thấy diệt và thấy đạo.
Khi nhìn vào tập, chúng ta cũng thấy khổ, thấy diệt và thấy đạo.
Nhìn vào diệt, chúng ta cũng thấy khổ, thấy tập và thấy đạo.
Và bây giờ nhìn vào đạo, chúng ta cũng thấy rõ khổ, tập và diệt.
Cho nên đạo chỉ có thể thấy được từ sự đau khổ.
Nếu không nhận ra khổ thì không thể nào tìm ra đạo. | Và bây giờ nhìn vào đạo, chúng ta cũng thấy rõ khổ, tập và diệt.
Cho nên đạo chỉ có thể thấy được từ sự đau khổ.
Nếu không nhận ra khổ thì không thể nào tìm ra đạo.
Người ta thường không hiểu đúng về đạo.
Họ nghĩ rằng có một con đường tu hành, nhưng bây giờ còn trẻ, mình chưa tu làm gì vội.
Đợi khi nào 60 hoặc 70 tuổi rồi tu cũng không muộn.
Hoặc nghĩ rằng đạo là để dành cho những người già cả và những kẻ chán đời.
Họ không biết rằng đạo là con đường chuyển hóa, giúp mọi người thoát khổ.
đạo vốn có nghĩa là con đường đi.
Ở Đông Phương chúng ta nói đến đạo làm người, đạo làm cha, đạo làm thầy.
Người con có đạo làm con, người vợ có đạo làm vợ, người chồng có đạo làm chồng, v.v.. Trong sách Minh Tâm Bảo Giám có câu “mạc đãi lão lai phương học đạo, cô phần đa thị thiếu niên nhân”, nghĩa là đừng có đợi đến già rồi mới học đạo, tại vì cứ nhìn vào nghĩa địa thì biết, ở trong ấy có rất nhiều nấm mồ của những thiếu niên.
Như vậy dù ở tuổi tác nào, ở vị trí nào chúng ta cũng cần học đạo.
Và đạo mà Bụt dạy là đạo giải thoát, đạo sống an lạc.
Nhầm lẫn quan trọng hơn nữa là nhiều người nói về đạo như một lý thuyết, hay những hý luận cho vui.
Nghĩ rằng về già mới cần học đạo, đó không phải là chánh kiến.
Hý luận về đạo lại là một tà kiến khác.
Nhiều người nói về đạo rất lưu loát, nhưng các lý thuyết họ nói không dính líu gì đến đời sống của họ cả. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Và bây giờ nhìn vào đạo, chúng ta cũng thấy rõ khổ, tập và diệt.
Cho nên đạo chỉ có thể thấy được từ sự đau khổ.
Nếu không nhận ra khổ thì không thể nào tìm ra đạo.
Người ta thường không hiểu đúng về đạo.
Họ nghĩ rằng có một con đường tu hành, nhưng bây giờ còn trẻ, mình chưa tu làm gì vội.
Đợi khi nào 60 hoặc 70 tuổi rồi tu cũng không muộn.
Hoặc nghĩ rằng đạo là để dành cho những người già cả và những kẻ chán đời.
Họ không biết rằng đạo là con đường chuyển hóa, giúp mọi người thoát khổ.
đạo vốn có nghĩa là con đường đi.
Ở Đông Phương chúng ta nói đến đạo làm người, đạo làm cha, đạo làm thầy.
Người con có đạo làm con, người vợ có đạo làm vợ, người chồng có đạo làm chồng, v.v.. Trong sách Minh Tâm Bảo Giám có câu “mạc đãi lão lai phương học đạo, cô phần đa thị thiếu niên nhân”, nghĩa là đừng có đợi đến già rồi mới học đạo, tại vì cứ nhìn vào nghĩa địa thì biết, ở trong ấy có rất nhiều nấm mồ của những thiếu niên.
Như vậy dù ở tuổi tác nào, ở vị trí nào chúng ta cũng cần học đạo.
Và đạo mà Bụt dạy là đạo giải thoát, đạo sống an lạc.
Nhầm lẫn quan trọng hơn nữa là nhiều người nói về đạo như một lý thuyết, hay những hý luận cho vui.
Nghĩ rằng về già mới cần học đạo, đó không phải là chánh kiến.
Hý luận về đạo lại là một tà kiến khác.
Nhiều người nói về đạo rất lưu loát, nhưng các lý thuyết họ nói không dính líu gì đến đời sống của họ cả. | Hý luận về đạo lại là một tà kiến khác.
Nhiều người nói về đạo rất lưu loát, nhưng các lý thuyết họ nói không dính líu gì đến đời sống của họ cả.
Trong giới Phật tử Việt Nam có rất nhiều người nói tới đạo một cách rất say mê, nhưng đạo ấy không được thể hiện trong đời sống và trong sự tu học của họ.
Bài hát đạo ca: “Tôi là thiền sư buồn, ngồi tụng dưới ánh trăng...” dùng những danh từ đạo Bụt, kỳ thực không có nội dung đạo, chẳng qua chỉ là những ý tưởng uỷ mị, lãng mạn về thiền, về đạo mà thôi.
Có rất nhiều trường hợp trong đó chúng ta hiểu lầm về đạo như vậy.
Quá trình văn tư tu
Cái nhìn về đạo chân chính bắt đầu từ văn, tư và tu, gọi là tam học.
Những đệ tử của Bụt gọi là thanh văn (sravaka), là người nghe giáo lý để tu học.
Khi nghe giảng dạy về giáo lý, khi đọc Kinh, khi pháp đàm, ta thực tập văn học.
Văn học tức là học nghe.
Học nghe, ta phải có thái độ cởi mở, phải thao thức muốn hiểu, muốn thực hành, như thế mới gọi là văn học.
Còn nếu nghe để đàm luận, nghe chỉ để phê phán và chỉ trích, nghe để chứa chấp kiến thức rồi khoe khoang, đó chưa phải là văn học.
Tư là suy gẫm, tư duy, quán chiếu những điều mình nghe.
Ta nghe một điều gì, dù điều đó từ một vị đạo sư nổi tiếng nói ra ta cũng phải tư, tức là phải thẩm xét giá trị ứng dụng của những điều đó.
Ta không mù quáng nghe theo vô điều kiện.
Sau khi nghe rồi, phải tư.
Trong khi đang nghe, không tư, nghe là nghe mà thôi.
Nghe xong rồi lúc đó mới quán chiếu, mới suy tư (reflecting). |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Hý luận về đạo lại là một tà kiến khác.
Nhiều người nói về đạo rất lưu loát, nhưng các lý thuyết họ nói không dính líu gì đến đời sống của họ cả.
Trong giới Phật tử Việt Nam có rất nhiều người nói tới đạo một cách rất say mê, nhưng đạo ấy không được thể hiện trong đời sống và trong sự tu học của họ.
Bài hát đạo ca: “Tôi là thiền sư buồn, ngồi tụng dưới ánh trăng...” dùng những danh từ đạo Bụt, kỳ thực không có nội dung đạo, chẳng qua chỉ là những ý tưởng uỷ mị, lãng mạn về thiền, về đạo mà thôi.
Có rất nhiều trường hợp trong đó chúng ta hiểu lầm về đạo như vậy.
Quá trình văn tư tu
Cái nhìn về đạo chân chính bắt đầu từ văn, tư và tu, gọi là tam học.
Những đệ tử của Bụt gọi là thanh văn (sravaka), là người nghe giáo lý để tu học.
Khi nghe giảng dạy về giáo lý, khi đọc Kinh, khi pháp đàm, ta thực tập văn học.
Văn học tức là học nghe.
Học nghe, ta phải có thái độ cởi mở, phải thao thức muốn hiểu, muốn thực hành, như thế mới gọi là văn học.
Còn nếu nghe để đàm luận, nghe chỉ để phê phán và chỉ trích, nghe để chứa chấp kiến thức rồi khoe khoang, đó chưa phải là văn học.
Tư là suy gẫm, tư duy, quán chiếu những điều mình nghe.
Ta nghe một điều gì, dù điều đó từ một vị đạo sư nổi tiếng nói ra ta cũng phải tư, tức là phải thẩm xét giá trị ứng dụng của những điều đó.
Ta không mù quáng nghe theo vô điều kiện.
Sau khi nghe rồi, phải tư.
Trong khi đang nghe, không tư, nghe là nghe mà thôi.
Nghe xong rồi lúc đó mới quán chiếu, mới suy tư (reflecting). | Ta không mù quáng nghe theo vô điều kiện.
Sau khi nghe rồi, phải tư.
Trong khi đang nghe, không tư, nghe là nghe mà thôi.
Nghe xong rồi lúc đó mới quán chiếu, mới suy tư (reflecting).
Tư là đem kinh nghiệm, đem trí tuệ, đem khổ đau của mình ra để mà xét nghiệm.
Xem thử những điều mình nghe có thể trả lời được những nỗi đau khổ, những thắc mắc, những thao thức của đời mình hay không, như thế gọi là tư học.
Nghe giống như gieo hạt giống vào đất.
Thực tập là tưới tẩm cho hạt giống có thể nẩy mầm.
Thực tập là tu, giai đoạn thứ ba gọi là tu học.
Nếu không đem ra thực tập thì việc nghe không có lợi ích nào cả.
Trong quá trình văn, tư, tu về đạo ta sẽ thấy được bản chất của đạo là làm bằng khổ, ta thấy khổ ở trong đạo.
đạo Bụt phát sinh là vì cuộc đời khổ đau, cho nên cuộc đời khổ đau là chất liệu làm ra đạo.
Sự tỉnh thức, sự thương yêu phát sinh từ khổ đau.
Trong quá trình văn, tư và tu chúng ta thấy khổ và tập ở trong đạo.
Chúng ta biết rằng tập, những nguyên do làm ra khổ, nếu chuyển hóa được, thì khổ sẽ vắng mặt.
Ba yếu tố khổ, tập và diệt có thể nhìn thấy trong đạo.
Tâm Kinh nói: “Không đạo”, có nghĩa là đạo không có ở ngoài khổ, tập và diệt.
Không có cái này thì không có cái kia.
Năm chữ “không khổ, tập, diệt, đạo” thuộc về chân đế, đó là sự thật vô lậu.
Ngay trong quá trình tiếp xúc với mặt tục đế, ta đã thấy được bản chất của đạo, và chuyển hóa được tập.
Nếu thấy cho rõ thì ta ngừng lại ngay, tự nhiên đi tới diệt. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ta không mù quáng nghe theo vô điều kiện.
Sau khi nghe rồi, phải tư.
Trong khi đang nghe, không tư, nghe là nghe mà thôi.
Nghe xong rồi lúc đó mới quán chiếu, mới suy tư (reflecting).
Tư là đem kinh nghiệm, đem trí tuệ, đem khổ đau của mình ra để mà xét nghiệm.
Xem thử những điều mình nghe có thể trả lời được những nỗi đau khổ, những thắc mắc, những thao thức của đời mình hay không, như thế gọi là tư học.
Nghe giống như gieo hạt giống vào đất.
Thực tập là tưới tẩm cho hạt giống có thể nẩy mầm.
Thực tập là tu, giai đoạn thứ ba gọi là tu học.
Nếu không đem ra thực tập thì việc nghe không có lợi ích nào cả.
Trong quá trình văn, tư, tu về đạo ta sẽ thấy được bản chất của đạo là làm bằng khổ, ta thấy khổ ở trong đạo.
đạo Bụt phát sinh là vì cuộc đời khổ đau, cho nên cuộc đời khổ đau là chất liệu làm ra đạo.
Sự tỉnh thức, sự thương yêu phát sinh từ khổ đau.
Trong quá trình văn, tư và tu chúng ta thấy khổ và tập ở trong đạo.
Chúng ta biết rằng tập, những nguyên do làm ra khổ, nếu chuyển hóa được, thì khổ sẽ vắng mặt.
Ba yếu tố khổ, tập và diệt có thể nhìn thấy trong đạo.
Tâm Kinh nói: “Không đạo”, có nghĩa là đạo không có ở ngoài khổ, tập và diệt.
Không có cái này thì không có cái kia.
Năm chữ “không khổ, tập, diệt, đạo” thuộc về chân đế, đó là sự thật vô lậu.
Ngay trong quá trình tiếp xúc với mặt tục đế, ta đã thấy được bản chất của đạo, và chuyển hóa được tập.
Nếu thấy cho rõ thì ta ngừng lại ngay, tự nhiên đi tới diệt. | Ngay trong quá trình tiếp xúc với mặt tục đế, ta đã thấy được bản chất của đạo, và chuyển hóa được tập.
Nếu thấy cho rõ thì ta ngừng lại ngay, tự nhiên đi tới diệt.
Chuyển hóa tập, thành tựu diệt sẽ làm vơi khổ, khiến cho cái khổ biến đi.
Nhờ quá trình văn, tư và tu mà lời nói và hành động của ta mỗi lúc mỗi tương ứng.
Ví dụ một người giảng giải rất hay về năm giới, nhưng vẫn chưa thực tập năm giới một cách vững chãi.
Nhờ quá trình văn, tư và tu nên sự thực tập năm giới càng ngày càng vững; và lời nói của ta đi đôi với hành động, ngôn hành tương ưng.
Nói theo Vương Dương Minh là tri hành hợp nhất.
Đạo vượt ngoài ngôn ngữ
Đạo bắt đầu bằng văn, tức là nghe, đọc và thâu nhận một số kiến thức.
Rồi nhờ quán chiếu, suy gẫm và áp dụng trong đời sống hàng ngày nên những kiến thức và ý niệm ban đầu biến dần thành tuệ giác thực sự.
Vì vậy chúng ta tránh nói tới đạo như là một chủ thuyết.
Nhìn vào một con người có văn, có tư và có tu thì ta thấy sự thể hiện của đạo.
Ta thấy người đó sẽ đạt tới diệt, buông bỏ được tập, và chuyển hóa được khổ.
Quá trình tu học lúc đầu dựa vào ngôn ngữ, dựa vào ý niệm.
Nhưng sau khi thực chứng, chúng ta sẽ không còn kẹt vào ngôn từ và ý niệm, sẽ tiếp xúc trực tiếp với bản môn.
đạo siêu việt ngữ ngôn, như trong đạo Đức Kinh có câu: đạo khả đạo, phi thường đạo, (đạo mà có thể đàm luận thì chưa phải đạo chân thường).
Có những người tới hỏi đạo cốt để chất vấn và cãi lý về đạo, ta chỉ nên mỉm cười.
Lý luận về đạo mất thì giờ, không có lợi ích gì. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ngay trong quá trình tiếp xúc với mặt tục đế, ta đã thấy được bản chất của đạo, và chuyển hóa được tập.
Nếu thấy cho rõ thì ta ngừng lại ngay, tự nhiên đi tới diệt.
Chuyển hóa tập, thành tựu diệt sẽ làm vơi khổ, khiến cho cái khổ biến đi.
Nhờ quá trình văn, tư và tu mà lời nói và hành động của ta mỗi lúc mỗi tương ứng.
Ví dụ một người giảng giải rất hay về năm giới, nhưng vẫn chưa thực tập năm giới một cách vững chãi.
Nhờ quá trình văn, tư và tu nên sự thực tập năm giới càng ngày càng vững; và lời nói của ta đi đôi với hành động, ngôn hành tương ưng.
Nói theo Vương Dương Minh là tri hành hợp nhất.
Đạo vượt ngoài ngôn ngữ
Đạo bắt đầu bằng văn, tức là nghe, đọc và thâu nhận một số kiến thức.
Rồi nhờ quán chiếu, suy gẫm và áp dụng trong đời sống hàng ngày nên những kiến thức và ý niệm ban đầu biến dần thành tuệ giác thực sự.
Vì vậy chúng ta tránh nói tới đạo như là một chủ thuyết.
Nhìn vào một con người có văn, có tư và có tu thì ta thấy sự thể hiện của đạo.
Ta thấy người đó sẽ đạt tới diệt, buông bỏ được tập, và chuyển hóa được khổ.
Quá trình tu học lúc đầu dựa vào ngôn ngữ, dựa vào ý niệm.
Nhưng sau khi thực chứng, chúng ta sẽ không còn kẹt vào ngôn từ và ý niệm, sẽ tiếp xúc trực tiếp với bản môn.
đạo siêu việt ngữ ngôn, như trong đạo Đức Kinh có câu: đạo khả đạo, phi thường đạo, (đạo mà có thể đàm luận thì chưa phải đạo chân thường).
Có những người tới hỏi đạo cốt để chất vấn và cãi lý về đạo, ta chỉ nên mỉm cười.
Lý luận về đạo mất thì giờ, không có lợi ích gì. | Có những người tới hỏi đạo cốt để chất vấn và cãi lý về đạo, ta chỉ nên mỉm cười.
Lý luận về đạo mất thì giờ, không có lợi ích gì.
Ngồi uống trà với nhau còn có đạo vị hơn.
Bước đầu học đạo cần phải có những khái niệm về vô thường và vô ngã, về khổ, tập và diệt.
Ban đầu ta cũng có thể dùng lý luận để dẹp trừ những tà thuyết.
Nhưng sau đó ngôn từ và lý luận cũng được vượt luôn và lúc đó người tu học sử dụng chính sự sống của mình.
Ta sống đời sống hàng ngày cách nào để cho người khác thấy chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh định và chánh kiến trở nên có mặt.
Kinh thường kể những câu chuyện về những nhà triết học cứ muốn đàm luận và cãi lý với Bụt về những đề tài như vô thường, vô ngã, và niết bàn.
Mỗi lần Bụt thấy một nhà triết học tới ngồi sẵn sàng để đấu lý như vậy thì Ngài chỉ mời ngồi uống trà.
Chúng ta nhớ lại câu chuyện một nhà triết học tới hỏi Bụt về vấn đề có ngã hay không có ngã.
Bụt ngồi im không nói gì.
Sau đó ông ta đi mất.
Thầy A Nan thắc mắc, thì Bụt bảo: “Ông ấy đi tìm một học thuyết để chống đối hoặc ủng hộ, chứ không đi tìm pháp môn tu học.
Nói không có ngã, ông sẽ bị kẹt, mà nói có ngã ông cũng bị kẹt.
Không nói là đỡ cho ông ta hơn.”
Đạo vượt lên trên ngữ ngôn, ý niệm và lý luận.
Nói như vậy không có nghĩa là ngữ ngôn và khái niệm không có ích lợi.
Khi người ta thao thức học hỏi để tu tập thì ngữ ngôn và khái niệm là những bảng chỉ đường có thể sử dụng được. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Có những người tới hỏi đạo cốt để chất vấn và cãi lý về đạo, ta chỉ nên mỉm cười.
Lý luận về đạo mất thì giờ, không có lợi ích gì.
Ngồi uống trà với nhau còn có đạo vị hơn.
Bước đầu học đạo cần phải có những khái niệm về vô thường và vô ngã, về khổ, tập và diệt.
Ban đầu ta cũng có thể dùng lý luận để dẹp trừ những tà thuyết.
Nhưng sau đó ngôn từ và lý luận cũng được vượt luôn và lúc đó người tu học sử dụng chính sự sống của mình.
Ta sống đời sống hàng ngày cách nào để cho người khác thấy chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh định và chánh kiến trở nên có mặt.
Kinh thường kể những câu chuyện về những nhà triết học cứ muốn đàm luận và cãi lý với Bụt về những đề tài như vô thường, vô ngã, và niết bàn.
Mỗi lần Bụt thấy một nhà triết học tới ngồi sẵn sàng để đấu lý như vậy thì Ngài chỉ mời ngồi uống trà.
Chúng ta nhớ lại câu chuyện một nhà triết học tới hỏi Bụt về vấn đề có ngã hay không có ngã.
Bụt ngồi im không nói gì.
Sau đó ông ta đi mất.
Thầy A Nan thắc mắc, thì Bụt bảo: “Ông ấy đi tìm một học thuyết để chống đối hoặc ủng hộ, chứ không đi tìm pháp môn tu học.
Nói không có ngã, ông sẽ bị kẹt, mà nói có ngã ông cũng bị kẹt.
Không nói là đỡ cho ông ta hơn.”
Đạo vượt lên trên ngữ ngôn, ý niệm và lý luận.
Nói như vậy không có nghĩa là ngữ ngôn và khái niệm không có ích lợi.
Khi người ta thao thức học hỏi để tu tập thì ngữ ngôn và khái niệm là những bảng chỉ đường có thể sử dụng được. | Nói như vậy không có nghĩa là ngữ ngôn và khái niệm không có ích lợi.
Khi người ta thao thức học hỏi để tu tập thì ngữ ngôn và khái niệm là những bảng chỉ đường có thể sử dụng được.
Cũng như bản đồ của một thành phố tuy không phải là thành phố nhưng có thể giúp ta đi trong phố xá mà không lạc đường.
Khi đạo đã là sự thật trong đời sống hàng ngày rồi thì sự tu học trở thành rất tự nhiên, rất nhẹ nhàng, không nặng về hình thức.
đạo có tính cách vô hành.
Vô hành là không làm gì cả.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương, xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỷ thứ ba, có câu: ngã pháp hành vô hành hạnh, tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng, (cái pháp của ta là hành cái hạnh vô hành, tu cái tu vô tu và chứng cái chứng vô chứng).
Ý nghĩa câu đó là đạo vượt thoát các hình thức và ý niệm.
Đạo đế cũng có phần hữu lậu và phần vô lậu.
Phần hữu lậu là thế gian (lokya), là phần hướng thượng, dần dần bớt khổ thêm vui.
Phần vô lậu là xuất thế gian (lokottara) là phần vượt thoát hoàn toàn biên giới của ngôn từ, ý niệm, khổ và vui.
Kinh chánh kiến
Chánh kiến thường được diễn tả là thấy được tam bảo, thấy được thiện ác, v.v.. Nhưng trước hết chánh kiến là phải thấy được bản chất về bốn sự thật.
Cái thấy về bốn sự thật là căn bản của chánh kiến.
Trong tam tạng kinh điển có nhiều Kinh nói về chánh kiến, cái thấy chân thật (samyak dr3/4sti).
Có một Kinh do thầy Xá Lợi Phất giảng, gọi là Kinh Chánh Kiến (Samaditthi sutta).
Kinh này là kinh thứ 9 ở Trung bộ (M. 9). |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nói như vậy không có nghĩa là ngữ ngôn và khái niệm không có ích lợi.
Khi người ta thao thức học hỏi để tu tập thì ngữ ngôn và khái niệm là những bảng chỉ đường có thể sử dụng được.
Cũng như bản đồ của một thành phố tuy không phải là thành phố nhưng có thể giúp ta đi trong phố xá mà không lạc đường.
Khi đạo đã là sự thật trong đời sống hàng ngày rồi thì sự tu học trở thành rất tự nhiên, rất nhẹ nhàng, không nặng về hình thức.
đạo có tính cách vô hành.
Vô hành là không làm gì cả.
Kinh Tứ Thập Nhị Chương, xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỷ thứ ba, có câu: ngã pháp hành vô hành hạnh, tu vô tu tu, chứng vô chứng chứng, (cái pháp của ta là hành cái hạnh vô hành, tu cái tu vô tu và chứng cái chứng vô chứng).
Ý nghĩa câu đó là đạo vượt thoát các hình thức và ý niệm.
Đạo đế cũng có phần hữu lậu và phần vô lậu.
Phần hữu lậu là thế gian (lokya), là phần hướng thượng, dần dần bớt khổ thêm vui.
Phần vô lậu là xuất thế gian (lokottara) là phần vượt thoát hoàn toàn biên giới của ngôn từ, ý niệm, khổ và vui.
Kinh chánh kiến
Chánh kiến thường được diễn tả là thấy được tam bảo, thấy được thiện ác, v.v.. Nhưng trước hết chánh kiến là phải thấy được bản chất về bốn sự thật.
Cái thấy về bốn sự thật là căn bản của chánh kiến.
Trong tam tạng kinh điển có nhiều Kinh nói về chánh kiến, cái thấy chân thật (samyak dr3/4sti).
Có một Kinh do thầy Xá Lợi Phất giảng, gọi là Kinh Chánh Kiến (Samaditthi sutta).
Kinh này là kinh thứ 9 ở Trung bộ (M. 9). | Có một Kinh do thầy Xá Lợi Phất giảng, gọi là Kinh Chánh Kiến (Samaditthi sutta).
Kinh này là kinh thứ 9 ở Trung bộ (M. 9).
Thầy Xá Lợi Phất đã nói nhiều Kinh về đề tài Tứ Diệu Đế, trong đó có Kinh gọi là Dấu Chân Voi, Tượng Tích Diệu Kinh.
Con voi chúa đi trước để lại những dấu chân rất lớn.
Những con đi sau có thể bước lên trên dấu chân đi trước; nhưng không có dấu chân con thú nào lớn bằng dấu chân con voi.
Giáo lý Tứ Diệu Đế cũng vậy, bao gồm tất cả các giáo lý khác.
Kinh Chánh Kiến ở Trung Bộ có một Kinh tương đương bằng Hán văn, đó là Kinh 344 ở Tạp A Hàm.
Học Kinh này ta thấy thầy Xá Lợi Phất dạy một sư em tên là Ma Ha Câu Thi La và một số các thầy khác về cái thấy chân chính.
Theo thầy Xá Lợi Phất chánh kiến trước hết là sự phân biệt những gốc rễ lành và những gốc rễ không lành, thiện căn và bất thiện căn (wholesome roots anh unwholesome roots).
Quán chiếu thì chúng ta sẽ thấy có ba loại gốc rễ lành là: vô tham (absence of greed), vô nhuế (absence of anger) và vô hại (absence of violence), tức là cái rễ không tham đắm, cái rễ không giận hờn và cái rễ bất bạo động.
Bất bạo động (ahimsa) tức là vô hại.
Vô hại tức là không muốn gây đổ vỡ cho mình, cho người và cho thiên nhiên).
Những gốc rễ bất thiện là tham, nhuế và hại.
Nó có nghĩa là vướng mắc, là thèm khát, không bao giờ thỏa mãn.
Ngược lại với tham là tri túc, tức là bằng lòng với tình trạng vừa đủ, để có an lạc cho thân tâm.
Các thầy khác hỏi: Có chánh kiến về các phương diện khác không? |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Có một Kinh do thầy Xá Lợi Phất giảng, gọi là Kinh Chánh Kiến (Samaditthi sutta).
Kinh này là kinh thứ 9 ở Trung bộ (M. 9).
Thầy Xá Lợi Phất đã nói nhiều Kinh về đề tài Tứ Diệu Đế, trong đó có Kinh gọi là Dấu Chân Voi, Tượng Tích Diệu Kinh.
Con voi chúa đi trước để lại những dấu chân rất lớn.
Những con đi sau có thể bước lên trên dấu chân đi trước; nhưng không có dấu chân con thú nào lớn bằng dấu chân con voi.
Giáo lý Tứ Diệu Đế cũng vậy, bao gồm tất cả các giáo lý khác.
Kinh Chánh Kiến ở Trung Bộ có một Kinh tương đương bằng Hán văn, đó là Kinh 344 ở Tạp A Hàm.
Học Kinh này ta thấy thầy Xá Lợi Phất dạy một sư em tên là Ma Ha Câu Thi La và một số các thầy khác về cái thấy chân chính.
Theo thầy Xá Lợi Phất chánh kiến trước hết là sự phân biệt những gốc rễ lành và những gốc rễ không lành, thiện căn và bất thiện căn (wholesome roots anh unwholesome roots).
Quán chiếu thì chúng ta sẽ thấy có ba loại gốc rễ lành là: vô tham (absence of greed), vô nhuế (absence of anger) và vô hại (absence of violence), tức là cái rễ không tham đắm, cái rễ không giận hờn và cái rễ bất bạo động.
Bất bạo động (ahimsa) tức là vô hại.
Vô hại tức là không muốn gây đổ vỡ cho mình, cho người và cho thiên nhiên).
Những gốc rễ bất thiện là tham, nhuế và hại.
Nó có nghĩa là vướng mắc, là thèm khát, không bao giờ thỏa mãn.
Ngược lại với tham là tri túc, tức là bằng lòng với tình trạng vừa đủ, để có an lạc cho thân tâm.
Các thầy khác hỏi: Có chánh kiến về các phương diện khác không? | Ngược lại với tham là tri túc, tức là bằng lòng với tình trạng vừa đủ, để có an lạc cho thân tâm.
Các thầy khác hỏi: Có chánh kiến về các phương diện khác không?
Thầy Xá Lợi Phất trả lời: Có chứ, ví dụ chúng ta nói đến chánh kiến về phương diện các loại thức ăn.
Chúng ta phải phân biệt bốn loại thức ăn.
Bốn loại thức ăn
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta.
Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
Chúng ta phải biết những thức ăn và thức uống nào gây tàn phá và làm mất sự điều hòa trong cơ thể.
Khi chúng ta ăn những món hiền lành và bổ dưỡng thì chúng ta cũng biết.
Ta thực tập chánh kiến ngay trong đời sống hàng ngày, trên bàn ăn và trong khi nấu ăn, chứ không phải chỉ thực tập trong thiền đường mà thôi.
Trước khi ăn chúng ta nói: “chỉ xin ăn những thức ăn có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh”, đó là chánh kiến áp dụng khi ăn và khi nấu ăn.
Nói về đoàn thực, Bụt đã dùng hình ảnh của hai vợ chồng nhà kia ăn thịt con.
Hai vợ chồng này mang đứa con trai duy nhất đi qua sa mạc.
Họ nghĩ rằng số lương thực đem theo là đủ cho chuyến đi.
Nhưng chưa ra khỏi sa mạc họ đã hết thực phẩm.
Hai vợ chồng biết rằng cả ba người sẽ chết đói.
Cuối cùng họ phải đành tâm ăn thịt đứa con để có thể sống mà ra khỏi sa mạc.
Họ vừa ăn thịt con vừa khóc. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ngược lại với tham là tri túc, tức là bằng lòng với tình trạng vừa đủ, để có an lạc cho thân tâm.
Các thầy khác hỏi: Có chánh kiến về các phương diện khác không?
Thầy Xá Lợi Phất trả lời: Có chứ, ví dụ chúng ta nói đến chánh kiến về phương diện các loại thức ăn.
Chúng ta phải phân biệt bốn loại thức ăn.
Bốn loại thức ăn
Loại thức ăn thứ nhất là đoàn thực, tức là những thức ăn đi vào miệng của chúng ta.
Chánh kiến cũng là biết phân biệt những đoàn thực có hại và những đoàn thực không có hại.
Chúng ta phải biết những thức ăn và thức uống nào gây tàn phá và làm mất sự điều hòa trong cơ thể.
Khi chúng ta ăn những món hiền lành và bổ dưỡng thì chúng ta cũng biết.
Ta thực tập chánh kiến ngay trong đời sống hàng ngày, trên bàn ăn và trong khi nấu ăn, chứ không phải chỉ thực tập trong thiền đường mà thôi.
Trước khi ăn chúng ta nói: “chỉ xin ăn những thức ăn có tác dụng nuôi dưỡng và ngăn ngừa tật bệnh”, đó là chánh kiến áp dụng khi ăn và khi nấu ăn.
Nói về đoàn thực, Bụt đã dùng hình ảnh của hai vợ chồng nhà kia ăn thịt con.
Hai vợ chồng này mang đứa con trai duy nhất đi qua sa mạc.
Họ nghĩ rằng số lương thực đem theo là đủ cho chuyến đi.
Nhưng chưa ra khỏi sa mạc họ đã hết thực phẩm.
Hai vợ chồng biết rằng cả ba người sẽ chết đói.
Cuối cùng họ phải đành tâm ăn thịt đứa con để có thể sống mà ra khỏi sa mạc.
Họ vừa ăn thịt con vừa khóc. | Nhưng chưa ra khỏi sa mạc họ đã hết thực phẩm.
Hai vợ chồng biết rằng cả ba người sẽ chết đói.
Cuối cùng họ phải đành tâm ăn thịt đứa con để có thể sống mà ra khỏi sa mạc.
Họ vừa ăn thịt con vừa khóc.
Bụt hỏi rằng: “Này các thầy, khi hai vợ chồng đó ăn thịt đứa con thì họ có thấy thích thú gì không?” Các thầy thưa: “Bạch đức Thế Tôn, làm sao thích thú được khi biết mình đang ăn thịt con.” Bụt dạy: “Trong đời sống hàng ngày, trong khi tiêu thụ, chúng ta cũng phải biết thức ăn của mình đã có thể được tạo ra bằng sự đau khổ cùng cực của kẻ khác, của những loài sinh vật khác.” Hai tay nâng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Ăn không có chánh niệm, ta tạo khổ đau cho mọi loài và khổ đau cho chính bản thân ta.
Khi ta hút thuốc, uống rượu, ăn nhiều thức béo vào, là ta đang ăn bộ phổi của ta, đang ăn buồng gan, trái tim của ta, tự đang ăn thịt ta.
Nếu là cha, là mẹ thì lúc đó ta đang ăn thịt con ta tại vì các con cần có cha mẹ mạnh khỏe, tươi vui.
Và nếu cha mẹ trong khi ăn uống mà tàn hại thân thể của chính mình thì chính cha mẹ đang giết con.
Thành ra ăn như thế nào để đừng tạo ra những khổ đau cho các loài và đừng tạo khổ đau cho chính mình, đó là chánh niệm và chánh kiến.
Đạo Bụt trong cả Nam Tông và Bắc Tông đều tin rằng chúng sanh từ đời này sang đời khác thay phiên lần lượt làm cha làm mẹ của nhau.
Vì vậy mỗi khi ăn thịt, chúng ta hãy có ý thức rằng có thể ta đang ăn thịt cha mẹ hay con cái của ta.
Do đó chúng ta đã tập ăn chay và tập không sát sanh. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nhưng chưa ra khỏi sa mạc họ đã hết thực phẩm.
Hai vợ chồng biết rằng cả ba người sẽ chết đói.
Cuối cùng họ phải đành tâm ăn thịt đứa con để có thể sống mà ra khỏi sa mạc.
Họ vừa ăn thịt con vừa khóc.
Bụt hỏi rằng: “Này các thầy, khi hai vợ chồng đó ăn thịt đứa con thì họ có thấy thích thú gì không?” Các thầy thưa: “Bạch đức Thế Tôn, làm sao thích thú được khi biết mình đang ăn thịt con.” Bụt dạy: “Trong đời sống hàng ngày, trong khi tiêu thụ, chúng ta cũng phải biết thức ăn của mình đã có thể được tạo ra bằng sự đau khổ cùng cực của kẻ khác, của những loài sinh vật khác.” Hai tay nâng bát cơm đầy, dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.
Ăn không có chánh niệm, ta tạo khổ đau cho mọi loài và khổ đau cho chính bản thân ta.
Khi ta hút thuốc, uống rượu, ăn nhiều thức béo vào, là ta đang ăn bộ phổi của ta, đang ăn buồng gan, trái tim của ta, tự đang ăn thịt ta.
Nếu là cha, là mẹ thì lúc đó ta đang ăn thịt con ta tại vì các con cần có cha mẹ mạnh khỏe, tươi vui.
Và nếu cha mẹ trong khi ăn uống mà tàn hại thân thể của chính mình thì chính cha mẹ đang giết con.
Thành ra ăn như thế nào để đừng tạo ra những khổ đau cho các loài và đừng tạo khổ đau cho chính mình, đó là chánh niệm và chánh kiến.
Đạo Bụt trong cả Nam Tông và Bắc Tông đều tin rằng chúng sanh từ đời này sang đời khác thay phiên lần lượt làm cha làm mẹ của nhau.
Vì vậy mỗi khi ăn thịt, chúng ta hãy có ý thức rằng có thể ta đang ăn thịt cha mẹ hay con cái của ta.
Do đó chúng ta đã tập ăn chay và tập không sát sanh. | Vì vậy mỗi khi ăn thịt, chúng ta hãy có ý thức rằng có thể ta đang ăn thịt cha mẹ hay con cái của ta.
Do đó chúng ta đã tập ăn chay và tập không sát sanh.
Loại thức ăn thứ hai là xúc thực.
Chúng ta có sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Chúng tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.
Ta phải thấy rằng việc tiếp xúc đó có đem chất độc vào người hay không.
Ví dụ như khi ta xem truyền hình, mắt ta tiếp xúc với hình sắc.
Phải thực tập chánh kiến xem chương trình truyền hình kia có đưa vào trong tâm ta những độc tố như sợ hãi, căm thù và bạo động hay không.
Có những phim mang lại cho lòng ta sự hiểu biết, lòng từ bi, chí quyết tâm muốn giúp người, quyết tâm không làm những điều lầm lỗi.
Ta biết ta có thể xem phim đó.
Ấy là ta thực tập chánh kiến.
Người lớn cũng như trẻ em, trong khi xem phim, phải biết thực tập chánh kiến.
Phải biết rằng có những chương trình truyền hình chứa đựng rất nhiều độc tố như bạo động, căm thù và dục vọng.
Ngay cả những phim quảng cáo cũng khơi động thèm khát, dục vọng hay sợ hãi của người ta.
Khi xem một tờ báo không có chánh niệm, chúng ta có thể tiếp nhận rất nhiều độc tố.
đọc xong ta có thể mệt nhoài vì những điều ta đọc có thể khiến chúng ta chán nản, lo lắng và ghê sợ.
Chính những câu chuyện hàng ngày cũng có thể mang nhiều độc tố.
Chánh kiến phát sinh ra chánh niệm và chánh niệm cũng làm phát sinh chánh kiến. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Vì vậy mỗi khi ăn thịt, chúng ta hãy có ý thức rằng có thể ta đang ăn thịt cha mẹ hay con cái của ta.
Do đó chúng ta đã tập ăn chay và tập không sát sanh.
Loại thức ăn thứ hai là xúc thực.
Chúng ta có sáu căn là mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý.
Chúng tiếp xúc với sắc, thanh, hương, vị, xúc và pháp.
Ta phải thấy rằng việc tiếp xúc đó có đem chất độc vào người hay không.
Ví dụ như khi ta xem truyền hình, mắt ta tiếp xúc với hình sắc.
Phải thực tập chánh kiến xem chương trình truyền hình kia có đưa vào trong tâm ta những độc tố như sợ hãi, căm thù và bạo động hay không.
Có những phim mang lại cho lòng ta sự hiểu biết, lòng từ bi, chí quyết tâm muốn giúp người, quyết tâm không làm những điều lầm lỗi.
Ta biết ta có thể xem phim đó.
Ấy là ta thực tập chánh kiến.
Người lớn cũng như trẻ em, trong khi xem phim, phải biết thực tập chánh kiến.
Phải biết rằng có những chương trình truyền hình chứa đựng rất nhiều độc tố như bạo động, căm thù và dục vọng.
Ngay cả những phim quảng cáo cũng khơi động thèm khát, dục vọng hay sợ hãi của người ta.
Khi xem một tờ báo không có chánh niệm, chúng ta có thể tiếp nhận rất nhiều độc tố.
đọc xong ta có thể mệt nhoài vì những điều ta đọc có thể khiến chúng ta chán nản, lo lắng và ghê sợ.
Chính những câu chuyện hàng ngày cũng có thể mang nhiều độc tố.
Chánh kiến phát sinh ra chánh niệm và chánh niệm cũng làm phát sinh chánh kiến. | Chính những câu chuyện hàng ngày cũng có thể mang nhiều độc tố.
Chánh kiến phát sinh ra chánh niệm và chánh niệm cũng làm phát sinh chánh kiến.
Tôi biết rằng nhìn, nghe và tiếp xúc với những gì thì thân tâm tôi sẽ khỏe khoắn, nhẹ nhàng và an lạc và tôi quyết định mỗi ngày tiếp xúc với những chất liệu đó.
Còn những thứ làm tôi mệt, tôi buồn, tôi lo, tôi giận thì tôi sẽ tránh không tiếp xúc.
Đó là chánh niệm về xúc thực, có được nhờ chánh kiến về xúc thực.
Bụt dạy rằng con người rất dễ bị thương tích, trên cơ thể cũng như trên tâm hồn.
Bụt đã dùng hình ảnh một con bò bị lột da dẫn xuống sông.
Dưới sông có hàng vạn loài sinh vật li ti bu lại hút máu và rỉa thịt con bò.
Và khi ta đưa con bò tới đứng gần một bức tường hay một thân cây cổ thụ, cũng có những sinh vật li ti sống trên bức tường và trong cây cổ thụ bay ra, bám vào con bò để hút máu.
Nếu chúng ta không giữ gìn thân và tâm bằng chánh kiến và chánh niệm thì các độc tố trong cuộc đời cũng bám lại và tàn phá thân tâm ta.
Năm giới mà chúng ta tiếp nhận và hành trì là bộ da bao bọc thân thể và tâm hồn ta.
Nếu không hành trì năm giới là chúng ta không thực tập chánh kiến.
Và trong mỗi chúng ta vốn đã có hạt giống của chánh niệm.
Thực tập chánh niệm cũng như tạo ra những kháng thể để chống lại sự thâm nhập của các độc tố kia.
Loại thức ăn thứ ba là tư niệm thực.
Đó là những nỗi ước ao ta muốn thực hiện cho đời ta. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Chính những câu chuyện hàng ngày cũng có thể mang nhiều độc tố.
Chánh kiến phát sinh ra chánh niệm và chánh niệm cũng làm phát sinh chánh kiến.
Tôi biết rằng nhìn, nghe và tiếp xúc với những gì thì thân tâm tôi sẽ khỏe khoắn, nhẹ nhàng và an lạc và tôi quyết định mỗi ngày tiếp xúc với những chất liệu đó.
Còn những thứ làm tôi mệt, tôi buồn, tôi lo, tôi giận thì tôi sẽ tránh không tiếp xúc.
Đó là chánh niệm về xúc thực, có được nhờ chánh kiến về xúc thực.
Bụt dạy rằng con người rất dễ bị thương tích, trên cơ thể cũng như trên tâm hồn.
Bụt đã dùng hình ảnh một con bò bị lột da dẫn xuống sông.
Dưới sông có hàng vạn loài sinh vật li ti bu lại hút máu và rỉa thịt con bò.
Và khi ta đưa con bò tới đứng gần một bức tường hay một thân cây cổ thụ, cũng có những sinh vật li ti sống trên bức tường và trong cây cổ thụ bay ra, bám vào con bò để hút máu.
Nếu chúng ta không giữ gìn thân và tâm bằng chánh kiến và chánh niệm thì các độc tố trong cuộc đời cũng bám lại và tàn phá thân tâm ta.
Năm giới mà chúng ta tiếp nhận và hành trì là bộ da bao bọc thân thể và tâm hồn ta.
Nếu không hành trì năm giới là chúng ta không thực tập chánh kiến.
Và trong mỗi chúng ta vốn đã có hạt giống của chánh niệm.
Thực tập chánh niệm cũng như tạo ra những kháng thể để chống lại sự thâm nhập của các độc tố kia.
Loại thức ăn thứ ba là tư niệm thực.
Đó là những nỗi ước ao ta muốn thực hiện cho đời ta. | Thực tập chánh niệm cũng như tạo ra những kháng thể để chống lại sự thâm nhập của các độc tố kia.
Loại thức ăn thứ ba là tư niệm thực.
Đó là những nỗi ước ao ta muốn thực hiện cho đời ta.
Mong muốn làm giám đốc một hãng buôn lớn, hay mong muốn đậu bằng tiến sĩ, những mong muốn như thế thâm nhập vào người ta giống như một thức ăn.
Mong muốn là một loại thực phẩm gọi là tư niệm thực.
Ước muốn mạnh sẽ giúp ta năng lượng để thực hiện hoài bão.
Nhưng có những loại tư niệm thực làm cho ta khổ đau suốt đời.
Như danh, lợi, tài và sắc.
Muốn được mạnh khỏe và tươi vui, muốn được giúp đỡ cho gia đình và xã hội, muốn bảo vệ thiên nhiên, tu tập để chuyển hóa, để thành một bậc giác ngộ độ thoát cho đời v.v.. thì đó là loại tư niệm thực có thể đưa tới an lạc, hạnh phúc.
Về tư niệm thực, Bụt kể chuyện một người bị hai lực sĩ kéo xềnh xệch trên mặt đất để đi tới một hầm lửa.
Hai lực sĩ khiêng người kia ném xuống hầm lửa đang bốc cháy.
Bụt nói rằng khi ta bị những tư niệm thực bất thiện chiếm cứ, bị danh, lợi, tài và sắc lôi cuốn thì cũng như ta bị những chàng lực sĩ kéo đi liệng xuống hầm lửa.
Do đó người tu học phải có chánh kiến, phải nhận diện được tư niệm thực trong ta là loại nào.
Loại thức ăn thứ tư là thức thực.
Chúng ta là sự biểu hiện của thức, gồm có y báo và chánh báo.
Chánh báo là con người gồm năm uẩn của ta và y báo thuộc hoàn cảnh chung quanh ta.
Vì hành động tự nhiều kiếp xưa nên bây giờ ta có chánh báo này, với y báo này.
Chánh báo và y báo đều là sự biểu hiện của tâm thức. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Thực tập chánh niệm cũng như tạo ra những kháng thể để chống lại sự thâm nhập của các độc tố kia.
Loại thức ăn thứ ba là tư niệm thực.
Đó là những nỗi ước ao ta muốn thực hiện cho đời ta.
Mong muốn làm giám đốc một hãng buôn lớn, hay mong muốn đậu bằng tiến sĩ, những mong muốn như thế thâm nhập vào người ta giống như một thức ăn.
Mong muốn là một loại thực phẩm gọi là tư niệm thực.
Ước muốn mạnh sẽ giúp ta năng lượng để thực hiện hoài bão.
Nhưng có những loại tư niệm thực làm cho ta khổ đau suốt đời.
Như danh, lợi, tài và sắc.
Muốn được mạnh khỏe và tươi vui, muốn được giúp đỡ cho gia đình và xã hội, muốn bảo vệ thiên nhiên, tu tập để chuyển hóa, để thành một bậc giác ngộ độ thoát cho đời v.v.. thì đó là loại tư niệm thực có thể đưa tới an lạc, hạnh phúc.
Về tư niệm thực, Bụt kể chuyện một người bị hai lực sĩ kéo xềnh xệch trên mặt đất để đi tới một hầm lửa.
Hai lực sĩ khiêng người kia ném xuống hầm lửa đang bốc cháy.
Bụt nói rằng khi ta bị những tư niệm thực bất thiện chiếm cứ, bị danh, lợi, tài và sắc lôi cuốn thì cũng như ta bị những chàng lực sĩ kéo đi liệng xuống hầm lửa.
Do đó người tu học phải có chánh kiến, phải nhận diện được tư niệm thực trong ta là loại nào.
Loại thức ăn thứ tư là thức thực.
Chúng ta là sự biểu hiện của thức, gồm có y báo và chánh báo.
Chánh báo là con người gồm năm uẩn của ta và y báo thuộc hoàn cảnh chung quanh ta.
Vì hành động tự nhiều kiếp xưa nên bây giờ ta có chánh báo này, với y báo này.
Chánh báo và y báo đều là sự biểu hiện của tâm thức. | Vì hành động tự nhiều kiếp xưa nên bây giờ ta có chánh báo này, với y báo này.
Chánh báo và y báo đều là sự biểu hiện của tâm thức.
Khi làm công việc nhận thức, tâm cũng giống như cơ thể đón nhận các món ăn.
Nếu trong quá khứ tâm thức ta đã tiếp nhận những thức ăn độc hại, thì nay tâm thức ta biểu hiện ra y báo và chánh báo không lành.
Những gì ta thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc, suy tư, tưởng tượng, tất cả những thứ ấy đều như muôn sông chảy về biển tâm thức.
Và những vô minh, hận thù và buồn khổ của ta đều trôi về biển cả của tâm thức ta.
Vì vậy ta phải biết mỗi ngày chúng ta nhận vào tâm thức của ta những món ăn nào.
Chúng ta cho tâm thức ăn Kinh Kim Cương, Kinh Pháp Hoa hay là chúng ta cho nó ăn tham, sân, si, mạn, nghi và tà kiến?
Chúng ta cho nó ăn từ, bi, hỷ, xả hay là chúng ta cho nó ăn trạo cử, hôn trầm, giãi đãi, phóng dật?
Về thức thực, Bụt đã dùng hình ảnh một người tử tù và ông vua.
Buổi sáng vua ra lệnh lấy 300 lưỡi dao cắm vào thân thể của một tử tội.
Tới buổi chiều vua hỏi: “Người tù đó bây giờ sao?” - “Tâu bệ Hạ, nó còn sống.” - “Vậy thì đem nó ra, lấy 300 lưỡi dao đâm qua người nó một lần” nữa.” Và buổi tối, vua hỏi: “Kẻ đó bây giờ ra sao?” - “Còn sống.” - “Hãy lấy 300 mũi dao đâm qua thân thể nó một lần nữa!” Bụt dùng ví dụ đó để nói chúng ta cũng đang hành hạ tâm thức của ta y như thế.
Mỗi ngày chúng ta đâm 300 mũi dao của độc tố vào trong tâm thức ta.
Những mũi dao của tham lam, giận dữ, ganh tỵ, hờn giận, thù oán, vô minh. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Vì hành động tự nhiều kiếp xưa nên bây giờ ta có chánh báo này, với y báo này.
Chánh báo và y báo đều là sự biểu hiện của tâm thức.
Khi làm công việc nhận thức, tâm cũng giống như cơ thể đón nhận các món ăn.
Nếu trong quá khứ tâm thức ta đã tiếp nhận những thức ăn độc hại, thì nay tâm thức ta biểu hiện ra y báo và chánh báo không lành.
Những gì ta thấy, nghe, ngửi, nếm, tiếp xúc, suy tư, tưởng tượng, tất cả những thứ ấy đều như muôn sông chảy về biển tâm thức.
Và những vô minh, hận thù và buồn khổ của ta đều trôi về biển cả của tâm thức ta.
Vì vậy ta phải biết mỗi ngày chúng ta nhận vào tâm thức của ta những món ăn nào.
Chúng ta cho tâm thức ăn Kinh Kim Cương, Kinh Pháp Hoa hay là chúng ta cho nó ăn tham, sân, si, mạn, nghi và tà kiến?
Chúng ta cho nó ăn từ, bi, hỷ, xả hay là chúng ta cho nó ăn trạo cử, hôn trầm, giãi đãi, phóng dật?
Về thức thực, Bụt đã dùng hình ảnh một người tử tù và ông vua.
Buổi sáng vua ra lệnh lấy 300 lưỡi dao cắm vào thân thể của một tử tội.
Tới buổi chiều vua hỏi: “Người tù đó bây giờ sao?” - “Tâu bệ Hạ, nó còn sống.” - “Vậy thì đem nó ra, lấy 300 lưỡi dao đâm qua người nó một lần” nữa.” Và buổi tối, vua hỏi: “Kẻ đó bây giờ ra sao?” - “Còn sống.” - “Hãy lấy 300 mũi dao đâm qua thân thể nó một lần nữa!” Bụt dùng ví dụ đó để nói chúng ta cũng đang hành hạ tâm thức của ta y như thế.
Mỗi ngày chúng ta đâm 300 mũi dao của độc tố vào trong tâm thức ta.
Những mũi dao của tham lam, giận dữ, ganh tỵ, hờn giận, thù oán, vô minh. | Mỗi ngày chúng ta đâm 300 mũi dao của độc tố vào trong tâm thức ta.
Những mũi dao của tham lam, giận dữ, ganh tỵ, hờn giận, thù oán, vô minh.
Bốn ví dụ kể trên được chép trong Kinh Tử Nhục.
Tử Nhục là thịt của đứa con.
Bốn ví dụ nghe rất ghê sợ, có tác dụng răn bảo chúng ta phải tỉnh táo giữ gìn chánh kiến.
Thầy Xá Lợi Phất nói: “Người có chánh kiến là người hiểu được bản chất của bốn loại thực phẩm như trên”.
Nếu anh chưa biết được cái bản chất của bốn loại thực phẩm là anh chưa có chánh kiến.
Sau khi thầy Xá Lợi Phất nói về bốn loại thực phẩm, các thầy khác lại hỏi tiếp: “Có thể nói về chánh kiến dưới một phương diện khác nữa hay không?” Thầy Xá Lợi Phất trả lời: “Có, chánh kiến là cái thấy của chúng ta về bốn sự thật, gọi là tứ đế.
Phải thấy được khổ, phải thấy được tập, phải thấy được diệt, phải thấy được đạo.” Các thầy hỏi thêm, thì thầy Xá Lợi Phất nói tiếp về chánh kiến qua mười hai nhân duyên.
Các thầy lại hỏi thêm nữa, và thầy Xá Lợi Phất nói rằng chánh kiến có thể nhìn dưới khía cạnh hữu lậu và vô lậu.
Phần hữu lậu là thế gian và phần vô lậu là xuất thế gian.
Phần thứ nhất là hướng thượng, phần thứ hai là lậu tận.
Khi nào diệt hết phiền não thì gọi là lậu tận, tức là vượt ra khỏi biên giới của khổ đau.
Những điều này cũng được nói tới trong nhiều Kinh khác [4].
Chúng ta phải bắt đầu bằng phần thế gian.
Chánh kiến (right view) là cái đi ngược lại với tà kiến (wrong view).
Tà kiến là nói rằng không có nhân quả, không có thiện ác, không có cha mẹ, không có tình nghĩa. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Mỗi ngày chúng ta đâm 300 mũi dao của độc tố vào trong tâm thức ta.
Những mũi dao của tham lam, giận dữ, ganh tỵ, hờn giận, thù oán, vô minh.
Bốn ví dụ kể trên được chép trong Kinh Tử Nhục.
Tử Nhục là thịt của đứa con.
Bốn ví dụ nghe rất ghê sợ, có tác dụng răn bảo chúng ta phải tỉnh táo giữ gìn chánh kiến.
Thầy Xá Lợi Phất nói: “Người có chánh kiến là người hiểu được bản chất của bốn loại thực phẩm như trên”.
Nếu anh chưa biết được cái bản chất của bốn loại thực phẩm là anh chưa có chánh kiến.
Sau khi thầy Xá Lợi Phất nói về bốn loại thực phẩm, các thầy khác lại hỏi tiếp: “Có thể nói về chánh kiến dưới một phương diện khác nữa hay không?” Thầy Xá Lợi Phất trả lời: “Có, chánh kiến là cái thấy của chúng ta về bốn sự thật, gọi là tứ đế.
Phải thấy được khổ, phải thấy được tập, phải thấy được diệt, phải thấy được đạo.” Các thầy hỏi thêm, thì thầy Xá Lợi Phất nói tiếp về chánh kiến qua mười hai nhân duyên.
Các thầy lại hỏi thêm nữa, và thầy Xá Lợi Phất nói rằng chánh kiến có thể nhìn dưới khía cạnh hữu lậu và vô lậu.
Phần hữu lậu là thế gian và phần vô lậu là xuất thế gian.
Phần thứ nhất là hướng thượng, phần thứ hai là lậu tận.
Khi nào diệt hết phiền não thì gọi là lậu tận, tức là vượt ra khỏi biên giới của khổ đau.
Những điều này cũng được nói tới trong nhiều Kinh khác [4].
Chúng ta phải bắt đầu bằng phần thế gian.
Chánh kiến (right view) là cái đi ngược lại với tà kiến (wrong view).
Tà kiến là nói rằng không có nhân quả, không có thiện ác, không có cha mẹ, không có tình nghĩa. | Chánh kiến (right view) là cái đi ngược lại với tà kiến (wrong view).
Tà kiến là nói rằng không có nhân quả, không có thiện ác, không có cha mẹ, không có tình nghĩa.
Chánh kiến là biết có nhân có quả, có phân biệt thiện ác, có đời trước đời này, có cha có mẹ, có tình có nghĩa, v.v.. Chúng ta phải bắt đầu từ phần đạo đức thế gian, theo lời thầy Xá Lợi Phất dạy.
Chánh kiến gồm khả năng nhận diện những thiện căn và những ác căn ở trong ta, khả năng thấy được bản chất của Tứ Diệu Đế, khả năng có thể thấy được bốn loại thực phẩm, và khả năng có thể thấy được mười hai duyên khởi.
Tưới tẩm hạt giống chánh kiến
Làm thế nào để đạt được chánh kiến?
Trước hết chúng ta phải học.
Quá trình văn, tư, tu (nghe - suy nghiệm - thực tập) bắt đầu bằng văn, nghĩa là phải học, phải tập lắng nghe.
Chánh kiến có thể trao truyền được không, hay là tự mình phải đạt lấy?
Ta nhớ rằng chánh kiến đã có sẵn hạt giống ở trong mỗi người.
Thầy giỏi và bạn giỏi là những người có thể khơi động được hạt giống của chánh kiến ở trong ta.
Người dạy ta có chánh kiến không, và đã chứng đạt tới mức nào?
Chánh kiến của người ấy đã vững chãi chưa hay chỉ là một số khái niệm học được từ các thầy khác hay trong Kinh sách?
Học không phải là thâu thập kiến thức.
Học lý thuyết mà không chứng nghiệm thì cũng như con tằm ăn lá dâu mà không làm được tơ, không có ích lợi gì cả.
Chánh kiến có thể thụ nhận, có thể trao truyền.
Nhưng việc trao và nhận cần nhiều điều kiện. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Chánh kiến (right view) là cái đi ngược lại với tà kiến (wrong view).
Tà kiến là nói rằng không có nhân quả, không có thiện ác, không có cha mẹ, không có tình nghĩa.
Chánh kiến là biết có nhân có quả, có phân biệt thiện ác, có đời trước đời này, có cha có mẹ, có tình có nghĩa, v.v.. Chúng ta phải bắt đầu từ phần đạo đức thế gian, theo lời thầy Xá Lợi Phất dạy.
Chánh kiến gồm khả năng nhận diện những thiện căn và những ác căn ở trong ta, khả năng thấy được bản chất của Tứ Diệu Đế, khả năng có thể thấy được bốn loại thực phẩm, và khả năng có thể thấy được mười hai duyên khởi.
Tưới tẩm hạt giống chánh kiến
Làm thế nào để đạt được chánh kiến?
Trước hết chúng ta phải học.
Quá trình văn, tư, tu (nghe - suy nghiệm - thực tập) bắt đầu bằng văn, nghĩa là phải học, phải tập lắng nghe.
Chánh kiến có thể trao truyền được không, hay là tự mình phải đạt lấy?
Ta nhớ rằng chánh kiến đã có sẵn hạt giống ở trong mỗi người.
Thầy giỏi và bạn giỏi là những người có thể khơi động được hạt giống của chánh kiến ở trong ta.
Người dạy ta có chánh kiến không, và đã chứng đạt tới mức nào?
Chánh kiến của người ấy đã vững chãi chưa hay chỉ là một số khái niệm học được từ các thầy khác hay trong Kinh sách?
Học không phải là thâu thập kiến thức.
Học lý thuyết mà không chứng nghiệm thì cũng như con tằm ăn lá dâu mà không làm được tơ, không có ích lợi gì cả.
Chánh kiến có thể thụ nhận, có thể trao truyền.
Nhưng việc trao và nhận cần nhiều điều kiện. | Chánh kiến có thể thụ nhận, có thể trao truyền.
Nhưng việc trao và nhận cần nhiều điều kiện.
Người dạy ta về chánh kiến, cuốn sách ta đọc, cuốn Kinh ta tụng phải có khả năng thức động những hạt giống chánh kiến trong ta.
Hạt giống chánh kiến có sẵn.
Bụt dạy tất cả mọi người đều có hạt giống của tuệ giác.
Cho nên khi được nghe, được tiếp xúc với những dấu hiệu của chánh kiến thì tự nhiên ta sẽ hiểu.
Những kinh nghiệm khổ đau của ta cũng giúp ta tiếp nhận chánh kiến.
Chánh kiến chỉ có thể trao truyền trong những thời gian và địa điểm thích hợp, bằng ngôn ngữ từ ái, khế cơ, những ngôn ngữ có khả năng đánh thức được hạt giống chánh kiến có sẵn trong người nghe.
Người nghe lúc đầu có thể chỉ hiểu bằng trí óc thôi, điều nghe chưa thấm vào tâm thức hoặc chưa thể nghiệm được, vì còn thiếu kinh nghiệm sống.
Nhưng hạt giống chánh kiến chứa sẵn trong tâm một ngày kia sẽ nẩy mầm.
Khi kinh nghiệm đau khổ đã chín mùi thì chỉ cần nghe một câu nói hay một bài pháp thoại là người ấy đã có thể chuyển hóa.
Cho nên tạo ra những điều kiện giúp ta tiếp nhận chánh kiến là điều rất quan trọng.
Nhiều người thấy mình đã sẵn sàng để tiếp nhận chánh pháp, nhưng vẫn phải chuẩn bị một thái độ thích đáng.
Nghe một bài pháp, phải để cho giáo pháp có cơ hội thấm sâu trong tâm thức để tiếp xúc, đánh thức và tưới tẩm những hạt giống chánh kiến ở trong mình.
Nếu chỉ dùng trí năng để tiếp nhận chánh kiến thì sẽ không có kết quả bao nhiêu. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Chánh kiến có thể thụ nhận, có thể trao truyền.
Nhưng việc trao và nhận cần nhiều điều kiện.
Người dạy ta về chánh kiến, cuốn sách ta đọc, cuốn Kinh ta tụng phải có khả năng thức động những hạt giống chánh kiến trong ta.
Hạt giống chánh kiến có sẵn.
Bụt dạy tất cả mọi người đều có hạt giống của tuệ giác.
Cho nên khi được nghe, được tiếp xúc với những dấu hiệu của chánh kiến thì tự nhiên ta sẽ hiểu.
Những kinh nghiệm khổ đau của ta cũng giúp ta tiếp nhận chánh kiến.
Chánh kiến chỉ có thể trao truyền trong những thời gian và địa điểm thích hợp, bằng ngôn ngữ từ ái, khế cơ, những ngôn ngữ có khả năng đánh thức được hạt giống chánh kiến có sẵn trong người nghe.
Người nghe lúc đầu có thể chỉ hiểu bằng trí óc thôi, điều nghe chưa thấm vào tâm thức hoặc chưa thể nghiệm được, vì còn thiếu kinh nghiệm sống.
Nhưng hạt giống chánh kiến chứa sẵn trong tâm một ngày kia sẽ nẩy mầm.
Khi kinh nghiệm đau khổ đã chín mùi thì chỉ cần nghe một câu nói hay một bài pháp thoại là người ấy đã có thể chuyển hóa.
Cho nên tạo ra những điều kiện giúp ta tiếp nhận chánh kiến là điều rất quan trọng.
Nhiều người thấy mình đã sẵn sàng để tiếp nhận chánh pháp, nhưng vẫn phải chuẩn bị một thái độ thích đáng.
Nghe một bài pháp, phải để cho giáo pháp có cơ hội thấm sâu trong tâm thức để tiếp xúc, đánh thức và tưới tẩm những hạt giống chánh kiến ở trong mình.
Nếu chỉ dùng trí năng để tiếp nhận chánh kiến thì sẽ không có kết quả bao nhiêu. | Nếu chỉ dùng trí năng để tiếp nhận chánh kiến thì sẽ không có kết quả bao nhiêu.
Tôi thường nói với thiền sinh là nghe pháp thoại (văn) là một phép thực tập mà việc thực tập thì không phải chỉ cần đến trí năng.
Phải thực tập với thân, tâm và cả tàng thức của mình.
Tàng thức như mặt đất, gọi là đất tâm (tâm địa).
Trong đất tâm của ta có những hạt giống của chánh kiến.
Khi nghe pháp đừng dựng lên những bức tường trí xảo.
Không suy đoán, không so sánh, không bình luận.
Trong giai đoạn văn ta chưa cần tư.
Khi nghe pháp thoại hãy khoan dùng trí năng phân biệt, mà phải đưa cả thân tâm ra.
Khi nghe pháp, ta phải để mặt đất tâm mở rộng thênh thang cho mưa pháp thấm nhuần.
Mưa xuân nhẹ hạt đất tâm ướt, hạt đậu năm xưa hé miệng cười.
Đất tâm thấm ướt thì hạt giống tuệ giác ở trong ta mới nẩy mầm được.
Cho nên ngồi nghe pháp thoại phải như ngồi thiền, phải ngồi cho chững chạc, thanh thản, và chỉ lắng nghe thôi.
Mở rộng tấm lòng không thành kiến để tiếp nhận lời pháp thoại.
Nghe mà đã có định kiến rồi thì không tiếp nhận được nữa.
Lúc nghe chúng ta đừng đem so sánh những lời đang nghe với ý kiến có sẵn của mình.
Đừng vừa nghe vừa phê phán: giống, khác, đúng, sai và lấy các định kiến của mình làm tiêu chuẩn.
Bị bức tường trí não và thành kiến ngăn chặn, những điều ta nghe không thấm vào lòng ta được nữa.
Cho nên bí quyết của nghe (văn) là lòng trống, là không tâm.
Nghe, tiếp nhận và thấu hiểu rồi, sau đó mới tư và tu, nghĩa là mới suy ngẫm, chiêm nghiệm và đem vào cuộc sống. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nếu chỉ dùng trí năng để tiếp nhận chánh kiến thì sẽ không có kết quả bao nhiêu.
Tôi thường nói với thiền sinh là nghe pháp thoại (văn) là một phép thực tập mà việc thực tập thì không phải chỉ cần đến trí năng.
Phải thực tập với thân, tâm và cả tàng thức của mình.
Tàng thức như mặt đất, gọi là đất tâm (tâm địa).
Trong đất tâm của ta có những hạt giống của chánh kiến.
Khi nghe pháp đừng dựng lên những bức tường trí xảo.
Không suy đoán, không so sánh, không bình luận.
Trong giai đoạn văn ta chưa cần tư.
Khi nghe pháp thoại hãy khoan dùng trí năng phân biệt, mà phải đưa cả thân tâm ra.
Khi nghe pháp, ta phải để mặt đất tâm mở rộng thênh thang cho mưa pháp thấm nhuần.
Mưa xuân nhẹ hạt đất tâm ướt, hạt đậu năm xưa hé miệng cười.
Đất tâm thấm ướt thì hạt giống tuệ giác ở trong ta mới nẩy mầm được.
Cho nên ngồi nghe pháp thoại phải như ngồi thiền, phải ngồi cho chững chạc, thanh thản, và chỉ lắng nghe thôi.
Mở rộng tấm lòng không thành kiến để tiếp nhận lời pháp thoại.
Nghe mà đã có định kiến rồi thì không tiếp nhận được nữa.
Lúc nghe chúng ta đừng đem so sánh những lời đang nghe với ý kiến có sẵn của mình.
Đừng vừa nghe vừa phê phán: giống, khác, đúng, sai và lấy các định kiến của mình làm tiêu chuẩn.
Bị bức tường trí não và thành kiến ngăn chặn, những điều ta nghe không thấm vào lòng ta được nữa.
Cho nên bí quyết của nghe (văn) là lòng trống, là không tâm.
Nghe, tiếp nhận và thấu hiểu rồi, sau đó mới tư và tu, nghĩa là mới suy ngẫm, chiêm nghiệm và đem vào cuộc sống. | Cho nên bí quyết của nghe (văn) là lòng trống, là không tâm.
Nghe, tiếp nhận và thấu hiểu rồi, sau đó mới tư và tu, nghĩa là mới suy ngẫm, chiêm nghiệm và đem vào cuộc sống.
Vào thời Bụt còn tại thế, nhiều người tới nghe Bụt giảng lần đầu, trong khi nghe đã tỉnh thức ngay.
Họ giác ngộ tức thời trong khi nghe Bụt nói, nhờ họ đã từng đau khổ và đã dầy công tu tập.
Chỉ văn thôi là đã chứng.
Ba việc văn, tư và tu diễn ra trong cùng một khoảnh khắc.
Vì ở trong con người của những kẻ ấy những cơ năng của giác ngộ đã đầy đủ rồi, chỉ còn một chỗ nào đó còn bị kẹt mà thôi.
Bây giờ nghe một bài pháp thoại thì tự nhiên chỗ bị kẹt đó được tháo gỡ, và sự thật bung ra.
Chánh kiến có thể được nói tới như là nhân hay là quả.
Chánh kiến tiếp nhận vào là nhân.
Tư và tu lại mang chánh kiến tới như kết quả của sự thực tập.
Khi tiếp thụ chánh kiến như là nhân, thì phần ý niệm và danh từ còn quan trọng.
Khi thành tựu kết quả thì chánh kiến là tuệ giác, vượt khỏi danh từ và khái niệm, chánh kiến tức là giác ngộ, là bồ đề.
Vào buổi khuya thành đạo, Bụt đạt tới cái thấy hoàn toàn, vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì cái thấy của Ngài là tuệ giác xuất thế gian.
Nhưng khi bắt đầu giảng cho các thầy về Tứ Diệu Đế là Bụt bắt đầu phải dùng ý niệm và ngôn từ.
Ý niệm về khổ, về tập, về diệt, về đạo.
Đọc trong Kinh chúng ta thấy rằng sau khi Bụt thành đạo Ngài đã ở lại bờ sông Ni Liên Thuyền 49 ngày. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Cho nên bí quyết của nghe (văn) là lòng trống, là không tâm.
Nghe, tiếp nhận và thấu hiểu rồi, sau đó mới tư và tu, nghĩa là mới suy ngẫm, chiêm nghiệm và đem vào cuộc sống.
Vào thời Bụt còn tại thế, nhiều người tới nghe Bụt giảng lần đầu, trong khi nghe đã tỉnh thức ngay.
Họ giác ngộ tức thời trong khi nghe Bụt nói, nhờ họ đã từng đau khổ và đã dầy công tu tập.
Chỉ văn thôi là đã chứng.
Ba việc văn, tư và tu diễn ra trong cùng một khoảnh khắc.
Vì ở trong con người của những kẻ ấy những cơ năng của giác ngộ đã đầy đủ rồi, chỉ còn một chỗ nào đó còn bị kẹt mà thôi.
Bây giờ nghe một bài pháp thoại thì tự nhiên chỗ bị kẹt đó được tháo gỡ, và sự thật bung ra.
Chánh kiến có thể được nói tới như là nhân hay là quả.
Chánh kiến tiếp nhận vào là nhân.
Tư và tu lại mang chánh kiến tới như kết quả của sự thực tập.
Khi tiếp thụ chánh kiến như là nhân, thì phần ý niệm và danh từ còn quan trọng.
Khi thành tựu kết quả thì chánh kiến là tuệ giác, vượt khỏi danh từ và khái niệm, chánh kiến tức là giác ngộ, là bồ đề.
Vào buổi khuya thành đạo, Bụt đạt tới cái thấy hoàn toàn, vô thượng chánh đẳng chánh giác, thì cái thấy của Ngài là tuệ giác xuất thế gian.
Nhưng khi bắt đầu giảng cho các thầy về Tứ Diệu Đế là Bụt bắt đầu phải dùng ý niệm và ngôn từ.
Ý niệm về khổ, về tập, về diệt, về đạo.
Đọc trong Kinh chúng ta thấy rằng sau khi Bụt thành đạo Ngài đã ở lại bờ sông Ni Liên Thuyền 49 ngày. | Ý niệm về khổ, về tập, về diệt, về đạo.
Đọc trong Kinh chúng ta thấy rằng sau khi Bụt thành đạo Ngài đã ở lại bờ sông Ni Liên Thuyền 49 ngày.
Trong 49 ngày đó, Ngài sống trong vô ngôn và vô niệm, nhưng đồng thời Ngài cũng bắt đầu thiết lập các ngôn từ và ý niệm để chuẩn bị giảng dạy.
Chúng ta thấy bài thuyết pháp đầu tiên về tứ đế và Bát Chánh Đạo đã được xây dựng một cách rất kỹ lưỡng, rất đẹp đẽ và rất thích hợp với năm người đệ tử đầu.
Nhưng đó chỉ là cái bình để đựng nước thôi.
Nước chánh kiến đã có sẵn rồi.
Muốn hiến nước cho người, phải đem tặng trong một cái bình.
Và Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo là bình nước tuệ giác đầu tiên mà Bụt đem chia sẻ cùng nhân loại.
Thầy Thái Hư, sống đầu thế kỷ này bên Trung Quốc đã dùng các danh từ giáo lý bản chất và giáo lý ảnh tượng.
Giáo lý ảnh tượng là giáo lý được trình bày qua ngôn từ và khái niệm, còn cái giáo lý mà ta sống là giáo lý bản chất.
Thầy dùng hình ảnh của một thân cây.
Trời nắng, cây chiếu bóng trên mặt đất.
Chỉ cho người kia cái bóng cây: đây là bóng cây, nếu anh tìm tới gốc và nhìn lên anh sẽ thấy cây.
Giáo lý ảnh tượng như bóng cây, giáo lý bản chất là cây.
Cây là tuệ giác chân thật, bóng cây là khái niệm và ngôn từ diễn tả tuệ giác.
Nhất thiết tu đa la giáo như tiêu nguyệt chỉ, tất cả giáo lý trong các kinh điển đều là ngón tay chỉ mặt trăng.
Ngón tay chỉ mặt trăng không phải là mặt trăng nhưng nếu không có ngón tay chỉ thì ta không biết phương hướng nhìn về mặt trăng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ý niệm về khổ, về tập, về diệt, về đạo.
Đọc trong Kinh chúng ta thấy rằng sau khi Bụt thành đạo Ngài đã ở lại bờ sông Ni Liên Thuyền 49 ngày.
Trong 49 ngày đó, Ngài sống trong vô ngôn và vô niệm, nhưng đồng thời Ngài cũng bắt đầu thiết lập các ngôn từ và ý niệm để chuẩn bị giảng dạy.
Chúng ta thấy bài thuyết pháp đầu tiên về tứ đế và Bát Chánh Đạo đã được xây dựng một cách rất kỹ lưỡng, rất đẹp đẽ và rất thích hợp với năm người đệ tử đầu.
Nhưng đó chỉ là cái bình để đựng nước thôi.
Nước chánh kiến đã có sẵn rồi.
Muốn hiến nước cho người, phải đem tặng trong một cái bình.
Và Tứ Diệu Đế, Bát Chánh Đạo là bình nước tuệ giác đầu tiên mà Bụt đem chia sẻ cùng nhân loại.
Thầy Thái Hư, sống đầu thế kỷ này bên Trung Quốc đã dùng các danh từ giáo lý bản chất và giáo lý ảnh tượng.
Giáo lý ảnh tượng là giáo lý được trình bày qua ngôn từ và khái niệm, còn cái giáo lý mà ta sống là giáo lý bản chất.
Thầy dùng hình ảnh của một thân cây.
Trời nắng, cây chiếu bóng trên mặt đất.
Chỉ cho người kia cái bóng cây: đây là bóng cây, nếu anh tìm tới gốc và nhìn lên anh sẽ thấy cây.
Giáo lý ảnh tượng như bóng cây, giáo lý bản chất là cây.
Cây là tuệ giác chân thật, bóng cây là khái niệm và ngôn từ diễn tả tuệ giác.
Nhất thiết tu đa la giáo như tiêu nguyệt chỉ, tất cả giáo lý trong các kinh điển đều là ngón tay chỉ mặt trăng.
Ngón tay chỉ mặt trăng không phải là mặt trăng nhưng nếu không có ngón tay chỉ thì ta không biết phương hướng nhìn về mặt trăng. | Ngón tay chỉ mặt trăng không phải là mặt trăng nhưng nếu không có ngón tay chỉ thì ta không biết phương hướng nhìn về mặt trăng.
Khi nương vào giáo lý ảnh tượng để tu tập, một ngày kia ta thấy được giáo lý bản chất.
Duy Biểu Học (thường gọi là Duy Thức Học) nói về các phiền não như tham, sân, si, mạn, nghi và kiến.
Không cần dùng chữ tà kiến, vì kiến đã có nghĩa là cái thấy sai lầm rồi.
Kiến nghĩa là một cái thấy phiến diện, thấy một mặt.
Đứng về phương diện thế gian mà nói thì có chánh kiến, có tà kiến, chánh kiến đối lập với tà kiến.
Nhưng khi đạt trình độ xuất thế gian thì tất cả mọi kiến đều là tà kiến.
Ví dụ như vô thường là chánh kiến, thường là tà kiến; ngã là tà kiến, vô ngã là chánh kiến.
Nhưng đứng về phương diện xuất thế gian thì thường là tà kiến mà vô thường cũng trở thành tà kiến.
Vô thường là thứ thuốc trị bệnh giúp ta khỏi vướng mắc vào cái thấy về thế giới mà ta nghĩ là trường tồn.
Nhưng nếu ta lại vướng mắc vào ý niệm vô thường thì vô thường cũng là một cái thấy (kiến) sai lầm.
Vô thường là cái ta chứng nghiệm trong đời sống, không phải chỉ là một khái niệm.
Học Phật, chúng ta hay bị vướng vào những ý niệm vô thường và vô ngã.
Với tuệ giác siêu việt thì ý niệm về thường phải được vượt qua mà ý niệm về vô thường cũng phải được vượt qua.
Ý niệm về ngã phải vượt mà ý niệm vô ngã cũng phải vượt.
Cũng như trong Kinh Bảo Tích nói: “thà rằng bị kẹt vào ý niệm hữu, còn hơn là bị kẹt vào ý niệm không”. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ngón tay chỉ mặt trăng không phải là mặt trăng nhưng nếu không có ngón tay chỉ thì ta không biết phương hướng nhìn về mặt trăng.
Khi nương vào giáo lý ảnh tượng để tu tập, một ngày kia ta thấy được giáo lý bản chất.
Duy Biểu Học (thường gọi là Duy Thức Học) nói về các phiền não như tham, sân, si, mạn, nghi và kiến.
Không cần dùng chữ tà kiến, vì kiến đã có nghĩa là cái thấy sai lầm rồi.
Kiến nghĩa là một cái thấy phiến diện, thấy một mặt.
Đứng về phương diện thế gian mà nói thì có chánh kiến, có tà kiến, chánh kiến đối lập với tà kiến.
Nhưng khi đạt trình độ xuất thế gian thì tất cả mọi kiến đều là tà kiến.
Ví dụ như vô thường là chánh kiến, thường là tà kiến; ngã là tà kiến, vô ngã là chánh kiến.
Nhưng đứng về phương diện xuất thế gian thì thường là tà kiến mà vô thường cũng trở thành tà kiến.
Vô thường là thứ thuốc trị bệnh giúp ta khỏi vướng mắc vào cái thấy về thế giới mà ta nghĩ là trường tồn.
Nhưng nếu ta lại vướng mắc vào ý niệm vô thường thì vô thường cũng là một cái thấy (kiến) sai lầm.
Vô thường là cái ta chứng nghiệm trong đời sống, không phải chỉ là một khái niệm.
Học Phật, chúng ta hay bị vướng vào những ý niệm vô thường và vô ngã.
Với tuệ giác siêu việt thì ý niệm về thường phải được vượt qua mà ý niệm về vô thường cũng phải được vượt qua.
Ý niệm về ngã phải vượt mà ý niệm vô ngã cũng phải vượt.
Cũng như trong Kinh Bảo Tích nói: “thà rằng bị kẹt vào ý niệm hữu, còn hơn là bị kẹt vào ý niệm không”. | Ý niệm về ngã phải vượt mà ý niệm vô ngã cũng phải vượt.
Cũng như trong Kinh Bảo Tích nói: “thà rằng bị kẹt vào ý niệm hữu, còn hơn là bị kẹt vào ý niệm không”.
Không là một thứ thuốc để trị bệnh hữu nhưng nếu ta bị bệnh không thì không còn thuốc nào để chữa.
Tóm lại, tu tập chánh kiến trước hết là học hỏi và tiếp nhận những ngôn từ và những khái niệm chuyên chở tuệ giác.
Rồi nhờ quá trình văn, tư và tu mà tuệ giác đó lớn lên dần dần.
Và khi đã đạt được tuệ giác thì không những tất cả các khái niệm về tà kiến mà cả những khái niệm về chánh kiến cũng được thắng vượt.
Kinh Pháp Môn Căn Bản (Mula pariyaya, Trung bộ 1) nói rất rõ về sự vượt thắng ý niệm và tà kiến, đứng trên lập trường xuất thế.
Không những ý niệm “ta có tự ngã” là một tà kiến mà cả ý niệm “ta không có tự ngã” cũng là một tà kiến.
Tuệ giác đạt được nhờ chánh kiến càng lớn thì hành động của chúng ta càng sáng.
Chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh định v.v.., tất cả đều tùy theo chánh kiến.
Phẩm chất của bảy phần kia trong Bát Chánh Đạo đều tùy thuộc phẩm chất của chánh kiến.
Cho nên Kinh Tạp A Hàm 785 cũng như trong Kinh Thánh Đạo, Majjhima Nikaya 117, đều nói rằng chánh kiến đứng hàng đầu.
Việc tu tập chánh kiến lúc đầu giúp ta phân biệt chánh kiến và tà kiến.
Cuối cùng nhờ chánh kiến ta biết rằng tất cả các kiến đều là tà kiến.
Cho nên chánh kiến tức là vốn liếng tu học, vốn liếng hành trì của chúng ta. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ý niệm về ngã phải vượt mà ý niệm vô ngã cũng phải vượt.
Cũng như trong Kinh Bảo Tích nói: “thà rằng bị kẹt vào ý niệm hữu, còn hơn là bị kẹt vào ý niệm không”.
Không là một thứ thuốc để trị bệnh hữu nhưng nếu ta bị bệnh không thì không còn thuốc nào để chữa.
Tóm lại, tu tập chánh kiến trước hết là học hỏi và tiếp nhận những ngôn từ và những khái niệm chuyên chở tuệ giác.
Rồi nhờ quá trình văn, tư và tu mà tuệ giác đó lớn lên dần dần.
Và khi đã đạt được tuệ giác thì không những tất cả các khái niệm về tà kiến mà cả những khái niệm về chánh kiến cũng được thắng vượt.
Kinh Pháp Môn Căn Bản (Mula pariyaya, Trung bộ 1) nói rất rõ về sự vượt thắng ý niệm và tà kiến, đứng trên lập trường xuất thế.
Không những ý niệm “ta có tự ngã” là một tà kiến mà cả ý niệm “ta không có tự ngã” cũng là một tà kiến.
Tuệ giác đạt được nhờ chánh kiến càng lớn thì hành động của chúng ta càng sáng.
Chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh tinh tấn, chánh định v.v.., tất cả đều tùy theo chánh kiến.
Phẩm chất của bảy phần kia trong Bát Chánh Đạo đều tùy thuộc phẩm chất của chánh kiến.
Cho nên Kinh Tạp A Hàm 785 cũng như trong Kinh Thánh Đạo, Majjhima Nikaya 117, đều nói rằng chánh kiến đứng hàng đầu.
Việc tu tập chánh kiến lúc đầu giúp ta phân biệt chánh kiến và tà kiến.
Cuối cùng nhờ chánh kiến ta biết rằng tất cả các kiến đều là tà kiến.
Cho nên chánh kiến tức là vốn liếng tu học, vốn liếng hành trì của chúng ta. | Cuối cùng nhờ chánh kiến ta biết rằng tất cả các kiến đều là tà kiến.
Cho nên chánh kiến tức là vốn liếng tu học, vốn liếng hành trì của chúng ta.
Nếu vốn liếng đó phong phú thì tất cả những sự hành trì trong các lãnh vực chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định cũng sẽ giàu có.
Học hỏi như thế nào để cho những hạt giống chánh kiến trong tâm được đánh thức, được nẩy mầm, thì lúc đó những điều chúng ta học hỏi mới thật sự là chánh kiến.
Các Kinh căn bản nói về Bát Chánh Đạo đều phân biệt hai mặt của Bát Chánh Đạo.
Hai mặt ấy là hữu lậu và vô lậu.
Xin tham khảo Kinh Thánh đạo (Trung A Hàm 189), Kinh Tạp A Hàm 785 và Kinh Maha cattarisaka (Trung Bộ 117).
Kinh Tạp A Hàm 785 rõ nhất.
Theo gốc chữ, lậu tức là cái sự rỉ chảy, sự trôi lăn.
Vô lậu tức là chấm dứt sự rỉ chảy, sự trôi lăn.
Lậu có thể dịch là sự đi vòng, asrava.
Lậu do đó có nghĩa là phiền não, thành ra asrava là klesa (phiền não).
Khi nào mà chúng ta diệt hết tất cả phiền não thì gọi là lậu tận, tức là hoàn toàn giải thoát, vượt ra khỏi biên giới của khổ đau.
Xuất thế gian thì mới gọi là lậu tận.
Trong sáu phép thần thông thì lậu tận thông là cao nhất.
Lậu tận thông tức là gột sạch hết tất cả phiền não, còn các thần thông khác như thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông thì không quan trọng bằng
Bài 07: Bát chánh đạo tương sinh tương tức
Hôm nay là ngày 12 tháng 12 năm 1993, chúng ta ở Xóm Hạ và học tiếp về Tứ Diệu Đế. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Cuối cùng nhờ chánh kiến ta biết rằng tất cả các kiến đều là tà kiến.
Cho nên chánh kiến tức là vốn liếng tu học, vốn liếng hành trì của chúng ta.
Nếu vốn liếng đó phong phú thì tất cả những sự hành trì trong các lãnh vực chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định cũng sẽ giàu có.
Học hỏi như thế nào để cho những hạt giống chánh kiến trong tâm được đánh thức, được nẩy mầm, thì lúc đó những điều chúng ta học hỏi mới thật sự là chánh kiến.
Các Kinh căn bản nói về Bát Chánh Đạo đều phân biệt hai mặt của Bát Chánh Đạo.
Hai mặt ấy là hữu lậu và vô lậu.
Xin tham khảo Kinh Thánh đạo (Trung A Hàm 189), Kinh Tạp A Hàm 785 và Kinh Maha cattarisaka (Trung Bộ 117).
Kinh Tạp A Hàm 785 rõ nhất.
Theo gốc chữ, lậu tức là cái sự rỉ chảy, sự trôi lăn.
Vô lậu tức là chấm dứt sự rỉ chảy, sự trôi lăn.
Lậu có thể dịch là sự đi vòng, asrava.
Lậu do đó có nghĩa là phiền não, thành ra asrava là klesa (phiền não).
Khi nào mà chúng ta diệt hết tất cả phiền não thì gọi là lậu tận, tức là hoàn toàn giải thoát, vượt ra khỏi biên giới của khổ đau.
Xuất thế gian thì mới gọi là lậu tận.
Trong sáu phép thần thông thì lậu tận thông là cao nhất.
Lậu tận thông tức là gột sạch hết tất cả phiền não, còn các thần thông khác như thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông thì không quan trọng bằng
Bài 07: Bát chánh đạo tương sinh tương tức
Hôm nay là ngày 12 tháng 12 năm 1993, chúng ta ở Xóm Hạ và học tiếp về Tứ Diệu Đế. | Bài 07: Bát chánh đạo tương sinh tương tức
Hôm nay là ngày 12 tháng 12 năm 1993, chúng ta ở Xóm Hạ và học tiếp về Tứ Diệu Đế.
Lần trước ta đã học về chánh kiến, hôm nay chúng ta sẽ học về chánh tư duy.
Trong khi học về chánh kiến, chúng ta đã thấy rằng trong quá trình tu học, chánh kiến có thể là nhân và cũng có thể là quả.
Bất cứ một hiện tượng nào trong vũ trụ, dù là vật lý, tâm lý hay sinh lý, đều phải được nhìn thấy đồng thời là nhân và là quả.
Không có một hiện tượng nào chỉ đóng vai trò nhân hay quả mà thôi.
Theo lý duyên khởi, chúng ta biết rằng tự tính của chúng ta là nhân mà cũng là quả.
Do đó dù trong Kinh nói chánh kiến đứng hàng đầu, nhưng chúng ta không nên hiểu chánh kiến là nguyên nhân đầu tiên từ đó phát khởi ra các chánh đạo khác.
Theo đạo lý duyên khởi thì không có nguyên nhân đầu tiên, không có một cái gì thuần túy là nhân hay là thuần túy là quả.
Một nhân không bao giờ đủ đưa tới quả mà phải có rất nhiều nhân để tạo nên một quả.
Mỗi hiện tượng đều do tất cả những hiện tượng khác phối hợp và biểu hiện ra và mỗi vật có mặt trong tất cả các vật khác.
Bát chánh đạo tương sinh tương tức
Vậy chánh kiến không phải là nguyên nhân đầu tiên của các chánh đạo.
Tám sự hành trì chân chánh tương sinh tương tức, mỗi phần đều là nhân và quả của các phần kia.
Bảy sự hành trì kia cũng là nguyên nhân đưa tới chánh kiến.
Bát chánh đạo còn được gọi bằng một từ khác là bát thánh đạo phận.
Bát Thánh đạo Phận là tám thành phần của con đường cao quí. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bài 07: Bát chánh đạo tương sinh tương tức
Hôm nay là ngày 12 tháng 12 năm 1993, chúng ta ở Xóm Hạ và học tiếp về Tứ Diệu Đế.
Lần trước ta đã học về chánh kiến, hôm nay chúng ta sẽ học về chánh tư duy.
Trong khi học về chánh kiến, chúng ta đã thấy rằng trong quá trình tu học, chánh kiến có thể là nhân và cũng có thể là quả.
Bất cứ một hiện tượng nào trong vũ trụ, dù là vật lý, tâm lý hay sinh lý, đều phải được nhìn thấy đồng thời là nhân và là quả.
Không có một hiện tượng nào chỉ đóng vai trò nhân hay quả mà thôi.
Theo lý duyên khởi, chúng ta biết rằng tự tính của chúng ta là nhân mà cũng là quả.
Do đó dù trong Kinh nói chánh kiến đứng hàng đầu, nhưng chúng ta không nên hiểu chánh kiến là nguyên nhân đầu tiên từ đó phát khởi ra các chánh đạo khác.
Theo đạo lý duyên khởi thì không có nguyên nhân đầu tiên, không có một cái gì thuần túy là nhân hay là thuần túy là quả.
Một nhân không bao giờ đủ đưa tới quả mà phải có rất nhiều nhân để tạo nên một quả.
Mỗi hiện tượng đều do tất cả những hiện tượng khác phối hợp và biểu hiện ra và mỗi vật có mặt trong tất cả các vật khác.
Bát chánh đạo tương sinh tương tức
Vậy chánh kiến không phải là nguyên nhân đầu tiên của các chánh đạo.
Tám sự hành trì chân chánh tương sinh tương tức, mỗi phần đều là nhân và quả của các phần kia.
Bảy sự hành trì kia cũng là nguyên nhân đưa tới chánh kiến.
Bát chánh đạo còn được gọi bằng một từ khác là bát thánh đạo phận.
Bát Thánh đạo Phận là tám thành phần của con đường cao quí. | Bảy sự hành trì kia cũng là nguyên nhân đưa tới chánh kiến.
Bát chánh đạo còn được gọi bằng một từ khác là bát thánh đạo phận.
Bát Thánh đạo Phận là tám thành phần của con đường cao quí.
Trong tiếng Phạn, thánh đạo phận là arya marga anga, thánh đạo có tất cả tám chi phần.
Thứ nhất là Chánh kiến mà chúng ta đã bàn.
Rồi tới Chánh tư duy (right thinking) là sự tư duy đúng đắn.
Chánh ngữ (right speech) là lời nói có tác dụng chuyển hóa, tháo gỡ, đem lại hạnh phúc và đánh tan mê lầm.
Chánh nghiệp (right action) là hành động không tạo khổ đau, đưa lại hạnh phúc.
Chữ nghiệp ở đây chỉ thân nghiệp, là hành động do thân thể ta làm.
Còn khẩu nghiệp thuộc về chánh ngữ và ý nghiệp thuộc về chánh tư duy.
Tiếp theo là Chánh mạng (right livelihood).
Mạng tức là phương tiện sinh sống.
Chánh mạng là nghề nghiệp, là phương cách sinh sống không gây đau khổ và mê lầm cho con người, không tàn hại thiên nhiên.
Chi phần thứ sáu là chánh tinh tấn (right energy).
Tinh tấn là sự siêng năng.
Thứ bẩy là Chánh niệm (right mindfulness) và sau cùng là Chánh định (right concentration).
Về sự phát triển của tuệ giác, giáo lý luôn luôn nói tới niệm, định và tuệ.
Tu tập chánh niệm dẫn tới chánh định và có chánh định thì đạt tới tuệ giác.
Tại sao trong Bát Chánh Đạo không nói chánh tuệ mà lại nói chánh kiến?
Suy nghĩ về điều này giúp chúng ta phân biệt rõ hơn ý nghĩa chữ chánh kiến trong phạm vi tục đế và phạm vi chân đế. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bảy sự hành trì kia cũng là nguyên nhân đưa tới chánh kiến.
Bát chánh đạo còn được gọi bằng một từ khác là bát thánh đạo phận.
Bát Thánh đạo Phận là tám thành phần của con đường cao quí.
Trong tiếng Phạn, thánh đạo phận là arya marga anga, thánh đạo có tất cả tám chi phần.
Thứ nhất là Chánh kiến mà chúng ta đã bàn.
Rồi tới Chánh tư duy (right thinking) là sự tư duy đúng đắn.
Chánh ngữ (right speech) là lời nói có tác dụng chuyển hóa, tháo gỡ, đem lại hạnh phúc và đánh tan mê lầm.
Chánh nghiệp (right action) là hành động không tạo khổ đau, đưa lại hạnh phúc.
Chữ nghiệp ở đây chỉ thân nghiệp, là hành động do thân thể ta làm.
Còn khẩu nghiệp thuộc về chánh ngữ và ý nghiệp thuộc về chánh tư duy.
Tiếp theo là Chánh mạng (right livelihood).
Mạng tức là phương tiện sinh sống.
Chánh mạng là nghề nghiệp, là phương cách sinh sống không gây đau khổ và mê lầm cho con người, không tàn hại thiên nhiên.
Chi phần thứ sáu là chánh tinh tấn (right energy).
Tinh tấn là sự siêng năng.
Thứ bẩy là Chánh niệm (right mindfulness) và sau cùng là Chánh định (right concentration).
Về sự phát triển của tuệ giác, giáo lý luôn luôn nói tới niệm, định và tuệ.
Tu tập chánh niệm dẫn tới chánh định và có chánh định thì đạt tới tuệ giác.
Tại sao trong Bát Chánh Đạo không nói chánh tuệ mà lại nói chánh kiến?
Suy nghĩ về điều này giúp chúng ta phân biệt rõ hơn ý nghĩa chữ chánh kiến trong phạm vi tục đế và phạm vi chân đế. | Tại sao trong Bát Chánh Đạo không nói chánh tuệ mà lại nói chánh kiến?
Suy nghĩ về điều này giúp chúng ta phân biệt rõ hơn ý nghĩa chữ chánh kiến trong phạm vi tục đế và phạm vi chân đế.
Đồng thời ta cũng thấy rõ hơn bảy chánh đạo khác góp phần vào sự chuyển hóa chánh kiến từ phạm vi thế gian sang phạm vi xuất thế gian như thế nào.
Chánh kiến bắt đầu bằng những giáo lý, chưa phải là tuệ giác.
Hiểu biết về Tứ Diệu Đế, về Bát Chánh Đạo, về lý nhân quả mới chỉ là những hiểu biết có tính cách lý thuyết mà thôi.
Nhờ có văn, tư và tu mà những ý niệm và ngôn từ đó trở nên tuệ giác chân thật.
Trong quá trình văn, tư, tu chúng ta phải thực tập chánh tư duy, chánh ngữ, chánh mạng, v.v.. mà nếu không thực hành bảy thánh đạo kia thì những lý thuyết trong kinh sách không bao giờ biến được thành tuệ giác cả, mãi mãi chúng sẽ chỉ là một mớ ý niệm trong đầu, hoặc để nói cho vui thôi.
Những điều ta học hỏi bằng khái niệm và ngôn từ có chứa chất những hạt giống của chánh kiến, của tuệ giác; nhưng không có văn, tư, tu thì chúng chưa thể trở thành tuệ giác được.
Người học đạo bắt đầu tiếp nhận những kiến thức, ngôn từ và khái niệm từ trong kinh sách, từ thầy và từ các bạn tu.
Sau đó người ấy phải thực tập Bát Chánh Đạo để biến cái vốn liếng nghèo nàn đó thành tuệ giác đích thật, phát sinh từ nội tâm của mình.
Bụt nói tất cả chúng sinh đều có sẵn giác tánh, tức là hạt giống của chánh kiến, của tuệ giác.
Giác tánh đó bị che lấp vì vô minh, buồn khổ và sầu hận, cho nên không phát triển được. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tại sao trong Bát Chánh Đạo không nói chánh tuệ mà lại nói chánh kiến?
Suy nghĩ về điều này giúp chúng ta phân biệt rõ hơn ý nghĩa chữ chánh kiến trong phạm vi tục đế và phạm vi chân đế.
Đồng thời ta cũng thấy rõ hơn bảy chánh đạo khác góp phần vào sự chuyển hóa chánh kiến từ phạm vi thế gian sang phạm vi xuất thế gian như thế nào.
Chánh kiến bắt đầu bằng những giáo lý, chưa phải là tuệ giác.
Hiểu biết về Tứ Diệu Đế, về Bát Chánh Đạo, về lý nhân quả mới chỉ là những hiểu biết có tính cách lý thuyết mà thôi.
Nhờ có văn, tư và tu mà những ý niệm và ngôn từ đó trở nên tuệ giác chân thật.
Trong quá trình văn, tư, tu chúng ta phải thực tập chánh tư duy, chánh ngữ, chánh mạng, v.v.. mà nếu không thực hành bảy thánh đạo kia thì những lý thuyết trong kinh sách không bao giờ biến được thành tuệ giác cả, mãi mãi chúng sẽ chỉ là một mớ ý niệm trong đầu, hoặc để nói cho vui thôi.
Những điều ta học hỏi bằng khái niệm và ngôn từ có chứa chất những hạt giống của chánh kiến, của tuệ giác; nhưng không có văn, tư, tu thì chúng chưa thể trở thành tuệ giác được.
Người học đạo bắt đầu tiếp nhận những kiến thức, ngôn từ và khái niệm từ trong kinh sách, từ thầy và từ các bạn tu.
Sau đó người ấy phải thực tập Bát Chánh Đạo để biến cái vốn liếng nghèo nàn đó thành tuệ giác đích thật, phát sinh từ nội tâm của mình.
Bụt nói tất cả chúng sinh đều có sẵn giác tánh, tức là hạt giống của chánh kiến, của tuệ giác.
Giác tánh đó bị che lấp vì vô minh, buồn khổ và sầu hận, cho nên không phát triển được. | Bụt nói tất cả chúng sinh đều có sẵn giác tánh, tức là hạt giống của chánh kiến, của tuệ giác.
Giác tánh đó bị che lấp vì vô minh, buồn khổ và sầu hận, cho nên không phát triển được.
Được nghe pháp, được gần gũi bạn lành và được học hỏi thì chánh kiến có cơ hội nẩy mầm và nở hoa: Hạt đậu năm xưa hé miệng cười.
Cho nên chánh kiến là nhân nhưng cũng là quả, và khi chánh kiến thành kết quả đó chính là tuệ trong bộ ba niệm, định, tuệ (smrti, samadhi, prajna).
Nhờ tu tập bảy chi phần khác của Bát Chánh Đạo nên tuệ nẩy nở.
Sau đó, tuệ giác lại nuôi dưỡng tư duy, ngôn ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Cho nên chánh kiến tuy là mẹ của bảy chi phần khác, nhưng cũng là con của bảy chi phần khác.
Có thể nói thân cây, rễ cây, cành cây là mẹ, còn lá cây là con.
Nhưng lá cây cũng đóng vai trò mẹ.
Vì lá cây có bổn phận phải tiếp nhận thán khí, dùng ánh sáng mặt trời thực hiện diệp lục hoá.
Mỗi chiếc lá chính là một viện bào chế, nhờ thế những chất khoáng ở trong đất đi lên, từ nhựa nguyên biến thành nhựa luyện để nuôi cây.
Thành ra tất cả các chiếc lá tuy là con của cây nhưng cũng đều là mẹ của cây.
Giống như vậy, chánh kiến nuôi dưỡng chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh ngữ, vân vân, nhưng đồng thời cũng được chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh ngữ, v.v... nuôi dưỡng.
Chúng ta càng thấy rõ tính duyên khởi có thể áp dụng trong Bát Thánh Đạo Phần. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bụt nói tất cả chúng sinh đều có sẵn giác tánh, tức là hạt giống của chánh kiến, của tuệ giác.
Giác tánh đó bị che lấp vì vô minh, buồn khổ và sầu hận, cho nên không phát triển được.
Được nghe pháp, được gần gũi bạn lành và được học hỏi thì chánh kiến có cơ hội nẩy mầm và nở hoa: Hạt đậu năm xưa hé miệng cười.
Cho nên chánh kiến là nhân nhưng cũng là quả, và khi chánh kiến thành kết quả đó chính là tuệ trong bộ ba niệm, định, tuệ (smrti, samadhi, prajna).
Nhờ tu tập bảy chi phần khác của Bát Chánh Đạo nên tuệ nẩy nở.
Sau đó, tuệ giác lại nuôi dưỡng tư duy, ngôn ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Cho nên chánh kiến tuy là mẹ của bảy chi phần khác, nhưng cũng là con của bảy chi phần khác.
Có thể nói thân cây, rễ cây, cành cây là mẹ, còn lá cây là con.
Nhưng lá cây cũng đóng vai trò mẹ.
Vì lá cây có bổn phận phải tiếp nhận thán khí, dùng ánh sáng mặt trời thực hiện diệp lục hoá.
Mỗi chiếc lá chính là một viện bào chế, nhờ thế những chất khoáng ở trong đất đi lên, từ nhựa nguyên biến thành nhựa luyện để nuôi cây.
Thành ra tất cả các chiếc lá tuy là con của cây nhưng cũng đều là mẹ của cây.
Giống như vậy, chánh kiến nuôi dưỡng chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh ngữ, vân vân, nhưng đồng thời cũng được chánh tư duy, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh ngữ, v.v... nuôi dưỡng.
Chúng ta càng thấy rõ tính duyên khởi có thể áp dụng trong Bát Thánh Đạo Phần. | Chúng ta càng thấy rõ tính duyên khởi có thể áp dụng trong Bát Thánh Đạo Phần.
Với chánh kiến, chúng ta phân biệt thế nào là căn lành và căn không lành; chúng ta hiểu bốn sự thật khổ, tập, diệt, đạo, v.v.. Có chánh kiến thì tự nhiên tư duy sẽ đi đúng đường, chúng ta suy nghĩ khỏi sai lầm.
Có chánh kiến về duyên sinh thì chúng ta biết rằng hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào hạnh phúc của người khác, như giữa anh chị em, vợ chồng hay cha con.
Thấy rồi, mỗi người sẽ không đi tìm hạnh phúc cho riêng mình nữa.
Vì khi cha khổ thì con không thể nào có hạnh phúc được, chồng khổ thì vợ không thể nào có hạnh phúc được, anh khổ thì em không thể nào có hạnh phúc được.
Chánh tư duy là tư duy xem ta phải làm thế nào để cho người kia có hạnh phúc thì lúc đó ta mới thực sự có hạnh phúc.
Người đi tìm hạnh phúc riêng rẽ là người không có chánh kiến, vì chánh kiến là cái thấy của đạo lý duyên khởi.
Nói về chánh ngữ cũng vậy.
Nếu chúng ta có chánh kiến thì tự nhiên ngôn ngữ của chúng ta sẽ đi vào đường chánh.
Chúng ta sẽ không nói những điều gây hiềm khích và đổ vỡ.
Nếu thấy được tính khí của ta, những ưu, nhược điểm của ta và của người khác, thì ta sẽ không nói ra những câu tạo ra địa ngục giữa hai người.
Trong tương giao xã hội, thấy rõ được ưu điểm và nhược điểm của mình và của người khác là có chánh kiến.
Có chánh kiến thì tư duy và ngôn ngữ sẽ chánh, sẽ không gây thêm đau khổ.
Điều đó cũng đúng với chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Chúng ta càng thấy rõ tính duyên khởi có thể áp dụng trong Bát Thánh Đạo Phần.
Với chánh kiến, chúng ta phân biệt thế nào là căn lành và căn không lành; chúng ta hiểu bốn sự thật khổ, tập, diệt, đạo, v.v.. Có chánh kiến thì tự nhiên tư duy sẽ đi đúng đường, chúng ta suy nghĩ khỏi sai lầm.
Có chánh kiến về duyên sinh thì chúng ta biết rằng hạnh phúc của chúng ta tùy thuộc vào hạnh phúc của người khác, như giữa anh chị em, vợ chồng hay cha con.
Thấy rồi, mỗi người sẽ không đi tìm hạnh phúc cho riêng mình nữa.
Vì khi cha khổ thì con không thể nào có hạnh phúc được, chồng khổ thì vợ không thể nào có hạnh phúc được, anh khổ thì em không thể nào có hạnh phúc được.
Chánh tư duy là tư duy xem ta phải làm thế nào để cho người kia có hạnh phúc thì lúc đó ta mới thực sự có hạnh phúc.
Người đi tìm hạnh phúc riêng rẽ là người không có chánh kiến, vì chánh kiến là cái thấy của đạo lý duyên khởi.
Nói về chánh ngữ cũng vậy.
Nếu chúng ta có chánh kiến thì tự nhiên ngôn ngữ của chúng ta sẽ đi vào đường chánh.
Chúng ta sẽ không nói những điều gây hiềm khích và đổ vỡ.
Nếu thấy được tính khí của ta, những ưu, nhược điểm của ta và của người khác, thì ta sẽ không nói ra những câu tạo ra địa ngục giữa hai người.
Trong tương giao xã hội, thấy rõ được ưu điểm và nhược điểm của mình và của người khác là có chánh kiến.
Có chánh kiến thì tư duy và ngôn ngữ sẽ chánh, sẽ không gây thêm đau khổ.
Điều đó cũng đúng với chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định. | Có chánh kiến thì tư duy và ngôn ngữ sẽ chánh, sẽ không gây thêm đau khổ.
Điều đó cũng đúng với chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Chánh tư duy về vô thường vô ngã
Chánh tư duy tiếng Phạn là samyak samkalpa, Kinh A Hàm dịch là chánh trí, tiếng Pháp có thể dịch là conception correcte.
Tư duy có hai loại là tầm (vitarka) và từ (vicara).
Tầm là những ý nghĩ đơn thuần.
Còn từ là suy đi nghĩ lại sâu xa hơn.
Suy nghĩ tới lui, quanh quẩn, không dừng được, như cái máy vô tuyến truyền hình mở giờ này sang giờ khác không ai tắt, không có mục đích nào cả, thì sự suy nghĩ đó không phải là chánh tư duy.
Chánh tư duy giúp cho ta nhìn thấy rõ, làm phát sinh chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng.
Còn tà tư duy thì càng nghĩ càng gây đau khổ.
Có chánh kiến, nhìn thấy bốn sự thật, duyên khởi, vô thường và vô ngã thì tư duy sẽ đi vào đường chánh.
Tà tư duy phát sinh do cái nhìn không đúng về sự vật, về bản thân và hoàn cảnh của mình và của người.
Chánh tư duy phát sinh căn cứ trên chánh kiến và trở lại nuôi dưỡng chánh kiến, hai phần nuôi dưỡng lẫn nhau.
Chánh tư duy là suy nghĩ dựa trên sự thật, không phải là tư duy trên mây, không dính líu gì với thực tế.
Sự thật hiện rõ ra là nhờ chánh kiến.
Nhiều người suy nghĩ và đi lạc trong vòng lẩn quẩn của lý thuyết, nói thao thao bất tuyệt, và viết những cuốn sách dài tràng giang đại hải.
Nếu không có chánh kiến, họ vẫn chỉ nói chuyện trên mây. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Có chánh kiến thì tư duy và ngôn ngữ sẽ chánh, sẽ không gây thêm đau khổ.
Điều đó cũng đúng với chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Chánh tư duy về vô thường vô ngã
Chánh tư duy tiếng Phạn là samyak samkalpa, Kinh A Hàm dịch là chánh trí, tiếng Pháp có thể dịch là conception correcte.
Tư duy có hai loại là tầm (vitarka) và từ (vicara).
Tầm là những ý nghĩ đơn thuần.
Còn từ là suy đi nghĩ lại sâu xa hơn.
Suy nghĩ tới lui, quanh quẩn, không dừng được, như cái máy vô tuyến truyền hình mở giờ này sang giờ khác không ai tắt, không có mục đích nào cả, thì sự suy nghĩ đó không phải là chánh tư duy.
Chánh tư duy giúp cho ta nhìn thấy rõ, làm phát sinh chánh ngữ, chánh nghiệp và chánh mạng.
Còn tà tư duy thì càng nghĩ càng gây đau khổ.
Có chánh kiến, nhìn thấy bốn sự thật, duyên khởi, vô thường và vô ngã thì tư duy sẽ đi vào đường chánh.
Tà tư duy phát sinh do cái nhìn không đúng về sự vật, về bản thân và hoàn cảnh của mình và của người.
Chánh tư duy phát sinh căn cứ trên chánh kiến và trở lại nuôi dưỡng chánh kiến, hai phần nuôi dưỡng lẫn nhau.
Chánh tư duy là suy nghĩ dựa trên sự thật, không phải là tư duy trên mây, không dính líu gì với thực tế.
Sự thật hiện rõ ra là nhờ chánh kiến.
Nhiều người suy nghĩ và đi lạc trong vòng lẩn quẩn của lý thuyết, nói thao thao bất tuyệt, và viết những cuốn sách dài tràng giang đại hải.
Nếu không có chánh kiến, họ vẫn chỉ nói chuyện trên mây. | Nhiều người suy nghĩ và đi lạc trong vòng lẩn quẩn của lý thuyết, nói thao thao bất tuyệt, và viết những cuốn sách dài tràng giang đại hải.
Nếu không có chánh kiến, họ vẫn chỉ nói chuyện trên mây.
Chánh tư duy căn cứ trên chánh kiến, trên tuệ giác, nhờ đó ta thấy bản chất của sự vật là vô thường và vô ngã.
Suy tư mà ngược lại với nguyên tắc vô thường và vô ngã là tà tư duy.
Thí dụ nuôi con ta cứ nghĩ là đứa con nhỏ của mình sẽ như vậy suốt đời là sai.
Sự thật là lên 12 tuổi nó đã khác, lên 14 tuổi nó đã có thể có những ý kiến ngược với mình, lên 16 tuổi nó đã có thể tranh luận với mình rồi.
Chánh tư duy là phải thấy được bản chất của vô thường trong con người của ta, của kẻ khác và của sự vật.
Một người bây giờ rất dễ thương nhưng một ngày kia có thể trở thành dễ ghét và có thể trở thành kẻ thù.
Mỗi chúng ta đều có đủ loại hạt giống, có hạt giống của sự trung thành mà cũng có hạt giống của sự phản bội.
Bụt và các vị bồ tát đều như vậy hết.
Nhờ ta tu tập, nên hạt giống của sự phản bội không có môi trường phát triển.
Khi một người phản bội ta thì chính ta cũng đã tưới tẩm những hạt giống phản bội nơi họ từ ngày này sang ngày khác.
Có người nói “Thôi đi tu cho xong!” nhưng nếu hạt giống xuất gia trong người ấy không đủ lớn thì chắc người ấy không đi tới được quyết định.
Tuy vậy hạt giống không xuất gia, hạt giống muốn lập gia đình nó vẫn còn trong con người đã xuất gia. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nhiều người suy nghĩ và đi lạc trong vòng lẩn quẩn của lý thuyết, nói thao thao bất tuyệt, và viết những cuốn sách dài tràng giang đại hải.
Nếu không có chánh kiến, họ vẫn chỉ nói chuyện trên mây.
Chánh tư duy căn cứ trên chánh kiến, trên tuệ giác, nhờ đó ta thấy bản chất của sự vật là vô thường và vô ngã.
Suy tư mà ngược lại với nguyên tắc vô thường và vô ngã là tà tư duy.
Thí dụ nuôi con ta cứ nghĩ là đứa con nhỏ của mình sẽ như vậy suốt đời là sai.
Sự thật là lên 12 tuổi nó đã khác, lên 14 tuổi nó đã có thể có những ý kiến ngược với mình, lên 16 tuổi nó đã có thể tranh luận với mình rồi.
Chánh tư duy là phải thấy được bản chất của vô thường trong con người của ta, của kẻ khác và của sự vật.
Một người bây giờ rất dễ thương nhưng một ngày kia có thể trở thành dễ ghét và có thể trở thành kẻ thù.
Mỗi chúng ta đều có đủ loại hạt giống, có hạt giống của sự trung thành mà cũng có hạt giống của sự phản bội.
Bụt và các vị bồ tát đều như vậy hết.
Nhờ ta tu tập, nên hạt giống của sự phản bội không có môi trường phát triển.
Khi một người phản bội ta thì chính ta cũng đã tưới tẩm những hạt giống phản bội nơi họ từ ngày này sang ngày khác.
Có người nói “Thôi đi tu cho xong!” nhưng nếu hạt giống xuất gia trong người ấy không đủ lớn thì chắc người ấy không đi tới được quyết định.
Tuy vậy hạt giống không xuất gia, hạt giống muốn lập gia đình nó vẫn còn trong con người đã xuất gia. | Tuy vậy hạt giống không xuất gia, hạt giống muốn lập gia đình nó vẫn còn trong con người đã xuất gia.
Nếu sống với thầy với bạn mà vẫn thấy khổ thì tự nhiên hạt giống không xuất gia, nghĩa là niềm ước muốn lập gia đình, có vợ, có con, hạt giống đó sẽ lớn lên.
Trong đời sống xuất gia nếu ta có hạnh phúc, nếu ta tự thấy mình có chuyển hóa và đã giúp ích được nhiều người, thì cái hạt giống không xuất gia kia, có thể lâu lâu phát hiện một lần trong giấc mơ nhưng không bao giờ lớn lên được cả.
Người đã quyết định thành lập gia đình cũng có cái hạt giống xuất gia ở trong tâm.
Đôi khi cũng nằm mơ thấy mình đi tu, và nếu trong cuộc sống lứa đôi gặp nhiều khổ đau, thì lại cảm thấy tiếc ngày xưa mình đã không đi tu.
Trong ta, tàng thức chôn nhiều hạt giống, có khi những hạt giống ấy chống đối với nhau.
Nhìn sâu, ta thấy tâm ta là mảnh đất chứa đựng tất cả mọi hạt giống.
Người bạn hôn phối của bạn cũng mang sẵn đủ loại hạt giống như vậy.
Người sư anh, người sư chị và người sư em của ta cũng vậy.
Tất cả đều có những hạt giống trái ngược nhau ở bên trong.
Nếu ta biết tưới tẩm, biết giúp đỡ thì các hạt giống tốt sẽ phát triển, hạt giống tiêu cực sẽ càng yếu, càng nhỏ, dù không bao giờ biến mất.
Vì vậy tâm thức gọi là nhất thiết chủng thức (sarvabijaka), nghĩa là “tất cả các loại hạt giống”.
Chúng ta phải tập nhìn mình, nhìn người và nhìn xã hội chung quanh cho rõ.
Mỗi ngày cái thấy của ta phải sáng thêm, phải mạnh thêm, đó là tuệ giác. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tuy vậy hạt giống không xuất gia, hạt giống muốn lập gia đình nó vẫn còn trong con người đã xuất gia.
Nếu sống với thầy với bạn mà vẫn thấy khổ thì tự nhiên hạt giống không xuất gia, nghĩa là niềm ước muốn lập gia đình, có vợ, có con, hạt giống đó sẽ lớn lên.
Trong đời sống xuất gia nếu ta có hạnh phúc, nếu ta tự thấy mình có chuyển hóa và đã giúp ích được nhiều người, thì cái hạt giống không xuất gia kia, có thể lâu lâu phát hiện một lần trong giấc mơ nhưng không bao giờ lớn lên được cả.
Người đã quyết định thành lập gia đình cũng có cái hạt giống xuất gia ở trong tâm.
Đôi khi cũng nằm mơ thấy mình đi tu, và nếu trong cuộc sống lứa đôi gặp nhiều khổ đau, thì lại cảm thấy tiếc ngày xưa mình đã không đi tu.
Trong ta, tàng thức chôn nhiều hạt giống, có khi những hạt giống ấy chống đối với nhau.
Nhìn sâu, ta thấy tâm ta là mảnh đất chứa đựng tất cả mọi hạt giống.
Người bạn hôn phối của bạn cũng mang sẵn đủ loại hạt giống như vậy.
Người sư anh, người sư chị và người sư em của ta cũng vậy.
Tất cả đều có những hạt giống trái ngược nhau ở bên trong.
Nếu ta biết tưới tẩm, biết giúp đỡ thì các hạt giống tốt sẽ phát triển, hạt giống tiêu cực sẽ càng yếu, càng nhỏ, dù không bao giờ biến mất.
Vì vậy tâm thức gọi là nhất thiết chủng thức (sarvabijaka), nghĩa là “tất cả các loại hạt giống”.
Chúng ta phải tập nhìn mình, nhìn người và nhìn xã hội chung quanh cho rõ.
Mỗi ngày cái thấy của ta phải sáng thêm, phải mạnh thêm, đó là tuệ giác. | Chúng ta phải tập nhìn mình, nhìn người và nhìn xã hội chung quanh cho rõ.
Mỗi ngày cái thấy của ta phải sáng thêm, phải mạnh thêm, đó là tuệ giác.
Nếu cái thấy không sáng thêm, không mạnh thêm thì sự tu hành của ta chưa có kết quả.
Tình trạng tuệ giác còn ốm yếu được kinh gọi là Liệt tuệ.
Tuệ giác ốm yếu thì không thể giúp nuôi dưỡng bảy chi phần khác của Bát Chánh Đạo.
Một em bé mười hai tuổi về Làng Hồng, đã hỏi một câu làm cho Sư ông thương quá.
Em hỏi: “Bạch sư ông, một người mình thương hôm nay, làm sao mình có thể biết trước rằng ngày mai mình còn thương nữa hay không?”
Người mình thương hôm nay, ngày mai mình có thể ghét, đó là một sự thật mà em bé này đã chứng kiến.
Ba mẹ nó ngày xưa khi quyết định lấy nhau, đã bị cả hai gia đình chống đối.
Ba đã tranh đấu, đã thách đố cả gia đình và cả xã hội để cưới được mẹ.
Vậy mà bây giờ hai người coi nhau như thù nghịch.
Ba và mẹ đang thù ghét nhau nên bé rất đau khổ.
“Bạch Sư ông, làm sao mình biết cái người mình thương hôm nay, ngày mai mình vẫn còn thương?” Làm sao chúng ta biết được!
Vì lòng của chúng ta cũng vô thường.
Nơi tâm người kia có những hạt giống khác nhau, nơi tâm ta cũng có những hạt giống khác nhau.
Cái thấy về vô thường cho ta biết rằng ta phải cẩn thận trong đời sống hàng ngày. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Chúng ta phải tập nhìn mình, nhìn người và nhìn xã hội chung quanh cho rõ.
Mỗi ngày cái thấy của ta phải sáng thêm, phải mạnh thêm, đó là tuệ giác.
Nếu cái thấy không sáng thêm, không mạnh thêm thì sự tu hành của ta chưa có kết quả.
Tình trạng tuệ giác còn ốm yếu được kinh gọi là Liệt tuệ.
Tuệ giác ốm yếu thì không thể giúp nuôi dưỡng bảy chi phần khác của Bát Chánh Đạo.
Một em bé mười hai tuổi về Làng Hồng, đã hỏi một câu làm cho Sư ông thương quá.
Em hỏi: “Bạch sư ông, một người mình thương hôm nay, làm sao mình có thể biết trước rằng ngày mai mình còn thương nữa hay không?”
Người mình thương hôm nay, ngày mai mình có thể ghét, đó là một sự thật mà em bé này đã chứng kiến.
Ba mẹ nó ngày xưa khi quyết định lấy nhau, đã bị cả hai gia đình chống đối.
Ba đã tranh đấu, đã thách đố cả gia đình và cả xã hội để cưới được mẹ.
Vậy mà bây giờ hai người coi nhau như thù nghịch.
Ba và mẹ đang thù ghét nhau nên bé rất đau khổ.
“Bạch Sư ông, làm sao mình biết cái người mình thương hôm nay, ngày mai mình vẫn còn thương?” Làm sao chúng ta biết được!
Vì lòng của chúng ta cũng vô thường.
Nơi tâm người kia có những hạt giống khác nhau, nơi tâm ta cũng có những hạt giống khác nhau.
Cái thấy về vô thường cho ta biết rằng ta phải cẩn thận trong đời sống hàng ngày. | Nơi tâm người kia có những hạt giống khác nhau, nơi tâm ta cũng có những hạt giống khác nhau.
Cái thấy về vô thường cho ta biết rằng ta phải cẩn thận trong đời sống hàng ngày.
Nếu không biết vun bón những hạt giống tích cực mà cứ hàng ngày tưới tẩm những hạt giống tiêu cực nơi mình và nơi người, thì tự nhiên người mình thương hôm nay, ngày mai có thể mình sẽ ghét; cái người hôm nay thương mình sẽ có thể ghét mình ngày mai.
Đó là chánh kiến dẫn ta tới chánh tư duy.
Nếu tư duy không căn cứ trên tuệ giác về vô thường thì đó là tà tư duy.
Vô ngã là một nhận thức căn bản khác của chánh tư duy.
Nếu tư duy của chúng ta không căn cứ trên nguyên tắc vô ngã thì vẫn là tà tư duy.
Vô ngã có nghĩa là mỗi hiện tượng tùy thuộc nhiều hiện tượng khác, không hiện tượng nào có một tự thể riêng biệt và độc lập với tất cả những hiện tượng khác.
Các hiện tượng đều do nhân duyên mà sinh khởi.
Tư duy ở trình độ xuất thế gian
Trong Kinh có nói đến sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền.
Trong trình độ thiền thứ nhất có tư duy, có tầm (vitarka) và từ (vicara) nghĩa là còn có những ý nghĩ.
Nhưng vào thiền bậc thứ hai, đệ nhị thiền, thì không còn tầm và từ nữa.
Càng tiếp xúc trực tiếp với thực tại thì càng thoát khỏi ý niệm và ngôn ngữ.
Ý niệm và ngôn từ tuy được sử dụng để chỉ bày sự vật, nhưng cũng có thể làm cho ta xa cách thực tại.
Vượt khỏi hàng rào của ý niệm và ngôn từ ta mới tiếp xúc sâu sắc được với sự thật. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nơi tâm người kia có những hạt giống khác nhau, nơi tâm ta cũng có những hạt giống khác nhau.
Cái thấy về vô thường cho ta biết rằng ta phải cẩn thận trong đời sống hàng ngày.
Nếu không biết vun bón những hạt giống tích cực mà cứ hàng ngày tưới tẩm những hạt giống tiêu cực nơi mình và nơi người, thì tự nhiên người mình thương hôm nay, ngày mai có thể mình sẽ ghét; cái người hôm nay thương mình sẽ có thể ghét mình ngày mai.
Đó là chánh kiến dẫn ta tới chánh tư duy.
Nếu tư duy không căn cứ trên tuệ giác về vô thường thì đó là tà tư duy.
Vô ngã là một nhận thức căn bản khác của chánh tư duy.
Nếu tư duy của chúng ta không căn cứ trên nguyên tắc vô ngã thì vẫn là tà tư duy.
Vô ngã có nghĩa là mỗi hiện tượng tùy thuộc nhiều hiện tượng khác, không hiện tượng nào có một tự thể riêng biệt và độc lập với tất cả những hiện tượng khác.
Các hiện tượng đều do nhân duyên mà sinh khởi.
Tư duy ở trình độ xuất thế gian
Trong Kinh có nói đến sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền.
Trong trình độ thiền thứ nhất có tư duy, có tầm (vitarka) và từ (vicara) nghĩa là còn có những ý nghĩ.
Nhưng vào thiền bậc thứ hai, đệ nhị thiền, thì không còn tầm và từ nữa.
Càng tiếp xúc trực tiếp với thực tại thì càng thoát khỏi ý niệm và ngôn ngữ.
Ý niệm và ngôn từ tuy được sử dụng để chỉ bày sự vật, nhưng cũng có thể làm cho ta xa cách thực tại.
Vượt khỏi hàng rào của ý niệm và ngôn từ ta mới tiếp xúc sâu sắc được với sự thật. | Ý niệm và ngôn từ tuy được sử dụng để chỉ bày sự vật, nhưng cũng có thể làm cho ta xa cách thực tại.
Vượt khỏi hàng rào của ý niệm và ngôn từ ta mới tiếp xúc sâu sắc được với sự thật.
Như khi nói đến người Mỹ, người Pháp, nhiều người có sẵn những hình ảnh, ý tưởng, tình cảm vốn có về người Mỹ, người Pháp.
Đến khi gặp một người Mỹ hay một người Pháp, nếu chúng ta vẫn giữ nguyên các ý niệm cũ, như những định kiến, để nhìn họ thì chúng ta không thể thấy và tiếp xúc được với con người thật trước mắt mình.
Như vậy ý niệm và ngôn từ ban đầu có thể giúp ta biết có các sự vật, nhưng sau đó có thể trở thành chướng ngại vật ngăn không cho ta tiếp xúc với bản thân của thực tại.
Cho nên trong quá trình tu tập ta phải dần dần học tiếp xúc với thực tại một cách trực tiếp không qua trung gian ngôn từ và ý niệm.
Tư duy phải dùng đến ý niệm và ngôn từ.
Nhưng trong quá trình văn, tư, tu, chúng ta phải tập vượt ý niệm và ngôn từ để đi vào bản chất của sự vật.
Ban đầu của sự học hỏi thì tứ đế, Bát Chánh Đạo, vô thường, vô ngã, thiện cặn, ác căn, đều là những ý niệm và ngôn từ.
Và khi đã bắt đầu thấy được bản chất của tứ đế, của Bát Chánh Đạo, của vô thường, vô ngã thì ta không cần đến những danh từ và ý niệm ấy nữa.
Như thế gọi là thực chứng (direct experience).
Trong phái Tào Động có câu châm ngôn về ngồi thiền: tư lương cá bất tư lương để, bất tư lương để như hà tư lương.
Phi tư lương thị thiền chi yếu giả.
Viết là tư lượng, đọc là tư lương.
Tư là tư duy, lượng là đo lường, so sánh. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ý niệm và ngôn từ tuy được sử dụng để chỉ bày sự vật, nhưng cũng có thể làm cho ta xa cách thực tại.
Vượt khỏi hàng rào của ý niệm và ngôn từ ta mới tiếp xúc sâu sắc được với sự thật.
Như khi nói đến người Mỹ, người Pháp, nhiều người có sẵn những hình ảnh, ý tưởng, tình cảm vốn có về người Mỹ, người Pháp.
Đến khi gặp một người Mỹ hay một người Pháp, nếu chúng ta vẫn giữ nguyên các ý niệm cũ, như những định kiến, để nhìn họ thì chúng ta không thể thấy và tiếp xúc được với con người thật trước mắt mình.
Như vậy ý niệm và ngôn từ ban đầu có thể giúp ta biết có các sự vật, nhưng sau đó có thể trở thành chướng ngại vật ngăn không cho ta tiếp xúc với bản thân của thực tại.
Cho nên trong quá trình tu tập ta phải dần dần học tiếp xúc với thực tại một cách trực tiếp không qua trung gian ngôn từ và ý niệm.
Tư duy phải dùng đến ý niệm và ngôn từ.
Nhưng trong quá trình văn, tư, tu, chúng ta phải tập vượt ý niệm và ngôn từ để đi vào bản chất của sự vật.
Ban đầu của sự học hỏi thì tứ đế, Bát Chánh Đạo, vô thường, vô ngã, thiện cặn, ác căn, đều là những ý niệm và ngôn từ.
Và khi đã bắt đầu thấy được bản chất của tứ đế, của Bát Chánh Đạo, của vô thường, vô ngã thì ta không cần đến những danh từ và ý niệm ấy nữa.
Như thế gọi là thực chứng (direct experience).
Trong phái Tào Động có câu châm ngôn về ngồi thiền: tư lương cá bất tư lương để, bất tư lương để như hà tư lương.
Phi tư lương thị thiền chi yếu giả.
Viết là tư lượng, đọc là tư lương.
Tư là tư duy, lượng là đo lường, so sánh. | Phi tư lương thị thiền chi yếu giả.
Viết là tư lượng, đọc là tư lương.
Tư là tư duy, lượng là đo lường, so sánh.
Tư lương cá bất tư lương để là suy tư và đo lường cái không thể suy tư và đo lường, tư duy về cái không thể tư duy được.
Bất tư lương để như hà tư lương là cái không thể suy tư thì làm sao mà suy tư được.
Cho nên, phi tư lương thị thiền chi yếu giả: không suy tư, đó là yếu chỉ của thiền.
Người ta thường hay hỏi trong khi ngồi thiền ông suy nghĩ về cái gì?
Ngồi thiền cốt yếu là không suy nghĩ gì cả.
Lúc ban đầu trong sơ thiền thì còn suy nghĩ, còn dùng khái niệm và ngôn từ.
Sau đó phải vượt khái niệm và ngôn từ.
Khi ta thực sự sống với một người hay trong một hoàn cảnh nào thì dần dần những ý niệm và những ngôn từ sẵn có về hoàn cảnh và về người đó tự nhiên rơi rụng.
Từ đó có thể kết luận rằng khi ta đã bước sang lãnh vực chân đế, xuất thế gian, thì tất cả mọi tư duy đều là tà tư duy.
Khi học về chánh kiến, chúng ta cũng đi từ lãnh vực của thế gian sang lãnh vực xuất thế gian.
Lãnh vực thế gian là thấy có chánh kiến, có tà kiến.
Khi đi sang lãnh vực xuất thế gian tất cả các kiến đều là tà kiến.
Chánh tư duy cũng vậy, ban đầu thì ta phân biệt có chánh tư duy và tà tư duy.
Nhưng sau quá trình văn tư tu, bứt hết những ý niệm và ngôn từ, ta an trú trong thực tại nhiệm mầu của pháp thân.
Lúc đó không thể nào diễn tả thực tại bằng ngôn từ và ý niệm nữa.
Gọi là tâm hành xứ diệt.
Tâm hành xứ tức là cái chỗ đi về của tâm ý.
Nẻo về của mọi tâm hành không còn. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Phi tư lương thị thiền chi yếu giả.
Viết là tư lượng, đọc là tư lương.
Tư là tư duy, lượng là đo lường, so sánh.
Tư lương cá bất tư lương để là suy tư và đo lường cái không thể suy tư và đo lường, tư duy về cái không thể tư duy được.
Bất tư lương để như hà tư lương là cái không thể suy tư thì làm sao mà suy tư được.
Cho nên, phi tư lương thị thiền chi yếu giả: không suy tư, đó là yếu chỉ của thiền.
Người ta thường hay hỏi trong khi ngồi thiền ông suy nghĩ về cái gì?
Ngồi thiền cốt yếu là không suy nghĩ gì cả.
Lúc ban đầu trong sơ thiền thì còn suy nghĩ, còn dùng khái niệm và ngôn từ.
Sau đó phải vượt khái niệm và ngôn từ.
Khi ta thực sự sống với một người hay trong một hoàn cảnh nào thì dần dần những ý niệm và những ngôn từ sẵn có về hoàn cảnh và về người đó tự nhiên rơi rụng.
Từ đó có thể kết luận rằng khi ta đã bước sang lãnh vực chân đế, xuất thế gian, thì tất cả mọi tư duy đều là tà tư duy.
Khi học về chánh kiến, chúng ta cũng đi từ lãnh vực của thế gian sang lãnh vực xuất thế gian.
Lãnh vực thế gian là thấy có chánh kiến, có tà kiến.
Khi đi sang lãnh vực xuất thế gian tất cả các kiến đều là tà kiến.
Chánh tư duy cũng vậy, ban đầu thì ta phân biệt có chánh tư duy và tà tư duy.
Nhưng sau quá trình văn tư tu, bứt hết những ý niệm và ngôn từ, ta an trú trong thực tại nhiệm mầu của pháp thân.
Lúc đó không thể nào diễn tả thực tại bằng ngôn từ và ý niệm nữa.
Gọi là tâm hành xứ diệt.
Tâm hành xứ tức là cái chỗ đi về của tâm ý.
Nẻo về của mọi tâm hành không còn. | Lúc đó không thể nào diễn tả thực tại bằng ngôn từ và ý niệm nữa.
Gọi là tâm hành xứ diệt.
Tâm hành xứ tức là cái chỗ đi về của tâm ý.
Nẻo về của mọi tâm hành không còn.
Cái gọi là chánh tư duy cũng không còn diễn tả được sự thật, nó chẳng qua chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng.
Chánh kiến và bất cứ một chi phần nào của Bát chánh đạo cũng đều có hai mặt thế gian và xuất thế gian như vậy.
Cho nên Bụt nói giáo pháp ta như biển, có những bãi biển thoai thoải giúp ta đi từ từ xuống nước, chứ không bắt buộc ta phải đi ngay vào chỗ quá sâu.
Học về vô thường, vô ngã, lúc đầu chúng ta chỉ có khái niệm và danh từ vô thường và vô ngã.
Chúng ta có thể nói về vô thường, vô ngã suốt đời mà giáo lý vô thường và vô ngã không ảnh hưởng chút nào tới đời sống hàng ngày của chúng ta.
Đó là những chiếc xe vận tải trống rỗng.
Trái lại, nếu chiếc xe có chuyên chở vật liệu xây cất, thì khi xe rút lui chúng ta vẫn còn vật liệu.
Và chúng ta không bị kẹt vào những chiếc xe hình thức của ý niệm và ngôn từ.
Bụt có dạy các phép quán về bất tịnh và khổ.
Bất tịnh nghĩa là không sạch sẽ: tuy bên ngoài ta thấy sạch sẽ và đẹp đẽ nhưng bên trong thì không.
Cảnh thiên nhiên bên ngoài có thể rất đẹp nhưng bên trong lại không.
Cảnh đồng quê thái bình tươi tốt, chim én lượn bay, thấy rất đẹp nhưng bên trong có thể là chất phân hóa học đang giết bao nhiêu côn trùng.
Những con chim đang liệng bay kiếm sâu để ăn, và những con sâu đang run sợ.
Ta đừng để cái bề ngoài đánh lừa. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Lúc đó không thể nào diễn tả thực tại bằng ngôn từ và ý niệm nữa.
Gọi là tâm hành xứ diệt.
Tâm hành xứ tức là cái chỗ đi về của tâm ý.
Nẻo về của mọi tâm hành không còn.
Cái gọi là chánh tư duy cũng không còn diễn tả được sự thật, nó chẳng qua chỉ là ngón tay chỉ mặt trăng.
Chánh kiến và bất cứ một chi phần nào của Bát chánh đạo cũng đều có hai mặt thế gian và xuất thế gian như vậy.
Cho nên Bụt nói giáo pháp ta như biển, có những bãi biển thoai thoải giúp ta đi từ từ xuống nước, chứ không bắt buộc ta phải đi ngay vào chỗ quá sâu.
Học về vô thường, vô ngã, lúc đầu chúng ta chỉ có khái niệm và danh từ vô thường và vô ngã.
Chúng ta có thể nói về vô thường, vô ngã suốt đời mà giáo lý vô thường và vô ngã không ảnh hưởng chút nào tới đời sống hàng ngày của chúng ta.
Đó là những chiếc xe vận tải trống rỗng.
Trái lại, nếu chiếc xe có chuyên chở vật liệu xây cất, thì khi xe rút lui chúng ta vẫn còn vật liệu.
Và chúng ta không bị kẹt vào những chiếc xe hình thức của ý niệm và ngôn từ.
Bụt có dạy các phép quán về bất tịnh và khổ.
Bất tịnh nghĩa là không sạch sẽ: tuy bên ngoài ta thấy sạch sẽ và đẹp đẽ nhưng bên trong thì không.
Cảnh thiên nhiên bên ngoài có thể rất đẹp nhưng bên trong lại không.
Cảnh đồng quê thái bình tươi tốt, chim én lượn bay, thấy rất đẹp nhưng bên trong có thể là chất phân hóa học đang giết bao nhiêu côn trùng.
Những con chim đang liệng bay kiếm sâu để ăn, và những con sâu đang run sợ.
Ta đừng để cái bề ngoài đánh lừa. | Những con chim đang liệng bay kiếm sâu để ăn, và những con sâu đang run sợ.
Ta đừng để cái bề ngoài đánh lừa.
Những con người trông rất trong trắng, nhưng bên trong thân tâm có những yếu tố bất tịnh.
Khi khám phá ra được thì có thể trễ mất rồi.
Phải thấy được các yếu tố bất tịnh bên trong chính bản thân mình, trong người khác và trong vạn vật chung quanh.
Địa ngục có thể xuất hiện bất cứ lúc nào.
Đó là phép quán bất tịnh.
Trong đạo Phật có phương pháp quán cửu tưởng, tức là quán sát về thân thể con người để thấy được những sự thật về tính chất bất tịnh.
Đó là một cách đối trị tham dục.
Quán khổ là để đối trị với ảo tưởng về vui.
Nhìn một cá nhân, một gia đình chúng ta có thể thấy qua bề ngoài hình như có sự hòa thuận và vui vẻ nhưng bên trong có thể chứa chất nhiều khổ đau.
Bề ngoài ta thấy một gia đình đầm ấm và tươi vui, nhưng bên trong có thể là oán giận, ghen ghét và mọi người phải chịu đựng lẫn nhau như trong một địa ngục.
Bụt dạy quán khổ để ta xoá ảo tưởng về những niềm vui giả tạo.
Sau này các thầy nêu ra hai đề tài quán chiếu, khổ và bất tịnh để chép chung với các phép quán vô thường và vô ngã.
Quán chiếu để thấy bốn tà kiến gọi là bốn điên đảo (viparyasa).
Đó là: sự vật vô thường mà nói là thường, sự vật khổ mà nói là lạc, sự vật vô ngã mà nói là hữu ngã, sự vật bất tịnh mà nói là tịnh.
Điên đảo tức là ngược lại, tiếng Anh là up side down, quay ngược đầu xuống đất. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Những con chim đang liệng bay kiếm sâu để ăn, và những con sâu đang run sợ.
Ta đừng để cái bề ngoài đánh lừa.
Những con người trông rất trong trắng, nhưng bên trong thân tâm có những yếu tố bất tịnh.
Khi khám phá ra được thì có thể trễ mất rồi.
Phải thấy được các yếu tố bất tịnh bên trong chính bản thân mình, trong người khác và trong vạn vật chung quanh.
Địa ngục có thể xuất hiện bất cứ lúc nào.
Đó là phép quán bất tịnh.
Trong đạo Phật có phương pháp quán cửu tưởng, tức là quán sát về thân thể con người để thấy được những sự thật về tính chất bất tịnh.
Đó là một cách đối trị tham dục.
Quán khổ là để đối trị với ảo tưởng về vui.
Nhìn một cá nhân, một gia đình chúng ta có thể thấy qua bề ngoài hình như có sự hòa thuận và vui vẻ nhưng bên trong có thể chứa chất nhiều khổ đau.
Bề ngoài ta thấy một gia đình đầm ấm và tươi vui, nhưng bên trong có thể là oán giận, ghen ghét và mọi người phải chịu đựng lẫn nhau như trong một địa ngục.
Bụt dạy quán khổ để ta xoá ảo tưởng về những niềm vui giả tạo.
Sau này các thầy nêu ra hai đề tài quán chiếu, khổ và bất tịnh để chép chung với các phép quán vô thường và vô ngã.
Quán chiếu để thấy bốn tà kiến gọi là bốn điên đảo (viparyasa).
Đó là: sự vật vô thường mà nói là thường, sự vật khổ mà nói là lạc, sự vật vô ngã mà nói là hữu ngã, sự vật bất tịnh mà nói là tịnh.
Điên đảo tức là ngược lại, tiếng Anh là up side down, quay ngược đầu xuống đất. | Điên đảo tức là ngược lại, tiếng Anh là up side down, quay ngược đầu xuống đất.
Tâm Kinh Bát Nhã nói viễn ly điên đảo mộng tưởng tức là xa lìa những cái thấy điên đảo do tri giác sai lầm sinh ra.
Bụt đã cho bốn bài học: vô thường, vô ngã, khổ và bất tịnh để ta thoát ra khỏi những ý niệm và danh từ về thường, lạc, ngã và tịnh.
Nhưng có người chỉ nắm bắt được danh từ và ý niệm thôi.
Họ bị kẹt cứng trong các danh từ và ý niệm vô thường, vô ngã, khổ và bất tịnh ấy.
Họ chỉ than đời vô thường quá, đời vô ngã quá, đời khổ quá, đời bất tịnh quá và âm thầm kết luận: thôi thì chết đi, hay bỏ cõi đời này tìm sang một cõi khác cho rồi.
Đây là mối lầm rất quan trọng, làm họ không tiến thêm được bước nào trên đường tu học.
Trong bài “Đệ tử chúng con từ vô thỉ” có câu: “Cùng tăng thân xin nguyện ở lại cõi đời này làm việc độ sinh”, ý nói ta không cần phải là bỏ cuộc đời này để đi tìm một cõi khác.
Muốn giải thoát khỏi bốn cái điên đảo, tìm tới bốn chánh kiến, nhưng nếu không khéo thì người ta có thể lại kẹt vào những ý niệm vô thường, vô ngã, khổ và bất tịnh.
Như một kẻ bị bệnh được người ta cho thuốc, rồi lại bị bệnh ghiền thuốc.
đạo Phật Đại Thừa gọi những người này bị bệnh giáo pháp (dharma sickness).
Ban đầu bị bệnh khổ đau, bây giờ bị bệnh thêm vì giáo pháp.
Trong giới Phật tử, những người bị đắm vào các ý niệm vô thường, vô ngã, khổ và bất tịnh rất đông.
Tuy họ nói hoài về vô thường, vô ngã, khổ và bất tịnh, nhưng những giáo lý đó không ích lợi gì cho họ trong đời sống hàng ngày cả. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Điên đảo tức là ngược lại, tiếng Anh là up side down, quay ngược đầu xuống đất.
Tâm Kinh Bát Nhã nói viễn ly điên đảo mộng tưởng tức là xa lìa những cái thấy điên đảo do tri giác sai lầm sinh ra.
Bụt đã cho bốn bài học: vô thường, vô ngã, khổ và bất tịnh để ta thoát ra khỏi những ý niệm và danh từ về thường, lạc, ngã và tịnh.
Nhưng có người chỉ nắm bắt được danh từ và ý niệm thôi.
Họ bị kẹt cứng trong các danh từ và ý niệm vô thường, vô ngã, khổ và bất tịnh ấy.
Họ chỉ than đời vô thường quá, đời vô ngã quá, đời khổ quá, đời bất tịnh quá và âm thầm kết luận: thôi thì chết đi, hay bỏ cõi đời này tìm sang một cõi khác cho rồi.
Đây là mối lầm rất quan trọng, làm họ không tiến thêm được bước nào trên đường tu học.
Trong bài “Đệ tử chúng con từ vô thỉ” có câu: “Cùng tăng thân xin nguyện ở lại cõi đời này làm việc độ sinh”, ý nói ta không cần phải là bỏ cuộc đời này để đi tìm một cõi khác.
Muốn giải thoát khỏi bốn cái điên đảo, tìm tới bốn chánh kiến, nhưng nếu không khéo thì người ta có thể lại kẹt vào những ý niệm vô thường, vô ngã, khổ và bất tịnh.
Như một kẻ bị bệnh được người ta cho thuốc, rồi lại bị bệnh ghiền thuốc.
đạo Phật Đại Thừa gọi những người này bị bệnh giáo pháp (dharma sickness).
Ban đầu bị bệnh khổ đau, bây giờ bị bệnh thêm vì giáo pháp.
Trong giới Phật tử, những người bị đắm vào các ý niệm vô thường, vô ngã, khổ và bất tịnh rất đông.
Tuy họ nói hoài về vô thường, vô ngã, khổ và bất tịnh, nhưng những giáo lý đó không ích lợi gì cho họ trong đời sống hàng ngày cả. | Tuy họ nói hoài về vô thường, vô ngã, khổ và bất tịnh, nhưng những giáo lý đó không ích lợi gì cho họ trong đời sống hàng ngày cả.
Những chiếc xe vận tải đó không chuyên chở được vật liệu nào cả, chỉ là những chiếc xe không.
Đó là những hạt thóc lép không bao giờ mọc ra được lúa gạo.
đạo Bụt Đại Thừa nói niết bàn là thường, lạc, ngã, tịnh.
Lấy ngay tứ điên đảo để làm bốn đức của Niết bàn.
Chúng ta nghe mà giật mình.
Có người sẽ được chữa lành bởi cái phương thuốc đó, và cũng có người sẽ đau nặng thêm vì bốn phương thuốc đó không tiêu.
Thành ra khi chúng ta đi vào bình diện bản môn thì tất cả các kiến đều không còn, dù là chánh kiến.
Tất cả mọi tư duy đều nên bỏ hết, dù là chánh tư duy.
(All views are wrong views, all thinkings are wrong thinkings).
Phi tư duy thị thiền chi yếu giả, sự vắng mặt của tư duy là tinh yếu của thiền.
Cho nên chúng ta biết rằng khi nghĩ về những điều xấu và ác như sát, đạo, dâm, vọng là tà tư duy đã đành rồi; nhưng nếu chúng ta nghĩ tới tứ đế, vô thường, vô ngã, bất tịnh, khổ mà bị vướng vào ý niệm và ngôn từ thì đó cũng tà tư duy.
Chứ không phải cứ đang nói về Phật Pháp là chánh tư duy.
Tư duy Phật Pháp mà tư duy theo kiểu bị vướng mắc vào danh từ và ý niệm cũng là tà tư duy.
Nói chuyện về quán rượu, sòng bạc và sắc dục, cố nhiên là tà tư duy; nhưng nếu chúng ta nói trong chánh niệm, trong ý hướng muốn chuyển hóa người nghe, để giúp họ ra khỏi những hầm hố và địa ngục ấy thì chúng ta đang thực tập chánh tư duy và chánh ngữ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tuy họ nói hoài về vô thường, vô ngã, khổ và bất tịnh, nhưng những giáo lý đó không ích lợi gì cho họ trong đời sống hàng ngày cả.
Những chiếc xe vận tải đó không chuyên chở được vật liệu nào cả, chỉ là những chiếc xe không.
Đó là những hạt thóc lép không bao giờ mọc ra được lúa gạo.
đạo Bụt Đại Thừa nói niết bàn là thường, lạc, ngã, tịnh.
Lấy ngay tứ điên đảo để làm bốn đức của Niết bàn.
Chúng ta nghe mà giật mình.
Có người sẽ được chữa lành bởi cái phương thuốc đó, và cũng có người sẽ đau nặng thêm vì bốn phương thuốc đó không tiêu.
Thành ra khi chúng ta đi vào bình diện bản môn thì tất cả các kiến đều không còn, dù là chánh kiến.
Tất cả mọi tư duy đều nên bỏ hết, dù là chánh tư duy.
(All views are wrong views, all thinkings are wrong thinkings).
Phi tư duy thị thiền chi yếu giả, sự vắng mặt của tư duy là tinh yếu của thiền.
Cho nên chúng ta biết rằng khi nghĩ về những điều xấu và ác như sát, đạo, dâm, vọng là tà tư duy đã đành rồi; nhưng nếu chúng ta nghĩ tới tứ đế, vô thường, vô ngã, bất tịnh, khổ mà bị vướng vào ý niệm và ngôn từ thì đó cũng tà tư duy.
Chứ không phải cứ đang nói về Phật Pháp là chánh tư duy.
Tư duy Phật Pháp mà tư duy theo kiểu bị vướng mắc vào danh từ và ý niệm cũng là tà tư duy.
Nói chuyện về quán rượu, sòng bạc và sắc dục, cố nhiên là tà tư duy; nhưng nếu chúng ta nói trong chánh niệm, trong ý hướng muốn chuyển hóa người nghe, để giúp họ ra khỏi những hầm hố và địa ngục ấy thì chúng ta đang thực tập chánh tư duy và chánh ngữ. | Và khi đã chuyển sang bình diện xuất thế gian thì không còn sự phân biệt, tất cả tư duy đều là tà tư duy.
Trong việc tu tập, uống trà hay đi thiền hành thì chúng ta chỉ uống trà và chỉ đi thiền hành mà thôi.
Nếu chúng ta còn tư duy về trà, tư duy về thiền hành, đó cũng vẫn là tà tư duy.
Trong khi đi thiền hành ta chỉ đi thiền hành thôi; nếu suy nghĩ, dù là suy nghĩ về thiền hành, là hỏng.
Trong khi uống trà ta chỉ uống trà; nếu trong khi uống trà còn suy nghĩ, so sánh, suy tư về trà, có những ý niệm này, ý niệm khác về trà, thì đâu còn là uống trà nữa?
Trong đời sống hàng ngày, trí óc ta luôn luôn suy nghĩ, nghĩ cái này rồi nghĩ cái khác.
Khi sự suy nghĩ đưa chúng ta tới đau buồn, sợ hãi, lo lắng, chúng ta biết đó là tà tư duy và chúng ta phải ngưng lại.
Muốn ngưng tập khí suy nghĩ ấy lại, ta phải thực tập chánh kiến.
Chánh tư duy đưa đến an vui, đưa tới quyết tâm muốn tạo hạnh phúc cho mình và cho người khác.
Trong kinh Thánh đạo và trong Tạp A Hàm kinh thứ 785, chúng ta thấy rõ rằng chánh kiến, chánh tư duy và chánh niệm phối hợp lại thành một bộ ba rất quan trọng, nhất là trong sự thực tập hằng ngày.
Để có một phương pháp tu tập về chánh tư duy, tôi đề nghị bốn mệnh đề này, quý vị có thể tự đặt cho mình như những câu hỏi, áp dụng vào thực tế.
Mệnh đề thứ nhất: Có chắc như vậy không?
Câu hỏi này thuộc phạm vi tư duy và tưởng (thinking and perception).
Tư duy liên hệ tới tưởng.
Tưởng tức là cái nhận thức (perception) hay tri giác của mình. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Và khi đã chuyển sang bình diện xuất thế gian thì không còn sự phân biệt, tất cả tư duy đều là tà tư duy.
Trong việc tu tập, uống trà hay đi thiền hành thì chúng ta chỉ uống trà và chỉ đi thiền hành mà thôi.
Nếu chúng ta còn tư duy về trà, tư duy về thiền hành, đó cũng vẫn là tà tư duy.
Trong khi đi thiền hành ta chỉ đi thiền hành thôi; nếu suy nghĩ, dù là suy nghĩ về thiền hành, là hỏng.
Trong khi uống trà ta chỉ uống trà; nếu trong khi uống trà còn suy nghĩ, so sánh, suy tư về trà, có những ý niệm này, ý niệm khác về trà, thì đâu còn là uống trà nữa?
Trong đời sống hàng ngày, trí óc ta luôn luôn suy nghĩ, nghĩ cái này rồi nghĩ cái khác.
Khi sự suy nghĩ đưa chúng ta tới đau buồn, sợ hãi, lo lắng, chúng ta biết đó là tà tư duy và chúng ta phải ngưng lại.
Muốn ngưng tập khí suy nghĩ ấy lại, ta phải thực tập chánh kiến.
Chánh tư duy đưa đến an vui, đưa tới quyết tâm muốn tạo hạnh phúc cho mình và cho người khác.
Trong kinh Thánh đạo và trong Tạp A Hàm kinh thứ 785, chúng ta thấy rõ rằng chánh kiến, chánh tư duy và chánh niệm phối hợp lại thành một bộ ba rất quan trọng, nhất là trong sự thực tập hằng ngày.
Để có một phương pháp tu tập về chánh tư duy, tôi đề nghị bốn mệnh đề này, quý vị có thể tự đặt cho mình như những câu hỏi, áp dụng vào thực tế.
Mệnh đề thứ nhất: Có chắc như vậy không?
Câu hỏi này thuộc phạm vi tư duy và tưởng (thinking and perception).
Tư duy liên hệ tới tưởng.
Tưởng tức là cái nhận thức (perception) hay tri giác của mình. | Mệnh đề thứ nhất: Có chắc như vậy không?
Câu hỏi này thuộc phạm vi tư duy và tưởng (thinking and perception).
Tư duy liên hệ tới tưởng.
Tưởng tức là cái nhận thức (perception) hay tri giác của mình.
Một sợi dây mà ta tưởng là con rắn, đó là một nhận thức sai lầm, wrong perception.
Một người không có ý nói điều đó mà mình tưởng rằng người ấy muốn nói điều đó, một điều giả định mà mình tưởng là sự thật; đó gọi là vọng tưởng.
Càng nhiều vọng tưởng thì càng nhiều tà tư duy.
Cho nên đừng vọng tưởng về mình, về người, về hoàn cảnh xung quanh.
Và muốn như vậy thì phải có chánh niệm.
Tự hỏi: Có chắc như vậy không?
Có chắc cái tri giác mình tiếp nhận đó là đúng hay không?
Trong một khóa tu nọ, tôi đề nghị mỗi người viết câu hỏi “Are you sure?” dán trong phòng mình.
Chúng ta có rất nhiều nhận thức sai lầm trong đời sống hằng ngày.
Những sai lầm đó tạo địa ngục cho chúng ta và những người sống chung với chúng ta.
Vì vậy muốn chánh tư duy phải biết quán chiếu và kiểm chứng xem những tri giác của ta có đúng hay không.
Mệnh đề thứ hai mà ta nên luôn luôn tự hỏi mình là: “Ta đang đi về đâu?” Đây là vấn đề liên quan đến tư duy và thất niệm.
Tư duy thường lôi ta đi khắp nơi.
Nó xỏ mũi mình và kéo mình đi như trẻ mục đồng kéo con trâu đi theo.
Nó mang chúng ta xuống địa ngục, chúng ta theo xuống địa ngục.
Vì vậy cần phải thực tập chánh niệm. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Mệnh đề thứ nhất: Có chắc như vậy không?
Câu hỏi này thuộc phạm vi tư duy và tưởng (thinking and perception).
Tư duy liên hệ tới tưởng.
Tưởng tức là cái nhận thức (perception) hay tri giác của mình.
Một sợi dây mà ta tưởng là con rắn, đó là một nhận thức sai lầm, wrong perception.
Một người không có ý nói điều đó mà mình tưởng rằng người ấy muốn nói điều đó, một điều giả định mà mình tưởng là sự thật; đó gọi là vọng tưởng.
Càng nhiều vọng tưởng thì càng nhiều tà tư duy.
Cho nên đừng vọng tưởng về mình, về người, về hoàn cảnh xung quanh.
Và muốn như vậy thì phải có chánh niệm.
Tự hỏi: Có chắc như vậy không?
Có chắc cái tri giác mình tiếp nhận đó là đúng hay không?
Trong một khóa tu nọ, tôi đề nghị mỗi người viết câu hỏi “Are you sure?” dán trong phòng mình.
Chúng ta có rất nhiều nhận thức sai lầm trong đời sống hằng ngày.
Những sai lầm đó tạo địa ngục cho chúng ta và những người sống chung với chúng ta.
Vì vậy muốn chánh tư duy phải biết quán chiếu và kiểm chứng xem những tri giác của ta có đúng hay không.
Mệnh đề thứ hai mà ta nên luôn luôn tự hỏi mình là: “Ta đang đi về đâu?” Đây là vấn đề liên quan đến tư duy và thất niệm.
Tư duy thường lôi ta đi khắp nơi.
Nó xỏ mũi mình và kéo mình đi như trẻ mục đồng kéo con trâu đi theo.
Nó mang chúng ta xuống địa ngục, chúng ta theo xuống địa ngục.
Vì vậy cần phải thực tập chánh niệm. | Nó xỏ mũi mình và kéo mình đi như trẻ mục đồng kéo con trâu đi theo.
Nó mang chúng ta xuống địa ngục, chúng ta theo xuống địa ngục.
Vì vậy cần phải thực tập chánh niệm.
Khi biết mình đang để cho thất niệm hoành hành, để cho tà tư duy kéo mình đi vào địa ngục, ta nói: tôi biết đang đi vào địa ngục, và tự nhiên ta ngưng lại.
Tôi biết tư duy của tôi đang đưa tôi xuống địa ngục và tôi quyết định không đi theo nữa.
Mệnh đề thứ ba có liên quan đến tư duy và tập khí.
Tập khí là những thói quen ta có, từ hồi ấu thơ, có thể đã do các thế hệ ông bà truyền lại.
Khi nhận ra một tập khí của mình ta hãy chào một câu: “À!
bạn cố tri đó hả?” Một thói quen mà chúng ta thường nghĩ là hay nhưng có thể là dở.
Ví dụ như cái thói hay làm.
Hễ hở tay ra một cái thì kiếm việc ra để làm, nếu không làm thì không chịu nổi.
căn nguyên sâu xa là vì từ đời này sang đời khác dân ta vốn rất nghèo đói.
Cho nên ông bà tổ tiên của mình khi nào có chút thì giờ rảnh là phải làm một cái gì, để giúp gia đình có thêm cơm ăn áo mặc.
Đó là một đức tính tốt.
Vì thương gia đình, thương cha mẹ cho nên mình chịu khó làm như vậy.
Nhưng thói quen đó có thể trở thành một tập khí xấu có thể làm cho mình không còn cơ hội để sống đích thực nữa.
Rất nhiều người trong xã hội chúng ta bị cái bệnh gọi là ghiền công việc (workaholism), tức là không làm gì đó thì chịu không nổi.
Họ không có thì giờ để ngắm nhìn trời xanh, mây trắng, không có thì giờ để đi từng bước thảnh thơi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nó xỏ mũi mình và kéo mình đi như trẻ mục đồng kéo con trâu đi theo.
Nó mang chúng ta xuống địa ngục, chúng ta theo xuống địa ngục.
Vì vậy cần phải thực tập chánh niệm.
Khi biết mình đang để cho thất niệm hoành hành, để cho tà tư duy kéo mình đi vào địa ngục, ta nói: tôi biết đang đi vào địa ngục, và tự nhiên ta ngưng lại.
Tôi biết tư duy của tôi đang đưa tôi xuống địa ngục và tôi quyết định không đi theo nữa.
Mệnh đề thứ ba có liên quan đến tư duy và tập khí.
Tập khí là những thói quen ta có, từ hồi ấu thơ, có thể đã do các thế hệ ông bà truyền lại.
Khi nhận ra một tập khí của mình ta hãy chào một câu: “À!
bạn cố tri đó hả?” Một thói quen mà chúng ta thường nghĩ là hay nhưng có thể là dở.
Ví dụ như cái thói hay làm.
Hễ hở tay ra một cái thì kiếm việc ra để làm, nếu không làm thì không chịu nổi.
căn nguyên sâu xa là vì từ đời này sang đời khác dân ta vốn rất nghèo đói.
Cho nên ông bà tổ tiên của mình khi nào có chút thì giờ rảnh là phải làm một cái gì, để giúp gia đình có thêm cơm ăn áo mặc.
Đó là một đức tính tốt.
Vì thương gia đình, thương cha mẹ cho nên mình chịu khó làm như vậy.
Nhưng thói quen đó có thể trở thành một tập khí xấu có thể làm cho mình không còn cơ hội để sống đích thực nữa.
Rất nhiều người trong xã hội chúng ta bị cái bệnh gọi là ghiền công việc (workaholism), tức là không làm gì đó thì chịu không nổi.
Họ không có thì giờ để ngắm nhìn trời xanh, mây trắng, không có thì giờ để đi từng bước thảnh thơi. | Họ không có thì giờ để ngắm nhìn trời xanh, mây trắng, không có thì giờ để đi từng bước thảnh thơi.
Sự sống phải có những giây phút thản nhiên, nhàn hạ để có thể được ngắm hoa đào nở, để có thể nhìn mặt trăng lên, để có thể uống một chén trà trong thanh tịnh.
Cho nên ta phải quán chiếu tập khí này.
Mỗi khi nhận ra mình đang hớt hải nhìn đâu cũng thấy việc chưa làm, việc muốn làm, lo lắng bồn chồn vì công kia việc nọ, chúng ta biết cái tập khí, cái thói quen cũ đang chiếm cứ tâm mình.
Và ta cất tiếng chào: “Kìa, bạn tôi đã trở lại!” Nếu biết tập khí đó ta đã tiếp nhận từ mẹ ta, thì ta sẽ chào: “Mẹ ơi, con nhận ra mẹ rồi!”
Những tập khí trong cuộc sống với người chung quanh càng đòi hỏi ta giữ chánh niệm hơn nữa.
Một người mà nói ra câu gì là ta phản ứng lại ngay lập tức.
Tập khí tạo nên một phản ứng máy móc không kịp suy nghĩ.
Một trăm lần ta phản ứng giống hệt cả trăm, như một phản ứng hoá học.
Một người hễ nói xong câu này thì thế nào người kia cũng điên đầu nổi giận.
Một trăm lần nói là một trăm lần giận.
Cho nên người sống chung với ta phải biết về tập khí của ta và ta cũng phải tự biết tập khí của chính ta.
Nhờ vậy ta có thể tránh được rất nhiều phiền não và khổ đau.
Biết như vậy tức là thực tập chánh niệm.
Mà biết như vậy không phải là tự ghét mình, giận mình, phạt mình.
Ta không cần phải có mặc cảm tự ti, vì người nào cũng có tập khí cả.
Có những tập khí do nhiều đời ông bà truyền lại.
Cách tu tập của chúng ta là không tự trách, không phải tự đày đọa vì các tập khí đó. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Họ không có thì giờ để ngắm nhìn trời xanh, mây trắng, không có thì giờ để đi từng bước thảnh thơi.
Sự sống phải có những giây phút thản nhiên, nhàn hạ để có thể được ngắm hoa đào nở, để có thể nhìn mặt trăng lên, để có thể uống một chén trà trong thanh tịnh.
Cho nên ta phải quán chiếu tập khí này.
Mỗi khi nhận ra mình đang hớt hải nhìn đâu cũng thấy việc chưa làm, việc muốn làm, lo lắng bồn chồn vì công kia việc nọ, chúng ta biết cái tập khí, cái thói quen cũ đang chiếm cứ tâm mình.
Và ta cất tiếng chào: “Kìa, bạn tôi đã trở lại!” Nếu biết tập khí đó ta đã tiếp nhận từ mẹ ta, thì ta sẽ chào: “Mẹ ơi, con nhận ra mẹ rồi!”
Những tập khí trong cuộc sống với người chung quanh càng đòi hỏi ta giữ chánh niệm hơn nữa.
Một người mà nói ra câu gì là ta phản ứng lại ngay lập tức.
Tập khí tạo nên một phản ứng máy móc không kịp suy nghĩ.
Một trăm lần ta phản ứng giống hệt cả trăm, như một phản ứng hoá học.
Một người hễ nói xong câu này thì thế nào người kia cũng điên đầu nổi giận.
Một trăm lần nói là một trăm lần giận.
Cho nên người sống chung với ta phải biết về tập khí của ta và ta cũng phải tự biết tập khí của chính ta.
Nhờ vậy ta có thể tránh được rất nhiều phiền não và khổ đau.
Biết như vậy tức là thực tập chánh niệm.
Mà biết như vậy không phải là tự ghét mình, giận mình, phạt mình.
Ta không cần phải có mặc cảm tự ti, vì người nào cũng có tập khí cả.
Có những tập khí do nhiều đời ông bà truyền lại.
Cách tu tập của chúng ta là không tự trách, không phải tự đày đọa vì các tập khí đó. | Có những tập khí do nhiều đời ông bà truyền lại.
Cách tu tập của chúng ta là không tự trách, không phải tự đày đọa vì các tập khí đó.
Cách thực tập là phải mỉm cười với tập khí; mỗi khi thấy nó ló đầu ra thì ta mỉm cười nói: “Chào anh!
Hello, I know you are there.” Đó là phương pháp hay nhất.
Và khi ta nhận diện được tập khí của ta thì ta sẽ làm chủ tình hình và tập khí đó sẽ từ từ chuyển hóa.
Trong lúc đó, ta tập thêm những tập khí mới, luyện nên những tập khí tốt.
Nếu ta đi thiền hành cho đều và thấy an lạc trong khi đi thiền hành, thì thiền hành cũng trở nên một tập khí.
Mỗi ngày nếu không đi thiền hành thì ta thấy thiếu thốn.
Những người tập yoga cũng vậy.
Có những ngày không tập yoga họ thấy giống như họ chưa được ăn cơm.
Đó cũng là một tập khí tốt.
Và cuối cùng, để chánh tư duy được phát triển với bồ đề tâm, ta sẽ nhớ tự hỏi: “Ta làm gì, ta nói gì để thể hiện Bồ Đề Tâm?” Bồ đề tâm tức là một ý chí, một ước muốn rất thâm sâu trong tâm thức của ta.
Bồ đề tâm tức là ao ước được giác ngộ, được hiểu biết, được có chánh kiến để có thể tạo hạnh phúc cho nhiều người, cho nhiều loài.
Động lực khiến một người đi tu là bồ đề tâm.
Nếu có bồ đề tâm rồi, thì ngày đêm ta tâm niệm làm thế nào để có thêm tuệ giác, thêm chánh kiến, thêm năng lượng để tự tu, tự độ và giúp cho người khác vượt thoát khổ đau.
Bồ đề tâm trở thành một vùng năng lượng rất lớn.
Chính nó đẩy tư duy của ta đi tới mục đích. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Có những tập khí do nhiều đời ông bà truyền lại.
Cách tu tập của chúng ta là không tự trách, không phải tự đày đọa vì các tập khí đó.
Cách thực tập là phải mỉm cười với tập khí; mỗi khi thấy nó ló đầu ra thì ta mỉm cười nói: “Chào anh!
Hello, I know you are there.” Đó là phương pháp hay nhất.
Và khi ta nhận diện được tập khí của ta thì ta sẽ làm chủ tình hình và tập khí đó sẽ từ từ chuyển hóa.
Trong lúc đó, ta tập thêm những tập khí mới, luyện nên những tập khí tốt.
Nếu ta đi thiền hành cho đều và thấy an lạc trong khi đi thiền hành, thì thiền hành cũng trở nên một tập khí.
Mỗi ngày nếu không đi thiền hành thì ta thấy thiếu thốn.
Những người tập yoga cũng vậy.
Có những ngày không tập yoga họ thấy giống như họ chưa được ăn cơm.
Đó cũng là một tập khí tốt.
Và cuối cùng, để chánh tư duy được phát triển với bồ đề tâm, ta sẽ nhớ tự hỏi: “Ta làm gì, ta nói gì để thể hiện Bồ Đề Tâm?” Bồ đề tâm tức là một ý chí, một ước muốn rất thâm sâu trong tâm thức của ta.
Bồ đề tâm tức là ao ước được giác ngộ, được hiểu biết, được có chánh kiến để có thể tạo hạnh phúc cho nhiều người, cho nhiều loài.
Động lực khiến một người đi tu là bồ đề tâm.
Nếu có bồ đề tâm rồi, thì ngày đêm ta tâm niệm làm thế nào để có thêm tuệ giác, thêm chánh kiến, thêm năng lượng để tự tu, tự độ và giúp cho người khác vượt thoát khổ đau.
Bồ đề tâm trở thành một vùng năng lượng rất lớn.
Chính nó đẩy tư duy của ta đi tới mục đích. | Bồ đề tâm trở thành một vùng năng lượng rất lớn.
Chính nó đẩy tư duy của ta đi tới mục đích.
Tự hỏi: “Ta làm gì, ta nói gì, ta suy nghĩ gì để ước mơ thành tựu?” Nuôi dưỡng bồ đề tâm trong đời sống hằng ngày bằng chánh niệm thì tư duy của ta sẽ đi về hướng chánh.
Tư duy sẽ không bị lôi kéo vào những đề tài vẩn vơ không bổ ích.
Năng lượng của tâm bồ đề sẽ đưa ta tới chánh tư duy một cách rất nhẹ nhàng.
Quý vị cứ theo bốn tiêu chuẩn trên đây thực tập; sẽ đạt nhiều tiến bộ về chánh tư duy.
Bài 08: Ái ngữ
Hôm nay là ngày 16 tháng 12 năm 1993, chúng ta ở tại Xóm Thượng và học tiếp về Tứ Diệu Đế.
Hôm nay chúng ta nói đến phần chánh ngữ.
Chánh ngữ tức là lời nói chân chính.
Đây là một phép thực tập rất quan trọng.
Chúng ta biết rằng chánh tư duy cũng là một hình thức của chánh ngữ, tư duy là loại ngôn ngữ thầm ở trong tâm.
Tuy người khác không nghe thấy nhưng trong tâm, ta thường thường vẫn đang nói.
Tầm và từ là hai hình thức ngữ ngôn ở trong tâm.
Như có một cuốn băng ghi âm phát thanh ở trong đầu mình một cách liên tục, ta nghĩ cái này rồi nghĩ qua cái khác.
Tư duy ở trong ta, như con tầm tự giam mình trong kén, lúc nào cũng tự nói mình nghe.
Nếu có chánh tư duy thì tầm và từ sẽ soi sáng cho ngôn ngữ và cho hành động, và làm giàu cho chánh kiến.
Ngược lại, tà tư duy sẽ làm giảm bớt chánh kiến, đánh mất chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, v.v.. Có những tư duy bị che dấu, thỉnh thoảng tự nhiên ta bật nói ra.
Bởi vậy chánh tư duy sẽ đưa đến chánh ngữ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bồ đề tâm trở thành một vùng năng lượng rất lớn.
Chính nó đẩy tư duy của ta đi tới mục đích.
Tự hỏi: “Ta làm gì, ta nói gì, ta suy nghĩ gì để ước mơ thành tựu?” Nuôi dưỡng bồ đề tâm trong đời sống hằng ngày bằng chánh niệm thì tư duy của ta sẽ đi về hướng chánh.
Tư duy sẽ không bị lôi kéo vào những đề tài vẩn vơ không bổ ích.
Năng lượng của tâm bồ đề sẽ đưa ta tới chánh tư duy một cách rất nhẹ nhàng.
Quý vị cứ theo bốn tiêu chuẩn trên đây thực tập; sẽ đạt nhiều tiến bộ về chánh tư duy.
Bài 08: Ái ngữ
Hôm nay là ngày 16 tháng 12 năm 1993, chúng ta ở tại Xóm Thượng và học tiếp về Tứ Diệu Đế.
Hôm nay chúng ta nói đến phần chánh ngữ.
Chánh ngữ tức là lời nói chân chính.
Đây là một phép thực tập rất quan trọng.
Chúng ta biết rằng chánh tư duy cũng là một hình thức của chánh ngữ, tư duy là loại ngôn ngữ thầm ở trong tâm.
Tuy người khác không nghe thấy nhưng trong tâm, ta thường thường vẫn đang nói.
Tầm và từ là hai hình thức ngữ ngôn ở trong tâm.
Như có một cuốn băng ghi âm phát thanh ở trong đầu mình một cách liên tục, ta nghĩ cái này rồi nghĩ qua cái khác.
Tư duy ở trong ta, như con tầm tự giam mình trong kén, lúc nào cũng tự nói mình nghe.
Nếu có chánh tư duy thì tầm và từ sẽ soi sáng cho ngôn ngữ và cho hành động, và làm giàu cho chánh kiến.
Ngược lại, tà tư duy sẽ làm giảm bớt chánh kiến, đánh mất chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, v.v.. Có những tư duy bị che dấu, thỉnh thoảng tự nhiên ta bật nói ra.
Bởi vậy chánh tư duy sẽ đưa đến chánh ngữ. | Bởi vậy chánh tư duy sẽ đưa đến chánh ngữ.
Về tư duy có tầm và từ, còn về chánh ngữ có ngôn và luận.
Ngôn tương đương với tầm (vitarka), còn luận tương đương với từ (vicara).
Ngôn chỉ là nói, còn luận là có phân tích, chứng minh, mổ xẻ.
Ái ngữ
Kinh Tạp A Hàm số 785 định nghĩa chánh ngữ bằng cách nêu ra bốn đặc tính: không nói dối, không nói hai lưỡi, không ác khẩu và không nói thêu dệt.
Đây là một định nghĩa phổ thông, thấy trong tất cả các kinh điển.
Thứ nhất là không vọng ngữ, nghĩa là không nói dối.
Có nói là không, không nói là có, trắng nói đen, đen nói trắng, nói không đúng sự thật, là vọng ngữ.
Thứ hai là không lưỡng thiệt.
Lưỡng thiệt tức là hai lưỡi (double tongues), với người này nói thế này, với người khác thì nói khác.
Đôi khi nói cho vừa ý một người, rồi lại nói khác đi để làm vừa ý một người khác, kết quả là nói lời không đúng sự thật.
Cố nhiên cách nói có thể thay đổi cho người ta dễ tiếp nhận, nhưng chánh ngữ là phải nói đúng sự thật.
Thứ ba là không ác khẩu.
ác khẩu tức là nói to tiếng, thô tục, quát mắng, chửi thề, nói lời tạo đau khổ, bực tức, hận thù cho người khác.
Có những người tâm rất tốt, không muốn làm hại ai, nhưng khi nói ra thì như châm trích và tàn hại người ta vậy.
Đó là khẩu xà tâm Phật.
Tuy gọi là tâm Phật, nhưng thực sự bên trong còn có quá nhiều nội kết cho nên cái miệng mới nói lời ác.
Nếu có thói quen ái ngữ thì ta sẽ không nói như vậy.
Dầu là tâm ta không có ý hại ai nhưng nếu ta bị tập khí ác ngữ miệng ta vẫn gây ra những đổ vỡ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bởi vậy chánh tư duy sẽ đưa đến chánh ngữ.
Về tư duy có tầm và từ, còn về chánh ngữ có ngôn và luận.
Ngôn tương đương với tầm (vitarka), còn luận tương đương với từ (vicara).
Ngôn chỉ là nói, còn luận là có phân tích, chứng minh, mổ xẻ.
Ái ngữ
Kinh Tạp A Hàm số 785 định nghĩa chánh ngữ bằng cách nêu ra bốn đặc tính: không nói dối, không nói hai lưỡi, không ác khẩu và không nói thêu dệt.
Đây là một định nghĩa phổ thông, thấy trong tất cả các kinh điển.
Thứ nhất là không vọng ngữ, nghĩa là không nói dối.
Có nói là không, không nói là có, trắng nói đen, đen nói trắng, nói không đúng sự thật, là vọng ngữ.
Thứ hai là không lưỡng thiệt.
Lưỡng thiệt tức là hai lưỡi (double tongues), với người này nói thế này, với người khác thì nói khác.
Đôi khi nói cho vừa ý một người, rồi lại nói khác đi để làm vừa ý một người khác, kết quả là nói lời không đúng sự thật.
Cố nhiên cách nói có thể thay đổi cho người ta dễ tiếp nhận, nhưng chánh ngữ là phải nói đúng sự thật.
Thứ ba là không ác khẩu.
ác khẩu tức là nói to tiếng, thô tục, quát mắng, chửi thề, nói lời tạo đau khổ, bực tức, hận thù cho người khác.
Có những người tâm rất tốt, không muốn làm hại ai, nhưng khi nói ra thì như châm trích và tàn hại người ta vậy.
Đó là khẩu xà tâm Phật.
Tuy gọi là tâm Phật, nhưng thực sự bên trong còn có quá nhiều nội kết cho nên cái miệng mới nói lời ác.
Nếu có thói quen ái ngữ thì ta sẽ không nói như vậy.
Dầu là tâm ta không có ý hại ai nhưng nếu ta bị tập khí ác ngữ miệng ta vẫn gây ra những đổ vỡ. | Nếu có thói quen ái ngữ thì ta sẽ không nói như vậy.
Dầu là tâm ta không có ý hại ai nhưng nếu ta bị tập khí ác ngữ miệng ta vẫn gây ra những đổ vỡ.
Lời nói có thể làm cho người khác thêm mặc cảm, lời nói có thể làm cho người ta mất hết ý chí, và có khi lời nói có thể làm cho người khác đi tự tử.
Khi cha mẹ mắng con: “Mày là đồ vô dụng, không ra cái tích sự gì cả!” nói như vậy cũng là ác khẩu, vì câu nói đó tiêu diệt niềm tin của em bé, làm cho nó có mặc cảm tự ti.
Cho nên tu tập chánh ngữ rất quan trọng.
Thứ tư là không ỷ ngữ.
ỷ ngữ tức là nói những lời thêu dệt.
Thêu dệt là vẽ vời ra cho sự việc thêm đẹp đẽ hơn gấp bội, hoặc xấu xa hơn gấp bội.
Như nói thế nào làm cho mọi chuyện thê lương hơn, hay mỹ miều hơn, giật gân hơn hoặc hấp dẫn hơn mà không cần đúng với sự thật.
Nhiều kinh điển định nghĩa chánh ngữ là không nói dối mà phải nói lời chân thật, không nói hai lưỡi mà chỉ nói một lời thôi, không ác khẩu mà chỉ nói những lời dịu dàng, không ỷ ngữ, chỉ nói sự thật không thêm không bớt.
Trong Trung Bộ (Majjhima nikaya), kinh số 117, cũng có định nghĩa giống như vậy.
Khi nói về chánh ngữ, chúng ta trở về với giới thứ tư trong năm giới: không được nói dối, không được nói để mưu cầu tài lợi và sự kính phục, không được nói lời gây chia rẽ căm thù, không loan truyền những tin mà mình không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những điều mình không biết rõ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nếu có thói quen ái ngữ thì ta sẽ không nói như vậy.
Dầu là tâm ta không có ý hại ai nhưng nếu ta bị tập khí ác ngữ miệng ta vẫn gây ra những đổ vỡ.
Lời nói có thể làm cho người khác thêm mặc cảm, lời nói có thể làm cho người ta mất hết ý chí, và có khi lời nói có thể làm cho người khác đi tự tử.
Khi cha mẹ mắng con: “Mày là đồ vô dụng, không ra cái tích sự gì cả!” nói như vậy cũng là ác khẩu, vì câu nói đó tiêu diệt niềm tin của em bé, làm cho nó có mặc cảm tự ti.
Cho nên tu tập chánh ngữ rất quan trọng.
Thứ tư là không ỷ ngữ.
ỷ ngữ tức là nói những lời thêu dệt.
Thêu dệt là vẽ vời ra cho sự việc thêm đẹp đẽ hơn gấp bội, hoặc xấu xa hơn gấp bội.
Như nói thế nào làm cho mọi chuyện thê lương hơn, hay mỹ miều hơn, giật gân hơn hoặc hấp dẫn hơn mà không cần đúng với sự thật.
Nhiều kinh điển định nghĩa chánh ngữ là không nói dối mà phải nói lời chân thật, không nói hai lưỡi mà chỉ nói một lời thôi, không ác khẩu mà chỉ nói những lời dịu dàng, không ỷ ngữ, chỉ nói sự thật không thêm không bớt.
Trong Trung Bộ (Majjhima nikaya), kinh số 117, cũng có định nghĩa giống như vậy.
Khi nói về chánh ngữ, chúng ta trở về với giới thứ tư trong năm giới: không được nói dối, không được nói để mưu cầu tài lợi và sự kính phục, không được nói lời gây chia rẽ căm thù, không loan truyền những tin mà mình không biết chắc là có thật, không phê bình và lên án những điều mình không biết rõ. | Phải có can đảm nói ra sự thật về những điều bất công, và phải dùng lời nói của mình để thực hiện hòa giải và thương yêu.
Giới thứ tư nhằm duy trì chánh ngữ.
Khi dùng điện thoại, chúng ta có thể thực tập chánh ngữ.
Thiền điện thoại không những là phép thực tập chánh ngữ, mà còn thực tập chánh tư duy.
Trước khi bấm số, chúng ta thở theo một bài kệ:
Tiếng đi ngoài ngàn dặm,
Xây dựng niềm tin yêu,
Mỗi lời là châu ngọc,
Mỗi lời là gấm thêu.
Lúc bắt đầu thực tập, chưa thuộc những câu kệ, chúng ta viết kệ xuống một mảnh giấy, dán vào chỗ điện thoại.
Mỗi khi ta dùng điện thoại ta lại nhìn thấy bài kệ, và bắt đầu tập hơi thở chánh niệm: thở vào đọc câu đầu (tiếng đi ngoài ngàn dặm), thở ra đọc câu thứ hai (xây dựng niềm tin yêu).
Thở vào đọc câu thứ ba (mỗi lời là châu ngọc), thở ra đọc câu thứ tư (mỗi lời là gấm thêu).
Trong khi thực tập thở ra và thở vào, ta lặp lại lời nguyện ái ngữ, nguyện sẽ nói những lời xây dựng, bồi đắp thương yêu và hiểu biết.
Trong lúc đó, ta cũng đang thực tập chánh tư duy, nhờ vậy lòng ta an tĩnh hơn, ta nhìn thấy mọi chuyện sáng rõ hơn.
Người bên kia cầm ống điện thoại lên sẽ được tiếp xúc với một con người tươi mát, nghe những lời xây dựng, êm đẹp, không làm họ đau khổ, có thể giúp họ đạt được an tịnh trong giây lát.
Dùng ái ngữ, chúng ta có thể tạo hạnh phúc cho người khác.
Lời nói của mình có thể khơi dậy những hạt giống của niềm tin và an vui nơi người khác.
Đó là một hành động phát xuất từ tình thương yêu. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Phải có can đảm nói ra sự thật về những điều bất công, và phải dùng lời nói của mình để thực hiện hòa giải và thương yêu.
Giới thứ tư nhằm duy trì chánh ngữ.
Khi dùng điện thoại, chúng ta có thể thực tập chánh ngữ.
Thiền điện thoại không những là phép thực tập chánh ngữ, mà còn thực tập chánh tư duy.
Trước khi bấm số, chúng ta thở theo một bài kệ:
Tiếng đi ngoài ngàn dặm,
Xây dựng niềm tin yêu,
Mỗi lời là châu ngọc,
Mỗi lời là gấm thêu.
Lúc bắt đầu thực tập, chưa thuộc những câu kệ, chúng ta viết kệ xuống một mảnh giấy, dán vào chỗ điện thoại.
Mỗi khi ta dùng điện thoại ta lại nhìn thấy bài kệ, và bắt đầu tập hơi thở chánh niệm: thở vào đọc câu đầu (tiếng đi ngoài ngàn dặm), thở ra đọc câu thứ hai (xây dựng niềm tin yêu).
Thở vào đọc câu thứ ba (mỗi lời là châu ngọc), thở ra đọc câu thứ tư (mỗi lời là gấm thêu).
Trong khi thực tập thở ra và thở vào, ta lặp lại lời nguyện ái ngữ, nguyện sẽ nói những lời xây dựng, bồi đắp thương yêu và hiểu biết.
Trong lúc đó, ta cũng đang thực tập chánh tư duy, nhờ vậy lòng ta an tĩnh hơn, ta nhìn thấy mọi chuyện sáng rõ hơn.
Người bên kia cầm ống điện thoại lên sẽ được tiếp xúc với một con người tươi mát, nghe những lời xây dựng, êm đẹp, không làm họ đau khổ, có thể giúp họ đạt được an tịnh trong giây lát.
Dùng ái ngữ, chúng ta có thể tạo hạnh phúc cho người khác.
Lời nói của mình có thể khơi dậy những hạt giống của niềm tin và an vui nơi người khác.
Đó là một hành động phát xuất từ tình thương yêu. | Dùng ái ngữ, chúng ta có thể tạo hạnh phúc cho người khác.
Lời nói của mình có thể khơi dậy những hạt giống của niềm tin và an vui nơi người khác.
Đó là một hành động phát xuất từ tình thương yêu.
Khi thấy hai người không hòa hợp với nhau, ta có thể dùng lời nói hòa giải để đưa họ tới gần nhau.
Quán chiếu vào tâm trạng, hoàn cảnh và nỗi đau khổ của mỗi người, ta có thể luôn luôn tìm ra những điểm tích cực.
Nói những sự thật tích cực về người này cho người khác nghe sẽ giúp họ hiểu lẫn nhau.
Chỉ cần nói sự thật thôi, khi hai bên hiểu nhau hơn họ sẽ sẵn sàng tha thứ cho nhau, sẽ dễ dàng hoà giải với nhau hơn.
Như ở Nam Phi, có một cộng đồng da trắng, một cộng đồng da đen thường thù ghét, kỳ thị và chống đối nhau từ lâu.
Ta biết rất rõ là cả hai cộng đồng, dù đen hay trắng đều đau khổ, vì cả hai đều sống trong sợ hãi, lo lắng.
Người thực tập chánh ngữ trình bày những nỗi khổ đau, sợ hãi, mặc cảm, những ước vọng của cộng đồng này cho người trong cộng đồng kia nghe.
Mỗi bên bắt đầu thấy an ninh và hạnh phúc của mình liên hệ tới hạnh phúc của bên kia.
Nhờ vậy lòng họ có thể chuyển hóa.
Nếu ta đứng về một phe thì sẽ chỉ làm cho tình trạng càng căng thẳng, càng khó khăn hơn.
Muốn thành công trong việc hòa giải ta cần biết nói năng khéo léo.
Nhưng bản chất nội tâm của con người hoà giải rất quan trọng.
Con người đó cần chứa đựng sự hiểu biết, thương yêu, cần được cả hai bên tin cậy, thì lời nói mới có ảnh hưởng lớn lao hơn. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Dùng ái ngữ, chúng ta có thể tạo hạnh phúc cho người khác.
Lời nói của mình có thể khơi dậy những hạt giống của niềm tin và an vui nơi người khác.
Đó là một hành động phát xuất từ tình thương yêu.
Khi thấy hai người không hòa hợp với nhau, ta có thể dùng lời nói hòa giải để đưa họ tới gần nhau.
Quán chiếu vào tâm trạng, hoàn cảnh và nỗi đau khổ của mỗi người, ta có thể luôn luôn tìm ra những điểm tích cực.
Nói những sự thật tích cực về người này cho người khác nghe sẽ giúp họ hiểu lẫn nhau.
Chỉ cần nói sự thật thôi, khi hai bên hiểu nhau hơn họ sẽ sẵn sàng tha thứ cho nhau, sẽ dễ dàng hoà giải với nhau hơn.
Như ở Nam Phi, có một cộng đồng da trắng, một cộng đồng da đen thường thù ghét, kỳ thị và chống đối nhau từ lâu.
Ta biết rất rõ là cả hai cộng đồng, dù đen hay trắng đều đau khổ, vì cả hai đều sống trong sợ hãi, lo lắng.
Người thực tập chánh ngữ trình bày những nỗi khổ đau, sợ hãi, mặc cảm, những ước vọng của cộng đồng này cho người trong cộng đồng kia nghe.
Mỗi bên bắt đầu thấy an ninh và hạnh phúc của mình liên hệ tới hạnh phúc của bên kia.
Nhờ vậy lòng họ có thể chuyển hóa.
Nếu ta đứng về một phe thì sẽ chỉ làm cho tình trạng càng căng thẳng, càng khó khăn hơn.
Muốn thành công trong việc hòa giải ta cần biết nói năng khéo léo.
Nhưng bản chất nội tâm của con người hoà giải rất quan trọng.
Con người đó cần chứa đựng sự hiểu biết, thương yêu, cần được cả hai bên tin cậy, thì lời nói mới có ảnh hưởng lớn lao hơn. | Nhưng bản chất nội tâm của con người hoà giải rất quan trọng.
Con người đó cần chứa đựng sự hiểu biết, thương yêu, cần được cả hai bên tin cậy, thì lời nói mới có ảnh hưởng lớn lao hơn.
Vì lời nói phát xuất từ chánh tư duy, chánh ngữ, chứ không phải là do mưu mẹo, và những khéo léo bên ngoài mà thôi.
Chánh ngữ là nói sự thật, nhưng sự thật nhiều khi cũng có thể cũng gây ra đau khổ.
Cho nên sự thật phải được diễn tả bằng ngôn ngữ khôn ngoan để giúp cho người nghe dễ chấp nhận.
Nói một sự thật mà gây tan vỡ và hư hại thì không phải là chánh ngữ.
Khi nói phải biết tâm lý, dùng thứ ngôn ngữ thích hợp với người nghe, chọn thời gian và hoàn cảnh thuận tiện, và diễn tả cách nào để họ hiểu được, chấp nhận được, thì mới nên nói.
Kinh Pháp Hoa có nói về một vị bồ tát hiệu là Diệu Âm.
Bồ tát Diệu Âm thành tựu một tam muội gọi là hiện nhất thiết ngữ ngôn tam muội, nghĩa là thể hiện được, hiểu và sử dụng được tất cả các loại ngôn ngữ.
Ngài có thể đối thoại với bất cứ loài chúng sinh nào, vì ngài hiểu tâm ý của chúng sinh, và nói ngôn ngữ nào thích hợp với họ.
Vì vậy chánh ngữ cần chất liệu của chánh tư duy, lại cần chất liệu của nghệ thuật nói năng khôn ngoan.
Chúng ta phải học hỏi nghệ thuật truyền thông và diễn đạt.
Nhưng hình thức khéo léo có nghệ thuật phải chứa đựng chánh tư duy.
Nịnh nọt, tán dương, tâng bốc sai sự thật, hoặc chỉ làm tăng thêm ngã mạn của người, đều là tà ngữ.
Hạt giống của chánh ngữ |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nhưng bản chất nội tâm của con người hoà giải rất quan trọng.
Con người đó cần chứa đựng sự hiểu biết, thương yêu, cần được cả hai bên tin cậy, thì lời nói mới có ảnh hưởng lớn lao hơn.
Vì lời nói phát xuất từ chánh tư duy, chánh ngữ, chứ không phải là do mưu mẹo, và những khéo léo bên ngoài mà thôi.
Chánh ngữ là nói sự thật, nhưng sự thật nhiều khi cũng có thể cũng gây ra đau khổ.
Cho nên sự thật phải được diễn tả bằng ngôn ngữ khôn ngoan để giúp cho người nghe dễ chấp nhận.
Nói một sự thật mà gây tan vỡ và hư hại thì không phải là chánh ngữ.
Khi nói phải biết tâm lý, dùng thứ ngôn ngữ thích hợp với người nghe, chọn thời gian và hoàn cảnh thuận tiện, và diễn tả cách nào để họ hiểu được, chấp nhận được, thì mới nên nói.
Kinh Pháp Hoa có nói về một vị bồ tát hiệu là Diệu Âm.
Bồ tát Diệu Âm thành tựu một tam muội gọi là hiện nhất thiết ngữ ngôn tam muội, nghĩa là thể hiện được, hiểu và sử dụng được tất cả các loại ngôn ngữ.
Ngài có thể đối thoại với bất cứ loài chúng sinh nào, vì ngài hiểu tâm ý của chúng sinh, và nói ngôn ngữ nào thích hợp với họ.
Vì vậy chánh ngữ cần chất liệu của chánh tư duy, lại cần chất liệu của nghệ thuật nói năng khôn ngoan.
Chúng ta phải học hỏi nghệ thuật truyền thông và diễn đạt.
Nhưng hình thức khéo léo có nghệ thuật phải chứa đựng chánh tư duy.
Nịnh nọt, tán dương, tâng bốc sai sự thật, hoặc chỉ làm tăng thêm ngã mạn của người, đều là tà ngữ.
Hạt giống của chánh ngữ | Nhưng hình thức khéo léo có nghệ thuật phải chứa đựng chánh tư duy.
Nịnh nọt, tán dương, tâng bốc sai sự thật, hoặc chỉ làm tăng thêm ngã mạn của người, đều là tà ngữ.
Hạt giống của chánh ngữ
Không thể hiểu được chánh kiến, chánh tư duy và chánh ngữ nếu không biết rằng tất cả chúng ta đều có hạt giống của những chánh đạo này trong tâm thức.
Hạt giống của ngôn ngữ căn cứ trên tưởng.
Nhắc lại, năm yếu tố tạo thành con người là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức.
Tri giác gồm có hai phần: năng tưởng và sở tưởng.
Một là chủ thể của tri giác, hai là đối tượng của tri giác.
Chúng ta thấy một cái bàn, cái bàn mà chúng ta đang thấy và đang sờ vào là đối tượng của tri giác, của tưởng.
Còn tự thân cái bàn có thể rất khác.
Đối với một con mọt đang ăn cái bàn thì đó là một kho thức ăn.
Cũng một dòng sông, đối với con cá là nhà cửa, lâu đài của nó mà đối với chúng ta đó là cái chỗ để lấy nước tắm và giặt.
Khi hai người ghét nhau, thì trước hết họ ghét cái đối tượng tri giác, cái tưởng của họ về người kia.
Nhưng tự thân người kia so với ý niệm mình có về người kia thường rất khác nhau.
Hai kẻ yêu nhau cũng vậy.
Người được yêu khác với hình ảnh trong tri giác người đang yêu.
(Cưới về ba, bốn năm sau mới thấy được một phần sự thật!).
Vậy tri giác có thể rất sai lầm, rất khác với cái sở duyên duyên đã giúp tạo ra đối tượng của tri giác.
Ví dụ như ta chụp ảnh cây bồ đề.
Nhìn hình ảnh ta thấy cây bồ đề, nhưng đó chỉ là hình ảnh cây bồ đề thôi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nhưng hình thức khéo léo có nghệ thuật phải chứa đựng chánh tư duy.
Nịnh nọt, tán dương, tâng bốc sai sự thật, hoặc chỉ làm tăng thêm ngã mạn của người, đều là tà ngữ.
Hạt giống của chánh ngữ
Không thể hiểu được chánh kiến, chánh tư duy và chánh ngữ nếu không biết rằng tất cả chúng ta đều có hạt giống của những chánh đạo này trong tâm thức.
Hạt giống của ngôn ngữ căn cứ trên tưởng.
Nhắc lại, năm yếu tố tạo thành con người là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành và Thức.
Tri giác gồm có hai phần: năng tưởng và sở tưởng.
Một là chủ thể của tri giác, hai là đối tượng của tri giác.
Chúng ta thấy một cái bàn, cái bàn mà chúng ta đang thấy và đang sờ vào là đối tượng của tri giác, của tưởng.
Còn tự thân cái bàn có thể rất khác.
Đối với một con mọt đang ăn cái bàn thì đó là một kho thức ăn.
Cũng một dòng sông, đối với con cá là nhà cửa, lâu đài của nó mà đối với chúng ta đó là cái chỗ để lấy nước tắm và giặt.
Khi hai người ghét nhau, thì trước hết họ ghét cái đối tượng tri giác, cái tưởng của họ về người kia.
Nhưng tự thân người kia so với ý niệm mình có về người kia thường rất khác nhau.
Hai kẻ yêu nhau cũng vậy.
Người được yêu khác với hình ảnh trong tri giác người đang yêu.
(Cưới về ba, bốn năm sau mới thấy được một phần sự thật!).
Vậy tri giác có thể rất sai lầm, rất khác với cái sở duyên duyên đã giúp tạo ra đối tượng của tri giác.
Ví dụ như ta chụp ảnh cây bồ đề.
Nhìn hình ảnh ta thấy cây bồ đề, nhưng đó chỉ là hình ảnh cây bồ đề thôi. | Ví dụ như ta chụp ảnh cây bồ đề.
Nhìn hình ảnh ta thấy cây bồ đề, nhưng đó chỉ là hình ảnh cây bồ đề thôi.
Cây bồ đề thật ở ngoài không phải là cây bồ đề in trên phim ảnh.
Chánh kiến tùy thuộc vào tưởng.
Vì thế luôn luôn ta phải dùng chánh niệm, phải trở về khám phá những thiếu sót, sai lầm của tưởng.
Đó là phương pháp duy nhất để cho cái thấy của ta bớt sai lầm, để tăng thêm phần chánh kiến.
Chánh kiến mạnh thì tư duy mới vững vàng được.
Uẩn thứ tư là hành (mental formations).
Hành tức là những hiện tượng tâm lý phát khởi trong ta.
Vui, buồn, giận, ghen, thương, ghét, đều là hành.
Giáo lý duy thức của đạo Bụt Bắc Truyền nói tới 51 loại tâm hành.
Năm tâm hành phổ biến nhất là xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư, trong đó có thọ và tưởng.
Thọ và Tưởng là những tâm hành rất quan trọng trong số năm tâm sở biến hành, nên được tách ra liệt kê thành hai uẩn.
đạo Bụt Nam Truyền, hệ phái Theravada cũng nói có 50 tâm hành.
Uẩn thứ năm là thức (vijnana).
Tất cả những cảm thọ và tri giác của chúng ta đều có hạt giống chứa ở trong thức.
Thức ở đây phải hiểu là tâm địa, là đất tâm, tức là mảnh vườn trong đó có sẵn tất cả những hạt giống của tâm hành, gọi là chủng tử.
Chúng ta có chủng tử của tình thương, của sự ghét bỏ, chúng ta có hạt giống của sự trung kiên, hạt giống của sự phản bội.
Chúng ta có đủ các loại hạt giống, tốt cũng như xấu.
Thức ở đây còn gọi là nhất thiết chủng thức.
Nhất thiết chủng (sarva bijaka) là tất cả các hạt giống. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ví dụ như ta chụp ảnh cây bồ đề.
Nhìn hình ảnh ta thấy cây bồ đề, nhưng đó chỉ là hình ảnh cây bồ đề thôi.
Cây bồ đề thật ở ngoài không phải là cây bồ đề in trên phim ảnh.
Chánh kiến tùy thuộc vào tưởng.
Vì thế luôn luôn ta phải dùng chánh niệm, phải trở về khám phá những thiếu sót, sai lầm của tưởng.
Đó là phương pháp duy nhất để cho cái thấy của ta bớt sai lầm, để tăng thêm phần chánh kiến.
Chánh kiến mạnh thì tư duy mới vững vàng được.
Uẩn thứ tư là hành (mental formations).
Hành tức là những hiện tượng tâm lý phát khởi trong ta.
Vui, buồn, giận, ghen, thương, ghét, đều là hành.
Giáo lý duy thức của đạo Bụt Bắc Truyền nói tới 51 loại tâm hành.
Năm tâm hành phổ biến nhất là xúc, tác ý, thọ, tưởng, tư, trong đó có thọ và tưởng.
Thọ và Tưởng là những tâm hành rất quan trọng trong số năm tâm sở biến hành, nên được tách ra liệt kê thành hai uẩn.
đạo Bụt Nam Truyền, hệ phái Theravada cũng nói có 50 tâm hành.
Uẩn thứ năm là thức (vijnana).
Tất cả những cảm thọ và tri giác của chúng ta đều có hạt giống chứa ở trong thức.
Thức ở đây phải hiểu là tâm địa, là đất tâm, tức là mảnh vườn trong đó có sẵn tất cả những hạt giống của tâm hành, gọi là chủng tử.
Chúng ta có chủng tử của tình thương, của sự ghét bỏ, chúng ta có hạt giống của sự trung kiên, hạt giống của sự phản bội.
Chúng ta có đủ các loại hạt giống, tốt cũng như xấu.
Thức ở đây còn gọi là nhất thiết chủng thức.
Nhất thiết chủng (sarva bijaka) là tất cả các hạt giống. | Chúng ta có đủ các loại hạt giống, tốt cũng như xấu.
Thức ở đây còn gọi là nhất thiết chủng thức.
Nhất thiết chủng (sarva bijaka) là tất cả các hạt giống.
Phật giáo Nam Truyền, hệ phái Đồng Diệp Bộ (Theravada, Tamrasatiyah), có nói về Hữu phần thức (bhava anga citta).
Đây là cái tương đương với nhất thiết chủng thức.
Còn Hữu Bộ thì gọi là căn bản thức.
Tất cả chúng ta đều có hạt giống của chánh kiến.
Có chánh kiến, không phải tại vì Bụt trao cho ta, thầy trao cho ta, mà vì chúng ta có sẵn hạt giống chánh kiến trong tâm rồi.
Khi chúng ta nói “Phật tại tâm” là nghĩa như vậy.
Tuệ giác đó đã có sẵn ở trong tâm thức của ta.
Tuệ giác ấy chỉ cần người hay hoàn cảnh giúp khơi mở ra thôi.
Có thể đó là Bụt, là thầy, là bạn, có thể là một nỗi đau khổ cùng cực của ta.
Khi ta đau khổ nhiều tự ta cũng có thể khơi mở được chánh kiến.
Ngày Bụt thành đạo, Ngài ngồi thiền suốt đêm.
Và buổi sáng tinh sương, nhìn lên thấy ngôi sao mai mọc, Ngài đạt được quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác (giác ngộ hoàn toàn).
Những lời đầu tiên mà Bụt thốt ra chứa đựng một chút ngạc nhiên.
Ngài nói: “Lạ quá, tất cả mọi người đều có tuệ giác trong lòng.
Vậy mà đời này sang đời khác, kiếp này sang kiếp khác, con người cứ trôi lặn trong biển trầm luân, khổ ải.” Câu nói của Ngài có nghĩa rằng tuệ giác Ngài đạt tới không phải được từ bên ngoài mang vào mà đã từ trong chiều sâu tâm thức phát hiện lên.
Hạt giống của trí tuệ, hạt giống của từ bi đều có sẵn trong tâm thức mỗi người. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Chúng ta có đủ các loại hạt giống, tốt cũng như xấu.
Thức ở đây còn gọi là nhất thiết chủng thức.
Nhất thiết chủng (sarva bijaka) là tất cả các hạt giống.
Phật giáo Nam Truyền, hệ phái Đồng Diệp Bộ (Theravada, Tamrasatiyah), có nói về Hữu phần thức (bhava anga citta).
Đây là cái tương đương với nhất thiết chủng thức.
Còn Hữu Bộ thì gọi là căn bản thức.
Tất cả chúng ta đều có hạt giống của chánh kiến.
Có chánh kiến, không phải tại vì Bụt trao cho ta, thầy trao cho ta, mà vì chúng ta có sẵn hạt giống chánh kiến trong tâm rồi.
Khi chúng ta nói “Phật tại tâm” là nghĩa như vậy.
Tuệ giác đó đã có sẵn ở trong tâm thức của ta.
Tuệ giác ấy chỉ cần người hay hoàn cảnh giúp khơi mở ra thôi.
Có thể đó là Bụt, là thầy, là bạn, có thể là một nỗi đau khổ cùng cực của ta.
Khi ta đau khổ nhiều tự ta cũng có thể khơi mở được chánh kiến.
Ngày Bụt thành đạo, Ngài ngồi thiền suốt đêm.
Và buổi sáng tinh sương, nhìn lên thấy ngôi sao mai mọc, Ngài đạt được quả vị vô thượng chánh đẳng chánh giác (giác ngộ hoàn toàn).
Những lời đầu tiên mà Bụt thốt ra chứa đựng một chút ngạc nhiên.
Ngài nói: “Lạ quá, tất cả mọi người đều có tuệ giác trong lòng.
Vậy mà đời này sang đời khác, kiếp này sang kiếp khác, con người cứ trôi lặn trong biển trầm luân, khổ ải.” Câu nói của Ngài có nghĩa rằng tuệ giác Ngài đạt tới không phải được từ bên ngoài mang vào mà đã từ trong chiều sâu tâm thức phát hiện lên.
Hạt giống của trí tuệ, hạt giống của từ bi đều có sẵn trong tâm thức mỗi người. | Hạt giống của trí tuệ, hạt giống của từ bi đều có sẵn trong tâm thức mỗi người.
Hạt giống chánh kiến ở trong tâm thức ta gọi là giác tánh.
Tất cả chúng sinh đều có sẵn giác tánh, nên ta vẫn nói rằng Bụt ở trong lòng.
Phật tức tâm là một sự thật có thể chứng nghiệm được, chứ không phải là lý thuyết.
Vì nếu không sẵn hạt giống giác tánh thì có tu, có học gì chúng ta cũng sẽ không thành công.
Tu học có nghĩa là tạo những điều kiện tưới tẩm cho hạt giống tuệ giác nở ra.
Khi hạt giống của chánh kiến nẩy mầm rồi, tự nhiên tư duy sẽ đi vào đường chánh.
Càng thực tập chánh tư duy, chúng ta lại càng giúp cho những hạt giống chánh kiến khác nẩy nở thêm.
Chánh kiến nuôi dưỡng chánh tư duy và chánh tư duy khơi mở thêm chánh kiến.
Rồi nhờ sự phát triển của chánh kiến và chánh tư duy mà chánh ngữ biểu hiện.
Bởi vậy khi lời nói của chúng ta còn gây ra đau khổ thì ta phải biết là cái thấy của chúng ta chưa sáng, và tư duy của chúng ta chưa đúng.
Ngôn ngữ có hạt giống trong đất tâm.
Những lời nói, kho ngữ vựng, những hình thức diễn tả trong ngôn ngữ đều có hạt giống ở đấy cả.
Tu tập chánh ngữ bắt đầu từ tâm, bắt đầu từ tưởng, tức là tri giác.
Tri giác sai lầm sẽ sinh nhiều tà kiến.
Tri giác càng đúng thì càng thêm chánh kiến.
Tri giác sai lầm, tư duy chúng ta sẽ sai lầm.
Chúng ta thấy mối liên hệ rất mật thiết giữa chánh ngữ, chánh kiến và chánh tư duy.
Cho nên nếu chúng ta muốn tu tập chánh ngữ thật vững chãi thì chúng ta phải dựa trên chánh kiến và chánh tư duy. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Hạt giống của trí tuệ, hạt giống của từ bi đều có sẵn trong tâm thức mỗi người.
Hạt giống chánh kiến ở trong tâm thức ta gọi là giác tánh.
Tất cả chúng sinh đều có sẵn giác tánh, nên ta vẫn nói rằng Bụt ở trong lòng.
Phật tức tâm là một sự thật có thể chứng nghiệm được, chứ không phải là lý thuyết.
Vì nếu không sẵn hạt giống giác tánh thì có tu, có học gì chúng ta cũng sẽ không thành công.
Tu học có nghĩa là tạo những điều kiện tưới tẩm cho hạt giống tuệ giác nở ra.
Khi hạt giống của chánh kiến nẩy mầm rồi, tự nhiên tư duy sẽ đi vào đường chánh.
Càng thực tập chánh tư duy, chúng ta lại càng giúp cho những hạt giống chánh kiến khác nẩy nở thêm.
Chánh kiến nuôi dưỡng chánh tư duy và chánh tư duy khơi mở thêm chánh kiến.
Rồi nhờ sự phát triển của chánh kiến và chánh tư duy mà chánh ngữ biểu hiện.
Bởi vậy khi lời nói của chúng ta còn gây ra đau khổ thì ta phải biết là cái thấy của chúng ta chưa sáng, và tư duy của chúng ta chưa đúng.
Ngôn ngữ có hạt giống trong đất tâm.
Những lời nói, kho ngữ vựng, những hình thức diễn tả trong ngôn ngữ đều có hạt giống ở đấy cả.
Tu tập chánh ngữ bắt đầu từ tâm, bắt đầu từ tưởng, tức là tri giác.
Tri giác sai lầm sẽ sinh nhiều tà kiến.
Tri giác càng đúng thì càng thêm chánh kiến.
Tri giác sai lầm, tư duy chúng ta sẽ sai lầm.
Chúng ta thấy mối liên hệ rất mật thiết giữa chánh ngữ, chánh kiến và chánh tư duy.
Cho nên nếu chúng ta muốn tu tập chánh ngữ thật vững chãi thì chúng ta phải dựa trên chánh kiến và chánh tư duy. | Chúng ta thấy mối liên hệ rất mật thiết giữa chánh ngữ, chánh kiến và chánh tư duy.
Cho nên nếu chúng ta muốn tu tập chánh ngữ thật vững chãi thì chúng ta phải dựa trên chánh kiến và chánh tư duy.
Vì vậy các vị bồ tát sau khi tu tập chánh kiến và chánh tư duy thì đạt tới biện tài.
“Trí tuệ hoằng thâm đại biện tài.” Biện tài ở đây không phải là nói khéo.
Biện tài chính là “nhất thiết ngữ ngôn tam muội,” phát hiện khi bồ tát có chánh kiến và chánh tư duy vững chãi.
Biện tài ở đây là khả năng nhiếp phục được người khác, khả năng khai thông cho tâm ý, làm cho người ta bỏ con đường mê tối mà hướng tới con đường sáng.
Đôi khi chỉ cần nói một hai câu mà có thể đưa người khác trở về với con đường an lạc.
Trí tuệ hoằng thâm đại biện tài nghĩa là nhờ trí tuệ sâu rộng, nên bồ tát đã đạt tới biện tài vô ngại để thuyết pháp độ sinh.
Sự tu tập chánh ngữ phải căn cứ trên chánh kiến và chánh tư duy.
Những hạt giống của tri giác nằm sâu trong tâm thức, những hạt giống của tư duy cũng ở sâu trong tâm thức, những hạt giống ngữ ngôn cũng vậy, ba loại hạt giống đó có dính líu với nhau.
Trong tương giao giữa mọi người, chúng ta cần tập nhìn đúng, nghĩ đúng về người khác.
Muốn tập chánh ngữ, ta phải bắt đầu bằng sự quán chiếu về người và về mình.
Xung đột giữa vợ chồng, cha con hay bạn bè có khi xảy ra chỉ vì lời nói.
Tu tập chánh ngữ trở thành một yếu tố rất quan trọng để gây niềm thông cảm.
Bài thực tập chánh ngữ |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Chúng ta thấy mối liên hệ rất mật thiết giữa chánh ngữ, chánh kiến và chánh tư duy.
Cho nên nếu chúng ta muốn tu tập chánh ngữ thật vững chãi thì chúng ta phải dựa trên chánh kiến và chánh tư duy.
Vì vậy các vị bồ tát sau khi tu tập chánh kiến và chánh tư duy thì đạt tới biện tài.
“Trí tuệ hoằng thâm đại biện tài.” Biện tài ở đây không phải là nói khéo.
Biện tài chính là “nhất thiết ngữ ngôn tam muội,” phát hiện khi bồ tát có chánh kiến và chánh tư duy vững chãi.
Biện tài ở đây là khả năng nhiếp phục được người khác, khả năng khai thông cho tâm ý, làm cho người ta bỏ con đường mê tối mà hướng tới con đường sáng.
Đôi khi chỉ cần nói một hai câu mà có thể đưa người khác trở về với con đường an lạc.
Trí tuệ hoằng thâm đại biện tài nghĩa là nhờ trí tuệ sâu rộng, nên bồ tát đã đạt tới biện tài vô ngại để thuyết pháp độ sinh.
Sự tu tập chánh ngữ phải căn cứ trên chánh kiến và chánh tư duy.
Những hạt giống của tri giác nằm sâu trong tâm thức, những hạt giống của tư duy cũng ở sâu trong tâm thức, những hạt giống ngữ ngôn cũng vậy, ba loại hạt giống đó có dính líu với nhau.
Trong tương giao giữa mọi người, chúng ta cần tập nhìn đúng, nghĩ đúng về người khác.
Muốn tập chánh ngữ, ta phải bắt đầu bằng sự quán chiếu về người và về mình.
Xung đột giữa vợ chồng, cha con hay bạn bè có khi xảy ra chỉ vì lời nói.
Tu tập chánh ngữ trở thành một yếu tố rất quan trọng để gây niềm thông cảm.
Bài thực tập chánh ngữ | Xung đột giữa vợ chồng, cha con hay bạn bè có khi xảy ra chỉ vì lời nói.
Tu tập chánh ngữ trở thành một yếu tố rất quan trọng để gây niềm thông cảm.
Bài thực tập chánh ngữ
Ta hãy lấy một ví dụ thực tập về chánh ngữ để giải toả những nội kết gây xung đột giữa hai người bạn.
Cũng có thể áp dụng cho hai người thân yêu, như anh em, vợ chồng, v.v.. Có một người tên là A và có một người tên là B, liên hệ giữa A và B không tốt đẹp.
Mỗi khi A nói thì B khó chịu và mỗi khi B nói thì A khó chịu.
Có thể A có lòng tốt không muốn làm khổ B, và B có lòng tốt không muốn làm khổ A, nhưng hai người vẫn làm khổ nhau hoài.
Có thể là A vụng về trong khi nói hay B vụng về trong khi nói.
Muốn giải quyết, chúng ta không thể chỉ tuyên bố rằng cả hai bên đều có lòng tốt cả, không sao.
Chúng ta phải quán chiếu sâu xa để thấy nguồn gốc ở nơi tưởng, nơi tri giác của mỗi người.
Ở làng Hồng các thiền sinh đã thực tập viết thư gửi Bụt.
Chúng ta thử bắt chước phương pháp đó trong trường hợp này.
Mời hai người cùng đại chúng vào ngồi trong một căn phòng, hai người ngồi hai bàn khác nhau.
Đưa cho A và B mỗi người một tờ giấy trắng, A sẽ viết cho B một lá thư, và B viết cho A một lá thư.
Viết xong hai người trao thư cho nhau.
Mỗi người nhận rồi đem thư ra đốt, không cần đọc.
Trong đại chúng không ai biết trong thư nói gì cả.
Trước khi thực tập, hai người được hướng dẫn riêng về “mẫu viết thư”.
Mục đích của lá thư là cho mỗi người có dịp quán chiếu về tánh tình, phản ứng và hành động của mình và của người kia. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Xung đột giữa vợ chồng, cha con hay bạn bè có khi xảy ra chỉ vì lời nói.
Tu tập chánh ngữ trở thành một yếu tố rất quan trọng để gây niềm thông cảm.
Bài thực tập chánh ngữ
Ta hãy lấy một ví dụ thực tập về chánh ngữ để giải toả những nội kết gây xung đột giữa hai người bạn.
Cũng có thể áp dụng cho hai người thân yêu, như anh em, vợ chồng, v.v.. Có một người tên là A và có một người tên là B, liên hệ giữa A và B không tốt đẹp.
Mỗi khi A nói thì B khó chịu và mỗi khi B nói thì A khó chịu.
Có thể A có lòng tốt không muốn làm khổ B, và B có lòng tốt không muốn làm khổ A, nhưng hai người vẫn làm khổ nhau hoài.
Có thể là A vụng về trong khi nói hay B vụng về trong khi nói.
Muốn giải quyết, chúng ta không thể chỉ tuyên bố rằng cả hai bên đều có lòng tốt cả, không sao.
Chúng ta phải quán chiếu sâu xa để thấy nguồn gốc ở nơi tưởng, nơi tri giác của mỗi người.
Ở làng Hồng các thiền sinh đã thực tập viết thư gửi Bụt.
Chúng ta thử bắt chước phương pháp đó trong trường hợp này.
Mời hai người cùng đại chúng vào ngồi trong một căn phòng, hai người ngồi hai bàn khác nhau.
Đưa cho A và B mỗi người một tờ giấy trắng, A sẽ viết cho B một lá thư, và B viết cho A một lá thư.
Viết xong hai người trao thư cho nhau.
Mỗi người nhận rồi đem thư ra đốt, không cần đọc.
Trong đại chúng không ai biết trong thư nói gì cả.
Trước khi thực tập, hai người được hướng dẫn riêng về “mẫu viết thư”.
Mục đích của lá thư là cho mỗi người có dịp quán chiếu về tánh tình, phản ứng và hành động của mình và của người kia. | Trước khi thực tập, hai người được hướng dẫn riêng về “mẫu viết thư”.
Mục đích của lá thư là cho mỗi người có dịp quán chiếu về tánh tình, phản ứng và hành động của mình và của người kia.
Thí dụ lá thư của A viết như sau:
Phần 1- A biết tánh của B như thế này (... ..) Mấy dấu chấm trong ngoặc này là nơi A quán chiếu về B. Nhìn vào người kia, ta thấy tánh khí và tâm trạng của người đó, các thói quen, tập khí của người đó, quá khứ thời thơ ấu lớn lên trong gia đình, trong học đường như thế nào, v.v.. Như thế gọi là quán chiếu.
Phần 2- Cho nên mỗi khi B nói hay làm như vậy (như vậy là làm sao, phải nhớ rõ về các hành động của B đã gây đau khổ cho mình), thì để tránh gây ra xích mích, A phải biết không nên có những phản ứng như mình thường vẫn có (kể rõ những phản ứng thường xẩy ra của chính mình).
Phần 3- A cũng biết rằng tánh A như thế này (tự nói về mình) và hay phản ứng như thế này (là phản ứng ra sao, tự mình kể ra cho rõ), nên A đã khổ, A cũng đã làm cho B khổ và không giúp gì được cho B.
Phần 4- Vậy từ nay để phá vỡ vòng luẩn quẩn và tạo cơ hội cho cả hai chuyển hóa, A sẽ thực tập những cách sau đây (ghi những ý kiến về cách thực tập của mình).
Tới đây cần viết một câu quan trọng: “Sự chuyển hóa của A chắc chắn thế nào cũng đưa tới sự chuyển hóa của B”, Câu này nên lặp đi lặp lại hoài.
Tại vì thường thường chúng ta hay nghĩ: “người kia không thay đổi tại sao mình tôi phải thay đổi?”
Đây chỉ là mới là phần thực tập của A thôi, còn phần của B là khác. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Trước khi thực tập, hai người được hướng dẫn riêng về “mẫu viết thư”.
Mục đích của lá thư là cho mỗi người có dịp quán chiếu về tánh tình, phản ứng và hành động của mình và của người kia.
Thí dụ lá thư của A viết như sau:
Phần 1- A biết tánh của B như thế này (... ..) Mấy dấu chấm trong ngoặc này là nơi A quán chiếu về B. Nhìn vào người kia, ta thấy tánh khí và tâm trạng của người đó, các thói quen, tập khí của người đó, quá khứ thời thơ ấu lớn lên trong gia đình, trong học đường như thế nào, v.v.. Như thế gọi là quán chiếu.
Phần 2- Cho nên mỗi khi B nói hay làm như vậy (như vậy là làm sao, phải nhớ rõ về các hành động của B đã gây đau khổ cho mình), thì để tránh gây ra xích mích, A phải biết không nên có những phản ứng như mình thường vẫn có (kể rõ những phản ứng thường xẩy ra của chính mình).
Phần 3- A cũng biết rằng tánh A như thế này (tự nói về mình) và hay phản ứng như thế này (là phản ứng ra sao, tự mình kể ra cho rõ), nên A đã khổ, A cũng đã làm cho B khổ và không giúp gì được cho B.
Phần 4- Vậy từ nay để phá vỡ vòng luẩn quẩn và tạo cơ hội cho cả hai chuyển hóa, A sẽ thực tập những cách sau đây (ghi những ý kiến về cách thực tập của mình).
Tới đây cần viết một câu quan trọng: “Sự chuyển hóa của A chắc chắn thế nào cũng đưa tới sự chuyển hóa của B”, Câu này nên lặp đi lặp lại hoài.
Tại vì thường thường chúng ta hay nghĩ: “người kia không thay đổi tại sao mình tôi phải thay đổi?”
Đây chỉ là mới là phần thực tập của A thôi, còn phần của B là khác. | Tại vì thường thường chúng ta hay nghĩ: “người kia không thay đổi tại sao mình tôi phải thay đổi?”
Đây chỉ là mới là phần thực tập của A thôi, còn phần của B là khác.
Chúng ta hãy thử đọc lại và chiêm nghiệm thêm về mẫu thư trên một lần nữa.
1- A biết rằng tánh của B như thế này (...) Mỗi người phải nhìn vào người kia, dù đó là cha mình, thầy mình, anh, em của mình.
Ba dấu chấm trong ngoặc đơn đó quan trọng lắm.
Nên viết càng nhiều càng tốt.
Mỗi người phải tìm hiểu về người kia.
Có thể là B sanh ra trong một gia đình mà bố mẹ có tánh tình như thế, không khí gia đình như thế.
Rồi lớn lên học ở trường có ông thầy thế nào, và được đào tạo theo mẫu mực, lề thói thế nào.
Chìa khóa là ở chỗ ta nhìn thấy như vậy.
Phải thấy được, mà thấy rồi thì chúng ta sẽ dễ chấp nhận nhau hơn.
Mới chỉ quán chiếu thôi, chưa đòi hỏi người kia phải thay đổi mà ta đã thấy khỏe hơn rồi.
Lá thư không bắt đầu bằng những câu như “Nếu anh mà muốn em thương anh thì phải sửa cái tánh đó đi.” Mình bắt đầu nghĩ lại là anh mình sở dĩ nói năng như vậy (...), hành xử như vậy (...), có lề thói phản ứng như vậy (...) là vì đã có quá trình sinh ra, lớn lên và được đào tạo như vậy.
Hiểu được rồi tự nhiên ta cười xòa, không còn bực tức nữa.
Phản ứng của ta thay đổi.
Mà ta thay đổi cách phản ứng của ta thì ta sẽ giúp được anh của ta thay đổi.
2- Cho nên mỗi khi B nói hay làm như vậy (...) thì A phải biết không nên có những phản ứng như mình thường có (...) Phần giữa hai ngoặc đơn này cũng rất quan trọng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tại vì thường thường chúng ta hay nghĩ: “người kia không thay đổi tại sao mình tôi phải thay đổi?”
Đây chỉ là mới là phần thực tập của A thôi, còn phần của B là khác.
Chúng ta hãy thử đọc lại và chiêm nghiệm thêm về mẫu thư trên một lần nữa.
1- A biết rằng tánh của B như thế này (...) Mỗi người phải nhìn vào người kia, dù đó là cha mình, thầy mình, anh, em của mình.
Ba dấu chấm trong ngoặc đơn đó quan trọng lắm.
Nên viết càng nhiều càng tốt.
Mỗi người phải tìm hiểu về người kia.
Có thể là B sanh ra trong một gia đình mà bố mẹ có tánh tình như thế, không khí gia đình như thế.
Rồi lớn lên học ở trường có ông thầy thế nào, và được đào tạo theo mẫu mực, lề thói thế nào.
Chìa khóa là ở chỗ ta nhìn thấy như vậy.
Phải thấy được, mà thấy rồi thì chúng ta sẽ dễ chấp nhận nhau hơn.
Mới chỉ quán chiếu thôi, chưa đòi hỏi người kia phải thay đổi mà ta đã thấy khỏe hơn rồi.
Lá thư không bắt đầu bằng những câu như “Nếu anh mà muốn em thương anh thì phải sửa cái tánh đó đi.” Mình bắt đầu nghĩ lại là anh mình sở dĩ nói năng như vậy (...), hành xử như vậy (...), có lề thói phản ứng như vậy (...) là vì đã có quá trình sinh ra, lớn lên và được đào tạo như vậy.
Hiểu được rồi tự nhiên ta cười xòa, không còn bực tức nữa.
Phản ứng của ta thay đổi.
Mà ta thay đổi cách phản ứng của ta thì ta sẽ giúp được anh của ta thay đổi.
2- Cho nên mỗi khi B nói hay làm như vậy (...) thì A phải biết không nên có những phản ứng như mình thường có (...) Phần giữa hai ngoặc đơn này cũng rất quan trọng. | 2- Cho nên mỗi khi B nói hay làm như vậy (...) thì A phải biết không nên có những phản ứng như mình thường có (...) Phần giữa hai ngoặc đơn này cũng rất quan trọng.
Đoạn này liên hệ hành động của hai người: vì B như thế đó (...), cho nên A nói hay làm như thế này (...).
Chỉ trong ba chấm đó thôi nhưng chúng ta phải thiền hành, thiền tọa rất lâu để tĩnh tâm mà tìm cho ra rõ nguồn cơn, “Lắng nghe thấu tận nguồn cơn, học nhìn lại hiểu và thương.” Chìa khóa là quán chiếu.
Cho nên mỗi khi B nói hay làm như vậy (...) thường thường A bực bội, chống lại, không chịu nổi.
Khi mà thấy được và hiểu được tại sao rồi thì dù người kia vẫn còn nói, vẫn còn làm như cũ, A vẫn có khả năng ngưng những phản ứng như trong quá khứ.
Sự chuyển hóa bắt đầu từ trong tâm mỗi người, chứ ta không đòi hỏi người kia chuyển hóa trước thì ta mới chịu thay đổi (peace begins with me!).
3- A cũng biết rằng tánh A như thế đó (...) Trong đoạn này ta tự tìm hiểu để tự thấy mình.
Ta được sinh ra ở một hoàn cảnh khác, được lớn lên, dạy dỗ và đào tạo trong hoàn cảnh khác.
Ta rất khác B cho nên ta hay có phản ứng như vậy.
Do những phản ứng đó chính ta làm cho ta khổ và cũng làm cho người kia khổ.
Thấy được điều đó cho nên A mới tìm và thử có phản ứng khác.
Mình tự thay đổi mình trước, biết rằng người kia sẽ thay đổi sau.
Không có nghĩa là mình phải chấp nhận người kia như vậy hoài.
Hiểu và thương tức là chấp nhận người kia và hy vọng với sự tu học, với phản ứng mới của mình, người kia sẽ thay đổi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | 2- Cho nên mỗi khi B nói hay làm như vậy (...) thì A phải biết không nên có những phản ứng như mình thường có (...) Phần giữa hai ngoặc đơn này cũng rất quan trọng.
Đoạn này liên hệ hành động của hai người: vì B như thế đó (...), cho nên A nói hay làm như thế này (...).
Chỉ trong ba chấm đó thôi nhưng chúng ta phải thiền hành, thiền tọa rất lâu để tĩnh tâm mà tìm cho ra rõ nguồn cơn, “Lắng nghe thấu tận nguồn cơn, học nhìn lại hiểu và thương.” Chìa khóa là quán chiếu.
Cho nên mỗi khi B nói hay làm như vậy (...) thường thường A bực bội, chống lại, không chịu nổi.
Khi mà thấy được và hiểu được tại sao rồi thì dù người kia vẫn còn nói, vẫn còn làm như cũ, A vẫn có khả năng ngưng những phản ứng như trong quá khứ.
Sự chuyển hóa bắt đầu từ trong tâm mỗi người, chứ ta không đòi hỏi người kia chuyển hóa trước thì ta mới chịu thay đổi (peace begins with me!).
3- A cũng biết rằng tánh A như thế đó (...) Trong đoạn này ta tự tìm hiểu để tự thấy mình.
Ta được sinh ra ở một hoàn cảnh khác, được lớn lên, dạy dỗ và đào tạo trong hoàn cảnh khác.
Ta rất khác B cho nên ta hay có phản ứng như vậy.
Do những phản ứng đó chính ta làm cho ta khổ và cũng làm cho người kia khổ.
Thấy được điều đó cho nên A mới tìm và thử có phản ứng khác.
Mình tự thay đổi mình trước, biết rằng người kia sẽ thay đổi sau.
Không có nghĩa là mình phải chấp nhận người kia như vậy hoài.
Hiểu và thương tức là chấp nhận người kia và hy vọng với sự tu học, với phản ứng mới của mình, người kia sẽ thay đổi. | Không có nghĩa là mình phải chấp nhận người kia như vậy hoài.
Hiểu và thương tức là chấp nhận người kia và hy vọng với sự tu học, với phản ứng mới của mình, người kia sẽ thay đổi.
Người nào trong chúng ta cũng biết là khi mình thay đổi thì người kia sớm muộn cũng sẽ thay đổi.
A cũng biết rằng tính tình của mình như thế đó (...) - “Như thế đó” là như thế nào?
Phải nói ra, phải dám soi gương để nhìn rõ tính khí của mình.
Mình cũng có thể nhờ các bạn thân của mình soi sáng cho mình, chỉ bảo cho mình.
Mình cũng có lúc nóng nảy, cũng có lúc vội vã, sai lầm.
Và mình hay phản ứng như thế này, cho nên mình đã khổ và làm cho người kia khổ.
Cho nên A quyết lòng tu tập để phá vỡ vòng lẩn quẩn.
Trong quá khứ, mỗi khi bên này nói một câu gì là bên kia nổi điên ngay, vì thế bên này lại giận hơn nữa, và nội kết của hai bên lôi cuốn lẫn nhau.
Bẻ gãy cái vòng lẩn quẩn đó là thoát khỏi một vòng luân hồi.
Như thế chúng ta tạo cơ hội cho cả hai chuyển hóa.
Và đây công thức của sự tu tập trong một tăng thân: sự chuyển hóa của người này sẽ đưa tới sự chuyển hóa của người khác.
Có một thiếu nữ đến tu tập ở Làng Hồng, sáu tháng rồi trở về Hoa Kỳ.
Tự nhiên cô cảm thấy có thể bắt đầu nói chuyện được với một người mà từ năm, bảy năm nay cô không thể nào nói chuyện được.
Cô cảm thấy một điều rất lạ.
Trước kia cô không thể nói chuyện, không muốn nhìn mặt người kia; thế mà sau khi tu tập ở Làng Hồng sáu tháng trở về, tự nhiên cô thấy mình có thể nói chuyện được dễ dàng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Không có nghĩa là mình phải chấp nhận người kia như vậy hoài.
Hiểu và thương tức là chấp nhận người kia và hy vọng với sự tu học, với phản ứng mới của mình, người kia sẽ thay đổi.
Người nào trong chúng ta cũng biết là khi mình thay đổi thì người kia sớm muộn cũng sẽ thay đổi.
A cũng biết rằng tính tình của mình như thế đó (...) - “Như thế đó” là như thế nào?
Phải nói ra, phải dám soi gương để nhìn rõ tính khí của mình.
Mình cũng có thể nhờ các bạn thân của mình soi sáng cho mình, chỉ bảo cho mình.
Mình cũng có lúc nóng nảy, cũng có lúc vội vã, sai lầm.
Và mình hay phản ứng như thế này, cho nên mình đã khổ và làm cho người kia khổ.
Cho nên A quyết lòng tu tập để phá vỡ vòng lẩn quẩn.
Trong quá khứ, mỗi khi bên này nói một câu gì là bên kia nổi điên ngay, vì thế bên này lại giận hơn nữa, và nội kết của hai bên lôi cuốn lẫn nhau.
Bẻ gãy cái vòng lẩn quẩn đó là thoát khỏi một vòng luân hồi.
Như thế chúng ta tạo cơ hội cho cả hai chuyển hóa.
Và đây công thức của sự tu tập trong một tăng thân: sự chuyển hóa của người này sẽ đưa tới sự chuyển hóa của người khác.
Có một thiếu nữ đến tu tập ở Làng Hồng, sáu tháng rồi trở về Hoa Kỳ.
Tự nhiên cô cảm thấy có thể bắt đầu nói chuyện được với một người mà từ năm, bảy năm nay cô không thể nào nói chuyện được.
Cô cảm thấy một điều rất lạ.
Trước kia cô không thể nói chuyện, không muốn nhìn mặt người kia; thế mà sau khi tu tập ở Làng Hồng sáu tháng trở về, tự nhiên cô thấy mình có thể nói chuyện được dễ dàng. | Cô cảm thấy một điều rất lạ.
Trước kia cô không thể nói chuyện, không muốn nhìn mặt người kia; thế mà sau khi tu tập ở Làng Hồng sáu tháng trở về, tự nhiên cô thấy mình có thể nói chuyện được dễ dàng.
Ngay trong lần gặp gỡ và chuyện trò, cô đã thấy người kia thay đổi.
Và sau đó gặp lại nhau trong mấy tuần lễ kế tiếp thì sự thay đổi càng rõ rệt.
Tình thân ái lại nẩy nở, khi chia tay thì bịn rịn.
Sự thay đổi của hai người không xảy ra cùng một lúc, vì đã chỉ có một người bắt đầu.
Sự hòa giải nào cũng vậy.
Ta tự hòa giải trong tâm ta trước, không cần người kia biết.
Khi trong lòng mình có sự hòa giải rồi thì tâm bình an của mình tỏa chiếu ra, người kia sẽ tiếp nhận và đến lượt người kia sẽ được chuyển hóa.
Khi hai bên thực tập viết thư và trao cho nhau xong, có thể phép lạ sẽ xảy ra trong những ngày kế tiếp.
Mỗi người đã xét mình và đã quán chiếu để hiểu người kia.
Mỗi người tự phát nguyện là sẽ thay đổi, sẽ không làm, không nói theo tập khí của những ngày trước.
Nói và cư xử cách nào phù hợp để người kia có thể chấp nhận được, có thể hiểu được.
Sau khi quán chiếu, mình sẽ thấy nhiều điều lâu nay mình tưởng là đúng, mà quả thực là sai.
Có khi điều mình nói là sự thật, nhưng cách mình nói ra vụng về và nóng nảy cũng có thể tạo ra sự tan vỡ, vì người kia không tiếp nhận được.
Vì vậy ta phải học phương pháp thực tập chánh ngữ.
Vì chánh ngữ bao gồm chánh kiến, chánh tư duy, nhưng cũng gồm cả nghệ thuật diễn tả. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Cô cảm thấy một điều rất lạ.
Trước kia cô không thể nói chuyện, không muốn nhìn mặt người kia; thế mà sau khi tu tập ở Làng Hồng sáu tháng trở về, tự nhiên cô thấy mình có thể nói chuyện được dễ dàng.
Ngay trong lần gặp gỡ và chuyện trò, cô đã thấy người kia thay đổi.
Và sau đó gặp lại nhau trong mấy tuần lễ kế tiếp thì sự thay đổi càng rõ rệt.
Tình thân ái lại nẩy nở, khi chia tay thì bịn rịn.
Sự thay đổi của hai người không xảy ra cùng một lúc, vì đã chỉ có một người bắt đầu.
Sự hòa giải nào cũng vậy.
Ta tự hòa giải trong tâm ta trước, không cần người kia biết.
Khi trong lòng mình có sự hòa giải rồi thì tâm bình an của mình tỏa chiếu ra, người kia sẽ tiếp nhận và đến lượt người kia sẽ được chuyển hóa.
Khi hai bên thực tập viết thư và trao cho nhau xong, có thể phép lạ sẽ xảy ra trong những ngày kế tiếp.
Mỗi người đã xét mình và đã quán chiếu để hiểu người kia.
Mỗi người tự phát nguyện là sẽ thay đổi, sẽ không làm, không nói theo tập khí của những ngày trước.
Nói và cư xử cách nào phù hợp để người kia có thể chấp nhận được, có thể hiểu được.
Sau khi quán chiếu, mình sẽ thấy nhiều điều lâu nay mình tưởng là đúng, mà quả thực là sai.
Có khi điều mình nói là sự thật, nhưng cách mình nói ra vụng về và nóng nảy cũng có thể tạo ra sự tan vỡ, vì người kia không tiếp nhận được.
Vì vậy ta phải học phương pháp thực tập chánh ngữ.
Vì chánh ngữ bao gồm chánh kiến, chánh tư duy, nhưng cũng gồm cả nghệ thuật diễn tả. | Vì vậy ta phải học phương pháp thực tập chánh ngữ.
Vì chánh ngữ bao gồm chánh kiến, chánh tư duy, nhưng cũng gồm cả nghệ thuật diễn tả.
Cách ngôn Trung Hoa có câu là một lời mà nói ra bốn con ngựa chạy theo cũng không kịp (nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy).
Phải tu tập ngay từ chánh kiến và chánh tư duy mới có thể thành công được về chánh ngữ.
Phương pháp thực tập chánh ngữ này rất cụ thể, ai cũng có thể thực hành ngay.
Nếu thực tập cho đàng hoàng trong một vài tuần, ta sẽ thấy kết quả.
Tu tập là chúng ta tu tập trong một tăng thân.
Hạnh phúc của một người tùy thuộc hạnh phúc của người khác.
Đừng nghĩ người nào tu riêng người đó, ông tu ông đắc, bà tu bà đắc.
Nghĩ như thế là thất bại.
Phải làm cho người khác có hạnh phúc thì mình mới thật sự có hạnh phúc.
Luôn luôn bắt đầu bằng sự thay đổi trong tâm mình.
Khi ngồi thiền, thay vì quán chiếu về cây tùng trước sân hay là tiếng vỗ của một bàn tay, chúng ta hãy quán chiếu về một đề tài thiết thực.
Đó là làm thế nào để thiết lập được chánh ngữ, chánh kiến và chánh tư duy ngày hôm nay.
Viết lên giấy trắng mực đen có thể giúp cho sự tu học.
Ngồi xuống, cây viết trên tay, quán chiếu về tánh khí của người kia và của mình, do môi trường, hoàn cảnh, tập quán nào gây ra.
Thấy được rồi ta mới hiểu tại sao ta hay phản ứng như thế này, mà người kia hay nói, hay làm như thế kia.
Ta đi tới kết luận là từ bây giờ ta muốn áp dụng phương cách mới trong cách nói và cách làm. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Vì vậy ta phải học phương pháp thực tập chánh ngữ.
Vì chánh ngữ bao gồm chánh kiến, chánh tư duy, nhưng cũng gồm cả nghệ thuật diễn tả.
Cách ngôn Trung Hoa có câu là một lời mà nói ra bốn con ngựa chạy theo cũng không kịp (nhất ngôn ký xuất, tứ mã nan truy).
Phải tu tập ngay từ chánh kiến và chánh tư duy mới có thể thành công được về chánh ngữ.
Phương pháp thực tập chánh ngữ này rất cụ thể, ai cũng có thể thực hành ngay.
Nếu thực tập cho đàng hoàng trong một vài tuần, ta sẽ thấy kết quả.
Tu tập là chúng ta tu tập trong một tăng thân.
Hạnh phúc của một người tùy thuộc hạnh phúc của người khác.
Đừng nghĩ người nào tu riêng người đó, ông tu ông đắc, bà tu bà đắc.
Nghĩ như thế là thất bại.
Phải làm cho người khác có hạnh phúc thì mình mới thật sự có hạnh phúc.
Luôn luôn bắt đầu bằng sự thay đổi trong tâm mình.
Khi ngồi thiền, thay vì quán chiếu về cây tùng trước sân hay là tiếng vỗ của một bàn tay, chúng ta hãy quán chiếu về một đề tài thiết thực.
Đó là làm thế nào để thiết lập được chánh ngữ, chánh kiến và chánh tư duy ngày hôm nay.
Viết lên giấy trắng mực đen có thể giúp cho sự tu học.
Ngồi xuống, cây viết trên tay, quán chiếu về tánh khí của người kia và của mình, do môi trường, hoàn cảnh, tập quán nào gây ra.
Thấy được rồi ta mới hiểu tại sao ta hay phản ứng như thế này, mà người kia hay nói, hay làm như thế kia.
Ta đi tới kết luận là từ bây giờ ta muốn áp dụng phương cách mới trong cách nói và cách làm. | Thấy được rồi ta mới hiểu tại sao ta hay phản ứng như thế này, mà người kia hay nói, hay làm như thế kia.
Ta đi tới kết luận là từ bây giờ ta muốn áp dụng phương cách mới trong cách nói và cách làm.
Ta nói và làm hai hoặc ba lần theo phương thức mới thì người kia sẽ bắt đầu thấy và cũng tự chuyển hóa.
Nếu hai người cùng thực tập thì mỗi người đều làm như vậy cả.
Hai người sẽ trao cho nhau tuệ giác của mình, giúp nhau tu tập, và họ là anh em, chị em thực sự.
Giữa hai anh em, giữa vợ chồng, giữa cha con phương pháp này đều có thể làm được, trong cách cư xử tương kính và thật sự bình đẳng.
Trong truyền thống đạo Bụt, tăng thân được tổ chức như một gia đình.
Vì vậy chúng ta thường gọi nhau là sư ông, sư chú, sư bác, sư anh, sư chị, sư em.
Khi sống chung, chúng ta phải hoà hợp những cá tính lại thành một cọng tính.
Không người nào giống người nào, sở thích cũng khác nhau.
Nhưng tính chất đa dạng đó đem lại những dáng sắc rất đẹp cho cộng đồng.
Tăng thân sống hòa hợp, nhường nhịn nhau được cũng nhờ ở sự thực tập chánh ngữ.
Hạnh lắng nghe
Trong giới thứ tư của năm giới, chúng ta học: “Biết rằng lời nói có thể đem lại khổ đau hay là hạnh phúc cho nên tôi thực tập chánh ngữ để có thể làm vơi bớt khổ đau và mang lại hạnh phúc cho người.” Và một điều thực tập cần thiết là hạnh lắng nghe.
Cái nói liên hệ tới cái nghe.
Nói mà không biết nghe tức là chưa có chánh ngữ.
Muốn cho lời nói của ta là chánh ngữ thì ta phải lắng nghe người khác. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Thấy được rồi ta mới hiểu tại sao ta hay phản ứng như thế này, mà người kia hay nói, hay làm như thế kia.
Ta đi tới kết luận là từ bây giờ ta muốn áp dụng phương cách mới trong cách nói và cách làm.
Ta nói và làm hai hoặc ba lần theo phương thức mới thì người kia sẽ bắt đầu thấy và cũng tự chuyển hóa.
Nếu hai người cùng thực tập thì mỗi người đều làm như vậy cả.
Hai người sẽ trao cho nhau tuệ giác của mình, giúp nhau tu tập, và họ là anh em, chị em thực sự.
Giữa hai anh em, giữa vợ chồng, giữa cha con phương pháp này đều có thể làm được, trong cách cư xử tương kính và thật sự bình đẳng.
Trong truyền thống đạo Bụt, tăng thân được tổ chức như một gia đình.
Vì vậy chúng ta thường gọi nhau là sư ông, sư chú, sư bác, sư anh, sư chị, sư em.
Khi sống chung, chúng ta phải hoà hợp những cá tính lại thành một cọng tính.
Không người nào giống người nào, sở thích cũng khác nhau.
Nhưng tính chất đa dạng đó đem lại những dáng sắc rất đẹp cho cộng đồng.
Tăng thân sống hòa hợp, nhường nhịn nhau được cũng nhờ ở sự thực tập chánh ngữ.
Hạnh lắng nghe
Trong giới thứ tư của năm giới, chúng ta học: “Biết rằng lời nói có thể đem lại khổ đau hay là hạnh phúc cho nên tôi thực tập chánh ngữ để có thể làm vơi bớt khổ đau và mang lại hạnh phúc cho người.” Và một điều thực tập cần thiết là hạnh lắng nghe.
Cái nói liên hệ tới cái nghe.
Nói mà không biết nghe tức là chưa có chánh ngữ.
Muốn cho lời nói của ta là chánh ngữ thì ta phải lắng nghe người khác. | Cái nói liên hệ tới cái nghe.
Nói mà không biết nghe tức là chưa có chánh ngữ.
Muốn cho lời nói của ta là chánh ngữ thì ta phải lắng nghe người khác.
Cho nên tập lắng nghe là một phần của sự thực tập chánh ngữ.
Điều này là một ý kiến mới bổ túc cho giới thứ tư.
Từ nay nói về chánh ngữ ta phải nói cả về chánh thính (right listening).
Trong kinh ta vẫn đọc: “Chúng con xin học hạnh lắng nghe”, tức là hạnh của bồ tát Quán Thế Âm.
Nếu không nghe, thì ta sẽ không hiểu và chánh ngữ sẽ không vững vàng.
Trong Kinh có danh từ đế thính: Nhữ đẳng tỳ kheo đương đế thính, này các tỳ kheo, các thầy lắng nghe tôi nói đây.
Đế thính là lắng nghe cho kỹ.
Chữ đế này giống như trong tứ đế.
Đế thính là nghe với tất cả tấm lòng của mình, nghe với một tâm hồn lắng dịu, không sôi động, không thành kiến.
Đế thính là một nghệ thuật; nếu tâm hồn còn xao động, còn đầy dẫy tư duy và thành kiến, nếu chỉ dùng trí năng (intellect) của mình để nghe, đó chưa phải là đế thính.
Có một Kinh về Bát chánh đạo, thay vì dùng từ chánh ngữ đã dùng từ đế ngữ và chánh định thì gọi là đế định.
Đế thính cần cho đế ngữ.
Vậy khi nghe, ta đừng nghe với thành kiến.
Ta phải nghe bằng cả trái tim của mình.
Phải nghe bằng cái tâm trống không, nghe như vậy mới có thể hiểu được.
Nghệ thuật nghe là không phải chỉ nghe bằng tai.
Mắt theo dõi người nói, nét mặt tự nhiên biến đổi theo những lời phát biểu, ta nghe bằng toàn thể thân tâm ta.
Nhiều khi chỉ cần lắng nghe thôi ta đã giúp cho người bớt khổ rồi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Cái nói liên hệ tới cái nghe.
Nói mà không biết nghe tức là chưa có chánh ngữ.
Muốn cho lời nói của ta là chánh ngữ thì ta phải lắng nghe người khác.
Cho nên tập lắng nghe là một phần của sự thực tập chánh ngữ.
Điều này là một ý kiến mới bổ túc cho giới thứ tư.
Từ nay nói về chánh ngữ ta phải nói cả về chánh thính (right listening).
Trong kinh ta vẫn đọc: “Chúng con xin học hạnh lắng nghe”, tức là hạnh của bồ tát Quán Thế Âm.
Nếu không nghe, thì ta sẽ không hiểu và chánh ngữ sẽ không vững vàng.
Trong Kinh có danh từ đế thính: Nhữ đẳng tỳ kheo đương đế thính, này các tỳ kheo, các thầy lắng nghe tôi nói đây.
Đế thính là lắng nghe cho kỹ.
Chữ đế này giống như trong tứ đế.
Đế thính là nghe với tất cả tấm lòng của mình, nghe với một tâm hồn lắng dịu, không sôi động, không thành kiến.
Đế thính là một nghệ thuật; nếu tâm hồn còn xao động, còn đầy dẫy tư duy và thành kiến, nếu chỉ dùng trí năng (intellect) của mình để nghe, đó chưa phải là đế thính.
Có một Kinh về Bát chánh đạo, thay vì dùng từ chánh ngữ đã dùng từ đế ngữ và chánh định thì gọi là đế định.
Đế thính cần cho đế ngữ.
Vậy khi nghe, ta đừng nghe với thành kiến.
Ta phải nghe bằng cả trái tim của mình.
Phải nghe bằng cái tâm trống không, nghe như vậy mới có thể hiểu được.
Nghệ thuật nghe là không phải chỉ nghe bằng tai.
Mắt theo dõi người nói, nét mặt tự nhiên biến đổi theo những lời phát biểu, ta nghe bằng toàn thể thân tâm ta.
Nhiều khi chỉ cần lắng nghe thôi ta đã giúp cho người bớt khổ rồi. | Mắt theo dõi người nói, nét mặt tự nhiên biến đổi theo những lời phát biểu, ta nghe bằng toàn thể thân tâm ta.
Nhiều khi chỉ cần lắng nghe thôi ta đã giúp cho người bớt khổ rồi.
Có những lúc ta chỉ nghe bằng tai, còn tâm ta không nghe, trong tâm ta vẫn đang nói.
Tuy không nói thành lời, nhưng ở trong lòng ta tầm và từ đầy ắp, không còn chỗ để ta nghe nữa.
Nghe một câu, trong lòng ta có phản ứng.
Tuy không nói ra nhưng trong tâm ta đã bắt đầu phê bình, lên án, bắt bẻ, v.v.. Như vậy không phải là đế thính.
Nghe lời dạy của Bụt ta phải đế thính, mà nghe lời của những người khổ đau ta cũng phải đế thính.
Nghe lời của bạn hay của thù cũng phải đế thính.
Trong tâm lý học Tây phương có phương pháp nghe gọi là emphatic listening, tức là vừa nghe vừa đồng nhất mình với người nói, không lên án, không chê bai, không có thành kiến.
Emphatic listening, dịch tiếng Việt là nghe thẩm thấu, nghe và để lời nói thấm vào.
Khi lắng nghe những người khổ đau, như bác sĩ tâm lý trị liệu, thì ta phải nghe với tất cả tâm hồn.
Lắng nghe như vậy người nói cảm thấy rằng họ có thể nói sự thật và họ sẽ nói sự thật.
Muốn nghe như vậy trong lòng phải đạt một trình độ tĩnh lặng, một mức độ từ bi.
Người bác sĩ tâm lý trị liệu phải có từ bi và tĩnh lặng, phải có tuệ giác ở trong lòng thì phẩm chất của sự trị liệu mới cao.
Cho nên người bác sĩ tâm lý trị liệu nào cũng phải thực tập chánh kiến, phải thực tập đế thính, phải thực tập từ bi. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Mắt theo dõi người nói, nét mặt tự nhiên biến đổi theo những lời phát biểu, ta nghe bằng toàn thể thân tâm ta.
Nhiều khi chỉ cần lắng nghe thôi ta đã giúp cho người bớt khổ rồi.
Có những lúc ta chỉ nghe bằng tai, còn tâm ta không nghe, trong tâm ta vẫn đang nói.
Tuy không nói thành lời, nhưng ở trong lòng ta tầm và từ đầy ắp, không còn chỗ để ta nghe nữa.
Nghe một câu, trong lòng ta có phản ứng.
Tuy không nói ra nhưng trong tâm ta đã bắt đầu phê bình, lên án, bắt bẻ, v.v.. Như vậy không phải là đế thính.
Nghe lời dạy của Bụt ta phải đế thính, mà nghe lời của những người khổ đau ta cũng phải đế thính.
Nghe lời của bạn hay của thù cũng phải đế thính.
Trong tâm lý học Tây phương có phương pháp nghe gọi là emphatic listening, tức là vừa nghe vừa đồng nhất mình với người nói, không lên án, không chê bai, không có thành kiến.
Emphatic listening, dịch tiếng Việt là nghe thẩm thấu, nghe và để lời nói thấm vào.
Khi lắng nghe những người khổ đau, như bác sĩ tâm lý trị liệu, thì ta phải nghe với tất cả tâm hồn.
Lắng nghe như vậy người nói cảm thấy rằng họ có thể nói sự thật và họ sẽ nói sự thật.
Muốn nghe như vậy trong lòng phải đạt một trình độ tĩnh lặng, một mức độ từ bi.
Người bác sĩ tâm lý trị liệu phải có từ bi và tĩnh lặng, phải có tuệ giác ở trong lòng thì phẩm chất của sự trị liệu mới cao.
Cho nên người bác sĩ tâm lý trị liệu nào cũng phải thực tập chánh kiến, phải thực tập đế thính, phải thực tập từ bi. | Cho nên người bác sĩ tâm lý trị liệu nào cũng phải thực tập chánh kiến, phải thực tập đế thính, phải thực tập từ bi.
Khi ta nghe mà mắt ta biểu lộ hiểu biết và thương yêu thì người nói mới có can đảm nói những điều họ chưa bao giờ nói.
Chỉ ngồi nghe không thôi đã làm sứ giả của Như Lai rồi.
Ở Làng Hồng đại chúng có Hiệp Ước Sống Chung An Lạc, một phương pháp rất mầu nhiệm.
Thực tập Hiệp Ước Sống Chung An Lạc phải quán chiếu, nhìn sâu sắc vào chính ta và vào người khác, đó là phép thực tập căn bản.
Không phải cứ họp nhau, nói qua nói lại là có thể giải quyết các vấn đề.
Cần thực tập chánh ngữ, căn cứ trên sự thực tập chánh kiến và chánh tư duy.
Có chánh kiến và chánh tư duy thì tự nhiên có tình thương.
Khi tất cả mọi người đều đã nắm được nghệ thuật đế thính và chánh ngữ, những lời nói ra đều mang chất liệu của sự hiểu biết, của lòng tha thứ và thương yêu.
Danh từ đế thính (sravana) ta đọc thấy trong Kinh Trường A Hàm, cũng có thể tìm thấy ở Thắng Thiên Vương Bát Nhã Kinh.
Sau này mỗi khi nói đến chánh ngữ thì chúng ta phải nói tới đế thính, tại vì nghe là một phần quan trọng của nói.
Nếu không biết nghe thì ta sẽ không biết nói.
Một vài điều ta cần nói thêm để kết luận về phần thế gian, tức là phần tục đế, của chánh ngữ.
Chúng ta biết, cũng như khi thực tập chánh tư duy, muốn thực tập chánh ngữ ta phải liên hệ với sự thực tập quán chiếu về tưởng (perception).
Thực tập Chánh ngữ, ta phải thấy sự liên hệ với chánh niệm hoặc thất niệm. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Cho nên người bác sĩ tâm lý trị liệu nào cũng phải thực tập chánh kiến, phải thực tập đế thính, phải thực tập từ bi.
Khi ta nghe mà mắt ta biểu lộ hiểu biết và thương yêu thì người nói mới có can đảm nói những điều họ chưa bao giờ nói.
Chỉ ngồi nghe không thôi đã làm sứ giả của Như Lai rồi.
Ở Làng Hồng đại chúng có Hiệp Ước Sống Chung An Lạc, một phương pháp rất mầu nhiệm.
Thực tập Hiệp Ước Sống Chung An Lạc phải quán chiếu, nhìn sâu sắc vào chính ta và vào người khác, đó là phép thực tập căn bản.
Không phải cứ họp nhau, nói qua nói lại là có thể giải quyết các vấn đề.
Cần thực tập chánh ngữ, căn cứ trên sự thực tập chánh kiến và chánh tư duy.
Có chánh kiến và chánh tư duy thì tự nhiên có tình thương.
Khi tất cả mọi người đều đã nắm được nghệ thuật đế thính và chánh ngữ, những lời nói ra đều mang chất liệu của sự hiểu biết, của lòng tha thứ và thương yêu.
Danh từ đế thính (sravana) ta đọc thấy trong Kinh Trường A Hàm, cũng có thể tìm thấy ở Thắng Thiên Vương Bát Nhã Kinh.
Sau này mỗi khi nói đến chánh ngữ thì chúng ta phải nói tới đế thính, tại vì nghe là một phần quan trọng của nói.
Nếu không biết nghe thì ta sẽ không biết nói.
Một vài điều ta cần nói thêm để kết luận về phần thế gian, tức là phần tục đế, của chánh ngữ.
Chúng ta biết, cũng như khi thực tập chánh tư duy, muốn thực tập chánh ngữ ta phải liên hệ với sự thực tập quán chiếu về tưởng (perception).
Thực tập Chánh ngữ, ta phải thấy sự liên hệ với chánh niệm hoặc thất niệm. | Thực tập Chánh ngữ, ta phải thấy sự liên hệ với chánh niệm hoặc thất niệm.
Nếu sống trong thất niệm mãi thì chúng ta không có hy vọng tiến bộ trên con đường thực tập chánh ngữ.
Nói phải biết rằng mình đang nói gì.
Trước khi nói ta biết ta sẽ nói gì, chứ đừng có để lời nói chạy ra trước rồi mình chạy theo sau.
Tu tập chánh niệm giúp ta nắm được thân, tâm và ngôn ngữ của ta.
Thực tập chánh ngữ phải quan tâm đến tập khí.
Ta có những tập khí, những thói quen, cho nên đôi khi lời nói ta chỉ là phản ứng rất máy móc.
Nghe một điều, ta tự nhiên có những phản ứng tự động và bật nói ra.
Chúng ta phải nhận diện các tập khí, mỉm cười mỗi khi chúng xuất hiện, và nói: “tập khí ơi, chào mi!” Rồi thực tập chánh ngữ, tình thương và bồ đề tâm.
Cần quán chiếu, cần thấy nỗi khổ của người, cần thấy hạt giống của niềm vui nơi người, nhờ đó ta có thể tạo hạnh phúc cho những người xung quanh ta.
Ta có thể ban phát rất nhiều hạnh phúc, chỉ cần nhờ thực tập chánh ngữ.
Và cố nhiên khi tạo nên hạnh phúc cho người thì chính ta không thể nào không có hạnh phúc.
Bài 09: Chánh niệm và 51 tâm hành
Hôm nay là ngày 19 tháng Chạp năm 1993, chúng ta học tiếp về Bát Chánh Đạo.
Hôm trước chúng ta đã vẽ một trái quít, năm múi tượng trưng cho năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
Hôm nay chúng ta vẽ một cái nhà hai tầng.
Tầng dưới là Thức uẩn và tầng trên là Hành uẩn.
Chánh niệm và 51 tâm hành
Hành uẩn ở trên đây gồm đủ 51 tâm hành, trong đó có cả Thọ và Tưởng, tức là cảm thọ và tri giác, và 49 hành khác. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Thực tập Chánh ngữ, ta phải thấy sự liên hệ với chánh niệm hoặc thất niệm.
Nếu sống trong thất niệm mãi thì chúng ta không có hy vọng tiến bộ trên con đường thực tập chánh ngữ.
Nói phải biết rằng mình đang nói gì.
Trước khi nói ta biết ta sẽ nói gì, chứ đừng có để lời nói chạy ra trước rồi mình chạy theo sau.
Tu tập chánh niệm giúp ta nắm được thân, tâm và ngôn ngữ của ta.
Thực tập chánh ngữ phải quan tâm đến tập khí.
Ta có những tập khí, những thói quen, cho nên đôi khi lời nói ta chỉ là phản ứng rất máy móc.
Nghe một điều, ta tự nhiên có những phản ứng tự động và bật nói ra.
Chúng ta phải nhận diện các tập khí, mỉm cười mỗi khi chúng xuất hiện, và nói: “tập khí ơi, chào mi!” Rồi thực tập chánh ngữ, tình thương và bồ đề tâm.
Cần quán chiếu, cần thấy nỗi khổ của người, cần thấy hạt giống của niềm vui nơi người, nhờ đó ta có thể tạo hạnh phúc cho những người xung quanh ta.
Ta có thể ban phát rất nhiều hạnh phúc, chỉ cần nhờ thực tập chánh ngữ.
Và cố nhiên khi tạo nên hạnh phúc cho người thì chính ta không thể nào không có hạnh phúc.
Bài 09: Chánh niệm và 51 tâm hành
Hôm nay là ngày 19 tháng Chạp năm 1993, chúng ta học tiếp về Bát Chánh Đạo.
Hôm trước chúng ta đã vẽ một trái quít, năm múi tượng trưng cho năm uẩn: sắc, thọ, tưởng, hành và thức.
Hôm nay chúng ta vẽ một cái nhà hai tầng.
Tầng dưới là Thức uẩn và tầng trên là Hành uẩn.
Chánh niệm và 51 tâm hành
Hành uẩn ở trên đây gồm đủ 51 tâm hành, trong đó có cả Thọ và Tưởng, tức là cảm thọ và tri giác, và 49 hành khác. | Tầng dưới là Thức uẩn và tầng trên là Hành uẩn.
Chánh niệm và 51 tâm hành
Hành uẩn ở trên đây gồm đủ 51 tâm hành, trong đó có cả Thọ và Tưởng, tức là cảm thọ và tri giác, và 49 hành khác.
Thức uẩn là phần căn bản của tâm thức.
đạo Bụt đại thừa (học phái Duy Thức) gọi là Thức A lại da (Alaya) hay Tàng thức.
Alaya có nghĩa là hàm tàng, kho cất chứa.
Ví dụ lòng đất chứa đựng những hạt giống.
Khi những hạt giống ở trong đất tâm phát hiện ra, đó là những tâm hành (mental formations).
Từ là một tâm hành, Tầm là một tâm hành, Thọ là một tâm hành, Tưởng là một tâm hành.
Hành có nghĩa là phát hiện và lưu hành.
Sau khi phát hiện rồi những tâm hành sẽ biến trở lại thành những hạt giống mới.
Chúng ta thường ví dụ Thức là cái nhà kho ở dưới và Hành là phòng khách ở trên.
Những hạt giống của tâm thức ở dưới nhà kho, phát hiện lên phía phòng khách ở trên, tồn tại một thời gian rồi nó trở lại xuống dưới, lại mang hình thái hạt giống.
Trong số 51 tâm hành có Tầm (vitarka) và Từ (vicara), tức là tác dụng liên tưởng và tư duy, có hạt giống ở trong tàng thức.
Tuệ giác của chúng ta cũng tồn tại dưới hình thức những hạt giống ở trong tàng thức.
Thường tiếng Anh dịch Tầm là thought, conception.
Từ dịch là the continuing activity of the mind.
Tầm và từ là ngữ ngôn của ý, như chúng ta nói thầm ở trong ý, trong tâm.
Trong trí ta các tâm hành tầm và từ luôn luôn đang hoạt động mà chúng ta không nghe thấy.
Ví như chúng ta mở máy phát thanh nhưng không nghe được vì không cắm giây nối vào loa phóng thanh. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tầng dưới là Thức uẩn và tầng trên là Hành uẩn.
Chánh niệm và 51 tâm hành
Hành uẩn ở trên đây gồm đủ 51 tâm hành, trong đó có cả Thọ và Tưởng, tức là cảm thọ và tri giác, và 49 hành khác.
Thức uẩn là phần căn bản của tâm thức.
đạo Bụt đại thừa (học phái Duy Thức) gọi là Thức A lại da (Alaya) hay Tàng thức.
Alaya có nghĩa là hàm tàng, kho cất chứa.
Ví dụ lòng đất chứa đựng những hạt giống.
Khi những hạt giống ở trong đất tâm phát hiện ra, đó là những tâm hành (mental formations).
Từ là một tâm hành, Tầm là một tâm hành, Thọ là một tâm hành, Tưởng là một tâm hành.
Hành có nghĩa là phát hiện và lưu hành.
Sau khi phát hiện rồi những tâm hành sẽ biến trở lại thành những hạt giống mới.
Chúng ta thường ví dụ Thức là cái nhà kho ở dưới và Hành là phòng khách ở trên.
Những hạt giống của tâm thức ở dưới nhà kho, phát hiện lên phía phòng khách ở trên, tồn tại một thời gian rồi nó trở lại xuống dưới, lại mang hình thái hạt giống.
Trong số 51 tâm hành có Tầm (vitarka) và Từ (vicara), tức là tác dụng liên tưởng và tư duy, có hạt giống ở trong tàng thức.
Tuệ giác của chúng ta cũng tồn tại dưới hình thức những hạt giống ở trong tàng thức.
Thường tiếng Anh dịch Tầm là thought, conception.
Từ dịch là the continuing activity of the mind.
Tầm và từ là ngữ ngôn của ý, như chúng ta nói thầm ở trong ý, trong tâm.
Trong trí ta các tâm hành tầm và từ luôn luôn đang hoạt động mà chúng ta không nghe thấy.
Ví như chúng ta mở máy phát thanh nhưng không nghe được vì không cắm giây nối vào loa phóng thanh. | Trong trí ta các tâm hành tầm và từ luôn luôn đang hoạt động mà chúng ta không nghe thấy.
Ví như chúng ta mở máy phát thanh nhưng không nghe được vì không cắm giây nối vào loa phóng thanh.
Khi tư duy chuyển sang ngữ ngôn thì tầm và từ phát hiện trong tiếng nói, như cắm loa phóng thanh vào thì tự nhiên phát ra tiếng.
Nhưng trong thức của chúng ta cũng còn có những hạt giống khác, đồng thời phát hiện, để chọn lựa những điều muốn phát thanh ra.
Cũng như tầm và từ được kiểm soát, được nhuận sắc.
Có nhiều người bệnh tới một bác sĩ tâm lý trị liệu, biết rằng muốn lành bệnh thì phải nói hết cho bác sĩ nghe, nhưng họ vẫn che dấu, hoặc thêm bớt, tô điểm.
Vị bác sĩ giỏi có khi bất chợt hỏi một câu, bệnh nhân buột miệng nói.
Bác sĩ nhờ câu nói đó mà nắm được một điều, khám phá ra những sự thật ẩn chứa trong tâm người bệnh.
Khi có chánh niệm, ta biết ta đang nghĩ gì, ta tự biết những suy tư đó có phù hợp với chánh pháp không, có phù hợp với nguyên tắc của bốn sự thật, với quan niệm về bốn loại thức ăn hay không.
Chánh niệm giống một cây đèn thắp lên trong cái phòng khách phía trên, phòng của tâm hành, soi rõ hình dáng của tầm và của từ.
Nhờ đó ta biết ta đang suy tư những gì và, nếu thực tập giỏi hơn, biết được nội dung và bản chất của điều ta suy tư.
Biết được như vậy thì tự nhiên tầm và từ thay đổi, đó là nhờ chánh niệm.
Hạt giống chánh niệm là một hạt giống rất quý trong đất tâm. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Trong trí ta các tâm hành tầm và từ luôn luôn đang hoạt động mà chúng ta không nghe thấy.
Ví như chúng ta mở máy phát thanh nhưng không nghe được vì không cắm giây nối vào loa phóng thanh.
Khi tư duy chuyển sang ngữ ngôn thì tầm và từ phát hiện trong tiếng nói, như cắm loa phóng thanh vào thì tự nhiên phát ra tiếng.
Nhưng trong thức của chúng ta cũng còn có những hạt giống khác, đồng thời phát hiện, để chọn lựa những điều muốn phát thanh ra.
Cũng như tầm và từ được kiểm soát, được nhuận sắc.
Có nhiều người bệnh tới một bác sĩ tâm lý trị liệu, biết rằng muốn lành bệnh thì phải nói hết cho bác sĩ nghe, nhưng họ vẫn che dấu, hoặc thêm bớt, tô điểm.
Vị bác sĩ giỏi có khi bất chợt hỏi một câu, bệnh nhân buột miệng nói.
Bác sĩ nhờ câu nói đó mà nắm được một điều, khám phá ra những sự thật ẩn chứa trong tâm người bệnh.
Khi có chánh niệm, ta biết ta đang nghĩ gì, ta tự biết những suy tư đó có phù hợp với chánh pháp không, có phù hợp với nguyên tắc của bốn sự thật, với quan niệm về bốn loại thức ăn hay không.
Chánh niệm giống một cây đèn thắp lên trong cái phòng khách phía trên, phòng của tâm hành, soi rõ hình dáng của tầm và của từ.
Nhờ đó ta biết ta đang suy tư những gì và, nếu thực tập giỏi hơn, biết được nội dung và bản chất của điều ta suy tư.
Biết được như vậy thì tự nhiên tầm và từ thay đổi, đó là nhờ chánh niệm.
Hạt giống chánh niệm là một hạt giống rất quý trong đất tâm. | Biết được như vậy thì tự nhiên tầm và từ thay đổi, đó là nhờ chánh niệm.
Hạt giống chánh niệm là một hạt giống rất quý trong đất tâm.
Biết sử dụng thì hạt giống chánh niệm, khi phát hiện thành tâm hành, sẽ đóng vai trò soi sáng, dẫn đường và chuyển hóa.
Có chánh niệm, chúng ta sẽ biết tư duy của ta là thiện hay bất thiện, có tác dụng gây tai hại hay không.
Khi tầm và từ phát ra thành lời nói, chánh niệm vẫn tiếp tục soi sáng để ta biết ngôn ngữ của ta có phải là ái ngữ hay không.
Phát xuất từ chánh kiến, tầm và từ là chánh tư duy.
Ngôn ngữ phát xuất từ chánh tư duy là chánh ngữ.
Cho nên ngọn đèn chánh niệm rất quan trọng.
Có khi những khổ đau và nội kết chìm sâu trong tâm thức quá lớn.
Những giận hờn, bực tức, thất vọng và những thèm khát của chúng ta, đôi khi không cần đi qua trung gian của tầm, từ mà cũng tự phát thành ngôn ngữ.
Những nội kết của ta cũng trực tiếp biểu hiện ra bằng ngôn ngữ khi ta không đủ chánh niệm, không đủ sức kiểm soát tất cả những niềm đau, cơn giận, nỗi buồn phiền, thất vọng của mình.
Chúng ào ra thành những tiếng gào thét, khóc lóc, chửi rủa, hoặc những lời than vãn và kể lể.
Người bác sĩ tâm lý có tài có thể làm cho người bệnh nói ra được điều họ thường che giấu một cách ý thức hay vô thức.
Người ấy nói một câu làm động tới một điều sâu kín trong lòng người bệnh; người này tự nhiên mở ra tất cả những điều chất chứa, dù muốn che dấu cũng không được.
Trong câu chuyện hàng ngày ta có những bước trượt của vô thức, những câu nói lỡ lời. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Biết được như vậy thì tự nhiên tầm và từ thay đổi, đó là nhờ chánh niệm.
Hạt giống chánh niệm là một hạt giống rất quý trong đất tâm.
Biết sử dụng thì hạt giống chánh niệm, khi phát hiện thành tâm hành, sẽ đóng vai trò soi sáng, dẫn đường và chuyển hóa.
Có chánh niệm, chúng ta sẽ biết tư duy của ta là thiện hay bất thiện, có tác dụng gây tai hại hay không.
Khi tầm và từ phát ra thành lời nói, chánh niệm vẫn tiếp tục soi sáng để ta biết ngôn ngữ của ta có phải là ái ngữ hay không.
Phát xuất từ chánh kiến, tầm và từ là chánh tư duy.
Ngôn ngữ phát xuất từ chánh tư duy là chánh ngữ.
Cho nên ngọn đèn chánh niệm rất quan trọng.
Có khi những khổ đau và nội kết chìm sâu trong tâm thức quá lớn.
Những giận hờn, bực tức, thất vọng và những thèm khát của chúng ta, đôi khi không cần đi qua trung gian của tầm, từ mà cũng tự phát thành ngôn ngữ.
Những nội kết của ta cũng trực tiếp biểu hiện ra bằng ngôn ngữ khi ta không đủ chánh niệm, không đủ sức kiểm soát tất cả những niềm đau, cơn giận, nỗi buồn phiền, thất vọng của mình.
Chúng ào ra thành những tiếng gào thét, khóc lóc, chửi rủa, hoặc những lời than vãn và kể lể.
Người bác sĩ tâm lý có tài có thể làm cho người bệnh nói ra được điều họ thường che giấu một cách ý thức hay vô thức.
Người ấy nói một câu làm động tới một điều sâu kín trong lòng người bệnh; người này tự nhiên mở ra tất cả những điều chất chứa, dù muốn che dấu cũng không được.
Trong câu chuyện hàng ngày ta có những bước trượt của vô thức, những câu nói lỡ lời. | Trong câu chuyện hàng ngày ta có những bước trượt của vô thức, những câu nói lỡ lời.
Ta phải thấy mối liên hệ giữa chánh ngữ và tri giác, giữa chánh ngữ và thất niệm, giữa chánh ngữ với tập khí.
Và cuối cùng chánh ngữ liên hệ với bồ đề tâm và từ bi tâm.
Khi ta có tình thương, có ý chí muốn cứu giúp người thì năng lượng của bồ đề tâm sẽ là một yếu tố rất quan trọng giúp biểu hiện ra chánh ngữ.
Bằng chánh ngữ chúng ta có thể giúp người khác thấy được nỗi khổ, niềm đau và nhìn rõ những khối nội kết của họ.
Bằng chánh ngữ chúng ta có thể giúp cho người khác thấy được những hạt giống của hạnh phúc và của tài năng họ mà họ không thấy.
Những hạt giống hạnh phúc và các tiềm năng ở trong tâm họ bị đè nén bởi những lớp khổ đau và phiền muộn cho nên không phát hiện ra được.
Với chánh ngữ, chúng ta có thể tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc và tài năng ấy để chúng tự khai mở.
Thực tập chánh niệm và chánh ngữ
Câu chuyện sau đây là một thí dụ về thực tập chánh ngữ.
Có một phụ nữ người Pháp năm 18 tuổi không chịu đựng nổi gia đình nên bỏ sang nước Anh ở.
Cô ấy giận mẹ, giận gia đình, cô muốn bỏ đi, vĩnh viễn không trở lại.
Nhưng hai chục năm sau, một hôm cái hạt giống quê hương, hạt giống thương mẹ trong cô nổi dậy.
Người phụ nữ đó bắt đầu có ước muốn trở về Pháp và hòa giải với mẹ.
Bà mẹ cũng đã bảy mươi mấy tuổi và cũng nhớ con gái.
Bà tuy rất giận con nhưng trong lòng bà tất nhiên cũng có hạt giống thương con.
“Giận thì giận mà thương thì thương”. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Trong câu chuyện hàng ngày ta có những bước trượt của vô thức, những câu nói lỡ lời.
Ta phải thấy mối liên hệ giữa chánh ngữ và tri giác, giữa chánh ngữ và thất niệm, giữa chánh ngữ với tập khí.
Và cuối cùng chánh ngữ liên hệ với bồ đề tâm và từ bi tâm.
Khi ta có tình thương, có ý chí muốn cứu giúp người thì năng lượng của bồ đề tâm sẽ là một yếu tố rất quan trọng giúp biểu hiện ra chánh ngữ.
Bằng chánh ngữ chúng ta có thể giúp người khác thấy được nỗi khổ, niềm đau và nhìn rõ những khối nội kết của họ.
Bằng chánh ngữ chúng ta có thể giúp cho người khác thấy được những hạt giống của hạnh phúc và của tài năng họ mà họ không thấy.
Những hạt giống hạnh phúc và các tiềm năng ở trong tâm họ bị đè nén bởi những lớp khổ đau và phiền muộn cho nên không phát hiện ra được.
Với chánh ngữ, chúng ta có thể tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc và tài năng ấy để chúng tự khai mở.
Thực tập chánh niệm và chánh ngữ
Câu chuyện sau đây là một thí dụ về thực tập chánh ngữ.
Có một phụ nữ người Pháp năm 18 tuổi không chịu đựng nổi gia đình nên bỏ sang nước Anh ở.
Cô ấy giận mẹ, giận gia đình, cô muốn bỏ đi, vĩnh viễn không trở lại.
Nhưng hai chục năm sau, một hôm cái hạt giống quê hương, hạt giống thương mẹ trong cô nổi dậy.
Người phụ nữ đó bắt đầu có ước muốn trở về Pháp và hòa giải với mẹ.
Bà mẹ cũng đã bảy mươi mấy tuổi và cũng nhớ con gái.
Bà tuy rất giận con nhưng trong lòng bà tất nhiên cũng có hạt giống thương con.
“Giận thì giận mà thương thì thương”. | Bà mẹ cũng đã bảy mươi mấy tuổi và cũng nhớ con gái.
Bà tuy rất giận con nhưng trong lòng bà tất nhiên cũng có hạt giống thương con.
“Giận thì giận mà thương thì thương”.
Trong tâm thức chúng ta có nhiều hạt giống trái chống nhau cùng một lúc.
Khi nghe nói con gái mình sẽ về, bà mẹ rất vui.
Người con gái cũng nao nức về gặp để hòa giải với mẹ.
Nhưng đến lúc hai mẹ con gặp nhau, hàn huyên được vài ba hôm, họ lại cãi nhau nữa.
Trái bom chứa trong lòng người mẹ nổ.
Trái bom trong lòng cô con cũng nổ.
Mặc dù cả mẹ lẫn con đều có ý chí muốn hòa giải, muốn tha thứ, nhưng chánh kiến đó chỉ mới phôi thai là một ước muốn thôi.
Trong khi đó thì trái bom nội kết ở trong cả hai người vẫn còn nặng.
Khi ngồi xuống với nhau, họ lại vô ý tưới tẩm lên những hạt giống của bao nỗi niềm đau khổ cũ.
Chúng phát hiện, biểu lộ thành ngôn ngữ.
Ngôn ngữ nóng giận của người này tưới lên niềm đau khổ của người kia.
Cho nên mỗi khi hai mẹ con gặp nhau lại sinh cãi cọ.
Bao nhiêu lần đến gần nhau để hòa giải, bấy nhiêu lần họ thất bại.
Người thiếu phụ đã tới Làng Mai, tôi khuyên bà ta phải chờ đợi một thời gian.
Một thời gian để tu tập chánh kiến, học sống chánh niệm trước khi về gặp mẹ.
Trong thời gian đó người thiếu phụ tập thiền hành, thiền tọa, ăn cơm im lặng, sinh hoạt với đại chúng, nấu cơm, xách nước, giặt áo, v.v.. tham dự vào đời sống của tăng thân.
Đây cũng là thời gian bà ta có dịp tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc lâu nay bị bỏ quên. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Bà mẹ cũng đã bảy mươi mấy tuổi và cũng nhớ con gái.
Bà tuy rất giận con nhưng trong lòng bà tất nhiên cũng có hạt giống thương con.
“Giận thì giận mà thương thì thương”.
Trong tâm thức chúng ta có nhiều hạt giống trái chống nhau cùng một lúc.
Khi nghe nói con gái mình sẽ về, bà mẹ rất vui.
Người con gái cũng nao nức về gặp để hòa giải với mẹ.
Nhưng đến lúc hai mẹ con gặp nhau, hàn huyên được vài ba hôm, họ lại cãi nhau nữa.
Trái bom chứa trong lòng người mẹ nổ.
Trái bom trong lòng cô con cũng nổ.
Mặc dù cả mẹ lẫn con đều có ý chí muốn hòa giải, muốn tha thứ, nhưng chánh kiến đó chỉ mới phôi thai là một ước muốn thôi.
Trong khi đó thì trái bom nội kết ở trong cả hai người vẫn còn nặng.
Khi ngồi xuống với nhau, họ lại vô ý tưới tẩm lên những hạt giống của bao nỗi niềm đau khổ cũ.
Chúng phát hiện, biểu lộ thành ngôn ngữ.
Ngôn ngữ nóng giận của người này tưới lên niềm đau khổ của người kia.
Cho nên mỗi khi hai mẹ con gặp nhau lại sinh cãi cọ.
Bao nhiêu lần đến gần nhau để hòa giải, bấy nhiêu lần họ thất bại.
Người thiếu phụ đã tới Làng Mai, tôi khuyên bà ta phải chờ đợi một thời gian.
Một thời gian để tu tập chánh kiến, học sống chánh niệm trước khi về gặp mẹ.
Trong thời gian đó người thiếu phụ tập thiền hành, thiền tọa, ăn cơm im lặng, sinh hoạt với đại chúng, nấu cơm, xách nước, giặt áo, v.v.. tham dự vào đời sống của tăng thân.
Đây cũng là thời gian bà ta có dịp tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc lâu nay bị bỏ quên. | Đây cũng là thời gian bà ta có dịp tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc lâu nay bị bỏ quên.
Trong tăng thân thế nào cũng có người có nụ cười, có lời nói, có khả năng giúp đỡ mình vén những tấm màn khổ đau đang che phủ tâm mình, và giúp mình tưới tẩm những hạt giống an lạc.
Trong tăng thân thế nào cũng có người soi sáng cho mình thấy các sai lầm trong nhận thức của mình.
Và trong thời gian đó, người thiền sinh có thể phát triển chánh niệm.
Sự thực tập tại Làng Mai là thực tập chánh niệm, đi trong chánh niệm, đứng trong chánh niệm, ngồi trong chánh niệm, nấu cơm, giặt áo trong chánh niệm.
Chánh niệm giúp mình thấy tâm tư của mình như thế nào.
Chánh niệm cho mình thấy những vận dụng của tầm và từ.
Chánh niệm giúp mình nhận ra tầm và từ của mình đã bắt nguồn từ những hạt giống nào.
Tôi đề nghị với người thiếu phụ đó cứ mười ngày thì ngồi viết cho bà mẹ một lá thư, viết như một bài thực tập chánh niệm.
Lá thư đó là hoa trái của quá trình tu học chánh niệm ở làng.
Tôi đề nghị rằng trong lá thơ đó người con quán chiếu để thấy con người của bà mẹ và đồng thời cũng thấy được chính mình.
Nghĩa là thấy những tập khí, những nỗi khổ, niềm đau, những hy vọng và thất vọng của chính mình và của mẹ.
Viết là diễn đạt những tầm và từ của mình, một cách an toàn hơn, vì người kia chưa phải nghe.
Và khi viết xong có thể để đó một thời gian rồi đọc trở lại, dùng chánh niệm xem những đoạn mình mới viết bắt nguồn từ những khối nội kết nào ra.
Bởi vậy viết là một phương pháp thực tập chánh niệm. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Đây cũng là thời gian bà ta có dịp tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc lâu nay bị bỏ quên.
Trong tăng thân thế nào cũng có người có nụ cười, có lời nói, có khả năng giúp đỡ mình vén những tấm màn khổ đau đang che phủ tâm mình, và giúp mình tưới tẩm những hạt giống an lạc.
Trong tăng thân thế nào cũng có người soi sáng cho mình thấy các sai lầm trong nhận thức của mình.
Và trong thời gian đó, người thiền sinh có thể phát triển chánh niệm.
Sự thực tập tại Làng Mai là thực tập chánh niệm, đi trong chánh niệm, đứng trong chánh niệm, ngồi trong chánh niệm, nấu cơm, giặt áo trong chánh niệm.
Chánh niệm giúp mình thấy tâm tư của mình như thế nào.
Chánh niệm cho mình thấy những vận dụng của tầm và từ.
Chánh niệm giúp mình nhận ra tầm và từ của mình đã bắt nguồn từ những hạt giống nào.
Tôi đề nghị với người thiếu phụ đó cứ mười ngày thì ngồi viết cho bà mẹ một lá thư, viết như một bài thực tập chánh niệm.
Lá thư đó là hoa trái của quá trình tu học chánh niệm ở làng.
Tôi đề nghị rằng trong lá thơ đó người con quán chiếu để thấy con người của bà mẹ và đồng thời cũng thấy được chính mình.
Nghĩa là thấy những tập khí, những nỗi khổ, niềm đau, những hy vọng và thất vọng của chính mình và của mẹ.
Viết là diễn đạt những tầm và từ của mình, một cách an toàn hơn, vì người kia chưa phải nghe.
Và khi viết xong có thể để đó một thời gian rồi đọc trở lại, dùng chánh niệm xem những đoạn mình mới viết bắt nguồn từ những khối nội kết nào ra.
Bởi vậy viết là một phương pháp thực tập chánh niệm. | Và khi viết xong có thể để đó một thời gian rồi đọc trở lại, dùng chánh niệm xem những đoạn mình mới viết bắt nguồn từ những khối nội kết nào ra.
Bởi vậy viết là một phương pháp thực tập chánh niệm.
Ngồi viết một lá thư hay một bài văn trở thành một buổi thực tập chánh niệm.
Đây không còn là một công việc nữa, mà là một phép thực tập.
Cũng như khi ta rửa nồi hay lau nhà, nếu chúng ta biết thực tập chánh niệm thì đó không phải là công việc nữa.
Đó là những phép tu, gọi là phép tu rửa chén, phép tu chùi nồi.
Mà nếu chùi nồi chỉ để cho nồi sạch không thôi thì rất uổng.
Việc chùi nồi phải dùng để thực tập như là một phép tu.
Khi ngồi viết một lá thư trong chánh niệm, người thiếu phụ đó đã tự nhìn lại mình, nhìn lại mẹ mình, đã thấy rõ nỗi khổ đau và những điều kiện để có hạnh phúc của cả hai mẹ con.
Đời sống tu tập là cơ hội đầu tiên để tự khai mở cho mình và khai mở cho mẹ.
Lá thư đó là một công trình thực tập.
Nếu trong lá thơ đó người con lại cãi lý hoặc phân trần, thì lá thư sẽ không ích lợi gì cả.
Lý luận và thanh minh chỉ tưới tẩm những hạt giống khổ đau của bà mẹ mà thôi.
Viết như vậy chứng tỏ trong tư duy của mình, tầm và từ chưa được chánh niệm soi sáng, vẫn phát xuất từ những hạt giống tiêu cực.
Nhưng nếu viết để nói về những điều kiện sẵn có của hạnh phúc mà mẹ chưa bao giờ sử dụng tới, thì người con làm một công việc trước đây chưa ai từng làm.
Ông ngoại, bà ngoại chưa làm, trường học, xã hội chưa làm, bè bạn của mẹ cũng chưa làm. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Và khi viết xong có thể để đó một thời gian rồi đọc trở lại, dùng chánh niệm xem những đoạn mình mới viết bắt nguồn từ những khối nội kết nào ra.
Bởi vậy viết là một phương pháp thực tập chánh niệm.
Ngồi viết một lá thư hay một bài văn trở thành một buổi thực tập chánh niệm.
Đây không còn là một công việc nữa, mà là một phép thực tập.
Cũng như khi ta rửa nồi hay lau nhà, nếu chúng ta biết thực tập chánh niệm thì đó không phải là công việc nữa.
Đó là những phép tu, gọi là phép tu rửa chén, phép tu chùi nồi.
Mà nếu chùi nồi chỉ để cho nồi sạch không thôi thì rất uổng.
Việc chùi nồi phải dùng để thực tập như là một phép tu.
Khi ngồi viết một lá thư trong chánh niệm, người thiếu phụ đó đã tự nhìn lại mình, nhìn lại mẹ mình, đã thấy rõ nỗi khổ đau và những điều kiện để có hạnh phúc của cả hai mẹ con.
Đời sống tu tập là cơ hội đầu tiên để tự khai mở cho mình và khai mở cho mẹ.
Lá thư đó là một công trình thực tập.
Nếu trong lá thơ đó người con lại cãi lý hoặc phân trần, thì lá thư sẽ không ích lợi gì cả.
Lý luận và thanh minh chỉ tưới tẩm những hạt giống khổ đau của bà mẹ mà thôi.
Viết như vậy chứng tỏ trong tư duy của mình, tầm và từ chưa được chánh niệm soi sáng, vẫn phát xuất từ những hạt giống tiêu cực.
Nhưng nếu viết để nói về những điều kiện sẵn có của hạnh phúc mà mẹ chưa bao giờ sử dụng tới, thì người con làm một công việc trước đây chưa ai từng làm.
Ông ngoại, bà ngoại chưa làm, trường học, xã hội chưa làm, bè bạn của mẹ cũng chưa làm. | Ông ngoại, bà ngoại chưa làm, trường học, xã hội chưa làm, bè bạn của mẹ cũng chưa làm.
Bây giờ người con gái làm được, vì người ấy có chánh niệm.
Thiếu phụ viết thư kể lể: “Mẹ ơi, con nhớ hồi con còn bé thơ,...” Kể một câu chuyện bình thường, nhưng để gợi ý và chứng tỏ cho mẹ thấy là bà có những hạt giống của hạnh phúc, của tình thương, những hạt ngọc ở trong tàng thức.
Lá thư đó phải do công trình quán chiếu mới viết được.
Quán chiếu khi rửa chén, khi lau nhà, khi đi thiền hành, khi ngồi thiền tọa.
Viết lá thơ là kết quả những điều đã thấy trong khi quán chiếu.
Và ta tiếp tục quán chiếu trong khi viết thơ, viết xong rồi thì tự nhiên thấy khỏe, và biết rằng mẹ mình đọc xong cũng sẽ thấy khỏe.
Ta dùng ánh sáng của chánh niệm chiếu vào để thấy tác dụng của từng câu, từng chữ.
Ta biết rằng lá thơ này phát xuất từ chánh kiến, từ chánh tư duy và được thể hiện bằng chánh ngữ.
Mười ngày sau người con gái viết lá thư thứ hai, cũng tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc của bà mẹ.
Trong khi thực tập viết những lá thư như vậy, người con cũng tự tháo gỡ cho mình.
Rồi khi bà mẹ đọc được một lá thư như thế thì bà mẹ cũng được tháo gỡ.
Nếu người con thực tập đồng thời cho mình và cho mẹ thì chỉ trong sáu tháng hay một năm là hai mẹ con có thể gặp lại nhau.
Lúc đó thì các niềm đau khổ đã chuyển hóa, vơi bớt đi nhiều, những niềm vui trong lòng đã phát triển.
Chánh tư duy và chánh ngữ sẽ phát hiện.
Hai mẹ con có thể nói chuyện với nhau. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ông ngoại, bà ngoại chưa làm, trường học, xã hội chưa làm, bè bạn của mẹ cũng chưa làm.
Bây giờ người con gái làm được, vì người ấy có chánh niệm.
Thiếu phụ viết thư kể lể: “Mẹ ơi, con nhớ hồi con còn bé thơ,...” Kể một câu chuyện bình thường, nhưng để gợi ý và chứng tỏ cho mẹ thấy là bà có những hạt giống của hạnh phúc, của tình thương, những hạt ngọc ở trong tàng thức.
Lá thư đó phải do công trình quán chiếu mới viết được.
Quán chiếu khi rửa chén, khi lau nhà, khi đi thiền hành, khi ngồi thiền tọa.
Viết lá thơ là kết quả những điều đã thấy trong khi quán chiếu.
Và ta tiếp tục quán chiếu trong khi viết thơ, viết xong rồi thì tự nhiên thấy khỏe, và biết rằng mẹ mình đọc xong cũng sẽ thấy khỏe.
Ta dùng ánh sáng của chánh niệm chiếu vào để thấy tác dụng của từng câu, từng chữ.
Ta biết rằng lá thơ này phát xuất từ chánh kiến, từ chánh tư duy và được thể hiện bằng chánh ngữ.
Mười ngày sau người con gái viết lá thư thứ hai, cũng tưới tẩm những hạt giống hạnh phúc của bà mẹ.
Trong khi thực tập viết những lá thư như vậy, người con cũng tự tháo gỡ cho mình.
Rồi khi bà mẹ đọc được một lá thư như thế thì bà mẹ cũng được tháo gỡ.
Nếu người con thực tập đồng thời cho mình và cho mẹ thì chỉ trong sáu tháng hay một năm là hai mẹ con có thể gặp lại nhau.
Lúc đó thì các niềm đau khổ đã chuyển hóa, vơi bớt đi nhiều, những niềm vui trong lòng đã phát triển.
Chánh tư duy và chánh ngữ sẽ phát hiện.
Hai mẹ con có thể nói chuyện với nhau. | Lúc đó thì các niềm đau khổ đã chuyển hóa, vơi bớt đi nhiều, những niềm vui trong lòng đã phát triển.
Chánh tư duy và chánh ngữ sẽ phát hiện.
Hai mẹ con có thể nói chuyện với nhau.
Người con không đợi cho người mẹ chuyển hóa rồi mình mới chuyển hóa.
Chúng ta phải bắt đầu từ sự tu tập của chính mình.
Một người tu mà hai người được lợi ích.
Viết văn, viết thư trong khi thực tập chánh niệm có khả năng tưới tẩm, chuyển hóa, có thể ảnh hưởng trên mình và trên người đọc, nhờ lời văn chuyên chở tuệ giác, chuyên chở chánh tư duy, vì văn đó là chánh ngữ.
Chúng ta thường nói văn chương để chuyên chở đạo lý, “vặn dĩ tải đạo”.
Đó là nguyên tắc của người viết văn ở Đông phương.
Viết văn không thể thiếu tinh thần trách nhiệm.
Viết văn không chỉ để cào cấu những niềm đau khổ của mình làm cho người khác đọc cũng lây đau khổ, cũng bị cào cấu.
Khơi lên những nỗi bực dọc và chán chường vô ích rồi vung vãi cho tất cả độc giả lãnh đủ, văn chương đó không phải là văn chương có đạo lý.
Những bài hát, những bài văn đầu độc, làm cho con người hết ý chí sống, mất niềm tin, những loại văn nghệ như vậy phải xếp vào “Tập Đoạn Trường”.
Có những thanh niên, thiếu nữ nằm ôm máy nghe những bài hát rên rỉ, tưới tẩm những hạt giống phiền não, đau khổ của mình.
Đó là “văn nghệ đứt ruột”, không chuyên chở đạo lý.
Cho nên người có chánh kiến, người có chánh tư duy phải dứt khoát với các loại văn nghệ đứt ruột.
Không tiêu thụ những độc tố làm hại mình, hại người. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Lúc đó thì các niềm đau khổ đã chuyển hóa, vơi bớt đi nhiều, những niềm vui trong lòng đã phát triển.
Chánh tư duy và chánh ngữ sẽ phát hiện.
Hai mẹ con có thể nói chuyện với nhau.
Người con không đợi cho người mẹ chuyển hóa rồi mình mới chuyển hóa.
Chúng ta phải bắt đầu từ sự tu tập của chính mình.
Một người tu mà hai người được lợi ích.
Viết văn, viết thư trong khi thực tập chánh niệm có khả năng tưới tẩm, chuyển hóa, có thể ảnh hưởng trên mình và trên người đọc, nhờ lời văn chuyên chở tuệ giác, chuyên chở chánh tư duy, vì văn đó là chánh ngữ.
Chúng ta thường nói văn chương để chuyên chở đạo lý, “vặn dĩ tải đạo”.
Đó là nguyên tắc của người viết văn ở Đông phương.
Viết văn không thể thiếu tinh thần trách nhiệm.
Viết văn không chỉ để cào cấu những niềm đau khổ của mình làm cho người khác đọc cũng lây đau khổ, cũng bị cào cấu.
Khơi lên những nỗi bực dọc và chán chường vô ích rồi vung vãi cho tất cả độc giả lãnh đủ, văn chương đó không phải là văn chương có đạo lý.
Những bài hát, những bài văn đầu độc, làm cho con người hết ý chí sống, mất niềm tin, những loại văn nghệ như vậy phải xếp vào “Tập Đoạn Trường”.
Có những thanh niên, thiếu nữ nằm ôm máy nghe những bài hát rên rỉ, tưới tẩm những hạt giống phiền não, đau khổ của mình.
Đó là “văn nghệ đứt ruột”, không chuyên chở đạo lý.
Cho nên người có chánh kiến, người có chánh tư duy phải dứt khoát với các loại văn nghệ đứt ruột.
Không tiêu thụ những độc tố làm hại mình, hại người. | Cho nên người có chánh kiến, người có chánh tư duy phải dứt khoát với các loại văn nghệ đứt ruột.
Không tiêu thụ những độc tố làm hại mình, hại người.
Sự tu học của ta dính líu tới rất nhiều người khác: cha mẹ, anh chị em, bạn bè của ta, rồi xã hội bên ngoài.
Những lá thư ta gửi cho cha, mẹ, anh, em phải có tác dụng chuyển hóa.
Sự thành công tu học của ta trước hết được thể hiện qua sự chuyển hóa của gia đình, của những người thân thuộc.
Những lá thư là chất liệu nuôi dưỡng, là những luồng gió mát, nâng đỡ, khai mở, mà nếu không tu tập thì ta không viết được.
Cho nên người tu học ở đây viết những lá thư cho những người mình yêu thương, phải biết rằng những lá thư đó có giá trị tưới tẩm và chuyển hóa.
Viết thư trong chánh niệm như vậy là một cách thực tập.
Một lá thư như vậy có giá trị chuyển hóa rất lớn.
Dẫu chúng ta không gặp khó khăn với mẹ như trường hợp người phụ nữ Pháp kể trên, ta cũng nên viết thư cho người thân, 10 ngày, 15 ngày một lần, ít nhất một tháng một lá thư.
Viết để tu tập và hành đạo.
Giá trị của lá thư tùy ở chánh kiến và chánh tư duy.
Viết thư “thuyết pháp” một cách vụng về lại có tác dụng ngược lại.
Đừng tưởng cứ thuyết pháp tức là hành chánh ngữ.
Không có quán chiếu thì ngôn ngữ sẽ không phù hợp, người nhận sẽ không thích đọc, rồi sau này khi thấy thư họ sẽ không muốn mở ra nữa.
Vì đó không phải là chánh ngữ, dù lá thư nói về tứ đế, thập nhị nhân duyên hay Bát Chánh Đạo. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Cho nên người có chánh kiến, người có chánh tư duy phải dứt khoát với các loại văn nghệ đứt ruột.
Không tiêu thụ những độc tố làm hại mình, hại người.
Sự tu học của ta dính líu tới rất nhiều người khác: cha mẹ, anh chị em, bạn bè của ta, rồi xã hội bên ngoài.
Những lá thư ta gửi cho cha, mẹ, anh, em phải có tác dụng chuyển hóa.
Sự thành công tu học của ta trước hết được thể hiện qua sự chuyển hóa của gia đình, của những người thân thuộc.
Những lá thư là chất liệu nuôi dưỡng, là những luồng gió mát, nâng đỡ, khai mở, mà nếu không tu tập thì ta không viết được.
Cho nên người tu học ở đây viết những lá thư cho những người mình yêu thương, phải biết rằng những lá thư đó có giá trị tưới tẩm và chuyển hóa.
Viết thư trong chánh niệm như vậy là một cách thực tập.
Một lá thư như vậy có giá trị chuyển hóa rất lớn.
Dẫu chúng ta không gặp khó khăn với mẹ như trường hợp người phụ nữ Pháp kể trên, ta cũng nên viết thư cho người thân, 10 ngày, 15 ngày một lần, ít nhất một tháng một lá thư.
Viết để tu tập và hành đạo.
Giá trị của lá thư tùy ở chánh kiến và chánh tư duy.
Viết thư “thuyết pháp” một cách vụng về lại có tác dụng ngược lại.
Đừng tưởng cứ thuyết pháp tức là hành chánh ngữ.
Không có quán chiếu thì ngôn ngữ sẽ không phù hợp, người nhận sẽ không thích đọc, rồi sau này khi thấy thư họ sẽ không muốn mở ra nữa.
Vì đó không phải là chánh ngữ, dù lá thư nói về tứ đế, thập nhị nhân duyên hay Bát Chánh Đạo. | Vì đó không phải là chánh ngữ, dù lá thư nói về tứ đế, thập nhị nhân duyên hay Bát Chánh Đạo.
Dù đề tài là Phật Pháp mà bài thuyết pháp không khơi động, không chuyển hóa được lòng người, thì đó cũng không phải là chánh ngữ.
Phép tu im lặng
Chánh ngữ là một phép thực tập cần đi trên quá trình văn, tư và tu.
Đó là phần thế gian, phần hướng thượng.
Khi sự thực tập chín dần chúng ta sẽ thấy được mặt xuất thế gian.
Khi thực tập thiền quán, ban đầu chúng ta còn cần tới tầm và từ, tư duy và ngữ ngôn.
Càng đi sâu vào thiền quán, chúng ta càng tiếp xúc được với bản môn, càng tự do ra khỏi tư duy và ngôn ngữ.
Tới một lúc nào đó, hoàn toàn được tự do, chúng ta không còn lệ thuộc vào ngôn ngữ nữa.
Tuệ giác siêu việt không cần ngôn ngữ nữa, gọi là ngôn ngữ đạo đoạn.
Đây là một danh từ thiền.
Ngôn ngữ đạo đoạn tức là con đường ngôn ngữ đã bị cắt đứt (the way of the speech is cut).
Giống như chiếc xe lửa thấy đường rầy không cần thiết nữa, bởi vì nó đã cất cánh biến thành một chiếc máy bay.
Nó bay lên trên không gian, hoàn toàn tự do.
Chánh tư duy khi đến mức xuất thế gian thì đạt tới tâm hành xứ diệt.
Tâm hành xứ diệt là nơi mà các hoạt động tư duy tâm hành đều đã mất.
Tâm hành ở phạm vi chánh ngữ tức là tầm và từ.
Vì chân lý tuyệt đối hay tuệ giác siêu việt đã vượt thoát tất cả mọi tư duy, nên gọi là tâm hành xứ diệt.
Vượt thoát tất cả mọi ngôn ngữ nên gọi là ngôn ngữ đạo đoạn.
Ở Việt Nam xưa có thiền phái Vô Ngôn Thông. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Vì đó không phải là chánh ngữ, dù lá thư nói về tứ đế, thập nhị nhân duyên hay Bát Chánh Đạo.
Dù đề tài là Phật Pháp mà bài thuyết pháp không khơi động, không chuyển hóa được lòng người, thì đó cũng không phải là chánh ngữ.
Phép tu im lặng
Chánh ngữ là một phép thực tập cần đi trên quá trình văn, tư và tu.
Đó là phần thế gian, phần hướng thượng.
Khi sự thực tập chín dần chúng ta sẽ thấy được mặt xuất thế gian.
Khi thực tập thiền quán, ban đầu chúng ta còn cần tới tầm và từ, tư duy và ngữ ngôn.
Càng đi sâu vào thiền quán, chúng ta càng tiếp xúc được với bản môn, càng tự do ra khỏi tư duy và ngôn ngữ.
Tới một lúc nào đó, hoàn toàn được tự do, chúng ta không còn lệ thuộc vào ngôn ngữ nữa.
Tuệ giác siêu việt không cần ngôn ngữ nữa, gọi là ngôn ngữ đạo đoạn.
Đây là một danh từ thiền.
Ngôn ngữ đạo đoạn tức là con đường ngôn ngữ đã bị cắt đứt (the way of the speech is cut).
Giống như chiếc xe lửa thấy đường rầy không cần thiết nữa, bởi vì nó đã cất cánh biến thành một chiếc máy bay.
Nó bay lên trên không gian, hoàn toàn tự do.
Chánh tư duy khi đến mức xuất thế gian thì đạt tới tâm hành xứ diệt.
Tâm hành xứ diệt là nơi mà các hoạt động tư duy tâm hành đều đã mất.
Tâm hành ở phạm vi chánh ngữ tức là tầm và từ.
Vì chân lý tuyệt đối hay tuệ giác siêu việt đã vượt thoát tất cả mọi tư duy, nên gọi là tâm hành xứ diệt.
Vượt thoát tất cả mọi ngôn ngữ nên gọi là ngôn ngữ đạo đoạn.
Ở Việt Nam xưa có thiền phái Vô Ngôn Thông. | Vượt thoát tất cả mọi ngôn ngữ nên gọi là ngôn ngữ đạo đoạn.
Ở Việt Nam xưa có thiền phái Vô Ngôn Thông.
Vô ngôn thông có nghĩa là sự thông cảm và hiểu biết được thực hiện không cần qua trung gian của lời nói.
Tổ sư của phái Vô Ngôn Thông trước khi tịch đã để lại một bài kệ nhấn mạnh đến ý niệm chân lý vượt thoát mọi ngôn ngữ văn tự.
Bài đó nó chấm dứt bằng hai câu: trực nhiêu vấn ngã, ngã bổn vô ngôn (đừng hỏi tôi nữa, tôi vốn là vô ngôn).
Tên ngài là Vô Ngôn Thông.
Kinh Duy Ma Cật nói tới sự im lặng, thứ im lặng hùng hồn hơn bất cứ ngữ ngôn nào, gọi là im lặng sấm sét (thundering silence), chữ Hán là mặc như lôi.
Lôi là sấm sét, mặc là im lặng.
Trong đạo Nho, đức Khổng Tử cũng có lần nói: “Trời có nói gì đâu?
- thiên hà ngôn tại?” Trời không nói gì cả, vì mình không biết lắng nghe.
Nếu mình có chánh niệm, nếu mình biết lắng nghe thì mỗi bông hoa nở, mỗi tiếng chim hót, tiếng thông reo, đều là ngôn ngữ cả (tứ thời hành yên, vạn vật sinh yên).
Kinh A Di Đà có câu là: “Mỗi khi gió thổi qua những hàng cây ở nước Cực Lạc phát ra những âm thanh kỳ diệu; nếu lắng tai thì họ nghe được các giáo lý như Tứ Diệu Đế, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần và Bát Thánh Đạo Phần.
Tất cả những chúng sanh ở nước Cực Lạc khi nghe những âm thanh đó thì lòng phát sinh chánh niệm về Bụt, Pháp và Tăng.” (xuất vi diệu âm, kỳ vi diễn xướng Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, như thị đẳng pháp; kỳ độ chúng sinh văn thị âm dơi, giai phát niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm). |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Vượt thoát tất cả mọi ngôn ngữ nên gọi là ngôn ngữ đạo đoạn.
Ở Việt Nam xưa có thiền phái Vô Ngôn Thông.
Vô ngôn thông có nghĩa là sự thông cảm và hiểu biết được thực hiện không cần qua trung gian của lời nói.
Tổ sư của phái Vô Ngôn Thông trước khi tịch đã để lại một bài kệ nhấn mạnh đến ý niệm chân lý vượt thoát mọi ngôn ngữ văn tự.
Bài đó nó chấm dứt bằng hai câu: trực nhiêu vấn ngã, ngã bổn vô ngôn (đừng hỏi tôi nữa, tôi vốn là vô ngôn).
Tên ngài là Vô Ngôn Thông.
Kinh Duy Ma Cật nói tới sự im lặng, thứ im lặng hùng hồn hơn bất cứ ngữ ngôn nào, gọi là im lặng sấm sét (thundering silence), chữ Hán là mặc như lôi.
Lôi là sấm sét, mặc là im lặng.
Trong đạo Nho, đức Khổng Tử cũng có lần nói: “Trời có nói gì đâu?
- thiên hà ngôn tại?” Trời không nói gì cả, vì mình không biết lắng nghe.
Nếu mình có chánh niệm, nếu mình biết lắng nghe thì mỗi bông hoa nở, mỗi tiếng chim hót, tiếng thông reo, đều là ngôn ngữ cả (tứ thời hành yên, vạn vật sinh yên).
Kinh A Di Đà có câu là: “Mỗi khi gió thổi qua những hàng cây ở nước Cực Lạc phát ra những âm thanh kỳ diệu; nếu lắng tai thì họ nghe được các giáo lý như Tứ Diệu Đế, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần và Bát Thánh Đạo Phần.
Tất cả những chúng sanh ở nước Cực Lạc khi nghe những âm thanh đó thì lòng phát sinh chánh niệm về Bụt, Pháp và Tăng.” (xuất vi diệu âm, kỳ vi diễn xướng Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần, Bát Thánh Đạo Phần, như thị đẳng pháp; kỳ độ chúng sinh văn thị âm dơi, giai phát niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng chi tâm). | Điều này cũng đúng với cõi Ta Bà của chúng ta.
Nếu có chánh niệm, khi đi thiền hành, chúng ta sẽ nghe tiếng chim hay tiếng gió trong những cây phong hay những cây sồi, chúng ta cũng có thể nghe được giáo lý Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần và Bát Thánh Đạo Phần.
Nghe tiếng gió, tiếng chim, hay tiếng chuông đồng hồ, chúng ta có thể trở về với chánh niệm.
Chúng ta niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và có thể sống cái kinh nghiệm của tịnh độ ngay ở đây và bây giờ.
Đừng đợi chết rồi mới sống, hãy tập sống ngay bây giờ kinh nghiệm cõi tịnh độ.
Trong Thánh Kinh có nói rằng mười điều răn cấm của Chúa (the ten commendements) được mặc khải cho thánh Moïse qua những hàng chữ khắc trên đá.
Người học đạo Bụt nhìn vào đá cũng phải đọc thấy những thông điệp.
Nhìn vào cây, nhìn vào suối, nhìn vào đất, nghe tiếng chim, tiếng gió đều có thể đọc được và nghe được những vi diệu âm.
Đây là một phép thực tập chánh niệm.
Có những lúc ta cần im lặng để thực tập chánh niệm về ngôn ngữ.
Chúng ta không nói, không trò chuyện, để lắng nghe tiếng nói của tầm và của từ ở trong ta, quán chiếu xem những tầm và từ ấy phát xuất từ những thấy biết nào, những nội kết nào.
Thời gian tịnh khẩu là thời gian quán chiếu.
Ta tịnh khẩu không phải vì ta không được phép nói.
Khi tu pháp môn tịnh khẩu, mỗi người xin đại chúng được sống trong im lặng trong năm ngày, mười ngày hoặc trong một tháng.
Như vậy không phải là để tránh xung đột với người khác. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Điều này cũng đúng với cõi Ta Bà của chúng ta.
Nếu có chánh niệm, khi đi thiền hành, chúng ta sẽ nghe tiếng chim hay tiếng gió trong những cây phong hay những cây sồi, chúng ta cũng có thể nghe được giáo lý Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Bồ Đề Phần và Bát Thánh Đạo Phần.
Nghe tiếng gió, tiếng chim, hay tiếng chuông đồng hồ, chúng ta có thể trở về với chánh niệm.
Chúng ta niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng và có thể sống cái kinh nghiệm của tịnh độ ngay ở đây và bây giờ.
Đừng đợi chết rồi mới sống, hãy tập sống ngay bây giờ kinh nghiệm cõi tịnh độ.
Trong Thánh Kinh có nói rằng mười điều răn cấm của Chúa (the ten commendements) được mặc khải cho thánh Moïse qua những hàng chữ khắc trên đá.
Người học đạo Bụt nhìn vào đá cũng phải đọc thấy những thông điệp.
Nhìn vào cây, nhìn vào suối, nhìn vào đất, nghe tiếng chim, tiếng gió đều có thể đọc được và nghe được những vi diệu âm.
Đây là một phép thực tập chánh niệm.
Có những lúc ta cần im lặng để thực tập chánh niệm về ngôn ngữ.
Chúng ta không nói, không trò chuyện, để lắng nghe tiếng nói của tầm và của từ ở trong ta, quán chiếu xem những tầm và từ ấy phát xuất từ những thấy biết nào, những nội kết nào.
Thời gian tịnh khẩu là thời gian quán chiếu.
Ta tịnh khẩu không phải vì ta không được phép nói.
Khi tu pháp môn tịnh khẩu, mỗi người xin đại chúng được sống trong im lặng trong năm ngày, mười ngày hoặc trong một tháng.
Như vậy không phải là để tránh xung đột với người khác. | Khi tu pháp môn tịnh khẩu, mỗi người xin đại chúng được sống trong im lặng trong năm ngày, mười ngày hoặc trong một tháng.
Như vậy không phải là để tránh xung đột với người khác.
Chính đó là cơ hội lắng nghe tiếng nói của tầm và từ ở trong chính mình, và phát hiện nguồn gốc của tầm và từ đó.
Trong một khóa tu thường thường chúng ta không nói chuyện.
Những người chưa quen phương pháp này có thể sẽ thấy căng thẳng và ngột ngạt.
Những người đã quen quán sát tầm và từ của mình rồi thì khác.
Không nói chuyện là một cơ hội rất lớn để mình có thể nhìn rõ bản chất của tư duy và cái thấy của mình.
Đối với họ, sự im lặng trong khóa tu rất quan trọng.
Nếu không duy trì sự im lặng đó, chúng ta mất cơ hội thực tập quán chiếu.
Tuy nhiên có những người tuy bên ngoài im lặng nhưng bên trong tầm và từ của họ vẫn rất ồn ào.
Chánh niệm làm cơ bản
Tới đây ta có thể tạm rời lãnh vực chánh ngữ để bắt đầu bàn về chánh niệm.
Trong khi học về chánh kiến, chánh tư duy và chánh ngữ ta đã thấy chánh niệm là điều kiện rất cần thiết rồi.
Không thể nào có chánh kiến, chánh tư duy và chánh ngữ nếu không có chánh niệm.
Vì ngay trong chánh nghiệp, chánh mạng và chánh tinh tấn, vai trò của chánh niệm cũng quan trọng không kém.
Thường thường ta vẫn nói theo trình tự niệm, định, tuệ.
Chánh niệm đưa tới chánh định.
Nhưng chánh niệm không phải chỉ đưa tới chánh định mà thôi, nó dẫn tới cả chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng và chánh tinh tấn. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Khi tu pháp môn tịnh khẩu, mỗi người xin đại chúng được sống trong im lặng trong năm ngày, mười ngày hoặc trong một tháng.
Như vậy không phải là để tránh xung đột với người khác.
Chính đó là cơ hội lắng nghe tiếng nói của tầm và từ ở trong chính mình, và phát hiện nguồn gốc của tầm và từ đó.
Trong một khóa tu thường thường chúng ta không nói chuyện.
Những người chưa quen phương pháp này có thể sẽ thấy căng thẳng và ngột ngạt.
Những người đã quen quán sát tầm và từ của mình rồi thì khác.
Không nói chuyện là một cơ hội rất lớn để mình có thể nhìn rõ bản chất của tư duy và cái thấy của mình.
Đối với họ, sự im lặng trong khóa tu rất quan trọng.
Nếu không duy trì sự im lặng đó, chúng ta mất cơ hội thực tập quán chiếu.
Tuy nhiên có những người tuy bên ngoài im lặng nhưng bên trong tầm và từ của họ vẫn rất ồn ào.
Chánh niệm làm cơ bản
Tới đây ta có thể tạm rời lãnh vực chánh ngữ để bắt đầu bàn về chánh niệm.
Trong khi học về chánh kiến, chánh tư duy và chánh ngữ ta đã thấy chánh niệm là điều kiện rất cần thiết rồi.
Không thể nào có chánh kiến, chánh tư duy và chánh ngữ nếu không có chánh niệm.
Vì ngay trong chánh nghiệp, chánh mạng và chánh tinh tấn, vai trò của chánh niệm cũng quan trọng không kém.
Thường thường ta vẫn nói theo trình tự niệm, định, tuệ.
Chánh niệm đưa tới chánh định.
Nhưng chánh niệm không phải chỉ đưa tới chánh định mà thôi, nó dẫn tới cả chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng và chánh tinh tấn. | Chánh niệm đưa tới chánh định.
Nhưng chánh niệm không phải chỉ đưa tới chánh định mà thôi, nó dẫn tới cả chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng và chánh tinh tấn.
Chúng ta hãy nói sơ lược về chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn để bàn vào chánh niệm và sẽ trở lại ba chi phần đó sau.
Chánh nghiệp tức là hành động chân chánh, đây là về hành động của thân thể, tức thân nghiệp.
Vì khẩu nghiệp thuộc về phạm vi của chánh ngữ và ý nghiệp thuộc về phạm vi của chánh kiến, chánh tư duy, chánh định, và chánh niệm.
Trong Kinh nói sát sanh, trộm cướp và tà dâm là tà nghiệp.
Không sát sanh, không trộm cướp và không tà dâm là chánh nghiệp.
Vì vậy về chánh nghiệp chúng ta phải nói đến giới thứ nhất, giới thứ hai, và giới thứ ba của năm giới.
Thân nghiệp cũng liên quan tới giới thứ năm.
Giới thứ tư thuộc về chánh ngữ và bốn giới khác có liên hệ trực tiếp tới chánh nghiệp.
Chánh mạng tức là nghề nghiệp hoặc phương tiện sinh sống chân chánh.
Sống bằng những phương tiện bất chính là tà mạng.
Những nghề nghiệp vi phạm giới sát sanh, giới trộm cướp, giới tà dâm, phải sử dụng các chất ma túy và phải nói dối, đều là tà mạng.
Vậy chánh mạng cũng liên hệ tới tất cả năm giới.
Người xuất gia cũng có thể phạm vào tà mạng nếu sử dụng những phương tiện hành đạo không phù hợp với chánh pháp.
Thí dụ đưa người ta vướng thêm vào vòng mê tín.
Nếu không tu tập, chỉ tụng kinh và làm đám như một nghề sinh nhai, cũng là tà mạng. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Chánh niệm đưa tới chánh định.
Nhưng chánh niệm không phải chỉ đưa tới chánh định mà thôi, nó dẫn tới cả chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng và chánh tinh tấn.
Chúng ta hãy nói sơ lược về chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn để bàn vào chánh niệm và sẽ trở lại ba chi phần đó sau.
Chánh nghiệp tức là hành động chân chánh, đây là về hành động của thân thể, tức thân nghiệp.
Vì khẩu nghiệp thuộc về phạm vi của chánh ngữ và ý nghiệp thuộc về phạm vi của chánh kiến, chánh tư duy, chánh định, và chánh niệm.
Trong Kinh nói sát sanh, trộm cướp và tà dâm là tà nghiệp.
Không sát sanh, không trộm cướp và không tà dâm là chánh nghiệp.
Vì vậy về chánh nghiệp chúng ta phải nói đến giới thứ nhất, giới thứ hai, và giới thứ ba của năm giới.
Thân nghiệp cũng liên quan tới giới thứ năm.
Giới thứ tư thuộc về chánh ngữ và bốn giới khác có liên hệ trực tiếp tới chánh nghiệp.
Chánh mạng tức là nghề nghiệp hoặc phương tiện sinh sống chân chánh.
Sống bằng những phương tiện bất chính là tà mạng.
Những nghề nghiệp vi phạm giới sát sanh, giới trộm cướp, giới tà dâm, phải sử dụng các chất ma túy và phải nói dối, đều là tà mạng.
Vậy chánh mạng cũng liên hệ tới tất cả năm giới.
Người xuất gia cũng có thể phạm vào tà mạng nếu sử dụng những phương tiện hành đạo không phù hợp với chánh pháp.
Thí dụ đưa người ta vướng thêm vào vòng mê tín.
Nếu không tu tập, chỉ tụng kinh và làm đám như một nghề sinh nhai, cũng là tà mạng. | Thí dụ đưa người ta vướng thêm vào vòng mê tín.
Nếu không tu tập, chỉ tụng kinh và làm đám như một nghề sinh nhai, cũng là tà mạng.
Việc tụng kinh và đưa đám nếu hành trì như những phương pháp hướng dẫn tu học và chiếu ánh sáng của đạo lý vào đời sống của mọi người và của chính mình, thì đó là chánh mạng.
Còn tụng kinh và làm đám chỉ với mục đích cầu lợi thì đó là tà mạng.
Chánh tinh tấn là năng lực giúp ta tu học một cách siêng năng.
Chánh tinh tấn gồm có bốn loại thực tập liên hệ với chánh niệm.
Loại thực tập thứ nhất là với những hạt giống xấu chưa phát hiện thì cố ngăn đừng cho chúng phát hiện, những chủng tử xấu đừng để cho chúng có cơ hội hiện hành.
Mỗi lần hiện hành các hạt giống ấy lại lớn lên ở trong tàng thức.
Đừng cho phát hiện không phải là đè nén, mà chỉ có nghĩa là đừng để người khác hay chính mình tưới tẩm những hạt giống xấu trong mình.
Ngoài ra, phải tìm cách cho những hạt giống tốt phát hiện.
Đó là phép thực tập thứ nhất.
Thứ hai là khi những hạt giống xấu phát hiện rồi thì phải biết cách làm cho chúng trở về gốc càng mau càng tốt, tìm cách cho chúng trở về nguyên quán, nằm im ở đấy.
Đó là phương pháp thay chốt, phương pháp quán chiếu, phương pháp chánh niệm.
Thứ ba là những hạt giống tốt chưa từng được phát sanh thì tìm cách tưới tẩm cho chúng phát sanh.
Tự mình tưới tẩm hay nhờ sự có mặt của tăng thân tưới tẩm.
Thứ tư là những hạt giống tốt đã phát sanh rồi thì tìm cách mời chúng ở lại và nuôi dưỡng cho chúng lớn lên. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Thí dụ đưa người ta vướng thêm vào vòng mê tín.
Nếu không tu tập, chỉ tụng kinh và làm đám như một nghề sinh nhai, cũng là tà mạng.
Việc tụng kinh và đưa đám nếu hành trì như những phương pháp hướng dẫn tu học và chiếu ánh sáng của đạo lý vào đời sống của mọi người và của chính mình, thì đó là chánh mạng.
Còn tụng kinh và làm đám chỉ với mục đích cầu lợi thì đó là tà mạng.
Chánh tinh tấn là năng lực giúp ta tu học một cách siêng năng.
Chánh tinh tấn gồm có bốn loại thực tập liên hệ với chánh niệm.
Loại thực tập thứ nhất là với những hạt giống xấu chưa phát hiện thì cố ngăn đừng cho chúng phát hiện, những chủng tử xấu đừng để cho chúng có cơ hội hiện hành.
Mỗi lần hiện hành các hạt giống ấy lại lớn lên ở trong tàng thức.
Đừng cho phát hiện không phải là đè nén, mà chỉ có nghĩa là đừng để người khác hay chính mình tưới tẩm những hạt giống xấu trong mình.
Ngoài ra, phải tìm cách cho những hạt giống tốt phát hiện.
Đó là phép thực tập thứ nhất.
Thứ hai là khi những hạt giống xấu phát hiện rồi thì phải biết cách làm cho chúng trở về gốc càng mau càng tốt, tìm cách cho chúng trở về nguyên quán, nằm im ở đấy.
Đó là phương pháp thay chốt, phương pháp quán chiếu, phương pháp chánh niệm.
Thứ ba là những hạt giống tốt chưa từng được phát sanh thì tìm cách tưới tẩm cho chúng phát sanh.
Tự mình tưới tẩm hay nhờ sự có mặt của tăng thân tưới tẩm.
Thứ tư là những hạt giống tốt đã phát sanh rồi thì tìm cách mời chúng ở lại và nuôi dưỡng cho chúng lớn lên. | Tự mình tưới tẩm hay nhờ sự có mặt của tăng thân tưới tẩm.
Thứ tư là những hạt giống tốt đã phát sanh rồi thì tìm cách mời chúng ở lại và nuôi dưỡng cho chúng lớn lên.
Bốn phương pháp đó gọi là tứ chánh cần.
Thành ra nội dung của chánh tinh tấn là tứ chánh cần, tức là bốn loại hành động siêng năng.
Mục đích là làm cho những hạt giống xấu yếu đi và làm cho những hạt giống tốt lớn lên.
Ta thấy chánh tinh tấn liên hệ đến tất cả những chi phần khác trong Bát Chánh Đạo.
Nói chánh tinh tấn là sự siêng năng thì không đủ nghĩa.
Cần phải có kiến thức về tâm học, về duy thức học thì mới có thể hiểu được nội dung tám chi phần của Bát Chánh Đạo.
Chúng ta nói qua như vậy để bàn tới chánh niệm rồi sẽ trở về với ba chi phần ấy sau.
Như lý tác ý
Chữ niệm nghĩa là nhớ.
Chữ Hán viết phần trên là chữ kim, nghĩa là nay, phần dưới chữ tâm, nghĩa là lòng mình.
Niệm là điều ta đang nhớ tới, đang nghĩ tới.
Mà điều ta nhớ và nghĩ có thể là tà, có thể là chính, vì vậy nên có tà niệm và chánh niệm.
Chánh là thẳng, tà là nghiêng.
Chánh niệm tức là đặt những điều ngay, thẳng và điều tốt đẹp vào trong tâm nhớ nghĩ của mình.
Trong 51 tâm hành có một tâm hành tên là tác ý (manaskara, Pali là manasikara).
Tác ý tức là khởi tâm để ý tới một đối tượng nào đó.
Trước đó chưa chú ý tới, bây giờ ta chú ý tới, gọi là tác ý.
Tác ý là một trong năm tâm sở biến hành.
Và tác ý mở đầu cho một niệm.
Như khi ta xem một truyện phim hay nghe một bài hát thì hình ảnh hay câu hát khiến cho ta tác ý. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tự mình tưới tẩm hay nhờ sự có mặt của tăng thân tưới tẩm.
Thứ tư là những hạt giống tốt đã phát sanh rồi thì tìm cách mời chúng ở lại và nuôi dưỡng cho chúng lớn lên.
Bốn phương pháp đó gọi là tứ chánh cần.
Thành ra nội dung của chánh tinh tấn là tứ chánh cần, tức là bốn loại hành động siêng năng.
Mục đích là làm cho những hạt giống xấu yếu đi và làm cho những hạt giống tốt lớn lên.
Ta thấy chánh tinh tấn liên hệ đến tất cả những chi phần khác trong Bát Chánh Đạo.
Nói chánh tinh tấn là sự siêng năng thì không đủ nghĩa.
Cần phải có kiến thức về tâm học, về duy thức học thì mới có thể hiểu được nội dung tám chi phần của Bát Chánh Đạo.
Chúng ta nói qua như vậy để bàn tới chánh niệm rồi sẽ trở về với ba chi phần ấy sau.
Như lý tác ý
Chữ niệm nghĩa là nhớ.
Chữ Hán viết phần trên là chữ kim, nghĩa là nay, phần dưới chữ tâm, nghĩa là lòng mình.
Niệm là điều ta đang nhớ tới, đang nghĩ tới.
Mà điều ta nhớ và nghĩ có thể là tà, có thể là chính, vì vậy nên có tà niệm và chánh niệm.
Chánh là thẳng, tà là nghiêng.
Chánh niệm tức là đặt những điều ngay, thẳng và điều tốt đẹp vào trong tâm nhớ nghĩ của mình.
Trong 51 tâm hành có một tâm hành tên là tác ý (manaskara, Pali là manasikara).
Tác ý tức là khởi tâm để ý tới một đối tượng nào đó.
Trước đó chưa chú ý tới, bây giờ ta chú ý tới, gọi là tác ý.
Tác ý là một trong năm tâm sở biến hành.
Và tác ý mở đầu cho một niệm.
Như khi ta xem một truyện phim hay nghe một bài hát thì hình ảnh hay câu hát khiến cho ta tác ý. | Tác ý là một trong năm tâm sở biến hành.
Và tác ý mở đầu cho một niệm.
Như khi ta xem một truyện phim hay nghe một bài hát thì hình ảnh hay câu hát khiến cho ta tác ý.
Nếu ta biết tu tập thì ta sẽ tác ý tới một điều chính, và ta duy trì điều chính đó lại.
Khi nghe chuyện hay nhìn hình ảnh ta cũng có thể tác ý tới một điều bất chánh.
Khi ta tác ý tới một điều chánh đáng, phù hợp với tinh thần bốn sự thật, với kiến thức về bốn loại thực phẩm, với giáo lý Bát Chánh Đạo thì đó gọi là như lý tác ý hoặc là như pháp tác ý (yoniso manaskara).
Ngược lại là bất như lý tác ý (ayoniso manaskara).
Chữ như lý được dịch từ chữ yoniso.
Yoni có nghĩa là tử cung, cái cung của đứa con, mọi người đều sinh ra từ đó.
Và vì thế yoni ở đây có nghĩa là cội nguồn.
Khi đưa về đúng cội nguồn, không lạc hướng, thì gọi là yoniso.
Đưa đi lạc khỏi cội nguồn thì gọi là ayoniso, dịch là bất như lý hay là phi như lý tác ý.
Thí dụ ở Làng Mai khi nghe tiếng chuông đồng hồ, mọi người trở về với chánh niệm, thở và mỉm cười.
Ta lấy chánh niệm để soi sáng và như thế ta thực tập như lý tác ý.
Khi nghe một tiếng hát đưa lòng ta tới những thương nhớ vẩn vơ, quên rằng ta đang ở đây để thực tập chánh niệm cùng với tăng thân, thì đó là phi như lý tác ý.
Cho nên trong đời sống tu học, chúng ta phải tổ chức như thế nào để có thể thực tập được như lý tác ý trong mỗi giây phút. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tác ý là một trong năm tâm sở biến hành.
Và tác ý mở đầu cho một niệm.
Như khi ta xem một truyện phim hay nghe một bài hát thì hình ảnh hay câu hát khiến cho ta tác ý.
Nếu ta biết tu tập thì ta sẽ tác ý tới một điều chính, và ta duy trì điều chính đó lại.
Khi nghe chuyện hay nhìn hình ảnh ta cũng có thể tác ý tới một điều bất chánh.
Khi ta tác ý tới một điều chánh đáng, phù hợp với tinh thần bốn sự thật, với kiến thức về bốn loại thực phẩm, với giáo lý Bát Chánh Đạo thì đó gọi là như lý tác ý hoặc là như pháp tác ý (yoniso manaskara).
Ngược lại là bất như lý tác ý (ayoniso manaskara).
Chữ như lý được dịch từ chữ yoniso.
Yoni có nghĩa là tử cung, cái cung của đứa con, mọi người đều sinh ra từ đó.
Và vì thế yoni ở đây có nghĩa là cội nguồn.
Khi đưa về đúng cội nguồn, không lạc hướng, thì gọi là yoniso.
Đưa đi lạc khỏi cội nguồn thì gọi là ayoniso, dịch là bất như lý hay là phi như lý tác ý.
Thí dụ ở Làng Mai khi nghe tiếng chuông đồng hồ, mọi người trở về với chánh niệm, thở và mỉm cười.
Ta lấy chánh niệm để soi sáng và như thế ta thực tập như lý tác ý.
Khi nghe một tiếng hát đưa lòng ta tới những thương nhớ vẩn vơ, quên rằng ta đang ở đây để thực tập chánh niệm cùng với tăng thân, thì đó là phi như lý tác ý.
Cho nên trong đời sống tu học, chúng ta phải tổ chức như thế nào để có thể thực tập được như lý tác ý trong mỗi giây phút. | Cho nên trong đời sống tu học, chúng ta phải tổ chức như thế nào để có thể thực tập được như lý tác ý trong mỗi giây phút.
Khi bước vào nhà bếp, thấy một vị thiền sinh đang xắt cà rốt, tôi hay hỏi: “Anh đang làm gì đó?” Câu hỏi giống như một tiếng chuông để giúp người đó như lý tác ý.
Trong một tăng thân tu tập với nhau chúng ta phải giúp nhau gióng tiếng chuông như lý tác ý cho nhau.
Cách đi, cách đứng, cách ngồi, cách nhìn, cách làm việc của ta đều có thể có tác dụng giúp người khác thực tập như lý tác ý.
Trong tăng thân chúng ta có những người làm được như vậy.
Khi nhìn thấy họ ta tự nhiên trở về được với chánh niệm.
Sự có mặt của họ có tác dụng như tiếng chuông tỉnh thức.
Xây dựng tăng thân cũng là thực tập để cho mỗi lời nói, mỗi cái nhìn, mỗi cái động tác của ta là một tiếng chuông cho chính ta và cho người khác.
Trong thiền viện, từ cách trình bày bàn thờ, cắm một bình hoa, một góc chùa cong, một tiếng chuông thỉnh đều chủ ý giúp chúng ta thực tập như lý tác ý.
Cái gì trong thiền viện cũng phải được sắp đặt để nhắc nhở chúng ta phải trở về như lý tác ý.
Như lý tác ý là giây phút khai sanh của chánh niệm.
Ngược lại, nếu chúng ta sống trong một môi trường mà mọi thứ đều khiến chúng ta quên lãng, ta sẽ bị kéo theo bởi những phi như lý tác ý.
Ngồi trong một quán rượu, tất cả những điều chúng ta nghe, thấy và cảm bằng sáu giác quan đều có tác dụng đưa chúng ta đi lạc vào phi như lý tác ý. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Cho nên trong đời sống tu học, chúng ta phải tổ chức như thế nào để có thể thực tập được như lý tác ý trong mỗi giây phút.
Khi bước vào nhà bếp, thấy một vị thiền sinh đang xắt cà rốt, tôi hay hỏi: “Anh đang làm gì đó?” Câu hỏi giống như một tiếng chuông để giúp người đó như lý tác ý.
Trong một tăng thân tu tập với nhau chúng ta phải giúp nhau gióng tiếng chuông như lý tác ý cho nhau.
Cách đi, cách đứng, cách ngồi, cách nhìn, cách làm việc của ta đều có thể có tác dụng giúp người khác thực tập như lý tác ý.
Trong tăng thân chúng ta có những người làm được như vậy.
Khi nhìn thấy họ ta tự nhiên trở về được với chánh niệm.
Sự có mặt của họ có tác dụng như tiếng chuông tỉnh thức.
Xây dựng tăng thân cũng là thực tập để cho mỗi lời nói, mỗi cái nhìn, mỗi cái động tác của ta là một tiếng chuông cho chính ta và cho người khác.
Trong thiền viện, từ cách trình bày bàn thờ, cắm một bình hoa, một góc chùa cong, một tiếng chuông thỉnh đều chủ ý giúp chúng ta thực tập như lý tác ý.
Cái gì trong thiền viện cũng phải được sắp đặt để nhắc nhở chúng ta phải trở về như lý tác ý.
Như lý tác ý là giây phút khai sanh của chánh niệm.
Ngược lại, nếu chúng ta sống trong một môi trường mà mọi thứ đều khiến chúng ta quên lãng, ta sẽ bị kéo theo bởi những phi như lý tác ý.
Ngồi trong một quán rượu, tất cả những điều chúng ta nghe, thấy và cảm bằng sáu giác quan đều có tác dụng đưa chúng ta đi lạc vào phi như lý tác ý. | Ngồi trong một quán rượu, tất cả những điều chúng ta nghe, thấy và cảm bằng sáu giác quan đều có tác dụng đưa chúng ta đi lạc vào phi như lý tác ý.
Khi chúng ta nghĩ tới những danh, lợi, tài, sắc, nhớ tới thuốc hút “nhớ ai như nhớ thuốc lào, đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên”, thì niệm đó là tà niệm.
Nhớ một người nào đến nỗi không làm ăn gì được, không tu học gì nổi, đó là tà niệm.
Có khi chúng ta quán tưởng một dòng nước trong hay là một bầu trời xanh để cho tâm hồn thư thái, để tự nuôi dưỡng trước khi trở về đối diện những khó khăn hiện tại, việc này có thể là như lý vì chúng ta biết mình đang làm gì.
Nhưng thường thì chúng ta không biết là mình đang mơ mộng và đang trốn tránh.
Mà người tu học không trốn tránh thực tại.
Tu học tức là đem chánh niệm chiếu vào đối tượng khổ đau, để tìm ra những nguyên do đã đem tới đau khổ.
Mà thấy được khổ đế và tập đế rồi, tự khắc ta thấy được đạo đế.
Trốn tránh thì suốt đời ta không giải quyết vấn đề đau khổ của ta và của người.
Chánh niệm là một loại năng lượng để thắp sáng tâm ý.
Chúng ta biết trong chiều sâu tàng thức của chúng ta có hạt giống chánh niệm.
Không tu tập thì hạt giống bị vùi lấp qua nhiều lớp thất niệm, khổ đau phiền não.
Tu tập là chạm vào hạt giống chánh niệm để nó nở thành hoa.
Ta hãy tìm cách giữ nó lại trong phòng khách của tâm hành, vì đó là một người khách quý.
Người khách đó là Bụt, vì chánh niệm chính là Bụt tương lai.
Nuôi dưỡng chánh niệm là làm cho Bụt ở trong ta càng ngày càng sáng tỏ. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ngồi trong một quán rượu, tất cả những điều chúng ta nghe, thấy và cảm bằng sáu giác quan đều có tác dụng đưa chúng ta đi lạc vào phi như lý tác ý.
Khi chúng ta nghĩ tới những danh, lợi, tài, sắc, nhớ tới thuốc hút “nhớ ai như nhớ thuốc lào, đã chôn điếu xuống lại đào điếu lên”, thì niệm đó là tà niệm.
Nhớ một người nào đến nỗi không làm ăn gì được, không tu học gì nổi, đó là tà niệm.
Có khi chúng ta quán tưởng một dòng nước trong hay là một bầu trời xanh để cho tâm hồn thư thái, để tự nuôi dưỡng trước khi trở về đối diện những khó khăn hiện tại, việc này có thể là như lý vì chúng ta biết mình đang làm gì.
Nhưng thường thì chúng ta không biết là mình đang mơ mộng và đang trốn tránh.
Mà người tu học không trốn tránh thực tại.
Tu học tức là đem chánh niệm chiếu vào đối tượng khổ đau, để tìm ra những nguyên do đã đem tới đau khổ.
Mà thấy được khổ đế và tập đế rồi, tự khắc ta thấy được đạo đế.
Trốn tránh thì suốt đời ta không giải quyết vấn đề đau khổ của ta và của người.
Chánh niệm là một loại năng lượng để thắp sáng tâm ý.
Chúng ta biết trong chiều sâu tàng thức của chúng ta có hạt giống chánh niệm.
Không tu tập thì hạt giống bị vùi lấp qua nhiều lớp thất niệm, khổ đau phiền não.
Tu tập là chạm vào hạt giống chánh niệm để nó nở thành hoa.
Ta hãy tìm cách giữ nó lại trong phòng khách của tâm hành, vì đó là một người khách quý.
Người khách đó là Bụt, vì chánh niệm chính là Bụt tương lai.
Nuôi dưỡng chánh niệm là làm cho Bụt ở trong ta càng ngày càng sáng tỏ. | Người khách đó là Bụt, vì chánh niệm chính là Bụt tương lai.
Nuôi dưỡng chánh niệm là làm cho Bụt ở trong ta càng ngày càng sáng tỏ.
Người tu tập giỏi có thể nuôi dưỡng ngọn đèn chánh niệm thường xuyên.
Ngọn đèn đó sẽ đem chiếu sáng bốn lãnh vực, đối tượng của thiền quán.
Lãnh vực thứ nhất là thân.
Thân, tức là uẩn đầu tiên trong ngũ uẩn, gọi là sắc uẩn.
Có một kinh chuyên trình bày sự thực tập chánh niệm về thân, gọi là kinh Thân Hành Niệm.
Kinh này có trong Trung Bộ (Majjima Nikaya), và cũng có trong bộ Trung A Hàm.
Chánh niệm cũng soi sáng lãnh vực thứ hai gọi là lãnh vực cảm thọ.
Thọ là những cảm giác của mình, những cảm giác vui, buồn.
Những cảm thọ dễ chịu, khó chịu, hoặc không dễ chịu cũng không khó chịu, gọi là cảm thọ trung tính.
Chánh niệm soi sáng lãnh vực thứ ba là tâm ý hay tâm hành.
Bất cứ một tâm hành nào phát hiện là chánh niệm nhận diện được.
Thấy tầm thì biết là tầm, thấy từ thì biết là từ, thấy tham thì biết là tham, thấy sân thì biết là sân, thấy mạn thì biết là mạn.
Chánh niệm nhận diện tất cả 51 thứ tâm hành mỗi khi chúng phát hiện.
Sau cùng chánh niệm soi sáng đối tượng của tâm hành, tức là các pháp.
Pháp ở đây là tất cả mọi hiện tượng tâm lý cũng như vật lý, và sinh lý.
Trước hết pháp là đối tượng của tưởng, tức là tri giác.
Ở đây các pháp là đối tượng của tâm hành.
Chúng ta soi sáng vừa chủ thể vừa đối tượng của tâm hành.
Chúng ta thường nghĩ nhầm năm uẩn là của một người này hay người kia. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Người khách đó là Bụt, vì chánh niệm chính là Bụt tương lai.
Nuôi dưỡng chánh niệm là làm cho Bụt ở trong ta càng ngày càng sáng tỏ.
Người tu tập giỏi có thể nuôi dưỡng ngọn đèn chánh niệm thường xuyên.
Ngọn đèn đó sẽ đem chiếu sáng bốn lãnh vực, đối tượng của thiền quán.
Lãnh vực thứ nhất là thân.
Thân, tức là uẩn đầu tiên trong ngũ uẩn, gọi là sắc uẩn.
Có một kinh chuyên trình bày sự thực tập chánh niệm về thân, gọi là kinh Thân Hành Niệm.
Kinh này có trong Trung Bộ (Majjima Nikaya), và cũng có trong bộ Trung A Hàm.
Chánh niệm cũng soi sáng lãnh vực thứ hai gọi là lãnh vực cảm thọ.
Thọ là những cảm giác của mình, những cảm giác vui, buồn.
Những cảm thọ dễ chịu, khó chịu, hoặc không dễ chịu cũng không khó chịu, gọi là cảm thọ trung tính.
Chánh niệm soi sáng lãnh vực thứ ba là tâm ý hay tâm hành.
Bất cứ một tâm hành nào phát hiện là chánh niệm nhận diện được.
Thấy tầm thì biết là tầm, thấy từ thì biết là từ, thấy tham thì biết là tham, thấy sân thì biết là sân, thấy mạn thì biết là mạn.
Chánh niệm nhận diện tất cả 51 thứ tâm hành mỗi khi chúng phát hiện.
Sau cùng chánh niệm soi sáng đối tượng của tâm hành, tức là các pháp.
Pháp ở đây là tất cả mọi hiện tượng tâm lý cũng như vật lý, và sinh lý.
Trước hết pháp là đối tượng của tưởng, tức là tri giác.
Ở đây các pháp là đối tượng của tâm hành.
Chúng ta soi sáng vừa chủ thể vừa đối tượng của tâm hành.
Chúng ta thường nghĩ nhầm năm uẩn là của một người này hay người kia. | Ở đây các pháp là đối tượng của tâm hành.
Chúng ta soi sáng vừa chủ thể vừa đối tượng của tâm hành.
Chúng ta thường nghĩ nhầm năm uẩn là của một người này hay người kia.
Phải nhớ năm uẩn không phải là một cái gì biệt lập, năm uẩn gồm cả chủ thể lẫn đối tượng.
Mà đối tượng của năm uẩn bao gồm cả vũ trụ.
Người tu học dùng chánh niệm soi chiếu bốn lãnh vực thân, thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý.
Sự soi chiếu này đưa tới tuệ giác, có công năng tháo gỡ và giải thoát cho bản thân người tu học.
Bài 10: Sống giây phút hiện tại
Hôm nay là ngày 23 tháng 12 năm 1993 chúng ta ở tại Xóm thượng và học tiếp về chánh niệm.
Chánh niệm là trái tim của sự thực tập, vì vậy ta phải học về chánh niệm thật kỹ.
Tất cả những chi phần khác của Bát Chánh Đạo sẽ không thể nào thành tựu khi ta không phát triển chánh niệm.
Trong đời sống hàng ngày nhiều khi chúng ta không có mặt, không thực sống trong giờ phút hiện tại.
Vì vậy, chánh niệm trước hết là sự có mặt của chính mình trong đời sống.
Trong nền văn học của nhân loại, tác phẩm đầu tiên xuất hiện sớm nhất để dạy chúng ta trở về để sống và an trú trong hiện tại, là Kinh Người Biết Sống Một Mình (Bhaddekaratta sutta).
Kinh Người Biết Sống Một Mình dạy nghệ thuật sống trong từng giây từng phút hiện tại.
Nguồn năng lượng có thể giúp mình trở về có mặt trong giây phút hiện tại là chánh niệm.
Cho nên chánh niệm là sự tu tập để mình có mặt bây giờ, có mặt ở đây. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Ở đây các pháp là đối tượng của tâm hành.
Chúng ta soi sáng vừa chủ thể vừa đối tượng của tâm hành.
Chúng ta thường nghĩ nhầm năm uẩn là của một người này hay người kia.
Phải nhớ năm uẩn không phải là một cái gì biệt lập, năm uẩn gồm cả chủ thể lẫn đối tượng.
Mà đối tượng của năm uẩn bao gồm cả vũ trụ.
Người tu học dùng chánh niệm soi chiếu bốn lãnh vực thân, thọ, tâm ý và đối tượng tâm ý.
Sự soi chiếu này đưa tới tuệ giác, có công năng tháo gỡ và giải thoát cho bản thân người tu học.
Bài 10: Sống giây phút hiện tại
Hôm nay là ngày 23 tháng 12 năm 1993 chúng ta ở tại Xóm thượng và học tiếp về chánh niệm.
Chánh niệm là trái tim của sự thực tập, vì vậy ta phải học về chánh niệm thật kỹ.
Tất cả những chi phần khác của Bát Chánh Đạo sẽ không thể nào thành tựu khi ta không phát triển chánh niệm.
Trong đời sống hàng ngày nhiều khi chúng ta không có mặt, không thực sống trong giờ phút hiện tại.
Vì vậy, chánh niệm trước hết là sự có mặt của chính mình trong đời sống.
Trong nền văn học của nhân loại, tác phẩm đầu tiên xuất hiện sớm nhất để dạy chúng ta trở về để sống và an trú trong hiện tại, là Kinh Người Biết Sống Một Mình (Bhaddekaratta sutta).
Kinh Người Biết Sống Một Mình dạy nghệ thuật sống trong từng giây từng phút hiện tại.
Nguồn năng lượng có thể giúp mình trở về có mặt trong giây phút hiện tại là chánh niệm.
Cho nên chánh niệm là sự tu tập để mình có mặt bây giờ, có mặt ở đây. | Nguồn năng lượng có thể giúp mình trở về có mặt trong giây phút hiện tại là chánh niệm.
Cho nên chánh niệm là sự tu tập để mình có mặt bây giờ, có mặt ở đây.
Tâm của chúng ta có thể đang nuối tiếc về quá khứ, đang mơ tưởng chuyện tương lai, hoặc đang bị giam hãm trong những nỗi lo âu, phiền muộn, giận hờn trong hiện tại.
Chúng ta không có tự do, không có khả năng tiếp xúc với sự sống đang diễn ra.
Chánh niệm là yếu tố giải phóng cho chúng ta.
Sống giây phút hiện tại
Trước hết chúng ta định nghĩa chánh niệm là thứ năng lượng đem chúng ta trở về với sự sống.
Có những người chỉ biết lo lắng cho tương lai, chỉ mơ ước về tương lai và vì vậy họ không có khả năng sống với sự sống hiện tại.
Có những người lại thương tiếc, vướng víu vào quá khứ, chỉ thấy sự sống ở trong quá khứ.
Cả hai đều không tiếp xúc được với sự sống trong giờ phút hiện tại.
Do đó trong cuộc đời của họ, sự sống không có mặt, dù họ có đủ sáu căn để tiếp xúc được với sáu trần.
Thất niệm làm cho họ không có sự sống.
Nhà văn Albert Camus dùng văn ảnh “Sống như một người chết.” Một người sống trong thất niệm, không an trú được trong hiện tại, sống không ý thức thì cũng như đã chết.
Tự đánh mất mình trong những tham đắm vật dục, đó cũng không phải là đang sống ý thức trong hiện tại.
Bị sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp lôi cuốn, mê mờ không biết mình đang làm gì, không biết mình thực sự là ai, đó cũng không phải là đang sống.
Tự tàn phá đời mình và làm khổ những người xung quanh mà không hay, cũng không phải đang sống. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Nguồn năng lượng có thể giúp mình trở về có mặt trong giây phút hiện tại là chánh niệm.
Cho nên chánh niệm là sự tu tập để mình có mặt bây giờ, có mặt ở đây.
Tâm của chúng ta có thể đang nuối tiếc về quá khứ, đang mơ tưởng chuyện tương lai, hoặc đang bị giam hãm trong những nỗi lo âu, phiền muộn, giận hờn trong hiện tại.
Chúng ta không có tự do, không có khả năng tiếp xúc với sự sống đang diễn ra.
Chánh niệm là yếu tố giải phóng cho chúng ta.
Sống giây phút hiện tại
Trước hết chúng ta định nghĩa chánh niệm là thứ năng lượng đem chúng ta trở về với sự sống.
Có những người chỉ biết lo lắng cho tương lai, chỉ mơ ước về tương lai và vì vậy họ không có khả năng sống với sự sống hiện tại.
Có những người lại thương tiếc, vướng víu vào quá khứ, chỉ thấy sự sống ở trong quá khứ.
Cả hai đều không tiếp xúc được với sự sống trong giờ phút hiện tại.
Do đó trong cuộc đời của họ, sự sống không có mặt, dù họ có đủ sáu căn để tiếp xúc được với sáu trần.
Thất niệm làm cho họ không có sự sống.
Nhà văn Albert Camus dùng văn ảnh “Sống như một người chết.” Một người sống trong thất niệm, không an trú được trong hiện tại, sống không ý thức thì cũng như đã chết.
Tự đánh mất mình trong những tham đắm vật dục, đó cũng không phải là đang sống ý thức trong hiện tại.
Bị sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp lôi cuốn, mê mờ không biết mình đang làm gì, không biết mình thực sự là ai, đó cũng không phải là đang sống.
Tự tàn phá đời mình và làm khổ những người xung quanh mà không hay, cũng không phải đang sống. | Tự tàn phá đời mình và làm khổ những người xung quanh mà không hay, cũng không phải đang sống.
Tuy không bị quá khứ, không bị tương lai lôi cuốn, nhưng vẫn sống trong mê tưởng, thì cũng chưa biết an trú trong hiện tại.
Sống trong hiện tại là sống tỉnh táo.
Sự sống ở đây được nuôi dưỡng bằng chánh niệm.
Chánh niệm là hạt giống quý báu ở trong tâm ta.
Việc tu tập hàng ngày của chúng ta là để tiếp xúc được với hạt giống đó, giúp nó nẩy mầm, nở hoa và làm đẹp đời mình và đời những người xung quanh.
Kinh Người Biết Sống Một Mình được chú giải và xuất bản bằng tiếng Anh đã mang tên Your Appointment With Life, nghĩa là Cuộc hẹn ước của quý vị với đời sống.
Bản dịch sang tiếng Trung Quốc lấy tên là Dữ Sinh Mạng Hữu Ước, nghĩa là có Ước hẹn với sự sống.
Chúng ta có ước hẹn với sự sống, chúng ta phải gặp sự sống, đừng để lỡ cuộc hẹn hò này “do not miss your appointment with life”.
Yếu tố giúp chúng ta khỏi bị lỡ hẹn với sự sống là chánh niệm.
Mà ta hẹn hò với sự sống ở đâu, vào lúc nào?
Câu trả lời là “Chúng ta chỉ có thể gặp gỡ sự sống bây giờ và ở đây.” Cho nên tu tập là tiếp xúc được với sự sống trong mỗi giây, mỗi phút của đời sống hằng ngày.
Nói như dễ hiểu và dường như dễ làm.
Nhưng nếu không có thầy, không có bạn và không có tăng thân thì chúng ta sẽ lỡ hẹn liên tiếp với sự sống.
Thất niệm níu ta về quá khứ, kéo ta tới tương lai, lôi chúng ta vào những lo lắng, giận hờn, ganh tỵ và bực bội. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Tự tàn phá đời mình và làm khổ những người xung quanh mà không hay, cũng không phải đang sống.
Tuy không bị quá khứ, không bị tương lai lôi cuốn, nhưng vẫn sống trong mê tưởng, thì cũng chưa biết an trú trong hiện tại.
Sống trong hiện tại là sống tỉnh táo.
Sự sống ở đây được nuôi dưỡng bằng chánh niệm.
Chánh niệm là hạt giống quý báu ở trong tâm ta.
Việc tu tập hàng ngày của chúng ta là để tiếp xúc được với hạt giống đó, giúp nó nẩy mầm, nở hoa và làm đẹp đời mình và đời những người xung quanh.
Kinh Người Biết Sống Một Mình được chú giải và xuất bản bằng tiếng Anh đã mang tên Your Appointment With Life, nghĩa là Cuộc hẹn ước của quý vị với đời sống.
Bản dịch sang tiếng Trung Quốc lấy tên là Dữ Sinh Mạng Hữu Ước, nghĩa là có Ước hẹn với sự sống.
Chúng ta có ước hẹn với sự sống, chúng ta phải gặp sự sống, đừng để lỡ cuộc hẹn hò này “do not miss your appointment with life”.
Yếu tố giúp chúng ta khỏi bị lỡ hẹn với sự sống là chánh niệm.
Mà ta hẹn hò với sự sống ở đâu, vào lúc nào?
Câu trả lời là “Chúng ta chỉ có thể gặp gỡ sự sống bây giờ và ở đây.” Cho nên tu tập là tiếp xúc được với sự sống trong mỗi giây, mỗi phút của đời sống hằng ngày.
Nói như dễ hiểu và dường như dễ làm.
Nhưng nếu không có thầy, không có bạn và không có tăng thân thì chúng ta sẽ lỡ hẹn liên tiếp với sự sống.
Thất niệm níu ta về quá khứ, kéo ta tới tương lai, lôi chúng ta vào những lo lắng, giận hờn, ganh tỵ và bực bội. | Thất niệm níu ta về quá khứ, kéo ta tới tương lai, lôi chúng ta vào những lo lắng, giận hờn, ganh tỵ và bực bội.
Chúng ta trở thành nô lệ của những thứ phiền não đó và không còn tự do để gặp mặt sự sống nữa.
Mỗi buổi sáng thức dậy ta hãy tập thở và mỉm cười, nhớ rằng hôm nay chúng ta có hẹn với sự sống (I have an appointment with life today!).
Chúng ta hãy thở, mỉm cười và đọc bài kệ:
Thức dậy miệng mỉm cười,
Hăm bốn giờ tinh khôi,
Xin nguyện sống trọn vẹn,
Mắt thương nhìn cuộc đời.
Tôi nguyện sẽ không lỡ hẹn với sự sống ngày hôm nay, bài kệ có nghĩa như vậy.
Đó là một lời nguyện, là sự bày tỏ một quyết tâm, thực hiện được chừng nào là tùy công phu tu tập của mình.
Trong hăm bốn giờ đồng hồ ta có thể tiếp xúc với rất nhiều mầu nhiệm của sự sống, trong ta và xung quanh ta.
Nếu ta có đủ năng lượng của chánh niệm thì tất cả những điều ta thấy và nghe đều có tác dụng giúp ta thực tập như lý tác ý, lay thức ta dậy để ta trở về với giây phút hiện tại.
Trước khi đi ngủ, chúng ta hãy thở và kiểm điểm lại xem ngày hôm nay chúng ta đã tiếp xúc được với sự sống tới mức nào.
Chúng ta đã để cho những hờn giận, ganh ghét và buồn phiền trấn ngự trong tâm đến mức độ nào?
Ta tự hẹn ngày mai sẽ làm khá hơn.
Giá trị của tăng thân và của khung cảnh tu học là ở chỗ có thể tạo những hình ảnh và âm thanh giúp ta trở về chánh niệm.
Tiếng chuông chùa là một yếu tố hỗ trợ như thế. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Thất niệm níu ta về quá khứ, kéo ta tới tương lai, lôi chúng ta vào những lo lắng, giận hờn, ganh tỵ và bực bội.
Chúng ta trở thành nô lệ của những thứ phiền não đó và không còn tự do để gặp mặt sự sống nữa.
Mỗi buổi sáng thức dậy ta hãy tập thở và mỉm cười, nhớ rằng hôm nay chúng ta có hẹn với sự sống (I have an appointment with life today!).
Chúng ta hãy thở, mỉm cười và đọc bài kệ:
Thức dậy miệng mỉm cười,
Hăm bốn giờ tinh khôi,
Xin nguyện sống trọn vẹn,
Mắt thương nhìn cuộc đời.
Tôi nguyện sẽ không lỡ hẹn với sự sống ngày hôm nay, bài kệ có nghĩa như vậy.
Đó là một lời nguyện, là sự bày tỏ một quyết tâm, thực hiện được chừng nào là tùy công phu tu tập của mình.
Trong hăm bốn giờ đồng hồ ta có thể tiếp xúc với rất nhiều mầu nhiệm của sự sống, trong ta và xung quanh ta.
Nếu ta có đủ năng lượng của chánh niệm thì tất cả những điều ta thấy và nghe đều có tác dụng giúp ta thực tập như lý tác ý, lay thức ta dậy để ta trở về với giây phút hiện tại.
Trước khi đi ngủ, chúng ta hãy thở và kiểm điểm lại xem ngày hôm nay chúng ta đã tiếp xúc được với sự sống tới mức nào.
Chúng ta đã để cho những hờn giận, ganh ghét và buồn phiền trấn ngự trong tâm đến mức độ nào?
Ta tự hẹn ngày mai sẽ làm khá hơn.
Giá trị của tăng thân và của khung cảnh tu học là ở chỗ có thể tạo những hình ảnh và âm thanh giúp ta trở về chánh niệm.
Tiếng chuông chùa là một yếu tố hỗ trợ như thế. | Giá trị của tăng thân và của khung cảnh tu học là ở chỗ có thể tạo những hình ảnh và âm thanh giúp ta trở về chánh niệm.
Tiếng chuông chùa là một yếu tố hỗ trợ như thế.
Tôi trở về được với chánh niệm, tôi được nuôi dưỡng bằng những thức ăn lành mạnh, đẹp đẽ và vui tươi của đời sống, đó là nhờ anh, nhờ chị, nhờ em.
Tăng thân gồm tất cả mọi người và mọi cảnh vật có tác dụng giúp ta trở về với chánh niệm.
Vậy thì chánh niệm là có mặt trong cuộc sống.
Khi thở một cách có ý thức, thở trong chánh niệm, tự nhiên ta thiết lập được sự có mặt của ta.
Tôi đang thở vào và tôi biết là tôi đang thở vào.
Tôi đang thở ra và tôi biết là tôi đang thở ra.
Phép tu tập đó tuy đơn giản nhưng có thể đem ta trở về với giây phút hiện tại.
Chánh niệm là một ngọn đèn chiếu sáng cho ta thấy.
Có bông hoa rất đẹp, có bầu trời rất xanh, có cây bồ đề rất tươi tốt, có nụ cười em bé rất ngọt ngào, có người sư chị dịu hiền, có người sư em rất tươi vui.
Nhưng khi bị giam hãm trong giận hờn và trong lo lắng, khi đang phiêu lãng trong quá khứ hay tương lai, ta không tiếp xúc được với những vẻ đẹp đó.
Nụ cười tươi mát kia, bầu trời xanh kia, vì sao ta không được hưởng?
Người và cảnh chung quanh đều có thể giúp ta thức dậy trở về với chánh niệm.
Người phát thư đi tới hỏi: “Có ai trong nhà không?” Ta trả lời: “Có, tôi đang ở đây.” Với câu nói đó, ta thực tập chánh niệm: Tôi biết tôi đang có mặt bây giờ và ở đây.
Người phát thư không biết ta đang thực tập chánh niệm. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Giá trị của tăng thân và của khung cảnh tu học là ở chỗ có thể tạo những hình ảnh và âm thanh giúp ta trở về chánh niệm.
Tiếng chuông chùa là một yếu tố hỗ trợ như thế.
Tôi trở về được với chánh niệm, tôi được nuôi dưỡng bằng những thức ăn lành mạnh, đẹp đẽ và vui tươi của đời sống, đó là nhờ anh, nhờ chị, nhờ em.
Tăng thân gồm tất cả mọi người và mọi cảnh vật có tác dụng giúp ta trở về với chánh niệm.
Vậy thì chánh niệm là có mặt trong cuộc sống.
Khi thở một cách có ý thức, thở trong chánh niệm, tự nhiên ta thiết lập được sự có mặt của ta.
Tôi đang thở vào và tôi biết là tôi đang thở vào.
Tôi đang thở ra và tôi biết là tôi đang thở ra.
Phép tu tập đó tuy đơn giản nhưng có thể đem ta trở về với giây phút hiện tại.
Chánh niệm là một ngọn đèn chiếu sáng cho ta thấy.
Có bông hoa rất đẹp, có bầu trời rất xanh, có cây bồ đề rất tươi tốt, có nụ cười em bé rất ngọt ngào, có người sư chị dịu hiền, có người sư em rất tươi vui.
Nhưng khi bị giam hãm trong giận hờn và trong lo lắng, khi đang phiêu lãng trong quá khứ hay tương lai, ta không tiếp xúc được với những vẻ đẹp đó.
Nụ cười tươi mát kia, bầu trời xanh kia, vì sao ta không được hưởng?
Người và cảnh chung quanh đều có thể giúp ta thức dậy trở về với chánh niệm.
Người phát thư đi tới hỏi: “Có ai trong nhà không?” Ta trả lời: “Có, tôi đang ở đây.” Với câu nói đó, ta thực tập chánh niệm: Tôi biết tôi đang có mặt bây giờ và ở đây.
Người phát thư không biết ta đang thực tập chánh niệm. | Người phát thư không biết ta đang thực tập chánh niệm.
Nhưng câu trả lời “Tôi đang ở đây” có nghĩa là: “Tôi đang ở đây, tôi đang thực sự có mặt đây, ông phát thư ạ.” Thấy một sư chị đang rửa chén, chúng ta hỏi: Sư chị đang làm gì đó?
Tự nhiên sư chị biết đây là một người sư em đang đến giúp mình vượt thoát ra ngoài thế giới của suy nghĩ, của lo lắng, để có thể tiếp xúc lại với sự sống mầu nhiệm.
Vì rửa chén trong chánh niệm và thở trong chánh niệm cũng là một phép tu tập.
Rửa chén với tâm an lạc cũng giống như đang tắm cho một đức Bụt sơ sinh.
Ta đâu cần trở về 2600 năm về trước, ta đâu cần đi tới vườn Lâm Tỳ Ni, ta đâu phải đầu thai thành một vị thị nữ của bà Maya mới có dịp tắm cho đức Bụt sơ sinh?
Phép lạ thứ nhất của chánh niệm là làm cho ta có mặt trong sự sống hiện tại.
Chánh niệm làm sự sống có mặt
Khi thất niệm, vì ta không có mặt nên những cái khác cũng không có mặt.
Cái khác đây là bầu trời xanh thẳm, là hoa đào đang nở rộ, là người anh rất ngọt ngào, là người bạn rất tươi mát, là một em bé rất xinh đẹp.
Nếu ta không có mặt thì tất cả những thứ ấy đều không có mặt.
Cho nên sự có mặt của ta đem lại sự có mặt của vũ trụ, của sự sống, của tất cả những mầu nhiệm quanh ta.
Đời sống có những khổ đau, những bi lụy; nhưng đời sống cũng có rất nhiều nhiệm mầu. |
Hãy viết tiếp đoạn văn sau theo phong cách của Thích Nhất Hạnh | Người phát thư không biết ta đang thực tập chánh niệm.
Nhưng câu trả lời “Tôi đang ở đây” có nghĩa là: “Tôi đang ở đây, tôi đang thực sự có mặt đây, ông phát thư ạ.” Thấy một sư chị đang rửa chén, chúng ta hỏi: Sư chị đang làm gì đó?
Tự nhiên sư chị biết đây là một người sư em đang đến giúp mình vượt thoát ra ngoài thế giới của suy nghĩ, của lo lắng, để có thể tiếp xúc lại với sự sống mầu nhiệm.
Vì rửa chén trong chánh niệm và thở trong chánh niệm cũng là một phép tu tập.
Rửa chén với tâm an lạc cũng giống như đang tắm cho một đức Bụt sơ sinh.
Ta đâu cần trở về 2600 năm về trước, ta đâu cần đi tới vườn Lâm Tỳ Ni, ta đâu phải đầu thai thành một vị thị nữ của bà Maya mới có dịp tắm cho đức Bụt sơ sinh?
Phép lạ thứ nhất của chánh niệm là làm cho ta có mặt trong sự sống hiện tại.
Chánh niệm làm sự sống có mặt
Khi thất niệm, vì ta không có mặt nên những cái khác cũng không có mặt.
Cái khác đây là bầu trời xanh thẳm, là hoa đào đang nở rộ, là người anh rất ngọt ngào, là người bạn rất tươi mát, là một em bé rất xinh đẹp.
Nếu ta không có mặt thì tất cả những thứ ấy đều không có mặt.
Cho nên sự có mặt của ta đem lại sự có mặt của vũ trụ, của sự sống, của tất cả những mầu nhiệm quanh ta.
Đời sống có những khổ đau, những bi lụy; nhưng đời sống cũng có rất nhiều nhiệm mầu. | Cho nên sự có mặt của ta đem lại sự có mặt của vũ trụ, của sự sống, của tất cả những mầu nhiệm quanh ta.
Đời sống có những khổ đau, những bi lụy; nhưng đời sống cũng có rất nhiều nhiệm mầu.
Nếu chúng ta chỉ tiếp xúc với khổ đau thì chúng ta sẽ ốm o gầy mòn, nhưng nếu biết cách tiếp xúc với những yếu tố mầu nhiệm, tươi mát và lành mạnh của đời sống thì ta sẽ tự nuôi dưỡng được bằng những chất liệu mầu nhiệm, lành mạnh và tươi mát.
Khi được nuôi dưỡng bởi những yếu tố lành mạnh, tươi mát và có tính cách trị liệu rồi, chúng ta mới có khả năng tiếp xúc với khổ đau để chuyển hóa khổ đau.
Phép lạ thứ hai của chánh niệm là xác nhận sự có mặt của đối tượng, của người, của vật khác ở ngoài ta.
Vật ở ngoài kia là bông hoa đào, là bầu trời xanh.
Đó cũng là sự có mặt của các em bé, của anh, của chị, của mẹ, của cha.
Nếu ta không có mặt thì những đối tượng đó cũng không có mặt.
Cho nên phép lạ thứ hai của chánh niệm là xác nhận được sự có mặt của đời sống, của tất cả những mầu nhiệm trong giây phút hiện tại.
Khi nhìn lên mặt trăng với chánh niệm, chúng ta có mặt đích thực mà mặt trăng đích thực cũng có mặt.
Biết mình có đó, biết có mặt trăng ở đó, đây đã là một phép lạ, một phép thần thông rồi.
Phép thần thông đó ta có thể tạo ra trong mỗi giây mỗi phút.
à, ta đang có mặt và mặt trăng kia cũng đang có mặt; sự có mặt nhiệm mầu, sự có mặt đích thực, chứ không phải là một giấc mộng nữa.
Một trong những vấn đề triết học là ta có mặt hay là không có mặt (To be or not to be). |