title
stringlengths 2
84
| link
stringlengths 20
112
| poem_text
stringlengths 47
126k
⌀ | author_name
stringclasses 348
values |
---|---|---|---|
Bóng Ngày | poem.php?poem=bong_ngay__tu_ke_tuong | Ngày mở ra đầy nắng
Ấm áp bàn tay anh
Trước dòng sông yên lặng
Lời sóng cũng vô âm
Chim hót trong vườn cũ
Nhớ một người xa xăm
Hoa trái mùa xanh nụ
Đường cỏ dấu chân thầm
Bên sông gà gáy vọng
Điểm vào hơi gió trưa
Ai phất tay áo rộng
Kịp xua lá sang mùa
Lòng quạnh gửi trời quê
Qua mấy đường mây trắng
Liêu xiêu một nẻo về
Thương quá chân cầu vắng
Đời quá bước trở chiều
Tóc phai vai áo nhạt
Ánh mắt người trông theo
Rượi vàng hoa cúc đất
Tay buông sợi nắng ngày
Bay theo trời tưởng nhớ
Còn lại nhánh heo may
Hút vào tim đá vỡ
Bóng ngày rồi đi mất
Anh với dòng sông trôi
Mưa qua tay lất phất
Đủ lạnh một chỗ ngồi. | Từ Kế Tường |
Bụi Vàng | poem.php?poem=bui_vang__tu_ke_tuong | Anh rất nhớ một chiều trưa tháng Bảy
Bụi che tay không thấy hết đường về
Trời rất nắng còn anh buồn đến vậy
Khác chi ngày hiu hắt nép hiên mưa.
Rộn rã ve kêu báo Hạ sang mùa
Chùm phượng đỏ rung lòng anh như lửa
Tình rất sâu cứ chìm trong mê lộ
Lầm lũi đời người vén bụi mà đi
Ngồi bên nhau ai nói được điều gì
Trưa tháng Bảy chẳng dài thêm góc phố
Lòng nặng trĩu sầu thêm ngôi quán gió
Dài đến thinh không mấy chấm bụi đường
Bao nhiêu năm còn thoáng vọng mùi hương
Một ánh mắt, nét cười trong sợi tóc
Buồn chưa hết, hàng cây khô nước mắt
Ngửa bàn tay tê dại dấu thời gian.
Có đọng lại trong em một chút bụi vàng
Trái tim nguyên vẹn của ngày lầm lỡ
Tại sao? cứ hỏi tại sao vậy chớ!
Chỉ một lần không vội nắm tay em
Đời chất lên những mộng mị ưu phiền
Anh tỉnh giấc bên gốc mai già cỗi
Cứ tưởng tiếc dấu hài xưa qua vội
Thềm rêu phong cỏ lạnh - tiếng chim vườn.
Có nhớ không em một hạt bụi đường
Vướng đâu đó trên cuộc tình sương khói
Chiều tàn phai hoa vẫn dậy mùi hương
Ngày tháng lụn vẫn còn trưa tháng Bảy
Đời cứ xuôi theo một dòng nước chảy
Xin nhắc em một thủa đứng bên cầu
Tình trăm năm bờ bãi hoá nương dâu
Vẫn lắng xuống chất bụi vàng óng ả... | Từ Kế Tường |
Kỷ Niệm | poem.php?poem=ky_niem__tu_ke_tuong | Hôm qua có một người
Phơi áo ngoài đầu nắng
Áo xanh ngát cả trời
Cho lòng tôi vừa nặng
Nhè nhẹ ở trong mưa
Chiếc lá vàng đau yếu
Chừng tôi cũng bất ngờ
Như trái cây sầu héo
Tiếng chim gọi qua vườn
Mùa thu trong xác ướp
Người như một làn hương
Còn đầy đôi mắt ướt
Tôi đứng vịn thành cầu
Giòng sông xa như biển
Đau mấy vọng phù kiều
Phù sa giăng cuối bến
Mắt ai ngỡ dáng thuyền
Nghìn năm soi đáy nước
Tóc ai nhánh hạt huyền
Hong nắng sầu thuở trước | Từ Kế Tường |
Mắt Lá | poem.php?poem=mat_la__tu_ke_tuong | Ngày xuân mắt lá về gần
Xanh màu tóc, xanh bàn chân bé rồi
Thơm tho đất một chỗ ngồi
Cánh hoa vàng dại bồi hồi nở chưa.
Xanh lòng với một chút mưa
Cho tình thơ dại đón đưa dỗi hờn
Tháng giêng trời lại gần hơn
Đồi hoa trái nắng, vàng ươm áo dài.
Mắt cười môi thắm vì ai
Chiếc hôn xin giữ bên ngoài giấc mơ
Cổng trường anh lại đứng chờ
Ly chè thơm, chuyến xe về phố đông.
Xanh hàng cây ngả đôi lòng
Bé xanh tuổi mới, xanh dòng mưa thơm
Tìm trong cỏ cánh hoa buồn
Nở trên tay, hoá nụ hôn ban đầu. | Từ Kế Tường |
Một Vầng Trăng Vỡ | poem.php?poem=mot_vang_trang_vo__tu_ke_tuong | Em mắt ướt tóc dài sợi nhỏ
Ta ngẩn ngơ bối rối một đời
Lòng dâu biển đầy vơi mấy độ
Tình mong manh một cõi rong chơi
Xin ghé lại nơi tà áo mỏng
Bờ môi em mộng mị u buồn
Người viễn khách nửa đời gió lộng
Vó ngựa buồn thôi cũng buông cương
Xin bên em những ngày thương nhớ
Đời mây trôi biết có quay về
Tìm trong nước một vầng trăng vỡ
Chỉ bàn tay khua cõi si mê
Xin đi hết một thời thương nhớ
Chợt hôm nào ta lạc mất nhau
Em có khóc khi mùa thu tới
Lòng hanh hao với cuộc tình sầu. | Từ Kế Tường |
Mùa Mưa Qua | poem.php?poem=mua_mua_qua__tu_ke_tuong | Chiếc áo mới trắng tinh hồn mới lụa
Tuổi mười lăm thân mến giấu trong tay
Em bước về màu lá cũ chưa thay
Tôi trẻ dại hơn con đường buổi sáng.
Mầu khăn xếp lượt là hơn nắng thoáng
Mắt em trong, xanh biết đọt trên cành
Tôi thật thà yêu tất cả màu xanh
Yêu tiếng guốc khua vang hồn chim sẻ
Mùa thu tới trong nhịp đằm lặng lẽ
Từng chuyến xe không dừng lại buổi chiều
Tôi đếm hoài hàng cột điện xanh rêu
Hồn ngỡ chạm trên một đường dây thép
Và thương nhớ đựng đầy trong sách ép
Đóa hoa tương vàng úa chẳng còn hương
Tôi làm thơ hờn giận những con đường
Bi thiết hóa một buổi chiều tiễn biệt.
Tôi vẽ ra những chuyện buồn không thật
Đi một mình trên con phố sang thu
Lá rung đầy trong đôi mắt thâm u
Đời một thoáng tưởng chừng như bụi cát.
Đó là lúc ngỡ như sầu chất ngất
Oán hờn em thuốc hút đến vàng tay
Lòng học trò ướp bã những cơn say
Tình mới lớn len hơi nồng chất rượu.
Tuổi mười lăm ngây thơ em vừa đủ
Thoáng làm nghiêm tôi đã gọi hững hờ
Một chút cười là rộn rã ước mơ
Đi cúi xuống nghe chừng em đã giận.
Dòng tóc biếc chảy trên bờ vai phấn
Những ngày xưa hương ướp gửi vào vườn
Đứng bên rào dậy tiếng yêu thương
Con chim nhỏ bay qua hồn mở cửa.
Sớm mai nào mặt trời chưa đủ lửa
Em đến trường chân bước với heo may
Tôi đứng nhìn hôn vội xuống bàn tay
Hơi ấm đó sẽ theo em suốt buổi.
Nếu có gọi, gọi tên đừng nhớ tuổi
Tuổi mười lăm chưa nở hẳn thành bông
Sợi khói buồn chưa vướng mắt xanh trong
Đời có lợp vầng mây cao bát ngát.
Nên mỗi lúc đi ngang ngoài cửa lớp
Tôi lén nhìn rất vội bóng người qua
Tôi lén nhìn rất vội với mong chờ
Nụ cười đó sẽ vờ như thân thiết.
Nên mỗi lúc trời mưa tôi vẫn biết
Đón em bằng giọt nước rớt trên cây
Chiếc lá vàng in dưới bóng chim bay
Con đường đó thản nhiên buồn lớp lớp.
Tuổi mười lăm chim đầu đời cánh chớp
Áo chưa vưà nên còn rộng châu thân
Nếu đã đi xin đi lại vài lần
Cho tôi nghe tiếng cười em thánh thót.
Mùa mưa cũ qua rồi như chim hót
Em có về với chiếc áo năm xưa
Em có về với một nỗi dại khờ
Và đôi mắt có buồn vương chút khói? | Từ Kế Tường |
Nấm Hương | poem.php?poem=nam_huong__tu_ke_tuong | Một chút trời mưa trên lá cây
Cho chiều xuống nhẹ bụi thôi bay
Anh nghe có nửa hừng đông sáng
Vào cửa phòng em ngủ suốt ngày
Một chút buồn vây ở mắt em
Là hồn anh vỡ cửa gương lem
Không trăng cho lá mừng qua tối
Đường cũng im sao mục ánh đèn
Một chút chiều khô trên tóc nhung
Cũng vàng mấy lớp lá sầu đông
Bâng khuâng gió trở se màu nắng
Em có vờ quên sợi nắng hồng
Một chút giòn tươi trên trái xanh
Chua vừa cho cắn khẽ trong răng
Ô mai trong mắt mười ba tuổi
Chín hết vườn mơ mấy độ trăng
Một chút lụa xưa cho áo thơm
Hương ấy anh đem ủ tận hồn
Mùa thu êm ái như tơ sống
Đi nhẹ cho vừa đôi gót son
Một chút đời anh gửi tặng em
Giữ gìn cẩn thận kẻo khi quên
Mai mốt ai ngờ ai có biết
Thời gian phai mất đóa tình duyên
Một chút trời mây để nhớ thương
Bay qua thật chậm trước cổng trường
Em mang mây đó theo vào lớp
Lớp có buồn hơn mắt Nấm Hương? | Từ Kế Tường |
Phù Sa Lộc | poem.php?poem=phu_sa_loc__tu_ke_tuong | Ai hát chi điệu lý qua cầu
Cho lắt lẻo trái tim tôi nồng cháy
Con nước chảy cuộn mình con nước chảy
Nhớ thương em tôi nở tím nhánh lục bình
Ai hát chi " con vịt chết chìm "
Thương tiếc quá tôi " thò tay xuống vớt "
Tôi đâu sợ " lìm kìm " nó " cắn '
Bởi thương em tôi chấp nhận vết thương này
Bởi thương em muồng trổ hoa vàng
Mùa xanh lá bướm làng xô đậu
Tôi ru tôi điệu hát cũ càng
" Người dưng khác họ đem lòng nhớ thương
Ai hát chi " tưới gốc ngô đồng "
Thương em quá áo lồng trong gió
Thương em quá tôi thầm đưa mắt ngó
Để đêm đêm mộng cứ no đầy
Hát đi em câu hát sum vầy
Mùa Xuân đến rợp trời gió chướng
Tôi mở hết tấm lòng sung sướng
Đón em về hát khúc tình chung. | Từ Kế Tường |
Sông Trăng | poem.php?poem=song_trang__tu_ke_tuong | Một khúc sông buồn trôi
Đêm nhòa trong lặng lẽ
Riêng ta hai chỗ ngồi
Một góc đời quạnh quẽ
Thương em mắt tròn xoe
Mở ra dòng sông thẳm
Đôi khóm lục bình xa
Bóng thầm trôi muôn dặm
Trên đầu một vầng trăng
Từ bao giờ đã hiện
Chiếc lá rơi vô tình
Như chân người tìm đến
Sông ơi nói điều gì
Cớ sao im lặng thế
Se lòng trận gió khuya
Buồn rơi theo tiếng lá
Ta chợt già như sông
Em như vầng trăng hiện
Trải sắc vàng mênh mông
Một đêm nào tìm đến... | Từ Kế Tường |
Trên Xác Lá Mùa Hè | poem.php?poem=tren_xac_la_mua_he__tu_ke_tuong | Lửa cũng bừng lên đốt bóng cây
Nghe trong xương lá hết một ngày
Bóng anh đổ xuống từng vuông nắng
Rụng kín sân chiều hoa nắng bay
Nhiều lúc hồn anh như tiếng chim
Xôn xao chân nhỏ bước qua thềm
Nhà anh trở cửa ra mùa hạ
Mở hết đường đi những lối mềm
Một lối để riêng chờ tháng mưa
Đường đi quen thuộc của từng mùa
Anh vui tiếng bé cười như thoáng
Như vỡ bao lần gương nắng xưa
Bé có đi riêng một lối về
Vườn hoa xơ xác những hôm khuya
Cơn mưa đã ghé màu xanh lại
Bên những chùm bông đỏ nắng hè
Hoa nở như tình xanh mắt nhung
Áo vàng hay nắng giãi vào không
Anh ngơ ngẩn thấy hồn hoa cúc
Cười thoáng rưng giọt nước mắt hồng
Bé ngoan hơn cỏ ở bên đường
Một mùa thu cũ thả tơ vương
Anh mang võng lưới giăng hồn nhện
Bắt giữ rằng anh phải nhớ thương
Bắt giữ rằng anh luôn nhớ mong
Cả đời anh nữa vẫn vô cùng
Nghe trên xác lá còn im ngủ
Vỡ cuộc tình buồn bé biết không? | Từ Kế Tường |
Trường Cũ | poem.php?poem=truong_cu__tu_ke_tuong | Mỗi dãy ba căn lớp học trò
Những bàn những ghế những âu lo
Trường tôi một thuở trông ngơ ngác
Tường ngả màu vôi mái ngói co.
Năm tháng thường xuyên chiếc cổng xiêu
Như hồn của nắng trở sang chiều
Như mưa một buổi về lất phất
Đem lá vào sân gửi ít nhiều.
Tôi vẫn thân được ít bạn hiền
Đứa nghèo xơ xác, đứa truân chuyên
Quần thô áo vá đầu không chải
Sách vở ngang vừa tấm bảng đen.
Phố tôi ở cách phố người Tàu
Nhà tôi ngơ ngác một cầu ao
Chị tôi giặt lụa quanh chân nước
Nắng mới về trêu má chị đào.
Bạn tôi thỉnh thoảng mới sang chơi
Bến nước thường mơ một bến trời
Bầy chim thân mến reo trong nắng
Ngơ ngẩn buồn theo một dáng người
Tất cả các môn chỉ một thầy
Suốt mùa mực tím vả trên tay
Chỗ ngồi mỗi đứa thường thay đổi
Để lúc mơ nhìn hoa lá bay.
Mỗi năm một tết, một mùa hoa
Tôi vẫn không hay chuyện bất ngờ
Bạn bè con gái ra đi hết
Trường cũ bây giờ như tích xưa. | Từ Kế Tường |
Có Bệnh Bảo Mọi Người | poem.php?poem=co_benh_bao_moi_nguoi__man_giac_thien_su | 告 疾 示 眾
春 去 百 花 落
春 到 百 花 開
事 逐 眼 前 過
老 從 頭 上 來
莫 謂 春 殘 花 落 盡
庭 前 昨 夜 一 枝 梅
Cáo tật thị chúng
Xuân khứ bách hoa lạc,
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tòng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai
Dịch thơ:
Có bệnh bảo với mọi người
Xuân trỗi, trăm qua rụng
Xuân tới, trăm hoa cười
Trước mắt việc đi mãi
Trên đầu tóc bạc phơ
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua, sân trước một cành mai .
(Bản dịch của Ngô Tất Tố) | Mãn Giác thiền sư |
Bông Hoa Trinh Sát | poem.php?poem=bong_hoa_trinh_sat__mai_van_hai | Gió bấc thổi nhiều quá
Đẩy mùa đông dài ra
Lưới mưa phùn kéo qua
Ngăn bước ngày xuân lại
Giọt nắng vàng hoa cải
Trốn đi đâu cả rồi?
Nay mây nghiêng thấp thế
Trời đổ sương muối phơi
Cây không chịu được rét
Đứng run bên lề đường
Ếch thôi nhảy bờ mương
Khép cửa hang đi ngủ
Riêng bông hoa đào nhỏ
Trinh sát của mùa xuân
Cứ ngược chiều sương giá
Về nở hồng trước sân
Tức thì sắp xa gần
Chim non kêu chíp chíp
Và một trời lộc biếc
Đã mọc lên trùng trùng… | Mai Văn Hai |
Lục Vân Tiên | poem.php?poem=luc_van_tien__nguyen_dinh_chieu | Trước đèn xem truyện Tây minh, (1)
Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le.
Hỡi ai lẳng lặng mà nghe,
Dữ răn việc trước lành dè thân sau.
Trai thời trung hiếu làm đầu
Gái thời tiết hạnh là câu trau mình.
Có người ở quận Đông Thành,
Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền.
Đặt tên là Lục Vân Tiên,
Tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành. (2)
Theo thầy nấu sử xôi kinh,
Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao (3)
Văn đà khởi phung đằng giao, (4)
Võ thêm ba lược sáu thao ai bì.
Xảy nghe mở hội khoa thi,
Vân tiên vào tạ tôn sư xin về:
"Bấy lâu cửa thánh dựa kề,
Đã tươi khí tượng lại xuê tinh thần.
Nay đà gặp hội long vân,
Ai ai mà chẳng lập thân buổi này.
Chí lăm bắn nhạn ven mây, (5)
Danh tôi đặng rạng tiếng thầy bay xa. (6)
Làm trai trong cõi người ta,
Trước là báo bổ sau là hiển vang". (7)
Tôn sư khi ấy luận bàn:
"Gẫm trong số hệ khoa tràng còn xa.
Máy trời chẳng dám nói ra, (8)
Xui thầy thương tới xót xa trong lòng.
Sau dầu tỏ nỗi đục trong.
Phải toan một phép để phòng hộ thân.
Rày con xuống chốn phong trần,
Thầy cho hai đạo phù thần đem theo. (9)
Chẳng may mà gặp lúc nghèo, (10)
Xuống sông cũng vững lên đèo cũng an".
Tôn sư trở lại hậu đàng,
Vân Tiên ngơ ngẩn trong lòng sinh nghi:
"Chẳng hay mình mắc việc chi,
Tôn sư người dạy khoa kì còn xa?
Hay là bối rối việc nhà,
Hay là đức bạc hay là tài sơ?
Bấy lâu lòng những ước mơ
Hội này chẳng gặp còn chờ hội nao?
Nên hư chẳng biết làm sao,
Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh.
Đặng cho rõ nỗi sự tình,
Ngõ sau ngàn dặm đăng trình mới an".
Tôn sư ngồi hãy thở than,
Ngó ra trước án thấy chàng trở vô.
Hỏi rằng : "Vạn lý trường đồ,
Sao chưa cất gánh trở vô việc gì?
Hay là con hãy hồ nghi,
Thầy bàn một việc khoa kì ban trưa?"
Vân Tiên nghe nói liền thưa:
"Tiểu sanh chưa biết nắng mưa buổi nào.
Song đường tuổi hạc đã cao, (11)
Xin thầy nói lại âm hao con tường". (12)
Tôn sư nghe nói thêm thương,
Dắt tay ra chốn tiền đường xem trăng.
Nhân cơ tàng sự dặn rằng: (13)
"Việc người chẳng khác việc trăng trên trời.
Tuy là soi khắp mọi nơi,
Khi mờ khi tỏ khi vơi khi đầy.
Sau con cũng rõ lẽ này,
Lựa là con phải hỏi thầy làm chi.
Số con hai chữ khoa kì,
Khôi tinh đã rạng tử vi thêm loà. (14)
Hiềm vì ngựa chạy đường xa,
Thỏ vừa ló bóng gà đà gáy tan. (15)
Bao giờ cho tới bắc phang,
Gặp chuột ra đàng con mới nên danh.
Sau dầu đặng chữ hiển vinh,
Mấy lời thầy nói tiền trình chẳng sai. (16)
Trong cơ bĩ cực thới lai,
Giữ mình cho vẹn việc ai chớ sờn".
Vân Tiên vội vã tạ ơn,
Trăm năm dốc giữ keo sơn mọi lời.
Ra đi vừa rạng chân trời,
Ngùi ngùi nhớ lại nhớ nơi học đường.
Tiên rằng: "Thiên các nhứt phương. (17)
Thầy đeo đoản thảm tơ vương mối sầu.
Quản bao thân trẻ dãi dầu,
Mang đai Tử Lộ quảy bầu Nhan Uyên. (18)
Bao giờ cá nước gặp duyên,
Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay". (19)
Kể từ lướt dặm tới nay,
Mỏi mê hầu đã mấy ngày xông sương.
Đoái nhìn phong cảnh thêm thương,
Vơi vơi dặm cũ nẻo đường còn xa.
Chi bằng kiếm chốn lân gia,
Trước là tìm bạn sau là nghỉ chân.
Việc chi than khóc tưng bừng,
Đều đem nhau chạy vào rừng lên non?
Tiên rằng: "Bớ chú cõng con,
Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài?"
Dân rằng: "Tiểu tử là ai,
Hay là một đảng sơn đài theo tao?" (20)
Tiên rằng: "Cớ sự làm sao,
Xin ngừng vài bước sẽ trao một lời".
Dân nghe tiếng nói khoan thai,
Kêu nhau dừng lại bày lời phân qua:
"Nhơn rày có đảng lâu la,
Tên rằng Đỗ Dự hiệu là Phong Lai.
Nhóm nhau ở chốn sơn đài,
Người đều sợ nó có tài khôn đương.
Bây giờ xuống cướp thôn hương.
Thấy con gái tốt qua đường bắt đi.
Xóm làng chẳng dám nói chi,
Cảm thương hai gã nữ nhi mắc nàn.
Con ai vóc ngọc mình vàng,
Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng. (21)
E khi mắc đảng hành hung,
Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu. (22)
Thôi thôi chẳng dám nói lâu,
Chạy đi cho khỏi kẻo âu tới mình". (23)
Vân Tiên nổi giận lôi đình,
Hỏi thăm: "Lũ nó còn đình nơi nao?
Tôi xin ra sức anh hào,
Cứu người cho khỏi lao đao buổi này".
Dân rằng: "Lũ nó còn đây,
Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành. (24)
E khi hoạ hổ bất thành (25)
Khi không mình lại xô mình xuống hang". (26)
Vân Tiên ghé lại bên đàng,
Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô.
Kêu rằng: "Bớ lũ hung đồ,
Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân".
Phong Lai mặt đỏ phừng phừng:
"Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây?
Trước gây việc dữ tại mầy.
Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng".
Vân Tiên tả đột hữu xung,
Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dương. (27)
Lâu la bốn phía vỡ tan,
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay.
Phong Lai trở chẳng kịp tay,
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong.
Dẹp rồi lũ kiến chòm ong,
Hỏi: "Ai than thóc ở trong xe này?"
Thưa rằng: "Tôi thiệt người ngay,
Sa cơ nên mới làm tay hung đồ.
Trong xe chật hẹp khôn phô,
Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng".
Vân Tiên nghe nói động lòng,
Đáp rằng: "Ta đã trừ dòng lâu la.
Khoan khoan ngồi đó chớ ra,
Nàng là phận gái ta là phận trai.
Tiểu thơ con gái nhà ai,
Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ?
Chẳng hay tên họ là chi,
Khuê môn phận gái việc gì đến đây?
Trước sau chưa hãn dạ này, (28)
Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra".
Thưa rằng: "Tôi Kiều Nguyệt Nga,
Con này tì thiếp tên là Kim Liên.
Quê nhà ở quận Tây Xuyên,
Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê.
Sai quân đem bức thơ về,
Rước tôi qua đó định bề nghi gia.
Làm con đâu dám cãi cha,
Ví dầu ngàn dặm đường xa cũng đành.
Chẳng qua là sự bất bình,
Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi.
Lâm nguy chẳng gặp giải nguy,
Tiết trm năm cũng bỏ đi một hồi.
Trước xe quân tử tạm ngồi,
Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa.
Chút tôi yếu liễu đào thơ,
Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần.
Hà Khê qua đó cũng gần,
Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng.
Gặp đây đương lúc giữa đàng,
Của tiền chẳng có bạc vàng thì không.
Gẫm câu báo đức thù công, (29)
Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi".
Vân Tiên nghe nói liền cười:
"Làm ơn há dễ trông người trả ơn?
Nay đà rõ đặng nguồn cơn,
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì.
Nhớ câu kiến ngãi bất vi,
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng. (30)
Đó mà biết chữ thỉ chung,
Lựa là đây phải theo cùng làm chi".
Nguyệt Nga biết ý chẳng đi,
Hỏi qua tên họ một khi cho tường.
Thưa rằng: "Tiện thiếp đi đường,
Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?"
Phút nghe lời nói thanh tao,
Vân Tiên há nỡ lòng nào phôi pha:
"Đông Thành vốn thiệt quê ta,
Họ là Lục thị tên là Vân Tiên".
Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên,
Tai nghe lời nói tay liền rút trâm.
Thưa rằng: "Nay gặp tri âm,
Xin đưa một vật để cầm làm tin".
Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn,
Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na: (31)
"Vậy chi một chút gọi là,
Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ.
Của này là của vất vơ, (32)
Lòng chê cũng phải lòng ngơ sao đành".
Vân Tiên khó nỗi làm thinh,
Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây. (33)
Than rằng: "Đó khéo trêu đây,
Ơn kia đã mấy của này rất sang.
Đương khi gặp gỡ giữa đàng,
Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai.
Nhớ câu trọng ngãi khinh tài,
Nào ai chịu lấy của ai làm gì".
Thưa rằng: "Chút phận nữ nhi,
Vốn chưa biết lẽ có khi mích lòng.
Ai dè những đứng anh hùng,
Thấy trâm thôi lại thẹn cùng cây trâm".
Riêng than: "Trâm hỡi là trâm,
Vô duyên chi bấy ao cầm mà mơ?
Đưa trâm chàng đã làm ngơ,
Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ".
Vân Tiên ngó lại rằng: "ừ,
Làm thơ cho kịp bấy chừ chẳng lâu".
Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu,
Xuống tay liền tả tám câu văn vần:
"Thơ rồi này thiếp xin dâng,
Ngửa trông lượng rộng văn nhân thế nào?"
Vân Tiên xem thấy ngạt ngào, (34)
Ai dè sức gái tài cao bực này.
Đã mau mà lại thêm hay,
Chẳng phen Tạ nữ cùng tày Từ phi. (35)
Thơ ngâm dũ xuất dũ kì, (36)
Cho hay tài gái kém gì tài trai.
Như vầy ai lại thua ai,
Vân Tiên hoạ lại một bài trao ra.
Xem thơ biết ý gần xa,
Mai hoà vận điểu, điểu hoà vận mai (37)
Có câu xúc cảnh hứng hoài, (38)
Đường xa vòi vọi dặm dài vơi vơi.
Ai ai cũng ở trong trời,
Gặp nhau lời đã cạn lời thời thôi.
Vân Tiên từ giã phản hồi,
Nguyệt Nga than thở: "Tình ôi là tình.
Nghĩ mình mà ngán cho mình,
Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương.
Nặng nề hai chữ uyên ương.
Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng.
Nguyệt cùng Nguyệt lão hỡi ông,
Trăm năm cho vẹn chữ tùng mới an. (39)
Hữu tình chi bấy Ngưu lang, (40)
Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng.
Thôi thôi em hỡi Kim Liên,
Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê".
Trải qua dấu thỏ đường dê, (41)
Chim kêu vượn hú tứ bề nước non.
Vái trời cho đặng vuông tròn,
Trăm năm cho trọn lòng son với chàng.
Phút đâu đã tới phủ đàng,
Kiều công xem thấy lòng càng sinh nghi.
Hỏi rằng: "Nào kẻ tuỳ nhi, (42)
Cớ sao nên nỗi con đi một mình?"
Nguyệt Nga thưa việc tiền trình, (43)
Kiều công tưởng nỗi sự tình chẳng vui.
Nguyệt Nga dạ hãy bùi ngùi,
Nghĩ mình thôi lại sụt sùi đòi cơn: (44)
"Lao đao phận trẻ chi sờn,
No nao trả đặng công ơn cho chàng". (45)
Kiều công nghe nói liền can,
Dạy rằng: "Con hãy nghỉ an mình vàng.
Khi nào cha rảnh việc quan,
Cho quân đến đó mời chàng đến đây.
Sao sao chẳng kịp thời chày, (46)
Cha nguyền trả đặng ơn nầy thời thôi.
Hậu đường con hãy tạm lui,
Làm khuây dạ trẻ cho vui lòng già".
Tây lầu trống điểm sang ba,
Nguyệt Nga còn hãy xót xa phận mình.
Dời chân ra chốn hoa đình, (47)
Xem trăng rồi lại chạnh tình cố nhơn.
Than rằng: "Lưu thuỷ cao sơn,
Ngày nào nghe đặng tiếng đờn tri âm.
Chữ tình càng tưởng càng thâm, (48)
Muốn pha khó lợt muốn dầm khôn phai.
Vơi vơi đất rộng trời dài,
Hỡi ai nỡ để cho ai đeo phiền".
Trở vào bèn lấy bút nghiên,
Đặt bàn hương án chúc nguyền thần linh.
Làu làu một tấm lòng thành,
Hoạ ra một bức tượng hình Vân Tiên.
Than rằng: "Ngàn dặm sơn xuyên, (49)
Chữ ân để dạ chữ duyên nhuốm sầu".
Truyện nàng sau hãy còn lâu,
Truyện chàng xin nối thứ đầu chép ra. (50)
Vân Tiên từ cách Nguyệt Nga,
Giữa đường lại gặp người ra kinh kì.
Xa xem mặt mũi đen xì,
Mình cao sồ sộ dị kì rất hung.
Nhớ câu bình thuỷ tương phùng, (51)
Anh hùng lại gặp anh hùng một khi:
"Chẳng hay danh tánh là chi,
Một mình mang gói ra đi việc gì".
Đáp rằng: "Ta cũng xuống thi,
Hớn Minh tánh tự, Ô Mi quê nhà
Vân Tiên biết lẽ chính tà,
Hễ người dị tướng ắt là tài cao.
Chữ rằng: "Bằng hữu chi giao, (52)
Tình kia đã gặp lẽ nào làm khuây.
Nên rừng há dễ một cây,
Muốn cho có đó cùng đây luôn vần.
Kìa nơi võ miếu hầu gần,
Hai ta vào đó nghỉ chưn một hồi".
Cùng nhau bày họ tên rồi,
Hai chàng từ tạ đều lui ra đường.
Hớn Minh đi trước tựu trường,
Vân Tiên còn hãy hồi hương viếng nhà.
Mừng rằng: "Nay thấy con ta,
Cha già hằng tưởng mẹ già luống trông.
Bấy lâu đèn sách gia công,
Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?"
Vân Tiên quỳ lạy thưa rằng:
"Chẳng hơn người cổ cũng bằng người kim.
Dám xin cha mẹ an tâm,
Cho con trả nợ thanh khâm cho rồi" (53)
Mẹ cha thấy nói thêm vui,
Lại lo non nước xa xôi nghàn trùng.
Cho theo một đứa tiểu đồng,
Thư phong một bức dặn cùng Vân Tiên:
"Xưa đà định chữ lương duyên,
Cùng quan hưu trí ở miền Hàn Giang,
Con người là Võ Thể Loan.
Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn mà. (54)
Chữ rằng Hồ Việt nhứt gia, (55)
Con đi qua đó trao qua thơ này.
Con dầu bước đặng thang mây,
Dưới chưn đã sẵn một dây tơ hồng".
Song thân dạy bảo vừa xong,
Vân Tiên cùng gã tiểu đồng dời chân.
a đi tách dặm băng chừng,
Gió nam rày đã đưa xuân sang hè.
Lại xem dặm liễu đường hoè,
Tin ong ngơ ngáo tiếng ve vang dầy.
Vui xem nước nọ non nầy,
Nước xao sóng dợn non vầy đá cao.
Màn trời gấm trải biết bao,
Trên nhành chim hót dưới ao cá cười.
Quận thành nhắm cảnh coi người,
Cảnh xinh như vẽ người tươi như dồi. (56)
Hàn Giang phút đã tới nơi,
Vân Tiên ra mắt một hồi trình thơ.
Võ công lấy đọc bấy giờ,
Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng liền. (57)
Liếc coi tướng mạo Vân Tiên,
Khá khen học Lục phước hiền sinh con.
Mày tằm mắt phụng môi son,
Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân.
Những e kẻ Tấn người Tần, (58)
Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ giai. (59)
Xem đà đẹp đẽ hoà hai,
Này dâu nam giản nọ trai đông sàng (60)
Công rằng: "Ngãi tế mới sang, (61)
Muốn lo việc nước phải toan việc nhà".
Tiên rằng: "Nhờ lượng nhạc gia,
Đại khoa dầu đặng tiểu khoa lo gì". (62)
Công rằng: "Con dốc xuống thi,
Sao không kết bạn mà đi tựu trường?
Gần đây có một họ Vương,
Tên là Trử Trực văn chương tót đời. (63)
Cha đà sai trẻ qua mời,
Rằng con cùng gã thử chơi một bài.
Thấp cao cao thấp biết tài,
Vầy sau trước bạn cùng mai mới mầu". (64)
Xảy đâu Trử Trực tới hầu,
Võ công sẵn đặt một bầu rượu ngon.
Công rằng: "Nầy bớ hai con,
Thơ hay làm đặng rượu ngon thưởng liền.
Muốn cho Trực sánh cùng Tiên,
Lấy câu bình thuỷ hữu duyên làm đề". (65)
Song song hai gã giao kề, (66)
Lục Vương hai họ đua nghề một khi
Cho hay kì lại gặp kì, (67)
Bạch Hàm há dễ kém chi Như Hoành. (68)
Công rằng : "Đơn quế đôi nhành,
Bảng vàng thẻ bạc đã đành danh nêu.
Như chuông chẳng đánh chẳng kêu,
Ngọn đèn tỏ rõ trước khêu bởi mình.
Thiệt trang lương đống đã đành, (69)
Khá khen hai họ tài lành hoà hai".
Trực rằng: "Tiên vốn cao tài,
Có đâu én hộc sánh vai một bầy? (70)
Tình cờ mà gặp nhau đây,
Trực này xin nhượng Tiên này làm anh.
Nay đà nên nghĩa đệ huynh,
Xin về mai sẽ thượng trình cùng nhau". (71)
Phút xem trăng đã đứng đầu,
Vân Tiên vào chốn thư lầu nghỉ an.
Võ công trở lại hậu đàng,
Đêm khuya dạy dỗ Thể Loan mọi lời:
"Ngày mai vừa rạng chưn trời,
Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đình. (72)
Gọi là chút nghĩa tống tình. (73)
Phòng sao cho khỏi bất bình cùng nhau".
Bóng trăng vừa lộ nhành dâu,
Vân Tiên vào tạ giây lâu xuất hành.
Ra đi vừa thuở bình minh,
Thể Loan đứng trước lê đình liễm dung. (74)
Thưa rằng: "Quân tử phó công, (75)
Xin thương bồ liễu chữ tùng ngây thơ.
Tấm lòng thương gió nhớ mưa, (76)
Đường xa ngàn dặm xin đưa một lời.
Ngày nay thánh chúa trị đời,
Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng. (77)
Quản bao chút phận má hồng.
Phòng khuya vò võ đợi trông khôn lường.
Chàng dầu cung quế xuyên dương, (78)
Thiếp xin hai chữ tào khương cho bằng. (79)
Xin đừng tham đó bỏ đăng, (80)
Chơi lê quên lựu chơi trăng quên đèn".
Tiên rằng : "Như lửa mới nhen,
Dễ trong một bếp mà chen mấy lò.
May duyên rủi nợ dễ phô, (81)
Chớ nghi Ngô Khởi hãy lo Mãi Thần" (82)
Thể Loan vội vã lui chân,
Vân Tiên từ biệt trông chừng Tràng An.
Xa xa vừa mấy dặm đàng,
Gặp Vương Tử Trực vầy đoàn cùng đi. (83)
Trải qua thuỷ tú sơn kì, (84)
Phỉ lòng cá nhảy gặp thì rồng bay. (85)
Người hay lại gặp cảnh hay,
Khác nào tiên tử chơi rày Bồng Lai.
Cùng nhau tả chút tình hoài, (86)
Năm ba chén rượu một vài câu thơ.
Công danh ai chẳng ước mơ,
Ba tầng cửa Võ một giờ nhảy qua. (87)
Cùng nhau bàn bạc gần xa
Chữ tài chữ mệnh xưa hoà ghét nhau.
Trực rằng: "Rồng xuống vực sâu,
Mặc dầu giỡn sóng mặc dầu chơi mây". (88)
Tiên rằng: "Hồng hộc đều bay,
E khi mỏi cánh lạc bầy về sau" (89)
Mảng còn trò chuyện với nhau,
Trông chừng kinh địa đã hầu tới nơi. (90)
Chênh vênh vừa xế mặt trời,
Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kì.
Đều bày tên họ một khi mới tường.
Một người ở quận Phan Dương,
Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn.
Một người ở phủ Dương Xuân,
Họ Bùi tên Kiệm tác chừng đôi mươi. (91)
Hai người lại gặp hai người,
Đều vào một quán vui cười ngả nghiêng.
Kiệm rằng: "Nghe tiếng anh Tiên,
Nay đã thấy mặt phỉ nguyền ước ao".
Hâm rằng: "Chưa biết thấp cao,
Làm thơ mới biết bậc nào tài năng:".
Bèn kêu ông quán nói rằng:
"Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề". (92)
Quán rằng: "Thịt cá ê hề,
Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu.
Kìa là thuốc lá ướp ngâu, (93)
Trà ve điểm tuyết, rượu bầu cúc hương. (94)
Để khi đãi khách giàu sang,
Đãi người văn vật đãi trang anh hùng".
Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ.
Kiệm Hâm còn hãy ngẩn ngơ,
Phút thơ Tiên Trực một giờ đều xong.
Kiệm Hâm xem thấy lạ lùng,
Gẫm nghi Tiên Trực viết tùng cổ thi. (96)
Chẳng hay ông quán cười chi,
Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài.
Tiên rằng: "Ông quán cười ai?"
Quán rằng: "Cười kẻ bất tài đồ thơ, (97)
Cười người Tôn Tẫn không lừa,
Trước đà thấy máy chẳng ngừa Bàng Quyên". (98)
Trực rằng : "Lời nói hữu duyên,
Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng?" (99)
Quán rằng: "Kinh sử đã từng,
Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa.
Hỏi thời ta phải nói ra,
Vì chưng hay ghét cũng là hay thương" (100)
Tiên rằng: "Trong đục chưa tường,
Chẳng hay thương ghét ghét thương lẽ nào?"
Quán rằng: "Ghét việc tầm phào, (101)
Ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm.
Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm, (102)
Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang.
Ghét đời U Lệ đa đoan, (103)
Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần.
Ghét đời ngũ bá phân vân, (104)
Chuộng bể dối trá làm dân nhọc nhằn.
Ghét đời thúc quí phân băng, (105)
Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân.
Thương là thương đức thánh nhân,
Khi nơi Tống Vệ lúc Trần lúc Khuông. (106)
Thương thầy Nhan Tử dở dang. (107)
Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh.
Thương ông Gia Cát tài lành,
Gặp cơn Hớn mạt đã đành phui pha. (108)
Thương thầy Đồng tử cao xa, (109)
Chí thời có chí ngôi mà không ngôi.
Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi, (110)
Lỡ bề giúp nước lại lui về cày.
Thương ông Hàn Dũ chẳng may, (111)
Sớm dưng lời biểu ối đày đi xa.
Thương thầy Liêm Lạc đã ra, (112)
Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân.
Xem qua kinh sử mấy lần,
Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương".
Trực rằng: "Chùa rách Phật vàng, (113)
Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân. (114)
Thương dân sao chẳng lập thân,
Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?"
Quán rằng: "Nghiêu Thuấn thuở xưa, (115)
Khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do. (116)
Di Tề chẳng khứng giúp châu, (117)
Một mình một núi ai hầu chi ai.
Ông Y ông Phó ôm tài, (118)
Kẻ cày người cuốc đoái hoài chi đâu.
Thái Công xưa một cần câu, (119)
Hôm mai sông Vị mặc dầu vui chơi.
Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi, (120)
Cày mây câu nguyệt tả tơi áo cầu. (121)
Trần Đoàn chẳng chút lo âu, (122)
Gió trăng một túi công hầu chiêm bao, (123)
Người nay có khác xưa nào,
Muốn ra ai cấm muốn vào ai ngăn".
Hâm rằng: "Lão quán nói nhăng,
Dẫu cho trải việc cũng thằng bán cơm.
Gối rơm theo phận gối rơm,
Có đâu ở thấp mà chồm lên cao".
Quán rằng: "Sấm chớp mưa rào,
Ếch ngồi đáy giếng thấy bao lăm trời.
Sông trong cá lội thảnh thơi,
Xem hai con mắt sáng ngời như châu.
Uổng thay đàn gảy tai trâu,
Nước xao đầu vịt ngẫm âu nực cười".
Tiên rằng: "Ông quán chớ cười,
Đây đà nhớ lại bảy người Trước Lâm. (124)
Cùng nhau kết bạn đồng tâm,
Khi cờ khi rượu khi cầm khi thi.
Công danh phú quí màng chi,
Sao bằng thong thả mặc khi vui lòng.
Rừng nhu biển thánh minh mông, (125)
Dù ai lặn lội cho cùng vậy vay".
Quán rằng: "Đó biết ý đây,
Lời kia đã cạn rượu này thưởng cho".
Kiệm Hâm là đứa so đo,
Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng.
Khoa này Tiên ắt đầu công,
Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi.
Mảng còn nghĩ việc tới lui,
Xảy nghe trống đã giục thôi vào trường.
Kẻ thùng người tráp đầy đường,
Lao xao đoàn bảy chàng ràng lũ la.
Vân Tiên vừa bước chân ra,
Bỗng đâu xảy gặp tin nhà gởi thơ.
Khai phong mới tỏ sự cơ, (126)
Mình gieo xuống đất dật dờ hồn hoa.
Hai hàng luỵ ngọc nhỏ sa,
Trời nam đất bắc xót xa đoạn trường.
Anh em ai nấy đều thương,
Trời ơi há nỡ lấp đường công danh.
Những lăm công toại danh thành,
Nào hay từ mẫu u minh sớm đời!
Gắng vào trong quán yên nơi,
Tớ thầy than thở liệu lời quy lai. (127)
Tiểu đồng than vắn than dài:
"Trời sao trời nỡ phụ tài người ngay".
Trực rằng: "Đã đến nỗi này,
Tiểu đồng bậu hãy làm khuây giải phiền.
Sớm hôm thang thuốc giữ gìn,
Chờ ta vài bữa ra trường sẽ hay,
Bây giờ kíp rước thợ may,
Sắm đồ tang phục nội ngày cho xong.
Dây rơm mũ bạc áo thùng.
Cứ theo trong sách Văn Công mà làm". (128)
Tiên rằng: "Con bắc mẹ nam,
Nước non vòi vọi đã cam lỗi nghì.
Trong mình không cánh không vi,
Lấy chi lướt dặm lấy chi bớt đàng.
Vào trong phút lại gặp tang,
Ngẩn ngơ kẻ ở lỡ làng người đi.
Việc trong trời đất biết chi,
Sao dời vật đổi còn gì mà trông.
Hai hàng lụy ngọc ròng ròng,
Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu.
Cánh buồm bao quản gió xiêu,
Ngàn trùng biển rộng chín chìu ruột đau.
Thương thay chín chữ cù lao. (129)
Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình". (130)
Quán rằng: "Trời đất thình lình,
Gió mưa đâu phút gãy cành thiên hương". (131)
Ai ai trông thấy cũng thương,
Lỡ bề báo hiếu lỡ đường lập thân.
Dẫu cho chước quỷ mưu thần,
Phong trần ai cũng phong trần như ai.
Éo le ai khéo đặt bày,
Chữ tài liền với chữ tai một vần.
Đường đi hơn tháng chẳng gần,
Khi qua khi lại mấy lần xông pha.
Xảy đâu bạn tác vừa ra, (132)
Trực cùng Hâm Kiệm xúm mà đưa Tiên.
Hâm rằng: "Anh chớ ưu phiền,
Khoa này chẳng gặp ta nguyền khoa sau.
Thấy nhau khó nỗi giúp nhau,
Một vừng mây bạc dàu dàu khá thương".
Vân Tiên cất gánh lên đường,
Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng nhỏ sa.
Đi vừa một dặm đường xa,
Phút nghe ông quán bôn ba theo cùng.
Quán rằng: "Thương đấng anh hùng,
Đưa ba hườn thuốc để phòng hộ thân.
Chẳng may gặp lúc gian truân.
Đương khi quá đói thuốc thần cũng no".
Tiên rằng: "Cúi đội ơn cho,
Tấm lòng ngài ngại hãy lo xa gần". (133)
Quán rằng: "Ta cũng bâng khuâng,
Thấy vầy nên mới tị trần đến đây. (134)
Non xanh nước biếc vui vầy,
Khi đêm rượu cúc khi ngày trà lan.
Dấn thân vào chốn an nhàn,
Thoát vòng danh lợi lánh đàng thị phi".
Nói rồi quày quả ra đi, (135)
Vân Tiên xem thấy càng nghi trong lòng.
Trông chừng dặm cũ thẳng xông,
Nghĩ đòi cơn lại não nùng đòi cơn:
"Nên, hư chút phận chi sờn,
Nhớ câu dưỡng dục lo ơn sanh thành. (136)
Mang câu bất hiếu đã đành,
Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con.
Trọn đời một tấm lòng son,
Chí lăm trả nợ nước non cho rồi.
Nào hay nước chảy hoa trôi,
Nào hay phận bạc như vôi thế này.
Một mình ngơ ngẩn đường mây,
Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương.
Đến nay lâm việc mới tường,
Hèn chi thầy dạy khoa trường còn xa".
Tiểu đồng thấy vậy thưa qua:
"Gẫm đây cho đến quê nhà còn lâu.
Thầy sao chẳng ngớt cơn sầu,
Mình đi đã mỏi dòng châu thêm nhuần.
E khi mang bịnh nửa chừng,
Trong non khó liệu giừa rừng khôn toan".
Tiên rằng: "Khô héo lá gan,
Ôi thôi con mắt đã mang lấy sầu.
Mịt mù nào thấy chi đâu, (137)
Chưa đi đã mỏi mình đau như dần.
Có thân phải khổ vì thân,
Thân ơi thân biết mấy lần chẳng may!"
Đồng rằng: "Trời đất có hay,
Ra đi vừa đặng mười ngày lại đau.
Một mình nhắm trước nhắm sau,
Xanh xanh bờ cõi dào dào cỏ cây.
Vốn không làng xóm chi đây,
Xin lần tới đó tìm thầy thuốc thang.
Vừa may gặp khách qua đàng,
Người người đều chỉ vào làng Đồng Văn
Dắt nhau khi ấy hỏi phăn, (138)
Gặp thầy làm thuốc tên rằng Triệu Ngang.
Ngang rằng: "Khá tạm nghỉ an,
Rạng ngày coi mạch đầu thang mới đành. (139)
Gặp ta bịnh ấy ắt lành,
Bạc tiền trong gói sẵn dành bao nhiêu?"
Đồng rằng: "Tiền bạc chẳng nhiều,
Xin thầy nghĩ lượng đặng điều thuốc thang.
May mà bịnh ấy đặng an,
Bạc còn hai lượng trao sang cho thầy".
Ngang rằng: "Ta ở chốn này,
Ba đời nối nghiệp làm thầy vừa ba.
Sách chi cũng đủ trong nhà,
Nội kinh đã sẵn ngoại khoa thêm mầu.
Trước xem Y học làm đầu,
Sau coi Thọ thế thứ cầu Đông y. (140)
Gẫm trong Ngân hải tinh vi, (141)
Cùng là Cang mục thua gì Thanh nang. (142)
Gẫm trong Tập nghiệm lương phang. (143)
Cùng là Ngự Toản trải đàng Hồi xuân. (144)
Vị chi sẵn đặt quân thần, (145)
Thuốc thời bào chế mười phần nỏ nan. (146)
Mạch thời đọc phú Lư san, (147)
Đặt vào tay bịnh biết đàng tử sanh
Lục quân tứ vật thanh danh. (148)
Thập toàn Bát vị sẵn dành nội thương. (149)
Lại thông Bát trận tân phương. (150)
Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang Ngũ sài. (151)
|Đồng rằng: "Thầy thiệt có tài,
Xin vào coi mạch luận bài thuốc chi.
Ngang rằng: "Lục bộ đều suy, (152)
Bộ quan bên tả mạch đi phù hồng. (153)
Cứ trong kinh lạc mà thông, (154)
Mạng môn tướng hoả đã xông lên đầu. (155)
Tam tiêu tích nhiệt đã lâu,
Muốn cho giáng hoả phải đầu tư âm. (156)
Huỳnh liên huỳnh bá huỳnh cầm, (157)
Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình. (158)
Ngoài thời cho điểm vạn linh, (159)
Trong thời cho uống hoàn tình mới xong. (160)
Khá trao hai lượng bạc ròng,
Bổ thêm vị thuốc để phòng đầu thang.
Chẳng qua làm phước cho chàng,
Nào ai đòi cuộc đòi đàn chi ai". (161)
Tiểu đồng những ngỡ thiệt tài,
Vội vàng mở gói chẳng nài liền trao.
Mười ngày chẳng bớt chút nào,
Thêm đau trong dạ như bào như xoi.
Đồng rằng: "Vào đó thầy coi,
Bịnh thời không giảm thầy đòi tiền thêm".
Ngang rằng: "Nằm thấy khi đêm.
Tiên sư mách bảo một điềm chiêm bao. (162)
Quỉ thần người ở trên cao,
E khi đường sá lẽ nào biết đâu? (163)
Tiểu đồng, người khá qua cầu, (164)
Cùng ông thầy bói ở đầu tây viên".
Tiểu đồng nghe nói đi liền,
Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi.
Bói rằng: "Ta bói hẳn hoi,
Bói hay đã dậy người coi đã đầy.
Ta đây nào phải các thầy,
Bá vơ bá vất nói nhây không nhằm.
Ôn nhuần Châu Diệc mấy năm,
Sáu mươi bốn quẻ ba trăm dư hào. (165)
Huỳnh kim Dã hạc sách cao, (166)
Lục Nhâm Lục giáp chỗ nào chẳng hay. (167)
Can, chi đều ở trong tay, (168)
Đã thông trời đất lại hay việc người.
Đặt tiền quan mốt bốn mươi,
Khay trầu chén rượu cho tươi mới thành".
Thầy bèn gieo đặng quẻ linh,
Chiêm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi. (169)
Ứng vào rùa với cỏ thi, (170)
Rồi thầy coi quẻ một khi mới tường".
Đồng rằng: "Người ở đông phương,
Nhơn đi buôn bán giữa đường chẳng an.
Con nhà họ Lục là chàng,
Tuổi vừa hai tám còn đàng thơ ngây".
Bói rằng: "Đinh sửu năm nay,
Hèn chi giáp tý ngày rày chẳng an.
Mạng kim lại ở cung càn,
Tuổi này là tuổi giàu sang trong đời.
Cầu tài quẻ ấy xa vời,
Khen người khéo nói những lời trêu ta".
Cầm tiền gieo xuống xem qua,
Một giao hai sách lại ba hào trùng. (171)
Trang thành là quẻ lục xung, (172)
Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn.
Hoá ra làm quẻ du hồn, (173)
Lại thêm thế động khắc dồn hào quan. (174)
Cứ trong quẻ ấy mà bàn;
Tuổi này mới chịu mẫu tang trong mình
Xui nên phát bịnh thình lình,
Vì chưng ma quỉ lộ trình rất thiêng.
Muốn cho quẻ ấy đặng yên,
Phải tìm thầy pháp chữa chuyên ít ngày.
Đồng rằng: "Thầy pháp đâu đây?"
Bói rằng: "Cũng ở chốn này bước ra,
Phép hay dậy tiếng đồn xa,
Tên là Đạo Sĩ ở Trà Hương thôn".
Tiểu đồng mới chạy bôn bôn,
Hỏi thăm Đạo sĩ hương thôn chốn nào.
Chợ đông buôn bán lao xao,
Người ta liền chỉ nơi vào chẳng xa.
Đồng đi một buổi tới nhà,
Đạo sĩ xem thấy lòng mà mừng thay.
Đồng rằng: "Nghe tiếng thầy đây,
Trừ ma ếm quỷ phép thầy rất hay".
Pháp rằng: "Ân đã cao tay, (175)
Lại thêm phù chú xưa nay ai bì. (176)
Qua sông cá thấy xếp vi,
Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy đưa.
Pháp hay hú gió kêu mưa,
Sai chim khiến vượn đuổi lừa vật trâu.
Pháp hay miệng niệm một câu,
Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh. (177)
Pháp hay sái đậu thành binh, (178)
Bện hình làm tướng phá thành Diêm vương.
Pháp hay đạo hoả phó thang, (179)
Ngồi gươm đứng giáo mở đàng thiên hoang. (180)
Có ba lượng bạc trao sang,
Đặng thầy sắm sửa lập đàn chữa cho".
Đồng rằng: "Tôi chẳng so đo,
Khuyên thầy gắng sức chớ lo khó giàu.
Bấy lâu thầy tớ theo nhau,
Bạc dành hai lượng phòng sau đi đàng.
Chữa chuyên bịnh ấy đặng an,
Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy".
Pháp rằng: "Về lấy sang đây,
Cho thầy toan liệu lập bày đàn ra".
Đồng rằng: "Tôi đã lo xa,
Cực vì người bịnh ở nhà chẳng yên.
Xin thầy gắng sức chịu phiền,
Ra công bùa chú chữa chuyên cách nào".
Pháp rằng: "Có khó chi sao,
Người nằm ta chữa rồi trao phù về".
Đồng rằng: "Tôi vốn thằng hề, (181)
Bịnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên?"
Pháp rằng: "Ta biết kinh quyền,
Đau nam chữa bắc mà thuyên mới tài".
Tiểu đồng nghe lọt vào tai,
Lòng mừng vội vã nằm dài chữa chuyên.
Pháp bèn cất tiếng hét lên:
"Mời ông Bàn Cổ toạ tiền chứng miêng. (182)
Thỉnh ông đại thánh Tề Thiên, (183)
Thỉnh bà Võ hậu đều liền đến đây. (184)
Thỉnh ông Nguyên soái chinh tây, (185)
Cùng bà Vương mẫu sum vầy một khi. (186)
Thỉnh ông Phật tổ A Di,
Thập phương chư Phật phù trì giúp công.
Lại mời công chúa Ngũ Long, (187)
Bình Nam ngũ hổ hội đồng an dinh. (188)
Thỉnh trong thiên tướng thiên binh,
Cùng là tam phủ Động Đình Xích Lân. (189)
Thỉnh trong khắp hết quỷ thần,
Cũng đều xuống chốn dương trần vui chơi.
Cho người ba đạo phù trời,
Uống vào khoẻ mạnh như lời chẳng sai".
Tiểu đồng vâng lĩnh theo lời,
Lấy phù trở lại toan bài thuốc thang.
Vào nhà thưa với thầy Ngang:
"Pháp phù đã đủ thầy toan phương nào?"
Ngang rằng: "Còn bạc trong bao,
Thời người khá lấy mà trao cho thầy".
Đồng rằng: "Tôi hãy ở đây,
Bịnh kia dầu khá mình này bán đi".
Triệu Ngang biết chẳng còn chi,
Kiếm đường tráo chác đuổi đi khỏi vòng: (190)
"ở đây làng xóm khó lòng,
E khi mưa nắng ai cùng đỡ che".
Đồng rằng: "Trong gói vắng hoe,
Bởi tin nên mắc bởi nghe nên lầm.
Những lo chạy hết một trăm,
Mình ve khô xép ruột tằm héo don.
Thương thay tiền mất tật còn,
Bơ vơ đất khách thon von thế này. (191)
Thôi thôi gắng gượng khỏi đây,
Tôi đi khuyên giáo đỡ ngày gạo rau". (192)
Vân Tiên chi xiết nỗi sầu,
Tiểu đồng dìu dắt qua cầu Lá Buôn. (193)
Đương khi mưa gió luông tuồng, (194)
Người buồn lại gặp cảnh buồn khá thương.
Xiết bao ăn tuyết nằm sương,
Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao.
Dầu cho tài trí bực nào,
Gặp cơn nguy hiểm biết sao mà nhờ.
Tiên rằng: "Đi đã ngẩn ngơ,
Tìm nơi cây cối bụi bờ nghỉ chưn".
Đồng rằng: "Chốc nữa khỏi rừng,
Tìm nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi".
Non tây vừa khuất mặt trời,
Tớ thầy dìu dắt tới nơi Đại Đề.
Trường thi một lũ vừa về,
Trịnh Hâm xem thấy lại kề hỏi thăm:
"Anh về nay đã hai rằm, (195)
Cớ sao mang bịnh còn nằm nơi đây?"
Tiên rằng: "Tôi vốn chẳng may,
Chẳng hay chư hữu khoa này thế nao?"
Hâm rằng: "Tử Trực đậu cao,
Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân.
Một mình về trước viếng thân,
Hai người trở việc còn lần đi sau.
Đương cơn hoạn nạn gặp nhau,
Người lành nỡ bỏ người đau sao đành.
Từ đây tới quận Đông Thành,
Trong mình có bịnh, bộ hành xao xong?
Lần hồi đến chốn giang trung,
Tìm thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau".
Tiên rằng: "Tình trước ngãi sau,
Có thương xin khá giúp nhau phen này".
Hâm rằng: "Anh tạm ngồi đây,
Tiểu đồng người tới trước này cùng ta.
Vào rừng kiếm thuốc ngoại khoa,
Phòng khi sông biển phong ba bất kì".
Tiểu đồng vội vã ra đi
Muốn cho đặng việc quản gì lao đao.
Trịnh Hâm trong dạ gươm dao,
Bắt người đồng tử trói vào gốc cây:
"Trước cho hùm cọp ăn mày,
Hại Tiên phải dụng mưu này mới xong".
Vân Tiên ngồi những đợi trông,
Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ăn.
Vân Tiên than khóc nằm lăn:
"Có đâu địa hãm thiên băng thình lình. (196)
Bấy lâu đất khách lưu linh,
Một thầy một tớ lộ trình nuôi nhau.
Nay đà hai ngả phân nhau,
Còn ai nưng đỡ trước sau cho mình".
Hâm rằng: "Anh chớ ngại tình,
Tôi xin đưa tới Đông Thành thời thôi".
Vân Tiên chi xiết lụy rơi,
Buồm đà theo gió chạy xuôi một bề.
Tiểu đồng bị trói khôn về,
Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang:
"Phận mình đã mắc tai nàn,
Cám thương họ Lục suối vàng bơ vơ.
Xiết bao những nỗi dật dờ,
Đò giang nào biết bụi bờ nào hay.
Vân Tiên hồn có linh rày,
Đem tôi theo với đỡ tay chưn cùm".
Vái rồi lụy nhỏ ròng ròng,
Đêm khuya ngồi dựa cội tùng ngủ quên.
Sơn quân ghé lại một bên, (197)
Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng.
Tiểu đồng thức dậy mơ màng,
Xem qua dấu đất ràng ràng mới hay. (198)
Nửa mừng nửa lại sợ thay,
Chạy ra chốn cũ tìm thầy Vân Tiên.
Mặt trời vừa khỏi mái hiên,
Người buôn kẻ bán chợ phiên nhộn nhàng.
Hỏi thăm bà quán giữa đàng:
"Bữa qua có thấy người tang chăng là?" (199)
Quán rằng: "Thôi đã ra ma,
Khi mai làng xóm người đà đi chôn".
Tiểu đồng nghe nói kinh hồn,
Hỏi rằng: "Biết chỗ nào chôn chỉ chừng".
Tay lau nước mắt rưng rưng,
Xảy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao.
Tiểu đồng vội vã bước vào,
Xóm làng mới hỏi: "Thằng nào tới đây?"
Đồng rằng: "Tớ tới kiếm thầy,
Chẳng hay người thác mả này là ai?"
Người rằng: "Một gã con trai,
ở đâu không biết lạc loài tới đây.
Chưn tay mặt mũi tốt thay,
Đau chi nên nỗi nước này khá thương".
Tiểu đồng chẳng kịp hỏi han,
Nằm lăn bên mả khóc than một hồi.
Người đều xem thấy thương ôi,
Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng.
Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang,
Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề.
Một mình ở đất Đại Đề,
Sớm đi khuyên giáo tối về quảy đơm. (200)
Dốc lòng trả nợ áo cơm,
Sống mà trọn nghĩa thác thơm danh hiền.
Thứ này đến thứ Vân Tiên,
Năm canh ngồi dựa be thuyền thở than.
Trong khăn lụy nhỏ chứa chan,
Cám thương phận tớ mắc nàn khi không.
Lênh đênh thuyền giữa biển đông,
Riêng than một tấm cô bồng ngẩn ngơ. (201)
Đêm khuya lặng lẽ như tờ,
Nghênh ngang sao mọc mịt mờ sương bay. (202)
Trịnh Hâm khi ấy ra tay,
Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời. (203)
Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời,
Cho người thức dậy lấy lời phôi pha. (204)
Trong thuyền ai nấy kêu la,
Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng.
Vân Tiên mình lụy giữa dòng,
Giao long dìu đỡ vào trong bãi rày.
Vừa may trời đã sáng ngày,
Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ.
Hối con vầy lửa một giờ, (205)
Ông hơ bụng dạ mụ hơ mặt mày.
Vân Tiên vừa ấm chân tay,
Ngẩn ngơ hồn phách như say mới rồi.
Ngỡ thân mình phải nước trôi,
Hay đâu còn hãy đặng ngồi dương gian.
Ngư ông khi ấy hỏi han,
Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa.
Ngư rằng: "Người ở cùng ta,
Hôm mai hẩm hút với già cho vui". (206)
Tiên rằng: "Ông lấy chi nuôi,
Thân tôi như thể trái mùi trên cây. (207)
May đà trôi nổi đến đây,
Không chi báo đáp mình này trơ trơ".
Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ,
Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn?
Nước trong rửa ruột sạch trơn,
Một câu danh lợi chi sờn lòng đây.
Rày doi mai vịnh vui vầy, (208)
Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng.
Một mình thong thả làm ăn,
Khoẻ quơ chài lưới mệt quăng câu dầm.
Nghêu ngao nay chích mai đầm, (209)
Một bầu trời đất vui thầm ai hay.
Kinh luân đã sẵn trong tay,
Thung dung dưới thế vui say trong trời.
Thuyền nan một chiếc ở đời.
Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang".
Tiên rằng: "Vậy cũng một làng,
Võ Công người ở gần đàng đây chăng?"
Ngư rằng: "Nhà ở cũng gần,
Khỏi ba khúc vịnh thì lần đến nơi".
Vân Tiên thưa đã hết lời,
Ngư ông chẳng đã, tách vời đưa sang. (211)
Dắt Tiên vào chốn hậu đàng,
Võ Công xem thấy lòng càng hổ ngươi.
Chẳng qua sợ thế gian cười,
Một lời gượng gạo: "Chào người ngày xưa,
Ngư ông đã có công đưa,
Tới ngày sau sẽ lo lừa đền ơn".
Ngư rằng: "Tôi chẳng lòng sờn,
Xin tròn nhơn ngãi còn hơn bạc vàng.
Nhớ xưa trong núi Lư San,
Có ông ngư phủ đưa chàng Ngũ Viên. (212)
Tới sau đình trưởng đỗ thuyền,
Giúp người Hạng Võ qua miền Ô Giang. (213)
Xưa còn thương kẻ mắc nàn,
Huống nay ai nỡ quên đàng ngãi nhơn".
Một lời gắng giúp keo sơn,
Ngư ông từ giã lui chưn xuống thuyền.
Võ Công không ngớt lòng phiền,
Ân tình, thế lợi khó tuyền đặng vay.
Dạy Tiên: "Người hãy ngồi đây,
Cho ta trở lại sau này liệu toan".
Công rằng: "Hỡi mụ Quỳnh Trang,
Dò lòng ái nữ Thể Loan thế nào?
Mặc con toan liệu làm sao,
Vốn không ép vợ lẽ nào ép con".
Loan rằng: "Gót đỏ như son,
Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn.
Ai cho sen muống một bồn,
Ai từng chanh khế sánh phồn lựu lê? (214)
Thà không chót chịu một bề,
Nỡ đem mình ngọc dựa kề thất phu!
Dốc lòng chờ đợi danh nhu,
Rể đâu có rể đui mù thế ni?
Đã nghe người nói hội này,
Rằng Vương Tử Trực chiếm rày thủ khoa.
Ta dầu muốn kết sui gia,
Họ Vương, họ Võ một nhà mới xinh".
Công rằng muốn trọn việc mình,
Phải toan một chước dứt tình mới xong.
Nghe rằng trong núi Thương Tòng,
Có hang thăm thẳm bịt bùng khôn ra.
Đông Thành ngàn dặm còn xa,
Đem chàng bỏ đó ai mà biết đâu".
Phút vừa trăng đã đứng đầu,
Vân Tiên ngồi trước nhà cầu thở than. (215)
Võ Công ra trước dỗ chàng,
Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Đông Thành.
Ra đi đương lúc tam canh,
Dắt vào hang tối bỏ đành Vân Tiên.
Bỏ rồi rón rén bước liền,
Xuống gay chèo quế dời thuyền tách xa. (216)
Tiên rằng: "Các chú đưa ta,
Xin đưa cho tới quê nhà sẽ hay.
Ghi lòng dốc trọn thảo ngay,
Một phen mà khỏi ngàn ngày chẳng quên".
Lắng nghe vẳng tiếng hai bên,
Trong hang tăm tối đá trên chập chồng.
Vân Tiên khi ấy hãi hùng,
Nghĩ ra mới biết Võ Công hại mình.
Nực cười con tạo trớ trinh, (217)
Chữ duyên tráo chác, chữ tình lãng xao.
Ngẫm mình tai nạn biết bao,
Mới lên khỏi biển lại vào trong hang.
Dây sầu ai khéo vương mang,
Tránh nơi lưới thỏ gặp đàng bẫy cheo. (218)
Trong hang sau trước quạnh hiu,
Muốn ra cho khỏi ai dìu dắt đi.
Oan gia nợ đã khéo gây,
Ôi thôi thân thể còn gì mà toan.
Đã đành xa cõi nhân gian,
Dựa mình vào chốn thạch bàn nằm co.
Đêm khuya ngọn gió thổi lò,
Sương sa lác đác mưa tro lạnh lùng. (219)
Năm ngày chịu đói khát ròng,
Nhờ ba hoàn thuốc đỡ lòng hôm mai.
Du thần xem thấy ai hoài, (220)
Xét trong mình gã có bài phù tiên.
Mới hay là Lục Vân Tiên.
Cùng nhau dìu dắt đều liền đêm ra.
Khỏi hang một dặm vừa xa,
Đến nơi đại lộ trời đà hừng đông.
Du thần trở lại sơn trung,
Vân Tiên còn hãy giấc nồng mê man.
Lão tiều cơm gói sẵn sàng,
Sớm mai xách búa đi ngang vào rừng.
Tới nơi đại lộ là chừng,
Xảy nghe có tiếng trong rừng thở than.
Hay là yêu quái tà gian,
Rung cây nhát lão làm đàng hại nhân.
Lão tiều liền bước tới gần,
Thiệt là một gã văn nhân mắc nàn.
Chi bằng lên tiếng hỏi han:
"Nhơn sao mắc việc tai nàn thế nay?"
Vân Tiên nghe tiếng mừng thay,
Vội vàng gượng dậy trình bày trước sau.
Lão tiều nghe nói giờ lâu,
Gẫm trong thế sự gật đầu thở than:
"ít người trong tuyết đưa than, (221)
Khó ngồi giữa chợ, ai màng đoái thương".
Vân Tiên nghe nói mới tường,
Cũng trang ẩn dật biết đường thảo ngay:
"Ngửa trông lượng cả cao dầy,
Cứu trong một buổi ơn tày tái sinh.
Mai sau về tới Đông Thành,
Đền ơn cứu khổ mới đành dạ tôi".
Lão tiều mới nói: "Thôi thôi,
Làm ơn mà lại trông người sao hay.
Già hay thương kẻ thảo ngay,
Này thôi để lão dắt ngay về nhà".
Tiên rằng: "Trong dạ xót xa,
Nay đà sáu bữa không hoà mùi chi. (222)
Lại thêm rũ liệt tứ chi,
Muốn đi theo đó mà đi khôn rồi".
Lão tiều vội ngửa áo tơi,
Mở cơm trong gói miệng mời Vân Tiên:
"Gắng mà ăn uống cho yên,
Lão ra sức lão cõng Tiên về nhà".
Khỏi rừng ra tới ngã ba,
May đâu gặp một chàng là Hớn Minh.
Lão tiều lật đật bôn trình, (223)
Hớn Minh theo hỏi sự tình một khi.
Vân Tiên nghe tiếng cố tri,
Vội mừng bạn cũ còn nghi nỗi mình.
Minh rằng: "Dám hỏi nhơn huynh, (224)
Cớ sao nên nỗi thân hình thế ni?"
Tiên rằng: "Chẳng xiết nói chi,
Thân này nào có khác gì cây trôi.
Linh đinh gió dập sóng dồi,
Rày đây mai đó khôn rồi gian nan."
Minh rằng: "Đây khó hỏi han,
Xin vào chùa sẽ luận bàn cùng nhau."
Tiều rằng: "Chẳng dám ngồi lâu
Vào rừng đốn củi bán chầu chợ phiên."
Hớn Minh quỳ gối lạy liền:
"Ơn ông cứu đặng Vân Tiên bạn lành,
Này hai lượng bạc trong mình,
Tôi xin báo đáp chút tình cho ông".
Tiều rằng: "Vốn lão tình không.
Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai.
Tấm lòng chẳng muốn của ai,
Lánh nơi danh lợi chông gai cực lòng.
Kìa non nọ nước thong dong,
Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai.
Công hầu phú quí mặc ai,
Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày".
Vân Tiên nghe biết người ngay,
Hỏi thăm tên họ phòng ngày đền ơn.
Lão tiều trở lại lâm sơn,
Tiên, Minh hai gã đều hoàn am mây. (225)
Tiên rằng: "Đã gặp khoa này,
Cớ sao ngọc hữu ở đây làm gì?"
Minh rằng: "Xưa dốc xuống thi,
Gặp nơi miếu võ đều đi một lần.
Anh thời về trước tỉnh thân. (226)
Tôi thời mang gói sau lần ra kinh.
Đi vừa tới huyện Loan Minh,
Gặp con quan huyện Đặng Sinh là chàng.
Giàu sang ỷ thế nghinh ngang,
Gặp con gái tốt cưỡng gian không nghì. (227)
Tôi bèn nổi giận một khi,
Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò.
Mình làm nỡ để ai lo,
Bó tay chịu trói nộp cho huyện đàng.
Án đày ra quận Sóc Phang,
Tôi bèn vượt ngục lánh đàng đến đây.
Vừa may mà gặp chùa này,
Mai danh ẩn tích bấy chầy náu nương".
Vân Tiên nghe nói thảm thương,
Lại bày một khúc tai ương phận mình.
Minh nghe Tiên nói động tình,
Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng.
Tiên rằng: "Thượng cội xuân huyên, (228)
Tuổi cao tác lớn chịu phiền lao đao.
Trông con như hạn trông dào,
Mình này trôi nổi phương nào biết đâu.
Vừng mây giăng bạc trên đầu,
Ba năm chưa trọn một câu sanh thành. (229)
Hữu tam bất hiếu đã đành. (230)
Tiểu đồng trước đã vì mình thác oan.
Tưởng thôi như cắt ruột gan,
Quặn đau chín khúc chứa chan mấy lần".
Minh rằng: "Người ở trong trần,
Có khi phú quí có lần gian nan.
Thấp cao vàng biết tuổi vàng,
Gặp khi lửa đỏ màu càng thêm xuê.
Thôi thôi anh chớ vội về,
Ở đây nương náu toan bề thuốc thang.
Bao giờ hết lúc tai nàn,
Đem nhau ta sẽ lập đàng công danh.
Cam La sớm gặp cũng xinh, (231)
Muộn mà Khương Tử cũng vinh một đời. (232)
Nên, hư có số ở trời,
Bôn chôn sao khỏi đổi dời sao xong". (233)
Vân Tiên khi ấy yên lòng,
Ở nơi am tự bạn cùng Hớn Minh.
Võ công làm việc trớ trinh, (234)
Dứt tình họ Lục mến tình họ Vương.
Kể từ định chước hại chàng,
Thể Loan hớn hở lòng càng thêm vui.
Ngày ngày trang điểm phấn dồi,
Phòng khi gặp gỡ đứng ngồi cho xuê.
Xảy đâu Tử Trực vừa về,
Vào nhà họ Võ thăm bề Vân Tiên.
Công rằng: "Chớ hỏi thêm phiền,
Chàng đà lâm bịnh huỳnh tuyền xa chơi. (235)
Thương chàng phận bạc trong đời,
Cũng vì Nguyệt lão xe lơi mối hồng".
Nghe qua Tử Trực chạnh lòng,
Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa.
Than rằng: "Chạnh nhớ linh xưa,
Nghĩa đà kết nghĩa tình chưa phỉ tình.
Trời sao nỡ phụ tài lành,
Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn.
Cùng nhau chưa đặng vuông tròn.
Người đà sớm thác ta còn làm chi?
Trong đời mấy bực cố tri,
Mấy trang đồng đạo mấy người đồng tâm".
Công rằng: "Ta cũng thương thầm,
Tủi duyên con trẻ sắt cầm dở dang. (236)
Thôi thôi khuyên chớ thở than,
Đây đà tính đặng một đàng rất hay.
Tới đây thời ở lại đây,
Cùng con gái lão sum vầy thất gia. (237)
Phòng khi hôm sớm vào ra,
Thấy Vương Tử Trực cũng là thấy Tiên.
Trực rằng: "Ngòi bút dĩa nghiên, (238)
Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau.
Vợ Tiên là Trực chị dâu,
Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì!
Chẳng hay người học sách chi,
Nói sao những tiếng dị kì khó nghe?
Hay là học thói nước Tề,
Vợ người Tử Củ đưa về Hoàn Công? (239)
Hay là học thói Đường cung, (240)
Vợ người Tiều Lạc sánh cùng Thế Dân?
Người nay nào phải nhà Tần,
Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm? (241)
Nói sao chẳng biết hổ thầm,
Người ta há phải là cầm thú sao?
Võ Công hổ thẹn xiết bao,
Ngồi trân khôn cãi lẽ nào cho qua.
Thể Loan trong cửa bước ra.
Miệng chào: "Thầy cử tân khoa mới về.
Thiếp đà chẳng trọn lời thề,
Lỡ bề sửa trắp lỡ bề nưng khăn.
Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng, (242)
Đêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy.
Chẳng ưng thời cũng làm khuây,
Nỡ buông lời nói chẳng vì chẳng kiêng".
Trực rằng: "Ai Lữ Phụng Tiên,
Phòng toan đem thói Điêu Thuyền trêu ngươi. (243)
Mồ chồng ngọn cỏ còn tươi,
Lòng nào mà nỡ buông lời nguyệt hoa.
Hổ hang vậy cũng người ta,
So loài cầm thú vậy mà khác chi?
Vân Tiên anh hỡi cố tri,
Suối vàng có biết sự ni chăng là?"
Tay lau nước mắt trở ra,
Về nhà sắm sửa tìm qua Đông Thành.
Võ Công hổ thẹn trong mình,
Năm ngày nhuốm bệnh thất tình chết oan (244)
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang,
Mẹ con đóng cửa cư tang trong nhà.
Tiên rằng: "Xưa đã gá lời,
Sui gia bao nỡ đổi dời chẳng thương.
Vợ chồng là đạo tào khương,
Chi bằng tới đó tìm phương gởi mình.
Trăm năm muốn trọn ân tình,
Đương khi hoạn nạn ai đành bỏ nhau.
Chút nhờ cứu tử ơn sâu, (210)
Xin đem tới đó trước sau cho tròn".
Ngư rằng: "Làm đạo rể con,
Cũng như sợi chỉ mà lòn trôn kim
Sợ bay mà mỏi sức chim,
Bơ vơ kiểng lạ khôn tìm cây xưa.
E khi chậm bước tới trưa,
Chớ tin sông cũ bến xưa mà lầm.
Mấy ai ở đặng hảo tâm,
Nắng toan giúp nón mưa dầm giúp tơi?
Mấy ai hay nghĩ việc đời,
Nhớ nơi nghèo khổ quên nơi sang giầu?
Đã ba thứ tóc trên đầu,
Gẫm trong sự thế thêm âu cho đời".
Đoạn này đến thứ Nguyệt Nga,
Hà Khê phủ ấy theo cha học hành.
Kiều Công lên chức thái khanh,
Chỉ sai ra huyện Đông Thành chăn dân. (245)
Ra tờ khắp hết xa gần,
Hỏi thăm họ Lục tìm lần đến nơi.
Khiến quân đem bức thư mời,
Lục ông vâng lệnh tới nơi dinh tiền.
Kiều công hỏi chuyện Vân Tiên.
Lục ông thấy hỏi bỗng liền khóc than.
Thưa rằng: "Nghe tiếng đồn vang,
Con tôi nhuốm bệnh giữa đàng bỏ thây.
Biệt tin từ ấy nhẫn nay, (246)
Phút nghe người hỏi dạ này xốn xang.
Kiều công trong dạ bàng hoàng,
Trở vào nói lại với nàng Nguyệt Nga:
"Lục ông nói lại cùng cha,
Duyên con rày đã trôi hoa giạt bèo.
Riêng than chút phận tơ điều, (247)
Hán Giang chưa gặp Ô Kiều lại rơi". (248)
Nàng rằng: "Phải thiệt như lời,
Xin cha sai kẻ mời người vào trong".
Nguyệt Nga đứng dựa bên phòng,
Tay ôm bức tượng khóc ròng như mưa.
Công rằng: "Nào bức tượng xưa,
Nguyệt Nga con khá đem đưa người nhìn".
Lục ông một buổi ngồi nhìn,
Tay chân mặt mũi giống in con mình.
Chuyện trò sau trước phân minh,
Lục ông khi ấy sự tình mới hay:
Thương con phận bạc lắm thay,
Nguyền xưa còn đó con rày đi đâu?"
Nguyệt Nga chi xiết nỗi sầu,
Lục ông thấy vậy thêm đau gan vàng.
Kiếm lời khuyên giải với nàng:
"Giải cơn phiền não kẻo mang lấy sầu.
Người đời như bóng phù du, (249)
Sớm còn tối mất công phu lỡ làng, (250)
Cũng chưa đồng tịch đồng sàng, (251)
Cũng chưa nên nghĩa tào khương đâu mà.
Cũng như cửa sổ ngựa qua,
Nghĩ nào mà ủ mặt hoa cho phiền".
Nàng rằng trước đã trọn nguyền,
Dẫu thay mái tóc phải nhìn mối tơ".
Công rằng chút nặng tình xưa,
Bèn đem tiền bạc tạ đưa cho người.
Lục ông cáo tạ xin lui:
"Tôi đâu dám chịu của người làm chi.
Ngỡ là con trẻ mất đi,
Hay đâu cốt cách còn ghi tượng này.
Bây giờ con lại thấy đây,
Tấm lòng thương nhớ dễ khuây đặng nào.
Ngửa trông đất rộng trời cao,
Tre còn măng mất lẽ nào cho cân".
Lục ông từ tạ lui chân,
Kiều Công sai kẻ gia thần đưa sang.
Nguyệt Nga nhuốm bệnh thở than,
Năm canh lụy ngọc xốn xang lòng vàng:
"Nhớ khi thề thốt giữa đàng,
Chưa nguôi nỗi thảm lại vương lấy sầu.
Công đà chờ đợi bấy lâu,
Thà không cho gặp buổi đầu thời thôi.
Biết nhau chưa đặng mấy hồi,
Kẻ còn người mất trời ôi là trời.
Thề xưa tạc dạ ghi lời,
Thương người quân tử biết đời nào phai.
Tiếc thay một đứng anh tài,
Việc văn việc võ nào ai dám bì.
Thương vì đèn sách lòng ghi,
Uổng công nào thấy tiếng gì là đâu.
Thương vì hai tám tuổi đầu,
Người đời như bóng phù du lỡ làng.
Thương vì chưa đặng hiển vang,
Nước trôi sự nghiệp hoa tàn công danh.
Thương vì đôi lứa chưa thành,
Vùa hương bát nước ai dành ngày sau. (252)
Năm canh chẳng ngớt giọt châu,
Mặt nhìn bức tượng ruột đau như dần.
Dương gian nay chẳng đặng gần,
Âm cung biết có thành thân chăng là".
Kiều công thức dậy bước ra,
Nghe con than khóc xót xa lòng vàng.
Khuyên rằng: "Con chớ cưu mang,
Gẫm trong còn mất là đàng xưa nay.
Đờn cầm ai nỡ dứt dây,
Chẳng qua con tạo đổi xây không thường"
Nàng rằng: "Khôn xiết nỗi thương,
Khi không gãy cánh giữa đường chẳng hay.
Nay đà loan phụng lẻ bầy,
Niệm nghiêng gối chích phận này đã cam.
Trăm năm thề chẳng lòng phàm, (253)
Sông Ngân đưa bạn Cầu Lam rước người.
Thân con còn đứng giữa trời,
Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi".
Kiều công trong dạ chẳng vui:
"Con đành giữ tiết trọn đời hay sao?"
Có người sang cả ngôi cao,
Thái sư chức trọng trong trào sắc phong.
Nghe đồn con gái Kiều công,
Nay mười sáu tuổi tơ hồng chưa vương.
Thái sư dùng lễ vật sang,
Mượn người mai chước kết đàng sui gia. (254)
Kiều công khôn ép Nguyệt Nga,
Lễ nghi đưa lại về nhà thái sư.
Thái sư chẳng biết rộng suy,
Đem điều oán hận sớm ghi vào lòng.
Xảy đâu giặc mọi hành hung,
Ô Qua quốc hiệu binh nhung dấy loàn. (255)
Đánh vào tới ải Đồng Quan,
Sở vương phán hỏi lưỡng ban quần thần:
"Sao cho vững nước an dân,
Các quan ai biết mưu thần bày ra?"
Thái sư nhớ việc cừu nhà,
Vội vàng quỳ xuống tâu qua ngai vàng:
"Thuở xưa giặc mọi dấy loàn,
Vì ham sắc tốt phá tàn Trung Hoa.
Muốn cho khỏi giặc Ô Qua,
Đưa con gái tốt giao hoà thời xong.
Nguyệt Nga là gái Kiều Công,
Tuổi vừa hai tám má hồng đương xinh.
Nàng đà có sắc khuynh thành,
Lại thêm rất bực tài tình hào hoa.
Đưa nàng về nước Ô Qua,
Phiên vương ưng dạ chắc là bãi binh".
Sở vương nghe tấu thuận tình,
Châu phê dạy sứ ra dinh Đông Thành.
Sắc phong Kiều lão thái khanh:
"Việc trong nhà nước đã đành cậy ngươi,
Nguyệt Nga nàng ấy nên người,
Lựa ngày tháng chín hai mươi cống Hồ".
Kiều công vâng lệnh nhà vua,
Lẽ nào mà dám nói phô điều nào?
Nguyệt Nga trong dạ như bào,
Canh chầy chẳng ngủ những thao thức hoài.
Thất tình trâm nọ biếng cài,
Dựa mình bỏ xả tóc dài ngồi lo:
"Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ,
Bởi người Diên Thọ hoạ đồ gây nên (256)
Hạnh Ngươn xưa cũng chẳng yên,
Bởi chưng Lư Kỉ cựu hiềm còn nghi. (257)
Hai nàng chẳng đã phải đi,
Một vì ngay chúa một vì thảo cha.
Chiêu Quân nhảy xuống giang hà,
Thương vua nhà Hớn nàng đà quyên sinh.
Hạnh Ngươn nhảy xuống Trì Linh,
Thương người Lương Ngọc duyên lành phui pha.
Tới nay phận bạc là ta,
Nguyện cùng bức tượng trót đà chung thân.
Tình phu phụ nghĩa quân thần,
Nghĩa xa cũng trọn ơn gần cũng nên.
Nghĩa tình nặng cả hai bên,
Nếu ngay cùng chúa lại quên ơn chồng.
Sao sao một thác thời xong, (258)
Lấy mình báo chúa lấy mình sự phu".
Kiều công thương gối đương lo,
Nghe con than thở mấy câu thêm phiền.
Kêu vào ngồi dựa trướng tiền,
Lấy lời dạy dỗ cho tuyền thân danh: (259)
"Chẳng qua là việc triều đình,
Nào cha có muốn ép tình chi con".
Nàng rằng: "Con kể chi con,
Bơ vơ chút phận mất còn quản bao.
Thương cha tuổi hạc đã cao,
E khi ấm lạnh buổi nào biết đâu.
Tuổi già bóng xế nhành dâu,
Sớm xem tối xét ai hầu cho cha?"
Công rằng: "Chẳng sá việc nhà,
Hãy an dạ trẻ mà qua nước người.
Hôm nay đã tới mùng mười,
Khá toan sắm sửa hai mươi tống hành".
Nàng rằng: "Việc ấy đã đành,
Còn lo hai chữ ân tình chưa xong.
Con xin sang lạy Lục ông,
Làm chay bảy bữa trọn cùng Vân Tiên.
Ngõ cho ơn ngãi vẹn tuyền.
Phòng sau xuống chốn huỳnh tuyền gặp nhau".
Kiều công biết nghĩ trước sau,
Dạy cho tiền bạc cấp hầu đưa đi.
Lục ông ra rước một khi,
Nguyệt Nga vào đặt lễ nghi sẵn sàng.
Ngày lành giờ ngọ đăng đàn.
Ăn chay nằm đất cho chàng Vân Tiên.
Mở ra bức tượng treo lên,
Trong nhà cho tới láng giềng đều thương.
Nguyệt Nga cất tiếng khóc than:
"Vân Tiên anh hỡi suối vàng có hay".
Bảy ngày rồi việc ma chay,
Lại đem tiền bạc tạ rày Lục ông:
"Trông chồng mà chẳng thấy chồng,
Đã đành một nỗi má hồng vô duyên.
Rày vua gả thiếp về Phiên,
Quyết lòng xuống chốn cửu tuyền thấy nhau.
Chẳng chi cũng gọi là dâu,
Muốn lo việc nước phải âu việc nhà.
Một ngày một bước một xa,
Của này để lại cho cha dưỡng già".
Lạy rồi nước mắt nhỏ sa,
Ngùi ngùi lạy tạ bước ra trở về.
Các quan xe giá bộn bề,
Năm mươi thể nữ hầu kề chân tay.
Hai mươi nay đã đến ngày,
Các quan bảo hộ đưa ngay xuống thuyền.
Nguyệt Nga vội khiến Kim Liên,
Lên mời thân phụ xuống thuyền xem qua.
Công rằng: "Thật dạ xót xa,
Con đừng bịn rịn cho cha thảm sầu".
Nàng rằng non nước cao sâu,
Từ đây xa cách con hầu thấy cha.
Thân con về nước Ô Qua,
Đã đành một nỗi làm ma đất người.
Hai phương Nam Bắc cách vời,
Chút xin gởi lại một lời làm khuây.
Hiu hiu gió thổi ngọn cây,
Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha".
Kiều công lụy ngọc nhỏ sa,
Các quan ai nấy cũng là đều thương.
Chẳng qua việc ở quân vương,
Cho nên phụ tử hai đường xa xôi.
Buồm trương thuyền vội tách vời,
Các quan đưa đón ngùi ngùi đứng trông.
Mười ngày đã tới ải Đồng,
Mênh mông biển rộng đùng đùng sóng xao.
Đêm nay chẳng biết đêm nào,
Bóng trăng vằng vặc bóng sao mờ mờ.
Trên trời lặng lẽ như tờ,
Nguyệt Nga nhỡ nỗi tóc tơ chẳng tròn.
Than rằng nọ nước kìa non,
Kiểng thời thấy đó người còn về đâu?"
Quân hầu đều ngủ đã lâu,
Lén ra mở bức rèm châu một mình:
"Vắng người có bóng trăng thanh,
Trăm năm xin gởi chút tình lại đây.
Vân Tiên anh hỡi có hay,
Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng".
Than rồi lấy tượng vai mang,
Nhắm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay.
Kim Liên thức dậy mới hay,
Cùng quân thể nữ một bầy đều lo.
Cùng nhau lặng chẳng dám hô,
Thầm toan mưu kế chẳng cho lộ tình:
"Việc này là việc triều đình,
Đốc quan hay đặng ắt mình thác oan.
Muốn cho cẩn nhiệm trăm đàng,
Kim Liên thế lấy làm nàng Nguyệt Nga.
Trá hôn về nước Ô Qua,
Ai mà vạch lá ai mà tìm sâu?"
Tính rồi xong xả chước mầu,
Phút nghe thuyền đã đến đầu ải quan.
Đốc quan xe giá sửa sang,
Kiệu trương lọng phụng rước nàng về Phiên.
Nào hay tì tất Kim Liên,
Đặng làm hoàng hậu nước Phiên một đời.
Nguyệt Nga nhảy xuống giữa vời,
Sóng thần đưa đẩy vào nơi bãi rày.
Bóng trăng vừa khuất ngọn cây,
Nguyệt Nga hồn hãy chơi rày âm cung.
Xiết bao sương tuyết đêm đông,
Mình nằm giữa bãi lạnh lùng ai hay.
Quan âm thương đấng thảo ngay,
Bèn đem nàng lại bỏ rày vườn hoa.
Dặn rằng: "Nàng hỡi Nguyệt Nga,
Tìm nơi nương náu cho qua tháng ngày.
Đôi ba năm nữa gần đây,
Vợ chồng sao cũng sum vầy một nơi".
Nguyệt Nga giây phút tỉnh hơi,
Định hồn mới nghĩ mấy lời chiêm bao.
Nên hư chưa biết làm sao,
Bây giờ biết kiếm chốn nào dung thân?
Một mình luống những bâng khuâng,
Phút đâu trời đã rạng hừng vừng đông.
Một mình mang bức tượng chồng,
Xảy đâu lại gặp Bùi ông dạo vườn.
Ông rằng: "Nàng ở hà phương,
Việc chi mà tới trong vườn hoa ta?"
Nàng rằng: "Trận gió hôm qua,
Chìm thuyền đến nỗi mình ra thế này.
Tối tăm sẩy bước tới đây,
Xin soi xét tới thơ ngây lạc đàng".
Bùi ông đừng ngắm tướng nàng.
Chẳng trang đài các cũng hàng trâm anh.
Đầu đuôi han hỏi sự tình,
Nàng bèn lời thiệt việc mình bày qua.
Bùi ông mừng rước về nhà,
Thay xiêm đổi áo nuôi mà làm con.
Rằng: "Ta sanh đặng chồi non,
Tên là Bùi Kiệm hãy còn ở kinh.
Trong nhà không gái hậu sinh,
Ngày nay đặng gặp minh linh phước trời".
Nguyệt Nga ở đã yên nơi,
Đêm đêm nghĩ lượng việc đời gần xa.
Một lo về nước Ô Qua,
E vua bắt tội cha già rất oan.
Hai lo phận gái hồng nhan,
Sợ khi bảo dưỡng mưu toan lẽ gì. (260)
Nguyệt Nga luống những sầu bi,
Xảy đâu Bùi Kiệm tới khi về nhà.
Từ ngày thấy mặt Nguyệt Nga,
Đêm đêm trằn trọc phòng hoa mấy lần.
Thấy nàng thờ bức tượng nhân,
Nghiệm trong tình ý dần lân hỏi liền: (261)
"Tượng này sao giống Vân Tiên.
Bấy lâu thờ có linh thiêng điều gì?"
Nàng rằng: "Làm phận nữ nhi,
Một câu chánh tiết phải ghi vào lòng. (262)
Trăm năm cho vẹn đạo tòng,
Sống sao thác vậy một chồng mà thôi".
Kiệm rằng: "Nàng nói sai rồi,
Ai từng bán đắt mà ngồi chợ trưa.
Làm người trong cõi gió mưa,
Bảy mươi, mất mặt người xưa thấy nào?
Chúa xuân còn ở vườn đào,
Ong qua bướm lại biết bao nhiêu lần!
Chúa đông ra khỏi vườn xuân,
Hoa tàn nhụy rữa như rừng bỏ hoang!
Ở đời ai cậy giàu sang,
Ba xuân mòn hết, ngàn vàng khôn mua. (263)
Hay chi như vãi ở chùa,
Một căn cửa khép bốn mùa lạnh tanh?
Linh đinh một chiếc thuyền tình,
Mười hai bến nước biết mình vào đâu?
Ai từng mặc áo không bâu, (264)
Ăn cơm không đũa ăn trầu không cau?
Nàng sao chẳng nghĩ trước sau,
Giữ ôm bức tượng bấy lâu thiệt mình".
Nàng rằng: "Xưa học sử kinh,
Làm thân con gái chữ trinh làm đầu.
Chẳng phen thói nước Trịnh đâu, (265)
Hẹn người tới giữa vườn dâu tự tình".
Kiệm rằng: "Đã biết sử kinh,
Sao không soi xét, để mình ngồi không?
Hồ Dương xưa mới goá chồng,
Còn mơ nhan sắc Tống công cũng vừa. (266)
Hạ Cơ lớn nhỏ đều ưa,
Sớm đưa Doãn, Phủ tối ngừa Trần Quân. (267)
Hớn xưa Lữ Hậu thanh xuân,
Còn vừa Cao Tổ mới đành Dị Ki. (268)
Đường xưa Võ Hậu thiệt gì,
Di Tôn khi trẻ Tam Tư lúc già. (269)
Cứ trong sách vở nói ra,
Một đời sung sướng cũng qua một đời!
Ai ai cũng ở trong trời
Chính chuyên, chắc nết, chết thời cũng ma. (270)
Người ta chẳng lấy người ta,
Người ta đâu lấy những là tượng nhân?
Cho nên tiếc phận hồng nhan,
Học đời Như ý vẽ chàng Văn Quân". (271)
Nguyệt Nga biết đức tiểu nhân,
Làm thinh toan chước thoát thân cho rồi.
Bùi ông ngon ngọt trau dồi,
Muốn nàng cho đặng sánh đôi con mình:
"Làm người chấp nhứt sao đành, (272)
Hễ là lịch sự có kinh có quyền. (273)
Tới đây duyên đã bén duyên,
Trăng thanh gió mát cắm thuyền đợi ai?
Nhớ câu xuân bất tái lai,
Ngày nay hoa nở e mai hoa tàn.
Làm chi thiệt phận hồng nhan,
Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng?
Vọng Phu xưa cũng trông chồng,
Ngày xanh mòn mỏi má hồng phui pha.
Thôi thôi khuyên chớ thở ra,
Vầy cùng con lão một nhà cho xuôi". (274)
Nguyệt Nga giả dạng mừng vui,
Thưa rằng: "Người có công nuôi bấy chầy.
Tôi xin dám gởi lòng này,
Hãy tua chậm chậm sẽ vầy nhơn duyên. (275)
Tôi xin lạy tạ Vân Tiên,
Chay đàn bảy bữa cho tuyền thỉ chung".
Cha con thấy nói mừng lòng,
Dọn nhà sửa chỗ động phòng cho xuê.
Chiếu hoa gối sạch bộn bề,
Cỗ đồ bát bửu chỉnh tề chưng ra. (276)
Xảy vừa tới lúc canh ba,
Nguyệt Nga lấy bút đề và câu thơ.
Dán trên vách phấn một tờ,
Vai mang bức tượng một giờ ra đi.
Hai bên bờ bụi rậm rì,
Đêm khuay vắng vẻ gặp khi trăng lờ.
Lạ chừng đường sá bơ vơ,
Có bầy đom đóm sáng nhờ đi theo.
Qua truông rồi lại lên đèo,
Dế kêu dắng dỏi sương gieo lạnh lùng.
Giày sành, đạp sỏi thẳng xông, (277)
Vừa may trời đã vừng đông lố đầu.
Nguyệt Nga đi đặng hồi lâu,
Tìm nơi bàn thạch ngõ hầu nghỉ chân.
Người ngay trời phật cũng vâng,
Lão bà chống gậy trong rừng bước ra.
Hỏi rằng: "Nàng phải Nguyệt Nga,
Khá tua gắng gượng về nhà cùng ta. (278)
Khi khuya nằm thấy Phật bà,
Người đà mách bảo nên già tới đây".
Nguyệt Nga bán tín bán nghi,
Đành liều nhắm mắt theo đi về nhà.
Bước vào thấy những đàn bà,
Làm nghề bô vải lụa là mà thôi.
Nguyệt Nga đành dạ ở rồi,
Từ đây mới biết nổi trôi chốn nào.
Hỏi thăm ra chốn Ô Sào,
Quan san mấy dặm đi vào tới nơi. (279)
Đoạn này tới thứ ra đời, (280)
Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền.
Nửa đêm nằm thấy ông tiên,
Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra.
Kẽ từ nhuốm bệnh đường xa,
Tháng ngày thấm thoát kể đà sáu năm.
Tuổi cha rày đã năm lăm,
Chạnh lòng nhớ tới đầm đầm lụy sa.
Vân Tiên tính trở lại nhà,
Hớn Minh đưa khỏi năm ba dặm đường.
Tiên rằng : "Ta lại hồi hương,
Ơn nhau sau gặp khoa trường sẽ hay".
Minh rằng : "Tôi vốn chẳng may,
Ngày xưa mắc phải án đày trốn đi.
Dám đâu bày mặt ra thi,
Đã đành hai chữ quy y chùa này". (281)
Tiên rằng : "Phước gặp khoa này,
Sao sao cũng tính sum vầy cùng nhau.
Mấy năm hẩm hút tương rau, (282)
Khó nghèo nỡ phụ sang giàu đâu quên.
Lúc hư còn có lúc nên,
Khuyên người chử dạ cho bền thảo ngay".
Hớn Minh trở lại am mây,
Vân Tiên về một tháng chầy tới nơi.
Lục ông nước mắt tuôn rơi,
Ai dè con sống trên đời thấy cha!
Xóm giềng cô bác gần xa,
Đều mừng chạy tới chật nhà hỏi thăm.
Ông rằng : "Kể đã mấy năm,
Con mang bệnh tật ăn nằm nơi nao?"
Thưa rằng : "Hoạn nạn xiết bao,
Mẹ tôi phần mộ nơi nào viếng an ".
Đặt bày lễ vật nghiêm trang,
Đọc bài văn tế trước bàn minh sinh : (283)
"Suối vàng hồn mẹ có linh,
Chứng cho con trẻ lòng thành ngày nay.
Tưởng bền nguồn nước cội cây, (284)
Công cao ngàn trượng ngãi dày chín trăng. (285)
Suy trang nằm giá, khóc măng, (286)
Hai mươi bốn thảo chẳng bằng người xưa". (287)
Vân Tiên nước mắt như mưa,
Tế rồi hỏi việc khi xưa ở nhà.
Ông rằng : "Có nàng Nguyệt Nga,
Bạc tiền đem giúp cửa nhà mới xuê.
Nhờ nàng nên mới ra bề, (288)
Chẳng thì khó đói bỏ quê đi rồi".
Vân Tiên nghe nói hỡi ôi,
Chạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâu.
Hỏi rằng : "Nàng ấy ở đâu,
Đặng con đến đó đáp câu ân tình".
Lục ông thuật việc triều đình,
Đầu đuôi chuyện vãn tỏ tình cùng Tiên:
"Kiều công rày ở Tây Xuyên,
Cũng vì mắc nịnh biếm quyền đuổi ra". (289)
Tiên rằng : "Cám nghĩa Nguyệt Nga
Tôi xin qua đó thăm cha nàng cùng.
Tây Xuyên ngàn dặm thẳng xông,
Đến nơi ra mắt, Kiều công khóc liền:
"Nguyệt Nga rày ở nước Phiên,
Biết sao cho đặng đoàn viên cùng chàng?
Mấy thu Hồ Việt đôi phang, (290)
Cũng vì máy tạo én nhàn rẽ nhau.
Thấy chàng dạ lại thêm đau,
Đất trời bao nỡ chia bâu cho đành. (291)
Hẹp hòi đặng chút nữ sanh.
Trông cho chồi quế trổ nhành mẫu đơn". (292)
Nói rồi lụy nhỏ đòi cơn:
"Cũng vì một sự oán hờn nên gây.
Thôi con ở lại bên này,
Hôm mai thấy mặt cho khuây lòng già".
Vân Tiên từ ấy lân la,
Ôn nhuần kinh sử chờ khoa ứng kì,
Năm sau lệnh mở khoa thi,
Vân Tiên vào tạ xin đi tựu trường.
Trở về thưa với xuân đường,
Kinh sư ngàn dặm một đường thẳng ra. (293)
Vân Tiên dự trúng khôi khoa, (294)
Đương trong nhâm tí thiệt là năm nay.
Nhớ lời thầy nói thật hay,
Bắc phương gặp chuột hẳn rày nên danh.
Vân Tiên vào tạ triều đình,
Lệnh ban y mão hiển vinh về nhà.
Xảy nghe tin giặc Ô Qua,
Phủ vây quan ải, quân ba bốn ngàn.
Sở vương phán trước ngai vàng:
Chỉ sai quốc trạng dẹp loàn bầy ong. (295)
Trạng nguyên tâu trước bệ rồng:
"Xin dâng một tướng anh hùng đề binh. (296)
Có người họ Hớn tên Minh,
Sức đương Hạng Võ mạnh kình Trương Phi.
Ngày xưa mắc án trốn đi,
Phải về nương náu từ bi ẩn mình".
Sở vương phán trước triều đình,
Chỉ sai tha tội Hớn Minh đòi về.
Sắc phong phó tướng bình di, (297)
Tiên Minh tương hội xiết gì mừng vui. (298)
Nhất thanh phấn phát oai lôi, (299)
Tiên phong hậu tập trống hồi tấn binh. (300)
Quan sơn ngàn dặm đăng trình,
Lãnh cờ bình tặc phá thành Ô Qua. (301)
Làm trai ơn nước nợ nhà,
Thảo cha, ngay chúa, mới là tài danh.
Phút đầu binh đáo quan thành, (302)
Ô Qua xem thấy, xuất hành cự đang. (303)
Tướng Phiên hai gã đường đường,
Một chàng Hoả Hổ một chàng Thần Long.
Lại thêm Cốt Đột nguyên nhung,
Mắt hùm râu đỏ tướng hung lạ lùng.
Hớn Minh ra sức tiên phong,
Đánh cùng Hoả Hổ Thần Long một hồi.
Hớn Minh chùy giáng dường lôi, (304)
Hai chàng đều bị một hồi mạng vong.
Nguyên nhung Cốt Đột nổi xung,
Hai tay xách búa đánh cùng Hớn Minh.
Hớn Minh sức chẳng dám kình,
Thấy chàng hoá phép thoát mình trở lui.
Vân Tiên đầu đội kim khôi,
Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô. (305)
Một mình lướt trận xông vô,
Thấy người Cốt Đột biển hô yêu tà.
Vội vàng trở ngựa lui ra,
Truyền đem máu chó đều thoa ngọn cờ.
Ba quân gươm giáo đều dơ,
Yêu ma xem thấy một giờ vỡ tan.
Phép tà Cốt Đột hết phương,
Phừng phừng nổi giận đánh chàng Vân Tiên.
Trung, tiền, tả, hữu, lưỡng biên,
Trạng nguyên - Cốt Đột đánh liên tối ngày.
Sa cơ Cốt Đột chạy ngay,
Vân Tiên giục ngựa kíp rày đuổi theo.
Đuổi qua mới đặng bảy đèo,
Khá thương Cốt Đột vận nghèo nài bao. (306)
Chạy ngang qua núi Ô Sào,
Phút đâu con ngựa sao hào thương ôi.
Vân Tiên chém Cốt Đột rồi,
Đầu treo cổ ngựa phản hồi bổn quân.
Ôi thôi bốn phía đều rừng,
Trời đà tối mịt lạc chừng gần xa.
Một mình lạc nẻo vào ra,
Lần theo đường núi phút đà tam canh. (307)
Một mình trong chốn non xanh,
Không ai mà hỏi lộ trình trở ra.
Đoạn này tới thứ Nguyệt Nga,
ở đây tính đã hơn ba năm rồi.
Đêm khuya trong ngọn đèn ngồi,
Chẳng hay trong dạ bồi hồi việc chi:
"Quân âm thuở trước nói chi,
Éo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoài.
Đã đành đá nát vàng phai,
Đã đành xuống chốn dạ đài gặp nhau.
Không trông mồng bảy đêm thu,
Không trông bầy quạ đội cầu đưa sao. (308)
Phải chi hỏi đặng Nam Tào,
Đêm nay cho đến đêm nào gặp nhau?"
Nguyệt Nga gượng giải cơn sầu,
Xảy nghe lạc ngựa ở đâu tới nhà.
Kêu rằng: "Ai ở trong nhà,
Đường về quan ải chỉ ra cho cùng".
Nguyệt Nga ngồi sợ hãi hùng,
Vân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào.
Lão bà lật đật hỏi chào :
"Ở đâu mà tới rừng cao một mình?"
Vân Tiên mới nói sự tình :
"Tôi là quốc trạng trào đình sai ra.
Đem binh dẹp giặc Ô Qua,
Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây".
Lão bà nghe nói sợ thay :
"Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già ".
Vân Tiên ngồi ngắm Nguyệt Nga,
Lại xem bức tượng lòng đà sinh nghi.
Hỏi rằng: "Bức ấy tượng chi,
Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình.
Đầu đuôi chưa rõ sự tình,
Lão bà khá nói tánh danh cho tường ".
Lão bà chẳng dám lời gian :
"Tượng này vốn thiệt chồng nàng ngồi đây".
Tiên rằng : "Nàng xách lại đây,
Nói trong tên họ tượng này ta nghe".
Nguyệt Nga lòng rất kiêng dè,
Mặt thời giống mặt, còn e lạ người.
Ngồi che tay áo hổ ngươi,
Vân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi.
Rằng : "Sao nàng chẳng nói đi,
Hay là ta hỏi động chi chăng là?"
Nguyệt Nga khép nép thưa qua :
"Người trong bức tượng tên là Vân Tiên.
Chàng đàng về chốn cửu tuyền,
Thiếp lăm trọn đạo, lánh miền gió trăng".
Vân Tiên nghe nói hỏi phăn :
"Chồng là tên ấy vợ rằng tên chi?"
Nàng bèn tỏ thiệt một khi,
Vân Tiên vội vã xuống quì vòng tay.
Thưa rằng : "May gặp nhau đây,
Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn.
Để lời thệ hải minh sơn, (309)
Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi.
Vân Tiên vốn thiệt là tôi,
Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ".
Nguyệt Nga bảng lảng bơ lơ, (310)
Nửa tin rằng bạn, nửa ngờ rằng ai.
Thưa rằng : "Đã thiệt tên ngài,
Khúc nôi xin cứ đầu bài phân qua". (311)
Vân Tiên dẫn tích xưa ra,
Nguyệt Nga khi ấy khóc oà như mưa.
Ân tình càng kể càng ưa,
Mảng còn bịn rịn trời vừa sáng ngay.
Xa nghe quân ó vang dầy,
Bốn bề rừng bụi khắp bày can qua.
Vân Tiên lên ngựa trở ra,
Thấy cờ đề chữ hiệu là Hớn Minh.
Hớn Minh khi ấy dừng binh,
Anh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhau.
Minh rằng : "Tẩu tẩu ở đâu, (312)
Cho em ra mắt chị dâu thế nào".
Vân Tiên đem Hớn Minh vào,
Nguyệt Nga đứng dậy miệng chào có duyên.
Minh rằng : "Tưởng chị ở Phiên,
Quyết đem binh mã sang miền Ô Qua.
May đâu sum hiệp một nhà,
Giặc đà an giặc khải ca hồi trào".
Tiên rằng : "Nàng tính thế nào?"
Nàng rằng : "Anh hãy về trào tâu lên.
Ngỏ nhờ lượng cả bề trên,
Lịnh tha tội trước mới nên về nhà ".
Tiên, Minh trở ngựa đều ra,
Đem binh trở lại triều ca đề huề. (313)
Sở vương nghe trạng nguyên về,
Sai quan tiếp rước vào kề bên ngai.
Sở vương bước xuống kim ngai,
Tay bưng chén rượu thưởng tài trạng nguyên.
Phán rằng : "Trẫm sợ nước Phiên,
Có người Cốt Đột phép tiên lạ lùng.
Nay đà trừ Cốt Đột xong,
Thiệt trời sanh trạng giúp trong nước nhà.
Phải chi trước có trạng ra,
Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ ".
Lệnh truyền mở yến triều đô,
Rày mừng trừ đặng giặc Ô Qua rồi.
Trạng nguyên quì tấu một hồi,
Nguyệt Nga các việc khúc nôi rõ ràng.
Sở vương nghe tấu ngỡ ngàng.
Phán rằng : "Trẫm tưởng rằng nàng ở Phiên
Chẳng ngờ nàng với trạng nguyên,
Cùng nhau trước có nhân duyên thuở đầu ".
Thái sư trước bệ quì tâu :
"Ô Qua dấy động qua mâu cũng vì, (314)
Trá hôn oán ấy nên gây,
Nguyệt Nga nàng thiệt tội thì khi quân"
Trạng nguyên mặt đỏ phừng phừng,
Bèn đem bức tượng quì dâng làm bằng.
Sở vương xem tượng phán rằng :
"Nguyệt Nga trinh tiết ví bằng người xưa.
Thái sư trước chẳng lo lừa,
Thiếu chi dân thứ phải đưa tới nàng?
Dầu cho nhựt nguyệt rõ ràng.
Không soi chậu úp cũng mang tiếng đời. (315)
Ngay gian sao cũng có trời,
Việc này vì trẫm nghe lời nên oan ".
Trạng nguyên tâu trước triều đàng :
"Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà.
Trịnh Hâm là đứa gian tà,
Hại tôi buổi trước cũng đà ghe phen ". (316)
Sở vương phán trước bệ tiền :
"Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền mà thôi. (317)
Vậy cũng đạo chúa ngãi tôi,
Thái sư ý muốn cướp ngôi chín trùng. (318)
Hớn xưa có gã Đổng công, (319)
Nuôi thằng Lữ Bố cướp dòng họ Lưu.
Đời xưa tôi nịnh biết bao,
Thái sư nay có khác nào người xưa?
Thấy người trung chánh chẳng ưa,
Rắp tâm kế độc lập lừa mưu sâu.
Trịnh Hâm tội đáng chém đầu,
Ấy là mới hết người sau gian tà ".
Sở vương phán trước triều ca :
"Thái sư cách chức về nhà làm dân.
Trịnh Hâm là đứa bạo thần,
Giao cho quốc trạng xử phân pháp hình.
Nguyệt Nga là gái tiết trinh,
Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng.
Kiều công xưa mắc tội oan,
Trẫm cho phục chức làm quan Đông Thành.
Trạng nguyên dẹp giặc đã bình,
Kiệu vàng tán bạc hiển vinh về nhà ".
Bãi chầu chư tướng trở ra,
Trạng nguyên mời hết đều qua dinh ngồi.
Họ Vương họ Hớn họ Bùi,
Cùng nhau uống rượu đều vui đều cười.
Trạng nguyên mới hỏi một lời :
"Trịnh Hâm tội ấy các người tính sao?"
Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào,
Mặt nhìn khắp hết miệng chào các anh.
Minh rằng : "Ai mượn kêu anh,
Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi.
Kéo ra chém quách cho rồi,
Để chi gai mắt đứng ngồi căm gan ".
Trực rằng : "Minh nóng nói ngang,
Giết ruồi ai dụng gươm vàng làm chi
Xưa nay mấy đứa vô nghì,
Dẫu cho có sống, làm gì nên thân?"
Hâm rằng : "Nhờ lượng cố nhân,
Vốn em mới dại một lần xin dung ".
Trạng rằng : "Hễ đứng anh hùng,
Nào ai có giết đứa cùng làm chi.
Thôi thôi ta cũng rộng suy,
Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi ".
Trịnh Hâm khỏi giết rất vui,
Vội vàng cúi lạy chân lui ra về.
Còn người Bùi Kiệm máu dê,
Ngồi chai bề mặt như sề thịt trâu.
Hớn Minh - Tử Trực vào tâu,
Xin đưa quốc trạng kíp chầu vinh qui.
Một người Bùi Kiệm chẳng đi,
Trong lòng hổ thẹn cũng vì máu dê.
Trạng nguyên xe giá chỉnh tề,
Sai quân hộ vệ rước về Nguyệt Nga.
Bạc vàng đem tạ lão bà,
Nguyệt Nga từ tạ thẳng qua Đông Thành.
Võng điều gươm bạc lọng xanh,
Trạng nguyên Tử Trực Hớn Minh lên đàng,
Trịnh Hâm về tới Hàn Giang,
Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay.
Trịnh Hâm bị cá nuốt rày,
Thiệt trời báo ứng lẽ này rất ưng.
Thấy vầy nên dửng dừng dưng, (320)
Làm người ai nấy thì đừng bất nhân.
Tiểu đồng trước giữ mộ phần,
Ngày qua tháng lại đã gần ba năm.
Của đi khuyên giáo mấy năm.
Tính đem hài cốt về thăm quê nhà.
Hiềm chưa thuê đặng người ta,
Còn đương thơ thẩn vào ra Đại Đề.
Trạng nguyên khi ấy đi về,
Truyền quân bày tiệc lo bề tế riêng :
"Tiểu đồng hồn bậu có thiêng,
Thoả tình thầy tớ lòng thiềng ngày nay".
Đọc văn nhớ tới chau mày,
Đôi hàng lụy ngọc tuôn ngay ròng ròng.
Người ngay trời phật động lòng,
Phút đâu ngó thấy tiểu đồng đến coi.
Trạng nguyên còn hãy sụt sùi,
Ngó lên bài vị lại xui lòng phiền. (321)
Tiểu đồng nhắm ngửa nhìn nghiêng :
"Ông này sao giống Vân Tiên cũng kì?
Ông nào mất xuống âm ti,
Ông nào còn sống nay thì làm quan?"
Trạng nguyên khi ấy hỏi chàng :
"Phải người đồng tử mắc màn chốn ni?"
Mấy năm tớ mới gặp thầy,
Cùng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn (322)
Ai dè còn thấy bổn quan, (323)
Ba năm gìn giữ mồ hoang đã rồi.
Trạng nguyên khi ấy mừng vui,
Tớ thầy sum họp tại nơi Đại Đề.
Đoạn thôi xe giá ra về,
Tuần dư phút đã gần kề Hàn Giang. (324)
Võ công từ xuống suối vàng,
Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đeo sầu.
Mẹ con những mảng lo âu ;
"Nghe Vân Tiên sống gặp chầu công danh.
Cùng ta xưa có ân tình,
Phải ra đón rước lộ trình hoạ may".
Loan rằng : "Mình ở chẳng hay,
E người còn nhớ những ngày trong hang".
Trang rằng : "Con có hồng nhan,
Cho chàng thấy mặt thời chàng ắt ưa.
Dầu chàng còn nhớ tích xưa,
Mẹ con ta lại đổ thừa Võ công".
Cùng nhau bàn luận đã xong,
Soi gương đánh phấn ra phòng rước duyên. (325)
Nay đà tới thứ trạng nguyên,
Hàn Giang đã tới bỗng liền đóng quân.
Bạc vàng châu báu áo quần,
Trạng nguyên đem tạ đáp ân ngư tiều.
Ngư tiều nay đặng danh biêu, (326)
Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe.
Trạng nguyên chưa kịp trở về,
Thấy Quỳnh Trang đã đứng kề trong quân.
Trang rằng : "Tưởng chữ hôn nhân,
Mẹ con tôi đến lễ mừng trạng nguyên.
Võ công đã xuống huỳnh tuyền,
Xin thương lấy chút thuyền quyên phận này".
Trạng rằng : "Bưng bát nước đầy,
Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong?
Oan gia nợ ấy trả xong,
Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi". (327)
Hớn Minh Tử Trực đứng coi,
Cười rằng : "Hoa khéo làm mồi trêu ong.
Khen cho lòng chẳng thẹn lòng,
Còn mang mặt đến đèo bòng nỗi chi?
Ca ca sao chẳng chịu đi, (328)
Về cho tẩu tẩu, để khi xách giày?"
Mẹ con đứng thẹn thùng thay,
Vội vàng cúi lạy, chân rày trở ra.
Trở về chưa kịp tới nhà,
Thấy hai con cọp nhảy ra đón đàng.
Thảy đều bắt mẹ con nàng,
Đem vào lại bỏ trong hang Thương Tòng.
Bốn bề đá lấp bịt bùng,
Mẹ con than khóc không trông ra rồi.
Trời kia quả báo mấy hồi,
Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu.
Làm người cho biết nghĩa sâu,
Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho tròn.
Chớ đừng theo thói mẹ con,
Thác đà mất kiếp tiếng còn bia danh.
Trạng nguyên về tới Đông Thành,
Lục ông trước đã xây dinh ở làng.
Bày ra sáu lễ sẵn sàng, (329)
Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga.
Sui gia đã xứng sui gia,
Rày mừng hai họ một nhà thành thân.
Trăm năm biết mấy tinh thần,
Sinh con sau nối gót lân đời đời. (330) | Nguyễn Đình Chiểu |
Bài Thơ Tháng Tám | poem.php?poem=bai_tho_thang_tam__bui_minh_quoc | Các anh – những người Tháng Tám
Các anh đâu rồi? Thấm mệt rồi chăng?
Các anh nghĩ gì sau nếp nhăn vầng trán
“Thế sự du du…” thật giả nhập nhằng!…
Có lẽ nào? Có lẽ nào? Lịch sử
Lại như con thò lò trong ván bài quỷ dữ
Máu nhân dân tuôn chảy đúc ngai vàng
Bạo chúa ngồi lem lẻm tụng nhân dân?
Ơi em gái Trường Sơn mười tám tuổi
Cùng đồng đội đêm nao truy điệu sống cho mình
Và cứ thế dấn thân vào lửa dội
Em nghĩ gì sau cặp mắt kiên trinh?
Em nghĩ tới tương lai tươi thắm ngọt lành?
Tương lai ấy bây giờ tôi sống dở
Quay mặt vào đâu cũng phải ghìm cơn mửa
Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi
Tôi bước đi trên đất nước nghẹn lời
Các anh đâu rồi
Những người Tháng Tám?
Chẳng nhẽ khoanh tay nhìn tấn trò bội phản
Dân tộc này bị vỡ nợ Tự Do?
Dân tộc từng sống chết chẳng so đo
Quyết không làm nô lệ
Sao hôm nay Người đành cam chịu thế
Mặc thân phận mình dưới ách tà gian
“Việt Nam bao năm ròng rên xiết lầm than…”
Câu hát cũ lòng tôi rỉ máu
Kìa em gái Trường Sơn hiện hồn về nhìn tôi đau đáu
Tháng tám ơi! Tháng Tám nước non mình
Tôi lại đi, lầm lũi cuộc hành trình
Chỉ có thế thôi! Thơ
Với cường quyền
Ðối mặt
Sống trong tôi là triệu người đã khuất
Ðang thét đòi món nợ: Tự Do!
(19-8-1994) | Bùi Minh Quốc |
Cay Đắng Thay | poem.php?poem=cay_dang_thay__bui_minh_quoc | Cái guồng máy nhục mạ con người
Mang bộ mặt hiền lành của người cuốc đất
Ù lì quay
Quay
Thao thao bài đạo đức
Liệu mấy ai còn ngây?
Cay đắng thay
Mỉa mai thay
Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt
Lại đúc nên chính cỗ máy này. | Bùi Minh Quốc |
Có Khi Nào | poem.php?poem=co_khi_nao__bui_minh_quoc | Có khi nào trên đường đời tấp nập
Ta vô tình đã đi lướt qua nhau
Bước lơ đãng chẳng ngờ đang để mất
Một tâm hồn ta đợi đã từ lâu | Bùi Minh Quốc |
Không Mẹ Ơi | poem.php?poem=khong_me_oi__bui_minh_quoc | Dẫu biết rằng đành phải quen mà sống
Quen những mặt trơ lì những miệng trơn lu
Quen đừng tin yêu quen đừng mơ mộng
Quen giả ngu giả điếc giả mù
Quen cả bùn nhớp tận sắc trời thu
Đêm ngào ngạt nẻo tường vi bỗng ầm ầm chó sủa
Và bạn bè văn chương một thuở
Đứa nhơn nhơn vác bút đi bồi
Thằng vênh vang chức tước ăn chơi
Thằng lon ton kiêm nghề mật vụ
Tất cả
Tất cả mọi điều
Có thể đành quen
Duy một điều không thể nào quen
Không thể nào quen nhìn lưng còng của mẹ
Dẫu con biết nghìn năm mẹ đã còng như thế
Còng đến đáy ruộng đồng
Còng mất con mất cháu mất chồng
Để vẫn hoàn còng đứng ngồi rón rén
Mắt mờ đục miệng phào móm mém
“Nhờ ơn trên, nhớ ơn trên…”
Không, mẹ ơi, con không thể nào quen! | Bùi Minh Quốc |
Mẹ Đi Chọn Mặt Gửi Vàng | poem.php?poem=me_di_chon_mat_gui_vang__bui_minh_quoc | Chọn mặt nào mà gửi?
Này có phải mặt này từ hầm mẹ trồi lên?
Mẹ nhìn mãi nét mờ nét tỏ.
Mẹ nhìn suốt những mặt con đầy tớ,
Mặt đứa nào cũng béo tốt phương phi,
Cầm cuốc một đời, cầm bút bỗng vân vi.
Chọn mặt nào mà gửi?
Chọn mặt nào cho máu mình đỡ tủi?
Đà Lạt, 7-7-1992 | Bùi Minh Quốc |
Mẹ Ngẩn Ngơ Đi… | poem.php?poem=me_ngan_ngo_di__bui_minh_quoc | Những đứa con xưa mẹ nuôi giấu dưới hầm
Nay đua nhau xây nhà bạc tỉ
Và tuyên bố xanh rờn:
Gia tài xin của mẹ
Mẹ ngẩn ngơ đi đầu trời cuối bể:
- Có ai tầm chiếc cuốc mòn?
- Có ai tầm chiếc cuốc mòn?
- Có ai?
Có ai?
Này chiếc cuốc mòn
Ta đổi ngàn vàng che mặt cho con. | Bùi Minh Quốc |
Một Thoáng Phố Phường | poem.php?poem=mot_thoang_pho_phuong__bui_minh_quoc | (Dùi cui vung dọc phố)
Mẹ già táo tác gánh rau
Chân run té nhào giữa lộ
Còi hú, mẹ ơi dậy mau
Cho rộng đường xe “đầy tớ”.
*
(Gửi một nhà thơ đàn anh)
Tưởng bạn nghìn dặm thơ
Hóa vòng vo nhảy nhót
Trong cái lồng rất to
Tự đan bằng tiếng hót.
1997 | Bùi Minh Quốc |
Óc Tim Này Chẳng Ai Cho | poem.php?poem=oc_tim_nay_chang_ai_cho__bui_minh_quoc | Một đời, một cõi nhân sinh
Thẳng lưng dẫu chạm thiên đình chẳng sao
Bùn nhơ tự chín tầng cao
Ngẩng đầu là thấy thiên tào mặt mo
Óc tim này chẳng ai cho
Thong dong mà sống tự do tự mình.
1997 | Bùi Minh Quốc |
Phản Chiến | poem.php?poem=phan_chien__bui_minh_quoc | Chúng đưa con du học nước ngoài
Rúc kín lâu đài du hý trên ngai
Hãy cảnh giác!
Bọn mặt bự dẻo mồm
Thời nào chẳng nhân danh Tổ quốc
Cao giọng hùng hồn không tiếc máu xương
Máu xương lầy đỏ nghiệp đế vương
Hãy cảnh giác!
Sau chiến tranh chúng lại chiến tranh
Cuộc chiến tranh một phía
Người sống sót trở về oằn lưng sưu thuế
Chúng lấy máu đúc vàng
Độc quyền ngự trị nghênh ngang
Độc quyền nghĩ
Độc quyền nói
Độc quyền ráo trọi
Dân đen chỉ một quyền được …đói
Và thêm nữa là quyền sợ hãi
Triền miên…
Hãy cảnh giác!
Dân đen
Cảnh giác!
Lòng ta yêu vô cùng Tổ quốc
Chúng luôn moi làm bẫy đánh lừa
Sập lại chính đời ta
Đến con cháu ta
Vào kiếp chó
Canh túi vàng chúng nó.
Đà Lạt, 4-4-2003 | Bùi Minh Quốc |
Thơ Dâng | poem.php?poem=tho_dang__bui_minh_quoc | Kính dâng anh linh các liệt sĩ
Vì Tổ Quốc đã bỏ mình trong lòng đất lòng biển
Hoàng Sa Trường Sa
Tôi ngước mắt vọng trời
Trời rựng máu
Hoàng Sa
Trường Sa
Tôi cúi đầu tìm đất
Đất ứa lệ
Hoàng Sa
Trường Sa
Tôi vây giữa ngàn thông ngàn hoa
Gốc thông nào cũng khắc
Hoàng Sa
Trường Sa
Cánh hoa nào cũng nhắc
Hoàng Sa
Trường Sa
Kìa vụt hiện ngọc ngà
Người mẫu
Em lớn từ lệ máu
Hoàng Sa
Trường Sa
Ê a bên thềm miệng sữa ê a
Vỗ lòng tôi tựa sóng
Hoàng Sa
Trường Sa
Sực nghe xuân gõ cửa mọi nhà
Âm âm
Rền
Hoàng Sa
Trường Sa. | Bùi Minh Quốc |
Thơ Vụt Hiện Trong Phòng Thẩm Vấn | poem.php?poem=tho_vut_hien_trong_phong_tham_van__bui_minh_quoc | Xuân hổn hển ngực đồi cỏ thắm
Ðà Lạt dậy mùa hoa
Anh nghiến răng trong phòng thẩm vấn
Giữa ban ngày mà ngập đêm đen.
Những câu hỏi làm anh lộn mửa
- Bài thơ này anh gửi cho ai?
- Ai gửi cho anh bài này bài nọ?
Trái tim thơ muốn nổ chuỗi cười dài!…
Thật dễ quá đầu môi yêu Tổ Quốc
Ðây tình yêu như máu cuộn không lời
Người quằn quại người nát thây lầm đất
Vẫn người đi, người tiếp mãi bên người.
Tổ Quốc hỡi tình chi đau đớn vậy
Con yêu người, ngục tối nuốt trời xanh
Ôi Tổ Quốc vào tay quỉ dữ
Tiếng hát tự do uất nghẹn khắp thân mình.
Con đối diện những tia nhìn cú vọ
Cả một thời xung trận lại trào sôi
Ðôi cánh thơ vẫy vùng trong bão tố
Tiếng hát tự do trong biếc mãi dâng đời.
Xuân Hè 97 | Bùi Minh Quốc |
Từ Phút Ấy | poem.php?poem=tu_phut_ay__bui_minh_quoc | Tổ quốc ta giặc giày xéo điên cuồng
Mạ bế ta đi suốt những nẻo đường lạnh đói
Khúc hát ru ta là khúc hát căm hờn.
Miền Bắc tự do. Tôi là em thiếu niên cắp sách đến trường.
Một ngôi trường xinh xắn giưới hàng dương
Mà anh Giót anh Đàn khi ngã xuống
Thấy hiện ra như cả một thiên đường.
Tôi đã được nuôi dạy trong bình yên hạnh phúc
Những năm tháng đất nước chẳng bình yên
Miền Nam miền Nam, bao đồng chí đồng bào đang ngã gục…
Tiếng súng bên trời đau nhói con tim
Tiếng súng bên trời dựng tôi dậy trong đêm
Rồi sẽ có ngày các con tôi chúng hỏi:
Tuổi trẻ của cha đã sống thế nào?
Tôi không thể quay đầu nói dối
Mặt cầu an vờ dây đất chiến hào.
Hôm nay tôi nhìn đâu cũng gặp cái nhìn của Trỗi
Cám ơn anh, cám ơn anh, chính phút cuối cùng…
Hạnh phúc thay khi nhìn mắt những anh hùng
Ta được thấy lòng mình không bối rối!
10-1964 | Bùi Minh Quốc |
Ngọn Đèn Đứng Gác | poem.php?poem=ngon_den_dung_gac__chinh_huu | Trên đường ta đi đánh giặc
Ta về Nam hay ta lên Bắc,
Ở đâu
Cũng gặp
Những ngọn đèn dầu
Chong mắt
Đêm thâu
Những ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt
Như những tâm hồn không bao giờ biết tắt,
Như miền Nam
Hai mươi năm
Không đêm nào ngủ được,
Như cả nước
Với miền Nam
Đêm nào cũng thức…
Soi cho ta đi
Đánh trận trường kỳ
Đèn ta thắp niềm vui theo dõi
Đèn ta thắp những lời kêu gọi.
Đi nhanh đi nhanh
Chiến trừõng đã giục
Đầy núi đầy sông
Đèn ta đã mọc.
Trong gió trong mưa
Ngọn đèn đứng gác
Cho thắng lợi, nối theo nhau
Đang hành quân đi lên phía truớc.
1965 | Chính Hữu |
Bài Thơ Của Một Người Yêu Nước Mình | poem.php?poem=bai_tho_cua_mot_nguoi_yeu_nuoc_minh__tran_vang_sao | Buổi sáng tôi mặc áo đi giầy ra đứng ngoài đường
Gió thổi những bông mía trắng bên sông
Mùi toóc khô còn thơm lúa mùa qua
Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà
Những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé
Tôi yêu đất nước này như thế
Mỗi buổi mai
Bầy chim sẻ ngoài sân
Gió mát và trong
Đường đi đầy cỏ may và muộng chuộng
Tôi vẫn sống
Vẫn ăn
Vẫn thở
Như mọi người
Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ
Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu
Một vết bùn khô trên mặt đá
Không có ai chia tay
Cũng nhớ một tiếng còi tàu
Mẹ tôi thức khuya dậy sớm
Năm nay ngoài năm mươi tuổi
Chồng chết đã mười mấy năm
Thủa tôi mới đọc được i tờ
Mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần
Nước sông gạo chợ
Nhà hai buổi nhà không khi nào vắng người đòi nợ
Sống qua ngày nên phải nghiến răng
Cũng không vui nên mẹ ít khi cười
Những buổi trưa buổi tối
Ngồi một mình hay khóc
Vẫn thở dài mà không nói ra
Thương con không cha
Hẩm hiu côi cút
Tôi yêu đất nước này xót xa
Mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng
Thương tôi nên ở goá nuôi tôi
Những đứa nhà giàu hàng ngày chửi bới
Chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc như cho một đứa hủi
Ngày kỵ cha họ hàng thân thích không ai tới
Thắp ba cây hương
Với mấy bông hải đường
Mẹ tôi khóc thút thít
Cầu cha tôi phù hộ tôi nên người
Con nó còn nhỏ dại
Trí chưa khôn chân chưa vững bước đi
Tôi một mình nuôi nó có kể chi mưa nắng
Tôi yêu đất nước này cay đắng
Những đêm dài thắp đuốc đi đêm
Quen thân rồi không ai còn nhớ tên
Dĩ vãng đè trên lưng thấm nặng
Áo mồ hôi những buổi chợ về
Đời cúi thấp
Giành từng lon gạo mốc
Từng cọng rau, hột muối
Vui sao khi còn bữa đói bữa no
Mẹ thương con nên cách trở sông đò
Hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc
Đêm nào mẹ cũng khóc
Đêm nào mẹ cũng khấn thầm
Mong con khôn lớn cất mặt với đời
Tôi yêu đất nước này khôn nguôi
Tôi yêu mẹ tôi áo rách
Chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu
Tôi bước đi
Mưa mỗi lúc một to
Sao hôm nay lòng thấy chật
Như buổi sáng mùa đông chưa có mặt trời mọc
Con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua
Nỗi mệt mỏi, rưng rưng từng con nước
Chim đậu trên cành chim không hót
Khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may
Tôi yêu đất nước này những buổi mai
Không ai cười không tiếng hát trẻ con
Đá đất cỏ cây ơi
Mười ba năm có héo mòn
Đá đất cỏ cây ơi
Lòng vẫn thương mẹ, nhớ cha
Ăn quán nằm cầu
Hai hàng nước mắt chảy ra
Mỗi đêm cầu trời khấn Phật cho tai qua nạn khỏi
Ngày mai mua may bán đắt
Tôi yêu đất nước này áo rách
Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió
Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở
Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài
Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai
Tôi yêu đất nước này như thế
Như yêu cây cỏ trong vườn
Như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương
Nuôi tôi thành người hôm nay
Yêu một giọng hát hay
Có bài mái đẩy thơm hoa dại
Có sáu câu vọng cổ chứa chan
Có ba ông táo thờ trong bếp
Và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen
Tôi yêu đất nước này và tôi yêu em
Thủa tóc kẹp tuổi ngoan học trò
Áo trắng và chùm hoa phượng đỏ
Trong bước chân chim sẻ
Ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi
Hay nói chuyện huyên thuyên
Chuyện trên trời dưới đất rất lạ
Chuyện bông hoa mọc một mình trên đá
Cứ hay cười mà không biết có người buồn
Sáng hôm nay gió lạnh vẫn còn
Khi xa nhà vẫn muốn ngoái lại
Ngó cây cam cây cải
Thương mẹ già như chuối ba hương
Em chưa buồn
Vì chưa rách áo
Tôi yêu đất nước này rau cháo
Bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu
Áo đứt nút qua cầu gió bay
Tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan
Tôi yêu đất nước này lầm than
Mẹ đốt củi trên rừng và cha làm cá ngoài biển
Ăn rau rìu, rau éo, rau trai
Nuôi lớn người từ ngày mở đất
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ
Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng
Tôi đi hết một ngày
Gặp toàn người lạ
Chưa ai biết chưa ai quen
Không biết tuổi không biết tên
Cùng sống chung trên trái đất
Cùng nỗi đau chia cắt Bắc Nam
Cùng có chung tên gọi Việt Nam
Mang vết thương chảy máu ngoài tim
Cùng nhức nhối với người chết oan ức
Đấm ngực giận hờn tức tối
Cùng anh em cất cao tiếng nói
Bản tuyên ngôn mười bốn triệu người đòi độc lập tự do
Bữa ăn nào cũng phải được no
Mùa lạnh phải có áo ấm
Được ca hát, nói cười, yêu đương không ai cấm
Được thờ cúng những người mình tôn kính
Hai mươi năm cuộc đời chưa khi nào định
Tôi trở về căn nhà nhỏ
Đèn thắp ngọn lù mù
Gió thổi trong lá cây xào xạc
Vườn đêm thơm mát
Bát canh rau dền có ớt chìa vôi
Bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc
Mẹ bồng con lên non ngồi cầu Ái Tử
Đất nước hôm nay đã thấm hồn người
Ve sắp kêu mùa hạ
Nên không còn mấy thu
Đất nước này còn chua xót
Nên trông ngày thống nhất
Cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam
Cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc
Lòng vui hôm nay không thấy chật
Tôi yêu đất nước này chân thật
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
Và yêu tôi đã biết làm người
Cứ trông đất nước mình thống nhất
19/12/1967 | Trần Vàng Sao |
Người Đàn Ông Bốn Mươi Ba Tuổi Nói Về Mình | poem.php?poem=nguoi_dan_ong_bon_muoi_ba_tuoi_noi_ve_minh__tran_vang_sao | 1.
Tôi tuổi tỵ
Năm nay bốn mươi ba tuổi
Thường không có một đồng trong túi
Buổi sáng buổi chiều
Thứ hai thứ ba thứ bảy chủ nhật
Trong nhà ngoài sân với hai đứa con
Cây cà cây ớt
Con chó con mèo
Cái đầu gãy cái tay gãy của con búp bê
Cọng cỏ ngọn lá vú sữa khô
Thúng mủng chai chén sách vở quần áo mũ nón cuốc rựa trên ghế dưới bàn
Hai ba ngày một tuần một tháng có khi không đi đâu hết
Một hai ba giờ sáng thức dậy ngồi vác mặt ngó trời nghe chó sủa
Miếng nước trà mốc nguội có mùi bông lài rát cổ
Cũng không có chi phiền
Vấn một điếu thuốc hút
Hai ba lần tắt đỏ
Rồi nửa chừng rách giấy
Bạn bè gặp nhau
Cho uống một ly cà phê
Một lần
Qua hai lần phải tránh
Không phải ai cũng nghĩ như mình
Nhiều đứa vui gặp nhau cho năm ba đồng một chục
Đưa tay cầm lấy
Miệng nói không được
2.
Tôi thấy tôi như người tù được thả rông
Lang thang giữa đường giữa phố
Nhìn hết mọi người
Xem mình lâu ngày mặt mũi có khác người không
Tôi đi lui
Tôi đi tới
Phố phường đông chật
Tiếng cười tiếng la tiếng nói tiếng xe cộ
Chẳng có ai quen thử nói chào tôi một tiếng
Tôi đưa hai tay lên đầu vuốt tóc
Lấy chân hất một hòn đá
Cúi xuống nhìn mấy bao thuốc không bên lề đường
Rồi đi về
Qua cầu dép sút một quai
Tôi không muốn nhớ gì hết
3.
Tôi ngồi trên hòn đá trước nhà
Buổi chiều không có một con chim đậu trên cây
Đám trẻ con chia phe bắn nhau cười la ngoài sân
Đứa sống đứa chết cãi nhau ăn gian chửi thề
Những người đi bán về nói chuyện to
Hai đứa nhỏ nhà bên cạnh cầm đèn che miếng lá chuối
Qua xin lửa hỏi tôi nấu cơm chưa
Tôi cười lắc đầu muốn đi ngủ
Trong gió có mùi rơm cháy
Tôi không biết làm gì hết
Tôi bỏ hai chân ra khỏi dép cho mát
Đám trẻ con bỏ chơi chạy theo phá đàn trâu bò đi qua
Tôi bước vào nhà mở rộng hai cánh cửa lớn thắp một cây đèn để lên bàn thờ
Hai đứa con ra ngoài đường chờ mẹ chưa về
Trời còn lâu mới tối
Tôi đi gánh một đôi nước uống
4.
Tôi sống yên ổn với những việc làm hàng ngày của mình
Không định được ngày mai
Có một đồng để mua cho con nửa cái bánh tráng hay hai cái kẹo gừng
Có hai đồng cất dưới chân đèn trên bàn thờ lỡ khi hết dầu thắp tới bữa thiếu ruốc hết bột ngọt
Mả cha cuộc đời quá vô hậu
Cơm không có mà ăn
Ngó lui ngó tới không biết thù ai
Những thằng có thịt ăn thì chẳng bao giờ ỉa vất
5.
Lâu ngày tôi thấy quen đi
Như quen thân thể của mình
Tiếng ho gà nửa đêm của những đứa bé chưa đầy hai tuổi
Buổi chiều không có cơm ăn
Những con ruồi ăn nước mũi khô trên má
những đứa đau quan sát những con chuột
chết lòi ruột ở bến xe đò
Những tiếng cha mẹ vợ chồng anh em
con cái chửi bới la hét trong bữa ăn
Người điên ở trần đứng làm thinh
giữa trời mưa ngoài chợ
Những ngày hết gạo hết tiền hết củi
muối sống không còn một hột của tôi
Những trách canh rau khoai tháng năm không có bột ngọt
Hai mắt tôi mở to
Đầu tôi cúi thấp
Miệng tôi há ra
Những lá khoai nhám và rít mắc vài hột cơm
dồn cứng chật cuống họng
Nói thật lúc này tôi muốn được say rượu
Họa may thấy một đồng thành ba bốn đồng
6.
Nhiều khi tôi quá chán
Chân tay rã rời
Đầu óc đau nhức
Không muốn làm gì hết
Mấy đứa nhỏ chơi buôn bán bỏ đi đâu không biết
để đất đá lá cây đầy nhà
Tôi dựa cửa ngồi yên một chỗ
Dụi mắt nghĩ hết chuyện này tới chuyện khác
Nói chi tới những đứa đã chết trên rừng giữa phố
Bạn bè có đứa giàu đứa nghèo
Đứa ngụy đứa cách mạng
Đứa của tiền ăn tiêu mấy không hết
Đứa không có được một cái áo lành
Đứa đi kinh tế mới ba bốn bảy tám năm
trở về xách một cái bị lát
Mặt cắt không có một hột máu
Đứa đạp xe thồ ngồi vắt chân ăn củ sắn
chờ khách ở bến xe
Đứa vô tích sự ở nhà không có việc chi làm
Có đứa râu tóc dài che kín mặt
Có đứa tàn không nhớ mình tên chi
Có đứa chịu không nổi dắt vợ con vào nam
ăn chợ ngủ đường
Mỗi lần gặp nhau mở to mắt cười hút một điếu thuốc
Hết chuyện nói
Hai đứa con đi chơi về cười nói
Đứa nhỏ bắt tôi đánh trống
cho nó làm ông địa múa thiên cẩu
7.
Cái trống lon mặt ni lông và hai chiếc đũa tre
Tôi đánh
Múa đi các con
Này đây cái nón gãy vành làm đầu thiên cẩu
Và sợi dây chuối treo ngọn lá làm tiền
Múa đi các con
Cái bụng ông địa to tròn giơ lỗ rún gài nút áo không được
Ông địa chống tay vỗ bụng ngửa mặt lên trời cười ha ha
Tôi vỗ tay hoan hô
Và không biết mình có nhớ ra được
cái mặt ông địa không
Tháng chín 1984 | Trần Vàng Sao |
Câu Cá | poem.php?poem=cau_ca__phan_van_tri | Ngươi hỡi Nghiêm Lăng có biết chăng?
Lòng ta ý gã đố ai bằng?
Nửa cần thú vị trời trời nước,
Một sợi kinh luân gió gió trăng.
Thao lược đã đành ngàn dặm bủa,
Giang sơn tóm rốc một tay phăn.
Xưa nay cũng một lòng sông Vị,
Mơ tưởng xe Châu biếng nói năng!
Lỗi phải thây ai, chẳng lụy cầu,
Sao bằng thong thả một cần câu.
Dòng ngân thả lưới dầu trưa sớm,
Đáy bích dòng tơ mặc tóm thâu.
Dựa bãi Nghiêm Lăng chơbì thới,
Neo gành Lữ Vọng nhắp công hầu.
Giang sơn thế để minh là thợ,
Sanh sát quyền ta thế biết đâu! | Phan Văn Trị |
Hà Nội Mùa Thu | poem.php?poem=ha_noi_mua_thu__phan_van_tri | Lâu lắm rồi mới ra đường buổi tối
Hà Nội vào thu quá dịu êm
Gió rất nhẹ làm ánh đèn xao động
Và như xao động cả màn đêm
Đường phố vẫn đông người qua lại
Những đôi lứa nắm nhẹ tay nhau
Từng tốp em trai và em gái
Dạo trên đường ríu rít bên nhau
Một vài quán nước ánh đèn xanh
Kê ghế ra hiên đón gió lành
Vài bác về hưu ngồi đàm đạo
Thoáng nhìn như cảnh ở trong tranh
Như chẳng hề suốt ngày bận rộn
Những công trường xưởng máy lò hơi
Như chẳng hề suốt ngày tất bật
Trong bụi đường áo lấm mồ hôi
Buổi tối mùa thu êm dịu quá
Hoa sữa thơm ngào ngạt khắp đường
Đã bao mùa đến rồi đi mất
Vẫn ngỡ ngàng mùa thu quê hương. | Phan Văn Trị |
Hương Thầm | poem.php?poem=huong_tham__phan_van_tri | Cửa sổ hai nhà cuối phố
Không hiểu vì sao không khép bao giờ.
Đôi bạn ngày xưa học cùng một lớp
Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa.
Giấu một chùm hoa sau chiếc khăn tay,
Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm,
Bên ấy có người ngày mai ra trận
Họ ngồi im không biết nói năng chi
Mắt chợt tìm nhau rồi lại quay đi,
Nào ai đã một lần dám nói?
Hoa bưởi thơm cho lòng bối rối
Anh không dám xin,
Cô gái chẳng dám trao
Chỉ mùi hương đầm ấm thanh tao
Không dấu được cứ bay dịu nhẹ.
Cô gái như chùm hoa lặng lẽ
Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu.
(Anh vô tình anh chẳng biết điều
Tôi đã đến với anh rồi đấy...)
Rồi theo từng hơi thở của anh
Hương thơm ấy thấm sâu vào lồng ngực
Anh lên đường
Hương thơm sẽ theo đi khắp
Họ chia tay
Vẫn chẳng nói điều gì
Mà hương thầm thơm mãi bước người đi | Phan Văn Trị |
Không Đề | poem.php?poem=khong_de__phan_van_tri | Đâu đây trong cuộc sống đời thường của em
Ngày tháng vui buồn có anh
Như niềm hy vọng mong manh
Cầm tay rồi lại hoá thành giấc mơ
Mặt trời đằm thắm thiết tha
Mà tia nắng ấm bên ta vô hình
Nghĩ về anh, nghĩ về anh
Mơ hay thực cũng không đành trong em
Chỉ khi buồn khổ yếu mềm
Nâng em dậy có lòng tin một người
Anh là thực đấy anh ơi
Trong em sáng một mặt trời thân yêu
Ta như hai đứa trẻ nghèo
Quả ngon chỉ dám nâng niu ngắm nhìn
Đừng bao giờ nhé, chín thêm
Sợ tan mất giấc mơ em một thời. | Phan Văn Trị |
Một Người | poem.php?poem=mot_nguoi__phan_van_tri | Căn phòng vắng một người
Bỗng trở nên trống vắng
Không còn gì ấm cúng
Không còn gì vui tươi
Bữa ăn vắng một người
Tìm đâu ra mùi vị
Khói cơm cay mắt thế
Bây giờ em mới hay
Hun hút hai hàng cây
Gió thổi dài ngơ ngác
Thành phố vắng một người
Đường không ai dạo chơi
Một người mang đi hết
Bao nhiêu là thông minh
Chẳng còn ai hóm hỉnh
Ai cũng đều nhạt tênh
Tấm ván nằm chông chênh
Sao rơi như nước mắt
Lòng em nghiêng về anh
Để tháng ngày vắng ngắt
Đi dọc dài đất nước
Không còn ai đón đưa
Không còn ai chờ đợi
Không ai mà viết thư
Dẫu bao nhiêu bài thơ
Chỉ mình em đau xót
Một mình như trái đất
Em bây giờ không anh… | Phan Văn Trị |
Rồi Có Thể | poem.php?poem=roi_co_the__phan_van_tri | Rồi có thể ta nhìn nhau ngượng ngập
Anh đi cùng cô gái khác xinh tươi
Tôi cố để không rơi nước mắt
Còn ai đâu thương mến dỗ cho nguôi
Rồi có thể vợ và con ríu rít
Anh nhẹ nhàng quên hết chuyện đôi ta
Anh hối hả đón cuộc đời hạnh phúc
Tôi bàng hoàng mãi chẳng hiểu ra
Rồi có thể đắng cay và đơn độc
Sao hôm nay tôi vẫn thấy yêu đời
Mỗi ngày sống có bao điều đẹp quá
Khi chiều về anh nháy mắt chào vui
Chỉ một phút sống cùng nhau như thế
Tôi đã mang theo đến trọn đời | Phan Văn Trị |
Mặc Chê Khen | poem.php?poem=mac_che_khen__nguyen_binh_khiem | Thị phi chẳng quản, mặc chê khen
Ngu dại chan chan, tính đã quen
Cảnh cũ điền viên, tìm chốn cũ
Khách nhàn sơn dã, dưỡng thân quèn
Nhà thông, đường trúc (1), lòng hằng mến
Cửa mận tường đào (2). bước ngại chen
Thế sự tuần hoàn, hay đắp đổi
Từng xem thua được, một hai phen. | Nguyễn Bỉnh Khiêm |
Nhân Tình Thế Thái | poem.php?poem=nhan_tinh_the_thai__nguyen_binh_khiem | 4.
Thấy dặm thanh vân bước ngại chen
Được nhàn ta sá dưỡng thân nhàn
Ba gian am quán lòng hằng mến
Đôi chốn sơn hà mặt đã quen
Thanh vắng thú quê giàu bao nả
Dữ lành miệng thế mặc chê khen
Mai kia chửa dễ thu nên muộn
Xuân nọ tin hoa cũng mấy phen
7.
Được thua thấy đã ít nhiều phen
Để rẻ công danh đổi lấy nhàn
Am Bạch Vân rồi nhàn hứng
Dặm hồng trần vắng ngại chen
Ngày chầy họp mặt hoa là khách
Đêm vắng hay lòng nguyệt ấy đèn
Chớ chớ thờ ơ nhìn mới biết
Đỏ thì son đỏ mực thì đen
16.
Chửa dễ ai là bụt Thích Ca
Mọi niềm nhân ngã nhẫn thì qua
Lòng vô sự trăng in nước
Của thảng lai gió thổi hoa
Kìa khách xuân xanh khi trẻ
Mấy người đầu bạc tuổi già
Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách
Được thú ta đà có thú ta
28.
Nép mình qua trước chốn xôn xao
Mấy sự bên tai gió thoảng ào
Cửa trúc vỗ tay cười khúc khích
Hiên mai tréo cẳng hát nghêu ngao
Lo le đã vậy thời dầu vậy
Vặt vãnh màng bao sá quản bao
Chẳng hết trung cần hai chữ ấy
Nhờ ơn đất rộng cậy trời cao
36.
Một bầu một bát vũng sơn tăng
Thế sự ngoài tai biếng nói năng
Hoa nở luống hay tin gió
Đầm thanh còn thấy dáng trăng
Già ai ủ thông làm củi
Trẻ người yêu trúc mọc măng
Nếu có công danh thì có lụy
Cho hay dù có chẳng bằng chăng
38.
Một mai một cuốc một cần câu
Thơ thẩn dù ai vui thú nào
Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao
Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao
Rượu đến gốc cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao
40.
Vòi vọi xuân xanh nửa tiền
Già càng khoẻ khó càng bền
Đòi phen lẩn luốt vì thơ dại
Mọi sự lờ đờ bởi rượu quen
Ngày vãn giải phiền cờ một cuộc
Đêm thanh làm bạn sách hai bên
Xưa nay xuất xử đâu là phải
Ở cũng nên về ắt cũng nên
46.
Thị phi chẳng quản mặc chê khen
Ngu dại chan chan tính đã quen
Cảnh cũ điền viên tìm chốn cũ
Khách nhàn sơn dã dưỡng thân nhàn
Nhà thông đường trúc lòng hằng mến
Cửa mận tường đào bước ngại chen
Thế sự tuần hoàn hay đắp đổi
Từng xem thua được một hai phen | Nguyễn Bỉnh Khiêm |
Cô Bạn Học | poem.php?poem=co_ban_hoc__tran_thien_thanh | Em bảo anh nếu em là nữ hoàng
Anh xin gì thì em sẽ ban cho
Nhưng nói trước không nhường ngôi đâu nhé
Vì vua thường hay chọn lắm cung phi
Và một hôm em ghé đến thăm anh
Sợ mẹ cha hay chuyện của đôi mình
Anh nói dối thưa đây cô bạn học
Đã lâu rồi con mới được gặp nhau
Cứ mỗi tháng em lại đến thăm anh
Sau mỗi tuần em đến thăm anh một lần
Rồi quen dần hằng đêm em anh đến
Nên láng giềng thấy thế bảo nàng dâu
Kỷ niệm đó và còn bao nhiêu nữa
Em của anh giờ là vợ người ta
Để anh mãi đau thương vì ước nguyện
Tháng năm dài chưa xóa được tình em. | Trần Thiện Thanh |
Nhịp Cầu Nối Những Bờ Vui | poem.php?poem=nhip_cau_noi_nhung_bo_vui__phan_van_tu | Chiếc cầu là nơi hò hẹn của đôi ta
Đêm trăng sáng trên cầu anh thổi sáo
Đêm trăng sáng chân cầu em giặt áo
Nhịp cầu nối những bờ vui
Anh vào bộ đội
Làm nhiều cầu treo qua suối
Anh bắc cầu phao qua khúc sông sâu
Anh nối nhớ thương bằng những nhịp cầu
Những chiếc cầu ngày đêm bom dội
Vẫn nguyên vẹn đứng trên lửa khói
Những chiếc cầu vẫn nối hai quê
Đêm trăng sáng chân cầu em giặt áo
Anh lại về sau ngàn ngày chiến đấu
Ngồi trên cầu thổi sáo đón em | Phan Văn Từ |
Long Lanh Buồn Long Lanh Cô Đơn | poem.php?poem=long_lanh_buon_long_lanh_co_don__nguyen_thi_hong_ngat | Ai dám kêu lên giữa thế gian này
Rằng ta là người hạnh phúc
Họa đó là người điên!
Đã có những ngày có thể là vàng
Không biết giữ để tuột tay rơi mất
Chỉ một lần lười nhác,
Chỉ một lần chủ quan.
Long lanh ngày lại long lanh đêm
Long lanh chán – long lanh buồn tẻ
Long lanh xinh – chẳng để làm gì cả
Long lanh một mình – long lanh cô đơn.
Vui thú nào tồn tại ở thời gian
Năm tháng chết cả khi người còn sống
Tù khổ sai trong số phận mình đau đớn
Long lanh buồn – long lanh cô đơn…
Một ngọn đèn thổn thức trong đêm
Một quầng sáng lẻ loi, cô độc
Ai dám nói mình là người hạnh phúc
Họa đó là người điên! | Nguyễn Thị Hồng Ngát |
Từ Một Dòng Sông | poem.php?poem=tu_mot_dong_song__vo_minh_trang | Gõ cây bút hỏi thơ già mấy tuổi
Bóng trăng ngoan ngày cũ có còn không
Dòng ký ức có tung mù gió rối
Kiếp lục bình được mấy bận trổ bông
Bờ tre cũ trên đất vườn quê cũ
Trỗi thanh bình bệu má gió nồm đông
Gọi thơ về gom mảnh trời quá khứ
Thắp hoa niên bùng cháy ngọn đèn hồng
Rủ bạn bè lột áo xuống chơi sông
Đá bò đúp hoặc chạy rong đuổi cá
Nước sông Thu-Bồn em ơi mùa hạ
Không tắm sông không thể biết được đâu
Gái chọn bên bồi trai thích vực sâu
Mà vẫn giữ tròn câu tình thu thủy
Bởi trót vay món nợ lòng thi sĩ
Nên thân đành lạ lẫm bến sông quê
Mấy mươi năm mới có buổi quay về
Thôn xóm cũ chừng lạ huơ lạ hoắc
Những đứa trẻ lớn thình không biết mặt
Bạn bè xưa tan tác sạch sành sanh
Nhìn dải Thu-Bồn thương đất Phú-Hanh
Con cá nhỏ sống trong đồng ruộng nhỏ
Lắc hàng rào vàng rưng gai mắt ó
Thương đôi chân của mẹ quá chừng thôi
Ngoài rẫy tranh lắm gai dứa xấp xôi
Trời nắng chang chang ngày dài đổ lửa
Mẹ tắm mồ hôi nhòe dòng máu ứa
Sánh tình con chưa xứng nửa lời ru
Đại lượng Mẹ cười mát giọng sông Thu
Đã lớn khôn chưa cái thằng khéo dại
Đừng bận bịu lạc lòng như con gái
Đường vào xuân gai góc lắm kia mà
Mẹ nhọc nhằn chờ đá sỏi đơm hoa
Chuối thanh tiêu nhỏ buồng nhưng trái ngọt
Nương tre lão măng non cao chót vót
Tình Mẹ tình quê nặng lắm Mẹ ơi
Dòng chảy tháng năm đắng hột bời bời
Chạnh cõi người mòn gót chân trên sỏi
Vàng trái thị khói lam chiều quê ngoại
Mái chèo thơ thổn thức buổi quay về | Võ Minh Trang |
Một Người Lính Nói Về Thế Hệ Mình | poem.php?poem=mot_nguoi_linh_noi_ve_the_he_minh__thanh_thao | ngày chúng tôi đi các toa tàu mở toang cửa
Không có gì phải che giấu nữa
Những thằng lính trẻ măng tinh nghịch ló đầu qua cửa sổ
Những thằng lính trẻ măng quân phục xùng xình
Chen bám ở bậc toa như chồi như nụ
Con tàu nổi hiệu còi rung hết cỡ
Và dài muốn đứt hơi
Hệt tiếng gã con trai ồm ồm mới vỡ
Thế hệ chúng tôi
Hiệu còi ấy là một lời tuyên bố
một thế hệ mỗi ngày đều đụng trận
Mà trách nhiệm nặng hơn nòng cối 82
Vẫn thường vác trên vai
một thế hệ thức nhiều hơn ngủ
Xoay trần đào công sự
Xoay trần trong ý nghĩ
Đi con đường người trước đã đi
Bằng rất nhiều lối mới
những cái tên trên cây rừng khắc vội
Những chữ N chữ T vạch ở các bình tông
Ba lô đựng một bộ áo quần
Vài gói mắm cùng nắm cơm nho nhỏ
Bếp dã chiến cháy dọc bờ suối đá
Treo tòn ten mấy ống cóng canh chua
Nấu lá giang và mắm ruốc
Tất cả những gì chúng tôi có được
Đều trải cho nhau, trải ra đất thật tình
Với quân thù-chi đến tối đa
Với bè bạn-phải chơi hết mình
nếu chỉ nhìn da chúng tôi đen hơn
Nhìn cái vóc dạn dày trước tuổi
Đếm vết chai trên bàn tay, chưa đủ
Cũng chưa đủ nếu chỉ tính cuộc đời bằng những chiến công
ôi trảng dầu những chiếc lá khô cong
Mỗi bước dưới chân rì rầm tiếng nói
Đêm hành quân qua nhiều đống lửa
Bùng tự nhiên ngay giữa lối mòn
thế hệ chúng tôi bùng ngọn lửa chính mình
Soi sáng đường đi tới
Có những đêm mưa quất bốn bề
Giữa Tháp Mười không mái lá nương che
Nước đã giật phải đẩy xuồng băng trấp
Lúc ấy chân trời là lưng người đi trước
Vụt loé lên qua ánh chớp màn mưa
thế hệ chúng tôi trắng từng đêm lội nước
Sình bết từ chân bết đến đầu
Nên giọng nói có nhiều khi ngang dọc
Nên cái nhìn có lắm phen gai góc
Vì ngọn lửa chịu sình là lửa thực
Đã bùng lên dám cháy tận sức mình
nhủ điều chi ơi tiếng quốc đêm sương
Kêu da diết suốt một mùa nước nổi
Bông điên điển mở cánh vàng nóng hổi
Là nắng chiều đẫm lại giữa lòng tay
Đất nước ngấm vào ta, đơn sơ
Như Tháp Mười không điểm trang đầy im lặng
Trên tất cả tình yêu tình yêu này đi thẳng
Đến mỗi đời ta bất chấp những ngôn từ
tôi gặp thằng bạn thân trong một chuyến bất ngờ
Đêm Mỹ Long hai đứa nằm lộ đất
Trải dưới trời một tấm ni lông
Nơi khi chiều B52 bừa ba đợt
Nơi mấy năm rồi hố bom không đếm hết
Nơi tôi chợt thốt niềm mơ giản dị của mình
“chừng nào thật hoà bình
Ra lộ 4 trải ni lông nằm một đêm cho thoả thích”
thằng bạn tôi đăm đăm
Nhìn một ngôi sao mọc trong hố bom nhoè nước
Đôi mắt nó lạ lùng mà tôi thấy được
Chứa đầy một hố bom và một ngôi sao…
cơn lốc xoáy trên nóc rừng nguyên thủy
Tiếng gió hú dài trong những bộng cây
Đàn dơi chấp chới bay
Trảng tranh hừng hực nắng
chúng tôi qua cái khắc nghiệt mùa khô
Qua mùa mưa mùa mưa dai dẳng
Võng mắc cột tràm đêm ướt sũng
Xuồng vượt sông dưới pháo sáng nhạt nhoà
Đôi lúc ngẩn người một ráng đỏ chiều xa
Quên đời mình thêm tuổi
Chân dép lốp đạp mòn trăm ngọn núi
Mà không hề rợp bóng xuống tương lai
những trận đánh ập về đầy trí nhớ
Pháo chụp nổ ngang trời từng bựng khói
Nhịp tim dập dồn lần xuất kích đầu tiên
Bình tông cạn khô trên nóc hầm nồng khét
Những vỏ đồ hộp lăn lóc
Cái im lặng ù tai giữa hai đợt bom
Một tiếng gà bất chợt
Bên bờ kênh hoang tàn
thế hệ chúng tôi không sống bằng kỷ niệm
Không dựa dẫm những hào quang có sẵn
Lòng vô tư như gió chướng trong lành
Như sắc trời ngày nắng tự nhiên xanh
đoàn xuồng chuyển quân bơi rậm kênh Bằng Lăng
Buổi chiều pháo bắn
Những cây bình bát gục ngã
Hoàng hôn đôi bờ như máu chảy
Trắng dòng kênh xác xăng đặc lều bều
tôi bỗng thấy mặt mình trên mặt nước
Mặt nước trôi những dề xăng đặc
Mặt nước trôi những trái bình bát
Mặt nước trôi quê hương không còn nguyên vẹn
Và tôi thấy
Trôi qua mặt mình bao nhiêu gương mặt
Những bạn bè quen những bạn bè chưa gặp
Trẻ măng
Loang loáng theo con nước
Tủa về những đồng sâu
Hun hút
Buổi chiều
đó là những người qua trước
Không phải trước hai mươi năm
Đó là những người qua sau
Không phải sau hai mươi năm
Mà vào buổi chiều ấy
Trên những dòng kênh ấy
Pháo bắn và nước chảy
Thế hệ chúng tôi nhìn rất rõ mặt mình
1973 | Thanh Thảo |
Thử Nói Về Hạnh Phúc | poem.php?poem=thu_noi_ve_hanh_phuc__thanh_thao | I
Nửa đêm tôi choàng dậy
Tiếng bom hú rất gần
Ba đợt B52
Cái hầm của chúng tôi ngày không nắng mặt trời
Đêm không ánh sao
Những mùa trăng lướt qua
Xa cách
Tôi thắp đèn
Bốn bên là đất
Mỗi lúc bom rung
Đất rơi đầy mặt
Đất rơi đầy giấc mơ
Những giấc mơ chập chờn
Bao giờ cũng có khoảng trời xanh vòi vọi
Lung linh gương mặt của người thương
II
Những tình yêu thật thường không ồn ào
Chúng tôi đều hiểu đất nước đang hồi khốc liệt
Chúng tôi hiểu điều ấy bằng mọi giác quan
Bằng chén cơm ăn mắm ruốc
Bằng giấc ngủ bị cắt ngang cắt dọc
Bằng những nắm đất mọc theo đường hành quân
Có những thằng con trai mười tám tuổi
Chưa từng biết nụ hôn người con gái
Chưa từng biết những lo toan phức tạp của đời
Câu nói đượm nhiều hơi sách vở
Khi nằm xuống
Trong đáy mắt vô tư còn đọng một khoảng trời
Hạnh phúc nào cho tôi
Hạnh phúc nào cho anh
Hạnh phúc nào cho chúng ta
Hạnh phúc nào cho đất nước
Có những thằng con trai mười tám tuổi
Nhiều khi cực quá khóc òa
Nhiều lúc tức mình chửi bâng quơ
Phanh ngực áo và mở trần bản chất
Mỉm cười trước những lời lẽ quá to
Nhưng nhất định không bao giờ bỏ cuộc
Với những thằng con trai mười tám tuổi
Đất nước là nhịp tim có thể khác thường
Là một làn mây mỏng đến bâng khuâng
Là mùi mồ hôi thật thà của lính
Đôi khi là một giọng nữ cao nghe từ Hà Nội
Hay một bữa cơm rau rừng
Chúng tôi không muốn chết vì hư danh
Không thể chết vì tiền bạc
Chúng tôi lạ xa với những tin tưởng điên cuồng
Những liều thân vô ích
Đất nước đẹp mênh mang
Đất nước thấm tự nhiên đến tận cùng máu thịt
Chỉ riêng cho Người
Chúng tôi dám chết
III
Đêm nay ai dắt tay nhau vào tiệc cưới
Ai thức trắng lội sình
Ai trầm ngâm viết những câu thơ thông minh
Ai trả nghĩa đời mình bằng máu
Máu đỏ thật không ồn ào
Máu ướt đẫm thấm vào ngực áo
Hạnh phúc nào cho tôi
Hạnh phúc nào cho anh
Hạnh phúc nào cho chúng ta
Hạnh phúc nào cho đất nước
Những câu hỏi chưa bao giờ nguôi được
Mảnh đất hôm nay bè bạn chúng tôi nằm
Nơi máu đổ phải sống bằng thực chất
Không ai nỡ lo vun vén riêng mình
Khi mộ bạn chính bàn tay anh đắp
Nơi cao nhất thử lòng ta yêu đất nước
Thử lòng ta chung thuỷ vô tư
Nơi vỡ vụn dưới chân bao mảng đêm hèn nhát
Những gương mặt ngẩng lên lấp lánh chất người
IV
Cuộc chiến tranh đã đi qua một phần tư thế kỷ
Tôi nhớ người con gái xưa tìm chồng
Như cơn gió lang thang giữa trời đất mênh mông
Nỗi tuyệt vọng khiến tình yêu hoá đá
Tôi đã gặp những người con gái
Mở đường cho chúng tôi ra trận
Qua bóng hòn Vọng Phu
Nhiều em chưa tìm được người yêu
Đã giáp mặt hàng trăm lần cái chết
Hòn núi cô đơn đứng ngàn năm chất ngất
Mà hạnh phúc bình thường vẫn quá tầm tay
Các em mấy năm bám trụ nơi đây
Gánh đá phá bom tải hàng dựng lán
Đào sẵn huyệt cho mình khi ngã xuống
Mà tình yêu không hoá đá bao giờ
Xe chúng tôi qua các em mừng vẫy tay
Chắc sau ròn rã tiếng cười
Nước mắt sẽ thầm rơi
Trên những gương mặt lành màu nắng gió
V
Cuộc chiến tranh đã đi qua một phần tư thế kỷ
Từ tiếng khóc oa oa chào đời của anh
Đến phút đầu mình thương nhau em khóc
Đến một ngày chia ly
Đến nhiều tháng năm xa cách
Anh sẽ nói với em thế nào về hạnh phúc
Mùi thuốc súng bay qua số phận chúng mình
Em nói sẽ chờ anh năm năm mười năm
Sẽ chờ anh hết cuộc chiến tranh này
Dù ngày trở về không nguyên vẹn
Buổi chiều dâng vàng rực ngọn cây
Những cánh chim mãi bay về một hướng
Góc duy nhất trong đời anh yên tĩnh
Là em
Giữa chúng mình
Nỗi nhớ nhau chưa đủ thành hạnh phúc
Cái khoảng cách bao giờ cũng thật
Nhưng anh tin em sẽ đợi anh về
Dù biết đây là những tháng năm dài nhất
Nghe gió cồn xao đảo góc rừng khuya
Nghĩ đến em đất trời lắng lại
Chúng mình sẽ thương nhau như chưa bao giờ thương vậy
Nếu bước cuối cùng này
Ta bước qua
Và em ơi, ngày sum họp ngày mai
Giữa chúng mình
Còn tên những bạn bè ngã xuống
Những người hay mơ mộng
Tha thiết yêu và muốn làm được chút gì
Cho em
Cho anh
Cho đất nước
Đôi tay họ
Đôi bàn tay trong sạch
Đã vùi sâu trong đất
Sẽ vươn giữa hai ta như những nhành cây
Những nhành cây ôm chặt cuộc đời này
Giữ cho những người yêu tròn hạnh phúc.
1972 | Thanh Thảo |
Tổ Quốc | poem.php?poem=to_quoc__thanh_thao | Vệt nắng mỏng trước sân mái gà cục tác
Con tôi ngủ trong nôi văng vẳng tiếng còi tàu
Bữa cơm gia đình tôi trộn bắp trộn sắn bảy mươi phần trăm
Mùa xuân những cơn bão hung hãn bất ngờ ập tới
Trầm tĩnh như rừng kia như biển kia
Tổ Quốc tôi đứng lên trước bầy xâm lăng phương bắc
Những dãy núi cong cánh cung những nỏ thần khủng khiếp
Lại tung hàng loạt mũi tên xuyên ngực quân thù
Ải Nam Quan ngọn khói xưa Nguyễn Trãi nuốt nước mắt quay về
Mười năm nằm gai nếm mật
Hẽm Chi Lăng lầm lì sông Kỳ Cùng bốc cháy
Pháo đã giăng từ ngàn vạn điểm cao
Quân di chuyển những dòng sông chảy ngược
Mây uy nghi Yên Tử thuở nào
Còn in dáng Trần Nhân Tông mắt dõi về phương bắc
Tính nước cờ ung dung trên cao
Sông Kỳ Cùng những tảng đá lên hơi
Đùa với mặt trời trong nước
Tôi chỉ đến tắm một lần nhưng đó là Tổ Quốc
Chảy lặng thầm suốt cuộc đời tôi
Những câu lượn câu sli đêm chợ Kỳ Lừa
Chén rượu nồng thơm sắc màu thổ cẩm
Vó ngựa gõ dòn lâng lâng sương khuya
Khẩu súng chống tăng ghì chặt vào vai
Anh xạ thủ H’Mông mười tám tuổi
Khi lũ giặc đang điên cuồng lao tới
Một chấm nhỏ trên bản đồ một chấm nhỏ thiêng liêng
Phút người lính đứng bật lên cắm chặt chân vào đất
Phút ấy, đất dưới chân anh là Tổ Quốc
Quả đạn rời nòng trong chớp mắt
Xe tăng cháy ngang đồi lũ giặc lùi xa
Anh lính trẻ mỉm cười lau mồ hôi trên mặt
Gương mặt dịu lành như Tổ Quốc chúng ta
Tháng 2/1979 | Thanh Thảo |
Anh Giả Điếc | poem.php?poem=anh_gia_diec__nguyen_khuyen | Trong thiên hạ có anh giả điếc,
Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây!
Chẳng ai ngờ "sáng tai họ, điếc tai cày",
Lối điếc ấy sau này em muốn học.
Toạ trung đàm tiếu, nhân như mộc
Dạ lí phan viên, nhĩ tự hầu. (1)
Khi vườn sau, khi ao trước; khi điếu thuốc, khi miếng trầu.
Khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu;
Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc
Điếc như thế ai không muốn điếc?
Điếc như anh dễ bắt chước ru mà!
Hỏi anh, anh cứ ậm à. | Nguyễn Khuyến |
Bồ Tiên Thi | poem.php?poem=bo_tien_thi__nguyen_khuyen | (1)
Chú huyện Thanh Liêm khéo giở trò,
"Bồ tiên thi" lại lấy vần bồ.
Nghênh ngang võng lọng nhờ ông sứ,
Ngọng nghẹo văn chương giở giọng ngô.
Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp,
Tiên (2) là ý chú muốn vòi xu!
Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc,
Không khéo mà roi nó phết cho. | Nguyễn Khuyến |
Cảm Hứng | poem.php?poem=cam_hung__nguyen_khuyen | Ngày trước cùng lên lạy cửa trời (1)
Lâu nay vắng vẻ bặt tăm hơi
Nước non man mác về đâu tá
Bè bạn lơ thơ sót mấy người
Đời loạn đi về như hạc độc
Tuổi già hình bóng tựa mây côi
Đã hay nhờ được hao mòn lắm
Một thí lòng son chửa rõ mười | Nguyễn Khuyến |
Chợ Đồng | poem.php?poem=cho_dong__nguyen_khuyen | Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng,
Năm nay chợ họp có đông không?
Dở trời, mưa bụi còn hơi rét.
Nếm rượu, tường đền (1) được mấy ông?
Hàng quán người về nghe xáo xác,
Nợ nần năm hết hỏi lung tung.
Dăm ba ngày nữa tin xuân tới.
Pháo trúc (2) nhà ai một tiếng đùng. | Nguyễn Khuyến |
Chơi Núi Non Nước | poem.php?poem=choi_nui_non_nuoc__nguyen_khuyen | (1)
Chom chỏm trên sông đá một hòn,
Nước trôi sóng vỗ biết bao mòn?
Phơ đầu đã tự đời Bàn Cổ, (2)
Bia miệng còn đeo tiếng trẻ con.
Rừng cúc tiền triều (3) trơ mốc thếch,
Hồn câu Thái phó (4) tảng rêu tròn.
Trải bao trăng gió xuân già giặn,
Trời dẫu già, nhưng núi vẫn non. | Nguyễn Khuyến |
Đĩ Cầu Nôm | poem.php?poem=di_cau_nom__nguyen_khuyen | (1)
Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ?
Trời sinh ra cũng để mà chơi!
Dễ mấy khi làm đĩ gặp thời,
Chơi thủng trống long dùi âu mới thích
Đĩ bao tử càng chơi càng lịch,
Tha hồ cho khúc khích chị em cười:
Người ba đấng, của ba loài,
Nếu những như ai thì đĩ mốc.
Đĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc (2)
Khá khen thay làm đĩ có tông (3)
Khắp giang hồ chẳng chốn nào không.
Suốt Nam Bắc Tây Đông đều biết tiếng.
Đĩ mười phương chơi cho đủ chín,
Còn một phương để nhịn lấy chồng.
Chém cha cái kiếp đào hồng, (4)
Bạn với kẻ anh hùng cho đứng số.
Vợ bợm, chồng quan, danh phận đó,
Mai sau ngày giỗ có văn nôm.
Cha đời con Đĩ Cầu Nôm. | Nguyễn Khuyến |
Di Chúc | poem.php?poem=di_chuc__nguyen_khuyen | (1)
Kém hai tuổi xuân đầy chín chục.
Số thầy sinh phải lúc dương cùng. (2)
Đức thầy đã mỏng mòng mong,
Tuổi thầy lại sống hơn ông cụ thầy.
Học chẳng có rằng hay chi cả.
Cưỡi đầu người kể đã ba phen; (3)
Tuổi là tuổi của gia tiên,
Cho nên thầy được hưởng niên lâu ngày.
ấy thuở trước ông mày chẳng đỗ, (4)
Hóa bây giờ cho bố làm nên;
Ơn vua chửa chút báo đền,
Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời.
Sống không để tiếng đời ta thán,
Chết được về quê quán hương thôn;
Mới hay trăm sự vuông tròn,
Sống lâu đã trải, chết chôn chờ gì?
Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt,
Kín chân tay đầu gót thời thôi;
Cỗ đừng to lắm con ơi,
Hễ ai chạy lại, con mời người ăn.
Tế đừng có viết văn mà đọc,
Trướng đối đừng gấm vóc làm chi;
Minh tinh (5) con cũng bỏ đi,
Mời quan đề chủ (6) con thì không nên.
Môn sinh (7) chớ bổ tiền đặt giấy,
Bạn của thầy cũng vậy mà thôi;
Khách quen chớ viết thiếp mời.
Ai đưa lễ phúng con thời chớ thu.
Chẳng qua nợ để cho người sống,
Chết đi rồi còn ngóng vào đâu!
Lại mang cái tiếng to đầu,
Khi nay bày biện, khi sau chê bàn.
Cờ biển của vua ban ngày trước,
Khi đưa thầy con rước đầu tiên;
Lại thuê một lũ phường kèn,
Vừa đi vừa thổi mỗi bên dăm thằng.
Việc tống táng nhung nhăng qua quýt,
Cúng cho thầy một ít rượu hoa;
Đề vào mấy chữ trong bia,
Rằng: "Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu". | Nguyễn Khuyến |
Giả Cách Điếc | poem.php?poem=gia_cach_diec__nguyen_khuyen | Trong thiên hạ có người giả điếc,
Khéo ngơ ngơ ngác ngác ngỡ là ngây,
Chẳng ai ngờ sáng tai họ, điếc tai cày, (1)
Rở lối điếc, để sau này em út học.
Tọa trung đàm tiếu nhan như mộc,
Dạ bán phan viên thủ tự hầu. (2)
Khi vườn sau, khi ao trước, khi điếu thuốc, khi miếng trầu.
Khi chè chuyên năm bảy chén, khi
Kiều lẩy một đôi câu;
Tỉnh một lúc, lâu lâu rồi lại điếc.
Điếc như thế, ai không muốn điếc?
Điếc như anh dễ bắt chước ru mà!
Hỏi anh, anh cứ ậm à. | Nguyễn Khuyến |
Lời Gái Góa | poem.php?poem=loi_gai_goa__nguyen_khuyen | Chàng chẳng biết gái này gái góa
Buồn nằm suông, suông cả áo cơm
Khéo thay cái mụ tá ơm
Đem chàng tuổi trẻ ép làm lứa đôi
Chàng tuổi trẻ chơi bời quên nhọc
Gái già này sức vóc được bao?
Muốn sao, chiều chẳng được sao
Trước tuy sum họp, sau nào được lâu?
Lấy chồng vốn nhờ câu ăn mặc
Chẳng ngờ rằng đói rách hổ ngươi
Vốn xưa cha mẹ dặn lời
Tư bôn lại phải kẻ cười người chê
Hỡi mụ hỡi, thương chi thương thế?
Thương thì hay, nhưng kế chẳng hay
Thương thì gạo vải cho vay
Lấy chồng thì gái góa này xin van!
Tác giả tự dịch bài “ Li phụ hành” | Nguyễn Khuyến |
Lời Vợ Anh Phường Chèo | poem.php?poem=loi_vo_anh_phuong_cheo__nguyen_khuyen | Xóm bên đông có phường chèo trọ,
Đương nửa đêm gọi vợ chuyện trò:
Rằng: "ta thường làm quan to,
Sao người coi chẳng ra trò trống chi?"
Vợ giận lắm mắng đi mắng lại:
"Tuổi đã già sao dại như ri?
Đêm hôm ai chẳng biết chi,
Người ta biết đến thiếp thì hổ thay!
Ở đời có hai điều nên sợ:
Sống chết người, quyền ở trong tay.
Thế mà chàng đã chẳng hay.
Còn ai sợ đến phường này nữa chăng?
Vả chàng vẫn lăng nhăng túng kiết,
Cuộc sinh nhai chèo hát qua thì,
Vua chèo còn chẳng ra gì,
Quan chèo vai nhọ (1) khác chi thằng hề". | Nguyễn Khuyến |
Mẹ Mốc | poem.php?poem=me_moc__nguyen_khuyen | So danh giá ai bằng mẹ Mốc,
Ngoài hình hài, gấm vóc chẳng thêm ra; (1)
Tấm hồng nhan đem bôi lấm xoá nhoà,
Làm thế để cho qua mắt tục.
Ngoại mạo bất cầu như mĩ ngọc,
Tâm trung thường thủ tự kiên kim (2)
Nhớ chồng con muôn dặm xa tìm,
Giữ son sắt êm đềm một tiết. (3)
Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết,
Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ,
Đắp tai ngảnh mặt làm ngơ,
Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây.
Khôn kia dễ bán dại này! | Nguyễn Khuyến |
Mừng Con Dựng Được Nhà | poem.php?poem=mung_con_dung_duoc_nha__nguyen_khuyen | Nghĩ ta, ta cũng sướng ru mà,
Mừng thấy con ta dựng được nhà
Năm mới lệ thường thêm tuổi một,
Cỗ phe ngôi đã chốc bàn ba. (1)
Rượu ngon đến bữa nghiêng bầu dốc,
Chữ "dại" đầu năm xổ túi ra. (2)
Một khóm thủy tiên năm bảy cụm,
Xanh xanh như sắp thập thò hoa. | Nguyễn Khuyến |
Mừng Đốc Học Hà Nam | poem.php?poem=mung_doc_hoc_ha_nam__nguyen_khuyen | Ông làm đốc học bấy lâu nay,
Gần đó mà tôi vẫn chửa hay.
Tóc bạc răng long chừng đã cụ,
Khăn thâm áo thụng cũng ra thầy.
Học trò kẻ chợ trầu dăm miếng,
Khảo khóa ngày xưa quyển một chầy. (1)
Bổng lộc như ông không mấy nhỉ?
Ăn tiêu nhờ được chiếc lương Tây. | Nguyễn Khuyến |
Mừng Ông Nghè Mới Đỗ | poem.php?poem=mung_ong_nghe_moi_do__nguyen_khuyen | Anh mừng cho chú đỗ ông Nghè,
Chẳng đỗ thì trời cũng chẳng nghe.
Ân tứ (1) dám đâu coi rẻ rúng,
Vinh quy ắt hẳn rước tùng xòe.
Rượu ngon ả nọ khôn đường tránh, (2)
Hoãn (3) đẹp nàng này khó nhẽ che.
Hiển quí đến nay đà mới rõ,
Rõ từ những lúc tổng chưa đe. (4) | Nguyễn Khuyến |
Ngày Xuân Dặn Các Con | poem.php?poem=ngay_xuan_dan_cac_con__nguyen_khuyen | Tuổi thêm, thêm được tóc râu phờ,
Nay đã năm mươi có lẻ ba.
Sách vở ích gì cho buổi ấy,
áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già.
Xuân về ngày loạn càng lơ láo,
Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ.
Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng,
Sao con đàn hát vẫn say sưa?
(Tác giả tự dịch bài "Xuân nhật thị chư nhi") | Nguyễn Khuyến |
Nghe Hát Đêm Khuya | poem.php?poem=nghe_hat_dem_khuya__nguyen_khuyen | Một khúc đêm khuya tiếng đã chầy,
Nửa chen mặt nước, nửa từng mây.
Nghĩ mình vườn cũ vừa lui bước,
Ngán kẻ phương trời chẳng đứt dây.
Bẻ liễu thành Đài thôi cũng xếp, (1)
Trồng lan ngõ tối ngát nào hay?
Từ xưa mặt ngọc ai là chẳng,
Chén rượu bên đèn luống tỉnh say. | Nguyễn Khuyến |
Ông Phỗng Đá (2) | poem.php?poem=ong_phong_da_2__nguyen_khuyen | Người đâu tên họ là gì?
Khéo thay chích chích chi chi (1) nực cười.
Dang tay ngửa mặt lên trời,
Hay còn lo tính sự đời chi đây?
Thấy phỗng đá lạ lùng muốn hỏi.
Cớ làm sao len lỏi đến chi đây?
Hay tưởng trông cây cỏ nước non này,
Chí cũng rắp dan tay vào hội lạc (2)
Thanh sơn tự tiếu đầu tương hạc,
Thượng hải thùy tri ngã diệc âu. (3)
Thôi cũng đừng chấp chuyện đâu đâu,
Túi vũ trụ mặc đàn sau gánh vác.
Duyên hội ngộ là duyên tuổi tác,
Chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác,
Cuộc tỉnh say, say tỉnh một vài câu.
Nên chăng đá cũng gật đầu! | Nguyễn Khuyến |
Tặng Đốc Hà Nam | poem.php?poem=tang_doc_ha_nam__nguyen_khuyen | Ai rằng ông dại với ông điên,
Ông dại sao ông biết lấy tiền?
Cậy cái bảng vàng treo nhị giáp,
Khoét thằng mặt trắng (1) lấy tam nguyên (2)
Dấu nhà vừa thoát sừng trâu đỏ,
Phép nước xin chừa móng lợn đen (3)
Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt,
Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen. | Nguyễn Khuyến |
Tặng Đốc Học Hà Nam | poem.php?poem=tang_doc_hoc_ha_nam__nguyen_khuyen | Bài này nhà thơ gửi cho ông Trần Tán Bình, đốc học Hà Nam.
Ai rằng ông dại với ông điên
Ông dại sao ông biết lấy tiền?
Cậy cái bảng vàng treo nhị giáp
Khoét thằng mặt trắng lấy tam nguyên
Dấu nhà vừa thoát sừng trâu đỏ
Phép nước xin chừa móng lợn đen
Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt
Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen | Nguyễn Khuyến |
Thầy Đồ Ve Gái Góa | poem.php?poem=thay_do_ve_gai_goa__nguyen_khuyen | Người bảo rằng thầy yêu cháu đây,
Thầy yêu mẹ cháu có ai hay!
Bắc cầu, câu cũ (1) không hờ hững,
Cầm kính, tình xưa (2) vẫn đắng cay.
Ở góa thế gian nào mấy mụ?
Đi ve thiên hạ thiếu chi thầy?
Yêu thầy cũng muốn cho thầy dạy,
Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây.
(Tác giả tự dịch bài "Thiền sư") | Nguyễn Khuyến |
Thu Vịnh | poem.php?poem=thu_vinh__nguyen_khuyen | Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao,
Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu.
Nước biếc trông như tầng khói phủ,
Song thưa để mặc bóng trăng vào.
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái,
Một tiếng trên không ngỗng nước nào?
Nhân hứng cũng vừa toan cất bút,
Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. (1) | Nguyễn Khuyến |
Trở Về Vườn Cũ | poem.php?poem=tro_ve_vuon_cu__nguyen_khuyen | Vườn Bùi (1) chốn cũ,
Bốn mươi năm lụ khụ lại về đây.
Trông ngoài sân đua nở mấy chồi cây,
Thú khâu hác lâm tuyền (2) âu cũng thế.
Bành Trạch (3) cầm xoang ngâm trước ghế,
Ôn công (4) rượu nhạt chuốc chiều xuân.
Ngọn gió đông ngảnh lại lệ đầm khăn
Tính thương hải tang điền qua mấy lớp?
Ngươi chớ giận Lỗ Hầu (5) chẳng gặp.
Như lơ phơ tóc trắng lại làm chi
Muốn về sao chẳng về đi? | Nguyễn Khuyến |
Uống Rượu Ở Vườn Bùi | poem.php?poem=uong_ruou_o_vuon_bui__nguyen_khuyen | Tuý Ông (1) ý chẳng say về rượu,
Say vì đâu, nước thẳm với non cao.
Non lặng ngắt, nước tuôn ào,
Tôi với bác xưa nay cùng thích thế.
Đời trước thánh hiền đều vắng vẻ,
Có người say rượu tiếng còn nay.
Cho nên say, say khướt cả ngày,
Say mà chẳng biết rằng say ngã đùng.
Chu Bá Nhân (2) thuở trước sang sông.
Chỉ tỉnh rượu ba ngày không phải ít.
Kêu gào thế cười chi cho mệt,
Chớ buồn chi nghe tiếng hát làng say
Xin người gắng cạn chén này. | Nguyễn Khuyến |
Văn Tế Ngạc Nhi | poem.php?poem=van_te_ngac_nhi__nguyen_khuyen | Than ôi! Một phút sa cơ
Ra người thiên cổ
Nhớ ông xưa:
Cái mắt ông xanh,
Cái da ông đỏ,
Cái tóc ông quăn,
Cái mũi ông lõ,
Đít ông cưỡi lừa
Miệng ông huýt chó.
Lưng ông đeo súng lục liên,
Chân ông đi giầy có mỏ.
Ông ở bên Tây,
Ông sang đô hộ.
Đánh giặc Cờ Đen,
Để yên con đỏ.
Nào ngờ:
Nó bắt được ông,
Nó chặt mất sỏ.
Cái đầu ông đây
Cái mình ông đó.
Khốn nạn thân ông,
Đù cha mẹ nó!
Tôi:
Vâng lệnh quan trên,
Cúng ông một cỗ, N
ày chuối một buồng
Này rượu một hũ,
Này xôi một mâm,
Này trứng một rổ,
Ông có linh thiêng,
Mời ông xơi hộ,
Ăn uống no say,
Nằm yên một chỗ.
Ối ông Ngạc Nhi ôi!
Nói càng thêm khổ. | Nguyễn Khuyến |
Vịnh Lụt | poem.php?poem=vinh_lut__nguyen_khuyen | Tị trước (1) Tị Này(2) chục lẻ ba
Thuận dòng nước cũ lại bao la
Bóng thuyền thấp thoáng giờn trên vách
Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà
Bắt bậc người còn chờ chúa đến
Đóng bè ta phải rước vua ra
Sửa sang việc nước cho yên ổn
Trời đã sinh ta ắt có ta. | Nguyễn Khuyến |
Vịnh Mùa Hè | poem.php?poem=vinh_mua_he__nguyen_khuyen | Biếng trông trời hạ nước non xa,
Ý khí ngày thường nghĩ đã trơ.
Cá vượt khóm rau lên mặt nước,
Bướm len lá trúc lượn rèm thưa.
Thơ Đào (1) cửa miệng đưa câu rượu
Xóm Liễu (2) quanh khe chịu tiếng khờ.
Nhân hứng cũng vừa toan cất chén,
Sấm đông rầm rập gió nồm đưa.
(Tác giả tự dịch bài "Họ nhật ngẫu hứng") | Nguyễn Khuyến |
Vịnh Núi An Lão | poem.php?poem=vinh_nui_an_lao__nguyen_khuyen | Mặt nước mênh mông nổi một hòn,
Núi già nhưng tiếng vẫn còn non, (1)
Mảnh cây thưa thớt đầu như trọc,
Ghềnh đá long lanh ngấn chửa mòn.
Một lá (2) về đâu xa thẳm thẳm,
Nghìn nhà trông xuống bé con con.
Dẫu già đã hẳn hơn ta chửa?
Chống gậy lên cao gối chẳng chồn! | Nguyễn Khuyến |
Vịnh Tiến Sĩ Giấy | poem.php?poem=vinh_tien_si_giay__nguyen_khuyen | I
Rõ chú hoa man (1) khéo vẽ trò,
Bỡn ông mà lại dứ thằng cu.
Mày râu mặt đó chừng bao tuổi,
Giấy má nhà bay đáng mấy xu?
Bán tiếng mua danh thây lũ trẻ,
Bảng vàng bia đá vẫn nghìn thu.
Hỏi ai muốn ước cho con cháu,
Nghĩ lại đời xưa mấy kiếp tu.
II
Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai.
Cũng gọi ông nghè có kém ai.
Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng, (2)
Nét son điểm rõ mặt văn khôi. (3)
Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ?
Cái giá khoa danh thế mới hời! (4)
Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ,
Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi! | Nguyễn Khuyến |
Người Đàn Bà Thứ Hai | poem.php?poem=nguoi_dan_ba_thu_hai__phan_thi_vinh_ha | Mẹ đừng buồn khi anh ấy yêu con
Bởi trước con anh ấy là của mẹ
Anh ấy có thể yêu con một thời trai trẻ
Nhưng suốt đời anh yêu mẹ, mẹ ơi!
Mẹ đã sinh ra anh ấy trên đời
Hình bóng mẹ lồng vào tim anh ấy
Dẫu bây giờ con đuợc yêu thế đấy
Con cũng chỉ là người đàn bà thứ hai…
Mẹ đừng buồn những chiều hôm, những ban mai
Anh ấy có thể nhớ con hơn nhớ mẹ
Nhưng con chỉ là cơn gió nhẹ
Mẹ luôn là bến bờ thương nhớ của đời anh.
Con chỉ là cơn gió mong manh
Những người đàn bà khác có thể thay thế con trong tim anh ấy
Nhưng có một tình yêu âm ỉ cháy
Anh ấy chỉ dành cho mẹ, mẹ ơi!
Anh ấy có thể sống với con suốt cuộc đời
Cũng có thể chia tay trong ngày mai, có thể
Nhưng anh ấy suốt đời yêu mẹ
Dù thế nào, con chỉ là người thứ hai… | Phan Thị Vĩnh Hà |
Hai Nửa Vầng Trăng | poem.php?poem=hai_nua_vang_trang__hoang_huu | Tình cờ anh gặp lại vầng trăng
Một nửa vầng trăng thôi, một nửa
Trăng vẫn đấy mà em xa quá
Nơi cuối trời em có ngóng trăng lên
Nắng tắt đã lâu rồi trăng thức dậy dịu êm
Trăng đầu tháng có lần em ví
Chữ D hoa như vầng trăng xẻ nửa
Tên anh như nửa trăng mờ tỏ
Ai bỏ quên lặng lẽ sáng bên trời
Ơi vầng trăng theo con nước đầy vơi
Trăng say đắm dào trên cỏ ướt
Trăng từng giọt tan vào anh mặn chát
Em đã khóc
Nhưng làm sao đến được
Bến bờ anh tim dội sóng không cùng
Đến bây giờ trăng vẫn cứ còn xanh
Cứ một nửa, như đời anh, một nửa
Nhưng trăng sẽ tròn đầy, trăng sẽ…
Trăng viên mãn cuối trời em có nhớ
Mặt trăng từng khuất nửa ở trong nhau.
8.1981 | Hoàng Hữu |
Chiều Hè Trên Bãi Biển | poem.php?poem=chieu_he_tren_bai_bien__vo_danh | Một trưa hè trôi êm trôi êm
Trên bãi biển chiều nao chung bước
Biển xanh xanh trời xanh màu ngọc bích
Cuối tầm nhìn trời nước gặp nhau
Sóng rời bãi con dã tràng xe cát
Sóng vỗ bờ con chim nhạn vờn bay
Sáng tinh mơ dấu chân người in cát
Nắng chói chan về làm rát bỏng bàn chân
Có phải chăng cát giận, cát hờn?
Chẳng muốn nhận dấu chân em làm kỷ niệm
Để cát bay, cát tạo thành hình của sóng
Để ven bờ cát mãi đùa vui | Không rõ... |
Không Đề 01 | poem.php?poem=khong_de_01__vo_danh | Trước đêm có cả ban ngày
Trước mưa có nắng vương đầy lối đi
Trước con mắt có hàng mi
Trước khi yêu chẳng có gì khổ đau... | Không rõ... |
Ngày Đá Đơm Bông | poem.php?poem=ngay_da_dom_bong__vo_danh | Buổi tối ngủ trên đồi hỏi hòn đá nhỏ
Con đường nào, con đường nào dẫn đến một dòng sông
Một dòng sông mà em vẫn thường ra ngồi giặt áo
Và con đò, và câu hò theo nước trôi xuôi
Buổi sáng ngồi trên rừng hỏi ngàn lá đổ
Con đường nào, con đường nào dẫn đến một miền quê
Một miền quê trời hanh nắng ruộng khô cằn sỏi đá
Đợi mưa về, đợi mưa về cho lúa đơm bông
Ơ hơ hớ quê mình giờ đây
Con sông xưa thuyền có xuôi ngược
Ơ hơ hớ kẽo kẹt võng đưa ơ hờ hờ...tiếng ru ngọt môi
Thường những buổi trưa buồn hỏi mình khe khẽ
Con đường nào, con đường nào dẫn đến những ngày xưa
Ngày xưa đó mẹ ra đứng cười rung làn tóc trắng
Tre cuối làng, cầu sau vườn theo gió đong đưa
Buổi sáng hỏi mây trời đi hoài có rõ
Con đường nào, con đường nào dẫn một ngày vui
Ngày vui đó bầy chim sáo rủ nhau về xây tổ
Mưa sẽ về, mưa sẽ về cho đá đơm bông | Không rõ... |
Ngõ Vắng Xôn Xao | poem.php?poem=ngo_vang_xon_xao__vo_danh | Một ngõ vắng xôn xao,
Nằm trong lòng phố lớn
Một tiếng nói yêu thương,
Cho lòng thêm tơ vương
Một đám lá thu bay,
Rắc vương đầy ngõ vắng
Một chùm hoa trưa nắng,
Xôn xao cả lòng tôi
Tôi yêu người,
Làm một bông hoa nắng
Tôi yêu người,
Làm ngõ vắng dịu êm
Trong yên lặng,
Mà lại mênh mông lắm
Hãy ngước nhìn kìa
Trời xanh bao la!
Vì nắng mãi nên mưa
Gội trưa hè loang nước
Vì muốn nói với nhau
Nên nhìn nhau thêm lâu
Chiều ngõ vắng xôn xao
Có thêm bầy bé gái
Cùng nhảy dây khoe áo
Giăng hoa ngập hồn tôi
Khi con người
Để lòng yêu ngõ vắng
Thêm rung động,
Được đứng ngắm trời mây
Ai đã từng một lần qua nơi ấy
Khi xa rồi
Lòng bỗng thấy xôn xao! | Không rõ... |
Người Đến Từ Triều Châu | poem.php?poem=nguoi_den_tu_trieu_chau__vo_danh | Dù đi đến nơi nào vẫn nhớ quê nhà
Định mệnh kia... không làm bối rối lòng ta
Nào ta hãy nắm tay nhau, và ung dung đi trong cuộc đời...
Đầy sương gió chẳng chút lo lắng khi mình có nhau
Đường ta đi, gian nan từng bước vẫn đi, hiên ngang
Và trong trái tim ta mặt trời sáng soi...
Dám yêu, dám liều. Dám vượt hết tất cả để thành công
Lòng ta chẳng đổi thay
Phía trước quyết tiến lên muôn đời, xứng danh Triều Châu
Nghìn trùng xa ai còn vấn vương sông hồ
Mà nơi đây, bỗng dừng bước phiêu du.
Ở đây có bếp lửa hồng và nơi đây có mối duyên nồng.
Cũng nơi đây em đang chờ anh xây mộng kết tơ.
Ngày anh đến ấm lại mùa đông giá lạnh mịt mờ
Ngày anh đến cánh hoa vườn em ngát hương.
Sẽ không còn, những u buồn.
Chúng mình mãi gắn bó suốt đời nhau.
Ngày anh đến với em. Gió cũng hát lao xao.
Cùng đàn én trong vườn xuân. | Không rõ... |
Với Anh | poem.php?poem=voi_anh__vo_danh | Rồi mai này anh sẽ quên em.
Cô gái nhỏ thương anh nhiều biết mấy
Trước mặt anh em vẫn kiêu kỳ là vậy
Mà đêm về nước mắt ướt nhòe mi
Rồi mai này khi đã chia ly
Tên em sẽ chìm vào trăm ngàn tên khác
Như một vật dư thừa vô tình anh đánh mất.
Trong cuộc đời chẳng thiếu sự "lỡ tay"
Rồi mai này, ừ mai này đây
Sẽ có một người nâng cho em từng bước
Dạy em biết đặt tình yêu vào phía trước.
Vào con người, vào sức mạnh tình yêu.
Người ấy dù mạnh mẽ đến bao nhiêu
Dù biết nhịn, biết chiều, biết nâng khi em ngã.
Dù người ấy sau này biết làm tất cả.
Em vẫn chẳng quên rằng đấy không phải là anh. | Không rõ... |
Vé Đi Tuổi Thơ | poem.php?poem=ve_di_tuoi_tho__robert_ivanovich_rozhdestvensky | Nơi rất ấm, tuổi thơ ta ở đó
Từ rất lâu, đã từ lâu, trôi qua…
Đêm nay tôi bước vội khỏi nhà.
Đến ga, xếp hàng mua vé:
Lần đầu tiên trong nghìn năm.
Có lẽ.
Cho tôi xin một vé đi Tuổi thơ.
Vé hạng trung –
Người bán vé hững hờ
Khe khẽ đáp:
Hôm nay vé hết! –
Biết làm sao!
Vé hết, biết làm sao!
Đường tới Tuổi Thơ còn biết hỏi nơi nào?
Nếu không kể đôi khi ta tới đó
Qua trí nhớ
Của chúng ta
Từ nhỏ….
Thành phố Tuổi Thơ – thành phố chuyện thần kỳ
Cơn gió đùa, tinh nghịch dẫn ta đi.
Ở đấy, làm ta say, chóng mặt
Là những cây thông vươn tới mây.
Là những ngôi nhà cao, cao ngất.
Và mùa đông rón rén bước trong đêm.
Qua những cánh đồng phủ tuyết trắng và êm
Ôi thành phố Tuổi Thơ – bài ca ngày nhỏ
Chúng tôi hát –
Xin cảm ơn điều đó!
Nhưng chúng tôi không trở lại
Đừng chờ!
Trái đất nhiều đường.
Từ thành phố Tuổi Thơ
Chúng tôi lớn đi xa…
Hãy tin!
Và thứ lỗi!
Thái Bá Tân dịch | Robert Ivanovich Rozhdestvensky |
Alô Nó Kià! | poem.php?poem=alo_no_kia__bui_chi_vinh | Đưa anh ngón út anh cầm
Cái ngón ốm nhách mà em giấu hoài
Không đưa, anh nắm bàn tay
Anh nâng lên mũi đố ai bắt đền?
Bắt đền sao được hả em?
Alo di động đắt tiền, anh "to"
Nó kìa (*) nếu muốn, anh lo
Dế anh "dế lửa" học trò điếc luôn
Gáy từ lớp tới vũ trường
Bàn tay xịn, thương mến thương anh ghiền
Đưa anh ngón út nha em
Lộn ngón đeo nhẫn hết tiền của anh!
----------------
(*) Alô đời mới Nokia | Bùi Chí Vinh |
Anh Là Một Con Cừu | poem.php?poem=anh_la_mot_con_cuu__bui_chi_vinh | Cướp hết tình yêu dành cho mẹ anh đi
Em cướp hết như một người chinh phục
Kể từ đây không còn ai thân thuộc
Anh mồ côi trong đôi mắt em rồi
Hãy an ủi anh bằng những nụ hôn môi
Hãy che chở anh bằng vòng tay con gái
Hãy dạy anh đánh vần và tập nói:
" Yêu, yêu, yêu... " cho đến lúc lìa đời
Em đã trở thành một bà mẹ nhân đôi
Đi chăn dắt một con cừu thần thoại
Một con cừu chứ sao? Đầy vụng dại
Anh là con cừu tình nguyện được... mồ côi
(Trích từ tập thơ " Thơ Tình Bùi Chí Vinh " - NXB Trẻ 1995 ) | Bùi Chí Vinh |
Anh Nhớ Em | poem.php?poem=anh_nho_em__bui_chi_vinh | Như con nít nhớ cà rem vậy mà
Như con dế trống đi xa
Một hôm nhớ đến quê nhà gáy chơi
Con dế thì gáy một hơi
Còn anh gáy hết một thời con trai
...
Cô bé ơi, anh nhớ em
Như má lúm nhớ đồng tiền đúng chưa
Như cà chớn nhớ cà chua
Như da em nhớ da-ua ngọt ngào
Cái nhớ nhảy qua hàng rào
Chẳng thèm đăng ký cứ nhào vô anh
Xô ra thì thấy không đành
Nên anh ôm lấy rồi canh giữ hoài
...
Con kiến còn nhớ củ khoai
Huống chi tóc ngắn tóc dài nhớ nhau
Nhớ em không biết để đâu
Nếu để trên đầu thì tóc che đi
Để trong túi áo cũng kỳ
Lỡ đi đường rớt lấy gì chứng minh
Thôi thì giả bộ làm thinh
Hét lên "nhớ quá" một mình nghe chơi | Bùi Chí Vinh |
Anh Và Thằng Nhóc | poem.php?poem=anh_va_thang_nhoc__bui_chi_vinh | I
Hai mươi năm trước anh giống thằng nhóc lắm
Lủi thủi theo sau áo trắng tan trường
Rồi chiếc áo băng qua đường, biến mất
Anh tiếc hoài cái kẹp tóc cô nương
Anh bịnh thương hàn suốt... ba ngày chẵn
Cái tội lang thang quên béng nắng trên đầu
Mà nếu có chết anh cũng không hối hận
Chỉ sợ tan trường có kẻ lén theo sau...
Chỉ một mình anh đau, một mình anh ốm
Còn riêng em đừng thương hại ngoái nhìn
Hai mươi năm trước anh giống thằng nhóc lắm
Anh độc quyền buồn ngay cả lúc... làm thinh
II
Còn bây giờ anh khác thằng nhóc lắm
Ngồi xổm lan can và gặm bánh mì
Chờ áo trắng tan trường ơi áo trắng
Anh trải thơ tình để lót bước em đi
Nếu em bắt chuyện tất nhiên anh lơ đãng
Trời thì xanh, xe cộ rất nhiều màu
Anh quên màu trắng đến khi em hốt hoảng
Mới quay lại cười một cái dễ... xa nhau
Nếu em dửng dưng tất nhiên anh hét lớn
Em sẽ quan tâm hỡi cô gái tò mò
Thấy chưa, bây giờ anh khác thằng nhóc lắm
Ai dại độc quyền chịu đựng nỗi buồn... xo! | Bùi Chí Vinh |
Bài Thơ Chưa Hoàn Thành | poem.php?poem=bai_tho_chua_hoan_thanh__bui_chi_vinh | Đêm nhớ em, em có tin không?
Em như chiếc gối rúc trong lòng
Nào ai biết trăm con chim mộng
Vây kín đầu giường anh hát rong
Ngày nhớ em, em đã tin chưa?
Em như sen đẹp tự nghìn xưa
Vái trời ao mọc ngay bên cạnh
Em nở thành thơ suốt bốn mùa
Mốt nhớ em, biết nhớ hay không?
Mới ngày, đêm đã đủ tê lòng
Thôi nghe đừng nhớ, thôi đừng nhớ
Lỡ mai này con sáo sang sông... | Bùi Chí Vinh |
Bài Thơ Lì Xì | poem.php?poem=bai_tho_li_xi__bui_chi_vinh | Tết đến em có còn bướm trắng??
Áo dài thơ, hay váy đầm xoè??
Mặc áo dài?? Anh đeo kính cận
Còn diện đầm?? Anh..... mắt đỏ hoe
Tết đến, em có còn nhớ lớp??
Hay nhớ gì đâu trước cổng trường??
Nhớ lớp?? Anh biến thành trái thị
Còn nhớ gì đâu, anh biến...... luôn!!
Tết đến, ăn mứt me chua lưỡi
Cắn hạt dưa đỏ chót môi cười
Trời đất sinh ra chi tiểu muội
Để năm nào anh cũng..... ' eo ơi!!'
Tết đến đừng xoè tay, ngượng nhé!!
Cái đuôi sau gót quá là dài
Khỏi cần tập soi gương e lệ
Lì xì anh một sợi tóc mai
Khoá vào cặp nhốt mười sáu tuổi
Lỡ mai em ' bẻ gãy sừng trâu'
Thì chắc anh biến thành chú Cuội
Ôm cây đa bay tuốt lên..... lầu!!! | Bùi Chí Vinh |
Bàn Tay | poem.php?poem=ban_tay__bui_chi_vinh | Khi tay em trong tay anh
Kẻ nào dị nghị sẽ thành người dưng
Mắc mớ gì phải quan tâm
Miễn sao ta nắm không lầm tay ai
Tay mà đút túi rất gầy
Có đôi chắc chắn bàn tay hồng hào
Tội gì không áp vào nhau
Đợi cho sợi tóc bạc đầu thì buông... | Bùi Chí Vinh |
Bí Mật Mỗi Con Đường | poem.php?poem=bi_mat_moi_con_duong__bui_chi_vinh | Chắc chắn là rất nhiều dấu chân đi qua
Chồng chất lên nhau làm người ta có tuổi
Anh chưa làm được gã gác - cửa - thời - gian
Gỡ các dấu chân để tìm sương khói
Chắc chắn là dưới những chiếc guốc, những đôi giày không biết nói
Các đôi lứa yêu nhau đã phát biểu ồn ào
Như anh đã dụi đầu vào vai em mệt mỏi
Thả lại trên đường đúng mười ngón xôn xao
Đã có cái hôn quá khứ rất nhiệm mầu
Cho vành môi hết thời kỳ tái mét
Đã thú nhận nhau những cuộc tình đầu
Cho hai gót chụm dần đêm vĩnh biệt
Chắc chắn là sẽ còn hoài dấu vết
Dấu ngón chân em, vết cứa anh mà
Và chắc chắn ở chỗ nào bí mật
Có ai tình cờ nhắc một ai xa. | Bùi Chí Vinh |
Bình Đẳng Ơi Chào Mi | poem.php?poem=binh_dang_oi_chao_mi__bui_chi_vinh | Bình đẳng nhau tất cả mọi thứ
Anh đồng ý hai chân, hai tay
Khi giơ lên thì anh té ngửa
Xin em đừng xây xẩm mặt mày
Nghĩa là anh giống cóc, giống xoài
Và ngọt lịm như chè thập cẩm
Còn em thì chuyển hệ đắng cay
Sáng xỉn, chiều say, trưa đờ đẫn
Nghĩa là anh... vào ra ngơ ngẩn
Mở trang lưu bút, chép thơ tình
Còn em thì vi vu xế nổ
Áo bụi quần dơ, tóc tủa đinh
Nghĩa là dẹp ngày "Valentine"
Anh thèm hoa, còn em vặt lá
Vui vui thì đàm đạo văn minh
Bình đẳng " ba " và bình đẳng " má "
Nghĩa là từ nay anh nội trợ
Còn em ngồi nhậu ở vỉa hè
Lạy trời cho em đừng trúng gió
Bằng không anh mắc nghẹn cơm khê
Bình đẳng nhau tất cả mọi thứ
Nhưng anh cao, em thấp, ý trời...
Em có muốn chồm lên giận dữ
Anh cúi đầu hôn nhẹ nhàng thôi.... | Bùi Chí Vinh |
B'lao | poem.php?poem=b_lao__bui_chi_vinh | Em có giống B' lao không em?
Đón anh đừng đóng cửa, cài then
Bằng không anh biến thành bông giấy
Mọc tỉnh bơ ngay phía trước thềm
Em có giống B'lao không em?
Ngắt anh đừng nỡ ngắt trong đêm
Bằng không anh biến thành trái bắp
Cắn vào răng em để bắt đền
Em có giống B'lao không em?
Vất anh đừng vất ở ngoài hiên
Bằng không anh biến thành con muỗi
Chờ dịp giường em bị hở mền
Em có giống B'lao không em?
Đập anh đừng đập bẩn tay tiên
Bằng không anh sẽ nằm huýt sáo
Suốt mùa thu như chú dế mèn
Là phải giống Blao nghe em
Chiều, mưa một chút để anh thèm
Tối, sương một chút để anh nhớ
Một chút gì như thể áo len
Là phải giống Blao nghe em
Làm duyên một chút để anh hiền
Dịu dàng một chút cho anh sợ
Một chút gì như thể buốt tim | Bùi Chí Vinh |
Bướm Và Hoa | poem.php?poem=buom_va_hoa__bui_chi_vinh | Ra khỏi lớp các em tan như bướm
Có bướm màu đen coi giống bướm bà
Có em áo dài đẹp như bướm trắng
Anh ngẩn người, thầm gọi : bướm kiêu sa!!!
Bươm bướm thật vốn nhiều màu sặc sỡ
Còn bướm của anh không bay khỏi mặt đường
Thơ anh đậu xếp hàng trên bãi cỏ
Chờ trước cổng trường một cánh bướm tơ vương
Nhưng có thật các em là bướm trắng??
Con gái là hoa, ai gọi bướm bao giờ!!
Kìa bông giấy trắng và hoa huệ trắng
Lấp ló hàng rào đôi mắt nhãn ngây thơ
Bông giấy không hương nên các em từ chối
Hoa huệ tràn hương, anh cuống quít thập thò
Khi tiếng guốc ở trên đường chưa mỏi
Thì anh còn lẽo đẽo bước buồn xo.... | Bùi Chí Vinh |
Bynight | poem.php?poem=bynight__bui_chi_vinh | "Bynight" có gì lạ không em?
Đêm chắc là phố xá có đèn
Đêm chắc là đèn không đủ sáng
Đêm chắc là u ám tối đen
Ờ, "bynight" lạ lắm hả em?
Đêm về em "lắc" giống đang điên
Đêm về em hát như đang mợ
Chỉ tội phụ huynh cạn vì tiền. | Bùi Chí Vinh |
Cao Và Thấp | poem.php?poem=cao_va_thap__bui_chi_vinh | Bao nhiêu lần em kiễng chân lên
Cũng không thể cắn vành tai anh được
Anh có bổn phận phải cao gần hai thước
Để xoa đầu em một cách dễ dàng
Anh có nhiệm vụ lớn bằng người ngoại quốc
Để cùng em dạo phố thật hiên ngang
Nếu anh cao một thước tám mươi lăm
Chỗ cư trú thường là sân bóng rổ
Cao một thước tám mươi tư cũng khổ
Không tắm pít-xin anh cũng đánh bóng chuyền
Cao một thước tám mươi ba càng buốt tim em
Vì môn thể thao mới sẽ là nghề bóng đá
Em sẽ tốn tiền mua dầu nóng để bôi vào mắt cá
Cầu thủ như anh hay bị "đốn" bất ngờ
Nhưng dưới một thước năm mươi thì em sẽ buồn xo
Thấy anh bò lết cả ngày vì tập tạ
Anh sẽ đô như Hercule nhưng thê thảm quá
Dạo phố ngoài đường chỉ đứng đến vai em
Vì vậy hôm nay em kiễng chân lên
Anh mới thí dụ để mình không mặc cảm
Cái chiều dài hay bị thua chiều ngắn
Lúc cúi hôn em phải biết lấy thăng bằng
Cao cho dữ cũng đành thua lùn xủn
Lúc hai cái đầu chụm lại rất tình nhân
Chẳng phải vậy sao? Kiễng chân thì dễ..... sợ
Nên lúc rụt về em thấp đến dễ..... thương!!! | Bùi Chí Vinh |
Chia Buồn Cùng Năm Sửu | poem.php?poem=chia_buon_cung_nam_suu__bui_chi_vinh | (17 bẻ gẫy sừng trâu)
Khi em lên mười bảy
Loài trâu mất tích sừng
Cỏ đang thơm bỗng dại
Trái tim chàng rét run
Ai bảo em mười bảy
Bẻ gãy hết ngọt ngào
Con trâu và con gái
Cứa một đường hơn dao
Vậy thì anh mười tám
Hơn một tuổi ngon lành
Tình nguyện làm con..... nghé
Cưa sừng nhìn xuân xanh! | Bùi Chí Vinh |
Chiếc Ghế Mây | poem.php?poem=chiec_ghe_may__bui_chi_vinh | Khi em rời ghế mây
Chỉ mùi hương ở lại
Tre biến thành thần thoại
Trúc biến thành hoang đường
Anh biến thành tai ương
Thấp thỏm bên chiếc ghế
Cái mùi hương ác thế
Không theo em bay đi
Mà quấn quýt bên tre
Mà quẩn quanh bên trúc
Để riêng anh biết được
Có thực, mùi hương kia
Không một ai sẻ chia
Chỉ trừ ra chiếc ghế
Không ngu gì anh kể
Mùi hương này cho ai
Hỡi những chiếc ghế mây
Hiếm hoi trên trái đất
Hãy khinh chiếc ghế sắt
Hãy khinh chiếc ghế bành
Những chiếc ghế vô danh
Trong căn nhà trải thảm
Nơi chân em chưa dẫm
Nơi tình em chưa ngồi
Nơi Chúa chưa ra đời
Nơi Phật chưa hiện đến
Nơi em chưa rón rén
Những gót chân tuyệt vời
Nơi mọi người hít thở
Chưa thấy mùi em rơi
Nơi đây anh đang hay
Chỗ này anh đang biết
Anh vuốt ve ghế mây
Như vuốt ve truyền thuyết
Tình yêu anh lẫm liệt
Thanh trúc phải cong vòng
Tình yêu anh tận cùng
Thanh tre đành duỗi thẳng
Anh đặt trái tim đắng
Vào chiếc ghế em ngồi
Trái tim trở nên ngọt
Chiếc ghế tình anh ơi
Chiếc ghế tình em ơi
Lúc người kia đi mất
Lúc người này cúi mặt
Cái mùi hương chưa đi
Như không hề biệt ly
Như không hề xa cách
Trận gió có thổi sạch
Tất cả mọi đền đài
Cơn bão có đùa dai
Anh cũng không lo sợ
Khi lòng anh: em ở
Khi ghế anh em ngồi
Hương thời gian muôn thuở
Thuở bắt đầu lứa đôi... | Bùi Chí Vinh |
Chiều Có Lan | poem.php?poem=chieu_co_lan__bui_chi_vinh | Chỉ cần ngón tay đưa lên môi
Ngàn năm nhan sắc ở em rồi
Ngàn năm trời đất thành thơ nhạc
Cây cỏ chào nhau để lứa đôi
Chỉ cần chiếc muỗng em trong ly
Là tim anh chết rất nhu mì
Là chàng thi sĩ bay đâu mất
Một chút tình anh lẻn trốn đi
Chỉ cần em cứ ngồi như thế
Yên lặng nhìn anh suốt buổi chiều
Là anh trôi sạch bao dâu bể
Mở hết lòng ra đợi tiếng yêu!!..... | Bùi Chí Vinh |
Con Gái Tuổi Dần | poem.php?poem=con_gai_tuoi_dan__bui_chi_vinh | Năm tới sẽ là năm con cọp
Tuổi bé trùng năm mới động trời
Nếu muốn làm tim anh hồi hộp
Bé gầm lên một tiếng "Anh ơi!"
Sử sách đã nhắc nhiều đến bé
Hết sát phu rồi đến bỏ chồng
Anh thì gọi đó là "Bà Kẹ"
Mới nhìn, đã nuốt chửng đàn ông
Vái trời ai cũng xa lánh bé
Chỉ riêng anh tan cửa nát nhà
Anh chết sớm không hề nuối tiếc
Miễn là móng vuốt có mùi hoa
Mà anh lại cầm tinh con ngựa
Thoát sao qua con gái tuổi Dần
Giả đò vồ thật anh lần nữa
Để tình run rẩy hết hai chân | Bùi Chí Vinh |
Cô Nương Ngày Tết | poem.php?poem=co_nuong_ngay_tet__bui_chi_vinh | Mười hai tháng cô nương già chát
Dè đâu xuân đến "lẳng" ra liền!
Giống như ngọn sóng anh ngồi hát
Nịnh đầm tiểu muội một hơi : em....
Thì em vẫn là em áo trắng
Nhất quỉ, nhì ma, thứ ba... huề
Anh cao lớn mà chân thì ngắn
Bước hoài vẫn bị gọi nhà quê
Muội tuyên bố đón xuân tiết kiệm
Sơ sơ chỉ một hũ kiệu hành
May thay, con mắt không hà tiện
Khai vị đầu năm, biết liếc anh
Biết liếc anh... nghĩa là chóng lớn
Một năm mới đó, đã bay vèo
Anh tự cắt cái đuôi cà chớn
Lên đồ, đứng cạnh sợi dây leo!
Cười như cô nương, khóc như tiểu muội
Anh biết sao mà dỗ bây giờ?
Thà mùng một trái tim anh chết đuối
Mùng hai anh lại nhảy lên bờ....
....làm thơ! | Bùi Chí Vinh |
Cuộc Hành Trình Quanh Đống Rác | poem.php?poem=cuoc_hanh_trinh_quanh_dong_rac__bui_chi_vinh | Bùi Chí Vinh Tự Kể
Tôi chỉ có thể chọn cái đầu đề như thế để đặt tên cho cuộc đời của mình. Cho dù báo Thể thao và Văn hoá là báo rất có lòng với tôi, trên tờ báo có lúc nhà phê bình Vương Trí Nhàn đã hạ bút viết về tôi một bài dài lê thê "Thơ tình Bùi Chí Vinh, xanh vỏ đỏ lòng", lại có lúc cô Thu Hồng quan tâm đến nhan sắc bất thành nhân của tôi khi lấp ló sau cánh gà Nhà văn hoá Thanh niên trong đợt lãnh giải 20 năm văn học thành phố, mới đây nhất khi khai chương bộ sách thiếu niên phiêu lưu mạo hiểm "5 Sài Gòn" của nhà xuất bản Kim Đồng mà tôi là tác giả, côĐoàn Ngọc Thu lại còn có nhã ý so sánh "Sự kiện tôi viết bộ sách trẻ con Việt Nam bán chạy với số lượng hơn vạn bản một tuần là hiện tượng văn xuôi hiện nay không kém gì hiện tượng quậy trong thơ ca thưở trước của tôi". Nhưng dẫu được ba nhân sự đáng được tôn trọng trên thông cảm cách nào đi chăng nữa thì cuộc đời tôi vẫn không hề xê dịch: tôi sinh ra, lớn lên, chiến đấu, giãy dụa và tồn tại quanh... đống rác. Tôi, trong lá số tử vi và hình tướng quái dị của tôi, đa số thầy bói đều phán một câu "đi tới đâu tạo sóng gió tới đó". Tôi không biết mình đã vô tình hay hữu ý gây ra rắc rối cho những ai, chỉ biết rằng lỡ chào đời ở xóm Lách dưới chân cầu Công Lý vào lúc 12h đêm ngày 23/10/1954 cực kì ứng với tương lai mờ mịt:
"Tôi sinh ra gặp buổi nhiễu nhương
Bất lương bàn luận chuyện hiền lương
Tráng sĩ cúi đầu làm binh sĩ
Thơ quốc doanh cười cợt thơ Đường
Lên năm ta đã biết đào trùn
Móc vào lưỡi lội sình câu cá
Mãi tuổi 30 giống họ Khương
Móc thơ phú mà câu thiên hạ"
15 tuổi sau đợt "câu cá" thơ ngây, tôi tự cải thiện thân phận sức của mình bằng cách "câu thiên hạ" qua việc thoát ly tham gia các hoạt động cách mạng thưở bấy giờ của phong trào đấu tranh học sinh, sinh viên đô thị thành phố. Lúc đó tôi đã cả gan làm thơ ca ngợi một "bí danh" khác của Hồ Chí Minh và bị đuổi học khỏi lớp 10 trường Nguyễn Trãi. Chớ gì nữa, trong tờ báo xuân của nhà trường đang thập thò sau vở kịch thơ Người làm lịch sử Nguyễn Trãi, tôi đã phạm huý hai câu: Mặc cho bão táp mưa sa - Trên cây ái Quốc nở hoa anh hùng".
Tôi nghĩ rằng đến hôm nay nhiều anh em cả trường Nguyễn Trãi làm quan chức các thứ các cái khó mà quên được hai câu thơ góp phần cho cuộc bãi khoá lớn năm 1970 - 1971. Sau giải phóng, cơn huyền mộng làm hiệp sĩ Don Quichotte chiến đấu với những cái cối xay gió, cướp của cải người giàu chia cho người nghèo của tôi tôửng đã hoàn tất. Còn phải hỏi, tôi được Thành đoàn ưu đãi tạo điều kiện giữ sứ mạng chọn thơ chuyện trên tờ báo Tuổi Trẻ mới ra lò bất chấp lai lịch lộn xộn bản thân. Đáng mừng là tôi không thích hợp với chiếu hoa trải sẵn, năm 1978 cuộc chiến tranh biên giới nổ ra, tôi sung sướng làm đơn tình nguyện đi bộ đội để giải phóng cương vị "không đúng nơi đúng chỗ của một cọng rác biến tướng thành cán bộ salon". Hồi đó hình như tôi có viết máy câu thiệt là đã:
"Buộc vào ba lô sách Lỗ Tấn
Ca hát như một chàng digan
Ta vừa nghịch ngợm vừa đứng đắn
Khi đã quàng vai khẩu súng trường
Rừng nhờ người đi mà thành đường
Ta nhờ tự do mà thành lính
Đường áp tai nghe mùi quê hương
Lính áp má thấy nòng thép lạnh"
Rồi chiến tranh cũng chấm dứt, tôi lại hoá thân làm cọng rác giang hồ xán lách bằng đủ mọi nghề nghiệp: phụ sửa xe lề đường, thợ máy giập, bán ve chai, đạp xích lô, bán kẹo, bán cá, bốc xếp, đọc thơ lưu diễn các quán rượu kiếm cơm. Kết quả sau chục năm mưu sinh trước hàng trăm cặp mắt nghi kỵ, năm 1989 tập Thơ tình Bùi Chí Vinh với 60 bài rút trong tổng số hàng ngàn bài ứng khẩu thất lạc, ung dung ra mắt độc giả, kéo theo sự tốn hao giấy mực báo chí của các nhà ngự sử văn đàn suốt ba năm khen, chê, tranh luận. Aí chà, thơ tình là cái quái gì nhỉ, đối với tôi đó chỉ là một thứ phụ tùng văn chương không hơn không kém, thơ tình làm sao mà an ủi nổi bầu nhiệt huyết của thằng con trai Nam bộ trước những bất công của đời thường. Tôi nhớ như in bài thơ Bán kẹo mở đầu như sau:
"Ta sinh ra không hề hảo ngọt
Quen đắng cay hơn uống nước đường
Chắc tại đời ta như giấy bóng
Nên lâu lâu gói kẹo đỡ buồn..."
Rồi bài thơ Bán cá:
"Đến nhà gặp bạn hiền bán cá
Cá rô cá sặc cá thòi lòi
Mà ta thì vốn thằng láu cá
Thấy cá là chỉ muốn nướng chui..."
Rồi bài thơ Ve chai:
"Gặp nhau không cần coi lịch ngày
Vì đội mũ rơm chân mang hài
Lại đây cùng uống ve chai tửu
Gặm đậu phụng rang mà nghe say... "
Bây giờ năm 1998 ngồi đieemr lại thăng trầm lại càng thấy sắc sắc không không vĩ đại. Tôi còn nhớ cách đây vài năm báo chí tri hô tùm lum: "Văn xuôi cho thiếu nhi Việt nam đâu mà cứ dịch văn xuôi hải ngoại". Nghe mà ghét, cọng rác lại bay lên lần nữa với bộ sách "5 Sài Gòn" mỗi tuần bán hơn chục ngàn cuốn đến nay hơn nửa triệu bản nhưng báo chí im re. Thế đó, Rác là rác. Rác không có chỗ đứng trong thế giới bè phái, giả hình.
Thôi xin tạm chấm dứt cuộc hành trình...
Thể thao Văn hoá. | Bùi Chí Vinh |