title
stringlengths
2
84
link
stringlengths
20
112
poem_text
stringlengths
47
126k
author_name
stringclasses
348 values
Bóng Ngày
poem.php?poem=bong_ngay__tu_ke_tuong
Ngày mở ra đầy nắng Ấm áp bàn tay anh Trước dòng sông yên lặng Lời sóng cũng vô âm Chim hót trong vườn cũ Nhớ một người xa xăm Hoa trái mùa xanh nụ Đường cỏ dấu chân thầm Bên sông gà gáy vọng Điểm vào hơi gió trưa Ai phất tay áo rộng Kịp xua lá sang mùa Lòng quạnh gửi trời quê Qua mấy đường mây trắng Liêu xiêu một nẻo về Thương quá chân cầu vắng Đời quá bước trở chiều Tóc phai vai áo nhạt Ánh mắt người trông theo Rượi vàng hoa cúc đất Tay buông sợi nắng ngày Bay theo trời tưởng nhớ Còn lại nhánh heo may Hút vào tim đá vỡ Bóng ngày rồi đi mất Anh với dòng sông trôi Mưa qua tay lất phất Đủ lạnh một chỗ ngồi.
Từ Kế Tường
Bụi Vàng
poem.php?poem=bui_vang__tu_ke_tuong
Anh rất nhớ một chiều trưa tháng Bảy Bụi che tay không thấy hết đường về Trời rất nắng còn anh buồn đến vậy Khác chi ngày hiu hắt nép hiên mưa. Rộn rã ve kêu báo Hạ sang mùa Chùm phượng đỏ rung lòng anh như lửa Tình rất sâu cứ chìm trong mê lộ Lầm lũi đời người vén bụi mà đi Ngồi bên nhau ai nói được điều gì Trưa tháng Bảy chẳng dài thêm góc phố Lòng nặng trĩu sầu thêm ngôi quán gió Dài đến thinh không mấy chấm bụi đường Bao nhiêu năm còn thoáng vọng mùi hương Một ánh mắt, nét cười trong sợi tóc Buồn chưa hết, hàng cây khô nước mắt Ngửa bàn tay tê dại dấu thời gian. Có đọng lại trong em một chút bụi vàng Trái tim nguyên vẹn của ngày lầm lỡ Tại sao? cứ hỏi tại sao vậy chớ! Chỉ một lần không vội nắm tay em Đời chất lên những mộng mị ưu phiền Anh tỉnh giấc bên gốc mai già cỗi Cứ tưởng tiếc dấu hài xưa qua vội Thềm rêu phong cỏ lạnh - tiếng chim vườn. Có nhớ không em một hạt bụi đường Vướng đâu đó trên cuộc tình sương khói Chiều tàn phai hoa vẫn dậy mùi hương Ngày tháng lụn vẫn còn trưa tháng Bảy Đời cứ xuôi theo một dòng nước chảy Xin nhắc em một thủa đứng bên cầu Tình trăm năm bờ bãi hoá nương dâu Vẫn lắng xuống chất bụi vàng óng ả...
Từ Kế Tường
Kỷ Niệm
poem.php?poem=ky_niem__tu_ke_tuong
Hôm qua có một người Phơi áo ngoài đầu nắng Áo xanh ngát cả trời Cho lòng tôi vừa nặng Nhè nhẹ ở trong mưa Chiếc lá vàng đau yếu Chừng tôi cũng bất ngờ Như trái cây sầu héo Tiếng chim gọi qua vườn Mùa thu trong xác ướp Người như một làn hương Còn đầy đôi mắt ướt Tôi đứng vịn thành cầu Giòng sông xa như biển Đau mấy vọng phù kiều Phù sa giăng cuối bến Mắt ai ngỡ dáng thuyền Nghìn năm soi đáy nước Tóc ai nhánh hạt huyền Hong nắng sầu thuở trước
Từ Kế Tường
Mắt Lá
poem.php?poem=mat_la__tu_ke_tuong
Ngày xuân mắt lá về gần Xanh màu tóc, xanh bàn chân bé rồi Thơm tho đất một chỗ ngồi Cánh hoa vàng dại bồi hồi nở chưa. Xanh lòng với một chút mưa Cho tình thơ dại đón đưa dỗi hờn Tháng giêng trời lại gần hơn Đồi hoa trái nắng, vàng ươm áo dài. Mắt cười môi thắm vì ai Chiếc hôn xin giữ bên ngoài giấc mơ Cổng trường anh lại đứng chờ Ly chè thơm, chuyến xe về phố đông. Xanh hàng cây ngả đôi lòng Bé xanh tuổi mới, xanh dòng mưa thơm Tìm trong cỏ cánh hoa buồn Nở trên tay, hoá nụ hôn ban đầu.
Từ Kế Tường
Một Vầng Trăng Vỡ
poem.php?poem=mot_vang_trang_vo__tu_ke_tuong
Em mắt ướt tóc dài sợi nhỏ Ta ngẩn ngơ bối rối một đời Lòng dâu biển đầy vơi mấy độ Tình mong manh một cõi rong chơi Xin ghé lại nơi tà áo mỏng Bờ môi em mộng mị u buồn Người viễn khách nửa đời gió lộng Vó ngựa buồn thôi cũng buông cương Xin bên em những ngày thương nhớ Đời mây trôi biết có quay về Tìm trong nước một vầng trăng vỡ Chỉ bàn tay khua cõi si mê Xin đi hết một thời thương nhớ Chợt hôm nào ta lạc mất nhau Em có khóc khi mùa thu tới Lòng hanh hao với cuộc tình sầu.
Từ Kế Tường
Mùa Mưa Qua
poem.php?poem=mua_mua_qua__tu_ke_tuong
Chiếc áo mới trắng tinh hồn mới lụa Tuổi mười lăm thân mến giấu trong tay Em bước về màu lá cũ chưa thay Tôi trẻ dại hơn con đường buổi sáng. Mầu khăn xếp lượt là hơn nắng thoáng Mắt em trong, xanh biết đọt trên cành Tôi thật thà yêu tất cả màu xanh Yêu tiếng guốc khua vang hồn chim sẻ Mùa thu tới trong nhịp đằm lặng lẽ Từng chuyến xe không dừng lại buổi chiều Tôi đếm hoài hàng cột điện xanh rêu Hồn ngỡ chạm trên một đường dây thép Và thương nhớ đựng đầy trong sách ép Đóa hoa tương vàng úa chẳng còn hương Tôi làm thơ hờn giận những con đường Bi thiết hóa một buổi chiều tiễn biệt. Tôi vẽ ra những chuyện buồn không thật Đi một mình trên con phố sang thu Lá rung đầy trong đôi mắt thâm u Đời một thoáng tưởng chừng như bụi cát. Đó là lúc ngỡ như sầu chất ngất Oán hờn em thuốc hút đến vàng tay Lòng học trò ướp bã những cơn say Tình mới lớn len hơi nồng chất rượu. Tuổi mười lăm ngây thơ em vừa đủ Thoáng làm nghiêm tôi đã gọi hững hờ Một chút cười là rộn rã ước mơ Đi cúi xuống nghe chừng em đã giận. Dòng tóc biếc chảy trên bờ vai phấn Những ngày xưa hương ướp gửi vào vườn Đứng bên rào dậy tiếng yêu thương Con chim nhỏ bay qua hồn mở cửa. Sớm mai nào mặt trời chưa đủ lửa Em đến trường chân bước với heo may Tôi đứng nhìn hôn vội xuống bàn tay Hơi ấm đó sẽ theo em suốt buổi. Nếu có gọi, gọi tên đừng nhớ tuổi Tuổi mười lăm chưa nở hẳn thành bông Sợi khói buồn chưa vướng mắt xanh trong Đời có lợp vầng mây cao bát ngát. Nên mỗi lúc đi ngang ngoài cửa lớp Tôi lén nhìn rất vội bóng người qua Tôi lén nhìn rất vội với mong chờ Nụ cười đó sẽ vờ như thân thiết. Nên mỗi lúc trời mưa tôi vẫn biết Đón em bằng giọt nước rớt trên cây Chiếc lá vàng in dưới bóng chim bay Con đường đó thản nhiên buồn lớp lớp. Tuổi mười lăm chim đầu đời cánh chớp Áo chưa vưà nên còn rộng châu thân Nếu đã đi xin đi lại vài lần Cho tôi nghe tiếng cười em thánh thót. Mùa mưa cũ qua rồi như chim hót Em có về với chiếc áo năm xưa Em có về với một nỗi dại khờ Và đôi mắt có buồn vương chút khói?
Từ Kế Tường
Nấm Hương
poem.php?poem=nam_huong__tu_ke_tuong
Một chút trời mưa trên lá cây Cho chiều xuống nhẹ bụi thôi bay Anh nghe có nửa hừng đông sáng Vào cửa phòng em ngủ suốt ngày Một chút buồn vây ở mắt em Là hồn anh vỡ cửa gương lem Không trăng cho lá mừng qua tối Đường cũng im sao mục ánh đèn Một chút chiều khô trên tóc nhung Cũng vàng mấy lớp lá sầu đông Bâng khuâng gió trở se màu nắng Em có vờ quên sợi nắng hồng Một chút giòn tươi trên trái xanh Chua vừa cho cắn khẽ trong răng Ô mai trong mắt mười ba tuổi Chín hết vườn mơ mấy độ trăng Một chút lụa xưa cho áo thơm Hương ấy anh đem ủ tận hồn Mùa thu êm ái như tơ sống Đi nhẹ cho vừa đôi gót son Một chút đời anh gửi tặng em Giữ gìn cẩn thận kẻo khi quên Mai mốt ai ngờ ai có biết Thời gian phai mất đóa tình duyên Một chút trời mây để nhớ thương Bay qua thật chậm trước cổng trường Em mang mây đó theo vào lớp Lớp có buồn hơn mắt Nấm Hương?
Từ Kế Tường
Phù Sa Lộc
poem.php?poem=phu_sa_loc__tu_ke_tuong
Ai hát chi điệu lý qua cầu Cho lắt lẻo trái tim tôi nồng cháy Con nước chảy cuộn mình con nước chảy Nhớ thương em tôi nở tím nhánh lục bình Ai hát chi " con vịt chết chìm " Thương tiếc quá tôi " thò tay xuống vớt " Tôi đâu sợ " lìm kìm " nó " cắn ' Bởi thương em tôi chấp nhận vết thương này Bởi thương em muồng trổ hoa vàng Mùa xanh lá bướm làng xô đậu Tôi ru tôi điệu hát cũ càng " Người dưng khác họ đem lòng nhớ thương Ai hát chi " tưới gốc ngô đồng " Thương em quá áo lồng trong gió Thương em quá tôi thầm đưa mắt ngó Để đêm đêm mộng cứ no đầy Hát đi em câu hát sum vầy Mùa Xuân đến rợp trời gió chướng Tôi mở hết tấm lòng sung sướng Đón em về hát khúc tình chung.
Từ Kế Tường
Sông Trăng
poem.php?poem=song_trang__tu_ke_tuong
Một khúc sông buồn trôi Đêm nhòa trong lặng lẽ Riêng ta hai chỗ ngồi Một góc đời quạnh quẽ Thương em mắt tròn xoe Mở ra dòng sông thẳm Đôi khóm lục bình xa Bóng thầm trôi muôn dặm Trên đầu một vầng trăng Từ bao giờ đã hiện Chiếc lá rơi vô tình Như chân người tìm đến Sông ơi nói điều gì Cớ sao im lặng thế Se lòng trận gió khuya Buồn rơi theo tiếng lá Ta chợt già như sông Em như vầng trăng hiện Trải sắc vàng mênh mông Một đêm nào tìm đến...
Từ Kế Tường
Trên Xác Lá Mùa Hè
poem.php?poem=tren_xac_la_mua_he__tu_ke_tuong
Lửa cũng bừng lên đốt bóng cây Nghe trong xương lá hết một ngày Bóng anh đổ xuống từng vuông nắng Rụng kín sân chiều hoa nắng bay Nhiều lúc hồn anh như tiếng chim Xôn xao chân nhỏ bước qua thềm Nhà anh trở cửa ra mùa hạ Mở hết đường đi những lối mềm Một lối để riêng chờ tháng mưa Đường đi quen thuộc của từng mùa Anh vui tiếng bé cười như thoáng Như vỡ bao lần gương nắng xưa Bé có đi riêng một lối về Vườn hoa xơ xác những hôm khuya Cơn mưa đã ghé màu xanh lại Bên những chùm bông đỏ nắng hè Hoa nở như tình xanh mắt nhung Áo vàng hay nắng giãi vào không Anh ngơ ngẩn thấy hồn hoa cúc Cười thoáng rưng giọt nước mắt hồng Bé ngoan hơn cỏ ở bên đường Một mùa thu cũ thả tơ vương Anh mang võng lưới giăng hồn nhện Bắt giữ rằng anh phải nhớ thương Bắt giữ rằng anh luôn nhớ mong Cả đời anh nữa vẫn vô cùng Nghe trên xác lá còn im ngủ Vỡ cuộc tình buồn bé biết không?
Từ Kế Tường
Trường Cũ
poem.php?poem=truong_cu__tu_ke_tuong
Mỗi dãy ba căn lớp học trò Những bàn những ghế những âu lo Trường tôi một thuở trông ngơ ngác Tường ngả màu vôi mái ngói co. Năm tháng thường xuyên chiếc cổng xiêu Như hồn của nắng trở sang chiều Như mưa một buổi về lất phất Đem lá vào sân gửi ít nhiều. Tôi vẫn thân được ít bạn hiền Đứa nghèo xơ xác, đứa truân chuyên Quần thô áo vá đầu không chải Sách vở ngang vừa tấm bảng đen. Phố tôi ở cách phố người Tàu Nhà tôi ngơ ngác một cầu ao Chị tôi giặt lụa quanh chân nước Nắng mới về trêu má chị đào. Bạn tôi thỉnh thoảng mới sang chơi Bến nước thường mơ một bến trời Bầy chim thân mến reo trong nắng Ngơ ngẩn buồn theo một dáng người Tất cả các môn chỉ một thầy Suốt mùa mực tím vả trên tay Chỗ ngồi mỗi đứa thường thay đổi Để lúc mơ nhìn hoa lá bay. Mỗi năm một tết, một mùa hoa Tôi vẫn không hay chuyện bất ngờ Bạn bè con gái ra đi hết Trường cũ bây giờ như tích xưa.
Từ Kế Tường
Có Bệnh Bảo Mọi Người
poem.php?poem=co_benh_bao_moi_nguoi__man_giac_thien_su
告 疾 示 眾 春 去 百 花 落 春 到 百 花 開 事 逐 眼 前 過 老 從 頭 上 來 莫 謂 春 殘 花 落 盡 庭 前 昨 夜 一 枝 梅 Cáo tật thị chúng Xuân khứ bách hoa lạc, Xuân đáo bách hoa khai Sự trục nhãn tiền quá Lão tòng đầu thượng lai Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận Đình tiền tạc dạ nhất chi mai Dịch thơ: Có bệnh bảo với mọi người Xuân trỗi, trăm qua rụng Xuân tới, trăm hoa cười Trước mắt việc đi mãi Trên đầu tóc bạc phơ Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết Đêm qua, sân trước một cành mai . (Bản dịch của Ngô Tất Tố)
Mãn Giác thiền sư
Bông Hoa Trinh Sát
poem.php?poem=bong_hoa_trinh_sat__mai_van_hai
Gió bấc thổi nhiều quá Đẩy mùa đông dài ra Lưới mưa phùn kéo qua Ngăn bước ngày xuân lại Giọt nắng vàng hoa cải Trốn đi đâu cả rồi? Nay mây nghiêng thấp thế Trời đổ sương muối phơi Cây không chịu được rét Đứng run bên lề đường Ếch thôi nhảy bờ mương Khép cửa hang đi ngủ Riêng bông hoa đào nhỏ Trinh sát của mùa xuân Cứ ngược chiều sương giá Về nở hồng trước sân Tức thì sắp xa gần Chim non kêu chíp chíp Và một trời lộc biếc Đã mọc lên trùng trùng…
Mai Văn Hai
Lục Vân Tiên
poem.php?poem=luc_van_tien__nguyen_dinh_chieu
Trước đèn xem truyện Tây minh, (1) Gẫm cười hai chữ nhân tình éo le. Hỡi ai lẳng lặng mà nghe, Dữ răn việc trước lành dè thân sau. Trai thời trung hiếu làm đầu Gái thời tiết hạnh là câu trau mình. Có người ở quận Đông Thành, Tu nhân tích đức sớm sinh con hiền. Đặt tên là Lục Vân Tiên, Tuổi vừa hai tám nghề chuyên học hành. (2) Theo thầy nấu sử xôi kinh, Tháng ngày bao quản sân Trình lao đao (3) Văn đà khởi phung đằng giao, (4) Võ thêm ba lược sáu thao ai bì. Xảy nghe mở hội khoa thi, Vân tiên vào tạ tôn sư xin về: "Bấy lâu cửa thánh dựa kề, Đã tươi khí tượng lại xuê tinh thần. Nay đà gặp hội long vân, Ai ai mà chẳng lập thân buổi này. Chí lăm bắn nhạn ven mây, (5) Danh tôi đặng rạng tiếng thầy bay xa. (6) Làm trai trong cõi người ta, Trước là báo bổ sau là hiển vang". (7) Tôn sư khi ấy luận bàn: "Gẫm trong số hệ khoa tràng còn xa. Máy trời chẳng dám nói ra, (8) Xui thầy thương tới xót xa trong lòng. Sau dầu tỏ nỗi đục trong. Phải toan một phép để phòng hộ thân. Rày con xuống chốn phong trần, Thầy cho hai đạo phù thần đem theo. (9) Chẳng may mà gặp lúc nghèo, (10) Xuống sông cũng vững lên đèo cũng an". Tôn sư trở lại hậu đàng, Vân Tiên ngơ ngẩn trong lòng sinh nghi: "Chẳng hay mình mắc việc chi, Tôn sư người dạy khoa kì còn xa? Hay là bối rối việc nhà, Hay là đức bạc hay là tài sơ? Bấy lâu lòng những ước mơ Hội này chẳng gặp còn chờ hội nao? Nên hư chẳng biết làm sao, Chi bằng hỏi lại lẽ nào cho minh. Đặng cho rõ nỗi sự tình, Ngõ sau ngàn dặm đăng trình mới an". Tôn sư ngồi hãy thở than, Ngó ra trước án thấy chàng trở vô. Hỏi rằng : "Vạn lý trường đồ, Sao chưa cất gánh trở vô việc gì? Hay là con hãy hồ nghi, Thầy bàn một việc khoa kì ban trưa?" Vân Tiên nghe nói liền thưa: "Tiểu sanh chưa biết nắng mưa buổi nào. Song đường tuổi hạc đã cao, (11) Xin thầy nói lại âm hao con tường". (12) Tôn sư nghe nói thêm thương, Dắt tay ra chốn tiền đường xem trăng. Nhân cơ tàng sự dặn rằng: (13) "Việc người chẳng khác việc trăng trên trời. Tuy là soi khắp mọi nơi, Khi mờ khi tỏ khi vơi khi đầy. Sau con cũng rõ lẽ này, Lựa là con phải hỏi thầy làm chi. Số con hai chữ khoa kì, Khôi tinh đã rạng tử vi thêm loà. (14) Hiềm vì ngựa chạy đường xa, Thỏ vừa ló bóng gà đà gáy tan. (15) Bao giờ cho tới bắc phang, Gặp chuột ra đàng con mới nên danh. Sau dầu đặng chữ hiển vinh, Mấy lời thầy nói tiền trình chẳng sai. (16) Trong cơ bĩ cực thới lai, Giữ mình cho vẹn việc ai chớ sờn". Vân Tiên vội vã tạ ơn, Trăm năm dốc giữ keo sơn mọi lời. Ra đi vừa rạng chân trời, Ngùi ngùi nhớ lại nhớ nơi học đường. Tiên rằng: "Thiên các nhứt phương. (17) Thầy đeo đoản thảm tơ vương mối sầu. Quản bao thân trẻ dãi dầu, Mang đai Tử Lộ quảy bầu Nhan Uyên. (18) Bao giờ cá nước gặp duyên, Đặng cho con thảo phỉ nguyền tôi ngay". (19) Kể từ lướt dặm tới nay, Mỏi mê hầu đã mấy ngày xông sương. Đoái nhìn phong cảnh thêm thương, Vơi vơi dặm cũ nẻo đường còn xa. Chi bằng kiếm chốn lân gia, Trước là tìm bạn sau là nghỉ chân. Việc chi than khóc tưng bừng, Đều đem nhau chạy vào rừng lên non? Tiên rằng: "Bớ chú cõng con, Việc chi nên nỗi bon bon chạy hoài?" Dân rằng: "Tiểu tử là ai, Hay là một đảng sơn đài theo tao?" (20) Tiên rằng: "Cớ sự làm sao, Xin ngừng vài bước sẽ trao một lời". Dân nghe tiếng nói khoan thai, Kêu nhau dừng lại bày lời phân qua: "Nhơn rày có đảng lâu la, Tên rằng Đỗ Dự hiệu là Phong Lai. Nhóm nhau ở chốn sơn đài, Người đều sợ nó có tài khôn đương. Bây giờ xuống cướp thôn hương. Thấy con gái tốt qua đường bắt đi. Xóm làng chẳng dám nói chi, Cảm thương hai gã nữ nhi mắc nàn. Con ai vóc ngọc mình vàng, Má đào mày liễu dung nhan lạnh lùng. (21) E khi mắc đảng hành hung, Uổng trang thục nữ sánh cùng thất phu. (22) Thôi thôi chẳng dám nói lâu, Chạy đi cho khỏi kẻo âu tới mình". (23) Vân Tiên nổi giận lôi đình, Hỏi thăm: "Lũ nó còn đình nơi nao? Tôi xin ra sức anh hào, Cứu người cho khỏi lao đao buổi này". Dân rằng: "Lũ nó còn đây, Qua xem tướng bậu thơ ngây đã đành. (24) E khi hoạ hổ bất thành (25) Khi không mình lại xô mình xuống hang". (26) Vân Tiên ghé lại bên đàng, Bẻ cây làm gậy nhắm làng xông vô. Kêu rằng: "Bớ lũ hung đồ, Chớ quen làm thói hồ đồ hại dân". Phong Lai mặt đỏ phừng phừng: "Thằng nào dám tới lẫy lừng vào đây? Trước gây việc dữ tại mầy. Truyền quân bốn phía phủ vây bịt bùng". Vân Tiên tả đột hữu xung, Khác nào Triệu Tử phá vòng Đương Dương. (27) Lâu la bốn phía vỡ tan, Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay. Phong Lai trở chẳng kịp tay, Bị Tiên một gậy thác rày thân vong. Dẹp rồi lũ kiến chòm ong, Hỏi: "Ai than thóc ở trong xe này?" Thưa rằng: "Tôi thiệt người ngay, Sa cơ nên mới làm tay hung đồ. Trong xe chật hẹp khôn phô, Cúi đầu trăm lạy cứu cô tôi cùng". Vân Tiên nghe nói động lòng, Đáp rằng: "Ta đã trừ dòng lâu la. Khoan khoan ngồi đó chớ ra, Nàng là phận gái ta là phận trai. Tiểu thơ con gái nhà ai, Đi đâu nên nỗi mang tai bất kỳ? Chẳng hay tên họ là chi, Khuê môn phận gái việc gì đến đây? Trước sau chưa hãn dạ này, (28) Hai nàng ai tớ ai thầy nói ra". Thưa rằng: "Tôi Kiều Nguyệt Nga, Con này tì thiếp tên là Kim Liên. Quê nhà ở quận Tây Xuyên, Cha làm tri phủ ở miền Hà Khê. Sai quân đem bức thơ về, Rước tôi qua đó định bề nghi gia. Làm con đâu dám cãi cha, Ví dầu ngàn dặm đường xa cũng đành. Chẳng qua là sự bất bình, Hay vầy cũng chẳng đăng trình làm chi. Lâm nguy chẳng gặp giải nguy, Tiết trm năm cũng bỏ đi một hồi. Trước xe quân tử tạm ngồi, Xin cho tiện thiếp lạy rồi sẽ thưa. Chút tôi yếu liễu đào thơ, Giữa đường lâm phải bụi dơ đã phần. Hà Khê qua đó cũng gần, Xin theo cùng thiếp đền ân cho chàng. Gặp đây đương lúc giữa đàng, Của tiền chẳng có bạc vàng thì không. Gẫm câu báo đức thù công, (29) Lấy chi cho phỉ tấm lòng cùng ngươi". Vân Tiên nghe nói liền cười: "Làm ơn há dễ trông người trả ơn? Nay đà rõ đặng nguồn cơn, Nào ai tính thiệt so hơn làm gì. Nhớ câu kiến ngãi bất vi, Làm người thế ấy cũng phi anh hùng. (30) Đó mà biết chữ thỉ chung, Lựa là đây phải theo cùng làm chi". Nguyệt Nga biết ý chẳng đi, Hỏi qua tên họ một khi cho tường. Thưa rằng: "Tiện thiếp đi đường, Chẳng hay quân tử quê hương nơi nào?" Phút nghe lời nói thanh tao, Vân Tiên há nỡ lòng nào phôi pha: "Đông Thành vốn thiệt quê ta, Họ là Lục thị tên là Vân Tiên". Nguyệt Nga vốn đấng thuyền quyên, Tai nghe lời nói tay liền rút trâm. Thưa rằng: "Nay gặp tri âm, Xin đưa một vật để cầm làm tin". Vân Tiên ngơ mặt chẳng nhìn, Nguyệt Nga liếc thấy lòng thìn nết na: (31) "Vậy chi một chút gọi là, Thiếp thưa chưa dứt chàng đà làm ngơ. Của này là của vất vơ, (32) Lòng chê cũng phải lòng ngơ sao đành". Vân Tiên khó nỗi làm thinh, Chữ ân buộc lại chữ tình lây dây. (33) Than rằng: "Đó khéo trêu đây, Ơn kia đã mấy của này rất sang. Đương khi gặp gỡ giữa đàng, Một lời cũng nhớ ngàn vàng chẳng phai. Nhớ câu trọng ngãi khinh tài, Nào ai chịu lấy của ai làm gì". Thưa rằng: "Chút phận nữ nhi, Vốn chưa biết lẽ có khi mích lòng. Ai dè những đứng anh hùng, Thấy trâm thôi lại thẹn cùng cây trâm". Riêng than: "Trâm hỡi là trâm, Vô duyên chi bấy ao cầm mà mơ? Đưa trâm chàng đã làm ngơ, Thiếp xin đưa một bài thơ giã từ". Vân Tiên ngó lại rằng: "ừ, Làm thơ cho kịp bấy chừ chẳng lâu". Nguyệt Nga ứng tiếng xin hầu, Xuống tay liền tả tám câu văn vần: "Thơ rồi này thiếp xin dâng, Ngửa trông lượng rộng văn nhân thế nào?" Vân Tiên xem thấy ngạt ngào, (34) Ai dè sức gái tài cao bực này. Đã mau mà lại thêm hay, Chẳng phen Tạ nữ cùng tày Từ phi. (35) Thơ ngâm dũ xuất dũ kì, (36) Cho hay tài gái kém gì tài trai. Như vầy ai lại thua ai, Vân Tiên hoạ lại một bài trao ra. Xem thơ biết ý gần xa, Mai hoà vận điểu, điểu hoà vận mai (37) Có câu xúc cảnh hứng hoài, (38) Đường xa vòi vọi dặm dài vơi vơi. Ai ai cũng ở trong trời, Gặp nhau lời đã cạn lời thời thôi. Vân Tiên từ giã phản hồi, Nguyệt Nga than thở: "Tình ôi là tình. Nghĩ mình mà ngán cho mình, Nỗi ân chưa trả nỗi tình lại vương. Nặng nề hai chữ uyên ương. Chuỗi sầu ai khéo vấn vương vào lòng. Nguyệt cùng Nguyệt lão hỡi ông, Trăm năm cho vẹn chữ tùng mới an. (39) Hữu tình chi bấy Ngưu lang, (40) Tấm lòng Chức Nữ vì chàng mà nghiêng. Thôi thôi em hỡi Kim Liên, Đẩy xe cho chị qua miền Hà Khê". Trải qua dấu thỏ đường dê, (41) Chim kêu vượn hú tứ bề nước non. Vái trời cho đặng vuông tròn, Trăm năm cho trọn lòng son với chàng. Phút đâu đã tới phủ đàng, Kiều công xem thấy lòng càng sinh nghi. Hỏi rằng: "Nào kẻ tuỳ nhi, (42) Cớ sao nên nỗi con đi một mình?" Nguyệt Nga thưa việc tiền trình, (43) Kiều công tưởng nỗi sự tình chẳng vui. Nguyệt Nga dạ hãy bùi ngùi, Nghĩ mình thôi lại sụt sùi đòi cơn: (44) "Lao đao phận trẻ chi sờn, No nao trả đặng công ơn cho chàng". (45) Kiều công nghe nói liền can, Dạy rằng: "Con hãy nghỉ an mình vàng. Khi nào cha rảnh việc quan, Cho quân đến đó mời chàng đến đây. Sao sao chẳng kịp thời chày, (46) Cha nguyền trả đặng ơn nầy thời thôi. Hậu đường con hãy tạm lui, Làm khuây dạ trẻ cho vui lòng già". Tây lầu trống điểm sang ba, Nguyệt Nga còn hãy xót xa phận mình. Dời chân ra chốn hoa đình, (47) Xem trăng rồi lại chạnh tình cố nhơn. Than rằng: "Lưu thuỷ cao sơn, Ngày nào nghe đặng tiếng đờn tri âm. Chữ tình càng tưởng càng thâm, (48) Muốn pha khó lợt muốn dầm khôn phai. Vơi vơi đất rộng trời dài, Hỡi ai nỡ để cho ai đeo phiền". Trở vào bèn lấy bút nghiên, Đặt bàn hương án chúc nguyền thần linh. Làu làu một tấm lòng thành, Hoạ ra một bức tượng hình Vân Tiên. Than rằng: "Ngàn dặm sơn xuyên, (49) Chữ ân để dạ chữ duyên nhuốm sầu". Truyện nàng sau hãy còn lâu, Truyện chàng xin nối thứ đầu chép ra. (50) Vân Tiên từ cách Nguyệt Nga, Giữa đường lại gặp người ra kinh kì. Xa xem mặt mũi đen xì, Mình cao sồ sộ dị kì rất hung. Nhớ câu bình thuỷ tương phùng, (51) Anh hùng lại gặp anh hùng một khi: "Chẳng hay danh tánh là chi, Một mình mang gói ra đi việc gì". Đáp rằng: "Ta cũng xuống thi, Hớn Minh tánh tự, Ô Mi quê nhà Vân Tiên biết lẽ chính tà, Hễ người dị tướng ắt là tài cao. Chữ rằng: "Bằng hữu chi giao, (52) Tình kia đã gặp lẽ nào làm khuây. Nên rừng há dễ một cây, Muốn cho có đó cùng đây luôn vần. Kìa nơi võ miếu hầu gần, Hai ta vào đó nghỉ chưn một hồi". Cùng nhau bày họ tên rồi, Hai chàng từ tạ đều lui ra đường. Hớn Minh đi trước tựu trường, Vân Tiên còn hãy hồi hương viếng nhà. Mừng rằng: "Nay thấy con ta, Cha già hằng tưởng mẹ già luống trông. Bấy lâu đèn sách gia công, Con đà nên chữ tang bồng cùng chăng?" Vân Tiên quỳ lạy thưa rằng: "Chẳng hơn người cổ cũng bằng người kim. Dám xin cha mẹ an tâm, Cho con trả nợ thanh khâm cho rồi" (53) Mẹ cha thấy nói thêm vui, Lại lo non nước xa xôi nghàn trùng. Cho theo một đứa tiểu đồng, Thư phong một bức dặn cùng Vân Tiên: "Xưa đà định chữ lương duyên, Cùng quan hưu trí ở miền Hàn Giang, Con người là Võ Thể Loan. Tuổi vừa hai bảy dung nhan mặn mà. (54) Chữ rằng Hồ Việt nhứt gia, (55) Con đi qua đó trao qua thơ này. Con dầu bước đặng thang mây, Dưới chưn đã sẵn một dây tơ hồng". Song thân dạy bảo vừa xong, Vân Tiên cùng gã tiểu đồng dời chân. a đi tách dặm băng chừng, Gió nam rày đã đưa xuân sang hè. Lại xem dặm liễu đường hoè, Tin ong ngơ ngáo tiếng ve vang dầy. Vui xem nước nọ non nầy, Nước xao sóng dợn non vầy đá cao. Màn trời gấm trải biết bao, Trên nhành chim hót dưới ao cá cười. Quận thành nhắm cảnh coi người, Cảnh xinh như vẽ người tươi như dồi. (56) Hàn Giang phút đã tới nơi, Vân Tiên ra mắt một hồi trình thơ. Võ công lấy đọc bấy giờ, Mừng duyên cầm sắt mối tơ đặng liền. (57) Liếc coi tướng mạo Vân Tiên, Khá khen học Lục phước hiền sinh con. Mày tằm mắt phụng môi son, Mười phân cốt cách vuông tròn mười phân. Những e kẻ Tấn người Tần, (58) Nào hay chữ ngẫu đặng gần chữ giai. (59) Xem đà đẹp đẽ hoà hai, Này dâu nam giản nọ trai đông sàng (60) Công rằng: "Ngãi tế mới sang, (61) Muốn lo việc nước phải toan việc nhà". Tiên rằng: "Nhờ lượng nhạc gia, Đại khoa dầu đặng tiểu khoa lo gì". (62) Công rằng: "Con dốc xuống thi, Sao không kết bạn mà đi tựu trường? Gần đây có một họ Vương, Tên là Trử Trực văn chương tót đời. (63) Cha đà sai trẻ qua mời, Rằng con cùng gã thử chơi một bài. Thấp cao cao thấp biết tài, Vầy sau trước bạn cùng mai mới mầu". (64) Xảy đâu Trử Trực tới hầu, Võ công sẵn đặt một bầu rượu ngon. Công rằng: "Nầy bớ hai con, Thơ hay làm đặng rượu ngon thưởng liền. Muốn cho Trực sánh cùng Tiên, Lấy câu bình thuỷ hữu duyên làm đề". (65) Song song hai gã giao kề, (66) Lục Vương hai họ đua nghề một khi Cho hay kì lại gặp kì, (67) Bạch Hàm há dễ kém chi Như Hoành. (68) Công rằng : "Đơn quế đôi nhành, Bảng vàng thẻ bạc đã đành danh nêu. Như chuông chẳng đánh chẳng kêu, Ngọn đèn tỏ rõ trước khêu bởi mình. Thiệt trang lương đống đã đành, (69) Khá khen hai họ tài lành hoà hai". Trực rằng: "Tiên vốn cao tài, Có đâu én hộc sánh vai một bầy? (70) Tình cờ mà gặp nhau đây, Trực này xin nhượng Tiên này làm anh. Nay đà nên nghĩa đệ huynh, Xin về mai sẽ thượng trình cùng nhau". (71) Phút xem trăng đã đứng đầu, Vân Tiên vào chốn thư lầu nghỉ an. Võ công trở lại hậu đàng, Đêm khuya dạy dỗ Thể Loan mọi lời: "Ngày mai vừa rạng chưn trời, Tiểu nhi trang điểm ra nơi lê đình. (72) Gọi là chút nghĩa tống tình. (73) Phòng sao cho khỏi bất bình cùng nhau". Bóng trăng vừa lộ nhành dâu, Vân Tiên vào tạ giây lâu xuất hành. Ra đi vừa thuở bình minh, Thể Loan đứng trước lê đình liễm dung. (74) Thưa rằng: "Quân tử phó công, (75) Xin thương bồ liễu chữ tùng ngây thơ. Tấm lòng thương gió nhớ mưa, (76) Đường xa ngàn dặm xin đưa một lời. Ngày nay thánh chúa trị đời, Nguyền cho linh phụng gặp nơi ngô đồng. (77) Quản bao chút phận má hồng. Phòng khuya vò võ đợi trông khôn lường. Chàng dầu cung quế xuyên dương, (78) Thiếp xin hai chữ tào khương cho bằng. (79) Xin đừng tham đó bỏ đăng, (80) Chơi lê quên lựu chơi trăng quên đèn". Tiên rằng : "Như lửa mới nhen, Dễ trong một bếp mà chen mấy lò. May duyên rủi nợ dễ phô, (81) Chớ nghi Ngô Khởi hãy lo Mãi Thần" (82) Thể Loan vội vã lui chân, Vân Tiên từ biệt trông chừng Tràng An. Xa xa vừa mấy dặm đàng, Gặp Vương Tử Trực vầy đoàn cùng đi. (83) Trải qua thuỷ tú sơn kì, (84) Phỉ lòng cá nhảy gặp thì rồng bay. (85) Người hay lại gặp cảnh hay, Khác nào tiên tử chơi rày Bồng Lai. Cùng nhau tả chút tình hoài, (86) Năm ba chén rượu một vài câu thơ. Công danh ai chẳng ước mơ, Ba tầng cửa Võ một giờ nhảy qua. (87) Cùng nhau bàn bạc gần xa Chữ tài chữ mệnh xưa hoà ghét nhau. Trực rằng: "Rồng xuống vực sâu, Mặc dầu giỡn sóng mặc dầu chơi mây". (88) Tiên rằng: "Hồng hộc đều bay, E khi mỏi cánh lạc bầy về sau" (89) Mảng còn trò chuyện với nhau, Trông chừng kinh địa đã hầu tới nơi. (90) Chênh vênh vừa xế mặt trời, Hai người tìm quán nghỉ ngơi đợi kì. Đều bày tên họ một khi mới tường. Một người ở quận Phan Dương, Tên Hâm họ Trịnh tầm thường nghề văn. Một người ở phủ Dương Xuân, Họ Bùi tên Kiệm tác chừng đôi mươi. (91) Hai người lại gặp hai người, Đều vào một quán vui cười ngả nghiêng. Kiệm rằng: "Nghe tiếng anh Tiên, Nay đã thấy mặt phỉ nguyền ước ao". Hâm rằng: "Chưa biết thấp cao, Làm thơ mới biết bậc nào tài năng:". Bèn kêu ông quán nói rằng: "Khá toan sắm sửa đồ ăn cho bề". (92) Quán rằng: "Thịt cá ê hề, Khô lân chả phụng bộn bề thiếu đâu. Kìa là thuốc lá ướp ngâu, (93) Trà ve điểm tuyết, rượu bầu cúc hương. (94) Để khi đãi khách giàu sang, Đãi người văn vật đãi trang anh hùng". Bốn người ngồi lại một vòng làm thơ. Kiệm Hâm còn hãy ngẩn ngơ, Phút thơ Tiên Trực một giờ đều xong. Kiệm Hâm xem thấy lạ lùng, Gẫm nghi Tiên Trực viết tùng cổ thi. (96) Chẳng hay ông quán cười chi, Vỗ tay xuống chiếu một khi cười dài. Tiên rằng: "Ông quán cười ai?" Quán rằng: "Cười kẻ bất tài đồ thơ, (97) Cười người Tôn Tẫn không lừa, Trước đà thấy máy chẳng ngừa Bàng Quyên". (98) Trực rằng : "Lời nói hữu duyên, Thế trong kinh sử có tuyền cùng chăng?" (99) Quán rằng: "Kinh sử đã từng, Coi rồi lại khiến lòng hằng xót xa. Hỏi thời ta phải nói ra, Vì chưng hay ghét cũng là hay thương" (100) Tiên rằng: "Trong đục chưa tường, Chẳng hay thương ghét ghét thương lẽ nào?" Quán rằng: "Ghét việc tầm phào, (101) Ghét cay ghét đắng ghét vào tới tâm. Ghét đời Kiệt Trụ mê dâm, (102) Để dân đến nỗi sa hầm sẩy hang. Ghét đời U Lệ đa đoan, (103) Khiến dân luống chịu lầm than muôn phần. Ghét đời ngũ bá phân vân, (104) Chuộng bể dối trá làm dân nhọc nhằn. Ghét đời thúc quí phân băng, (105) Sớm đầu tối đánh lằng nhằng rối dân. Thương là thương đức thánh nhân, Khi nơi Tống Vệ lúc Trần lúc Khuông. (106) Thương thầy Nhan Tử dở dang. (107) Ba mươi mốt tuổi tách đàng công danh. Thương ông Gia Cát tài lành, Gặp cơn Hớn mạt đã đành phui pha. (108) Thương thầy Đồng tử cao xa, (109) Chí thời có chí ngôi mà không ngôi. Thương người Nguyên Lượng ngùi ngùi, (110) Lỡ bề giúp nước lại lui về cày. Thương ông Hàn Dũ chẳng may, (111) Sớm dưng lời biểu ối đày đi xa. Thương thầy Liêm Lạc đã ra, (112) Bị lời xua đuổi về nhà giáo dân. Xem qua kinh sử mấy lần, Nửa phần lại ghét nửa phần lại thương". Trực rằng: "Chùa rách Phật vàng, (113) Ai hay trong quán ẩn tàng kinh luân. (114) Thương dân sao chẳng lập thân, Để khi nắng hạ toan phần làm mưa?" Quán rằng: "Nghiêu Thuấn thuở xưa, (115) Khó ngăn Sào Phủ, khôn ngừa Hứa Do. (116) Di Tề chẳng khứng giúp châu, (117) Một mình một núi ai hầu chi ai. Ông Y ông Phó ôm tài, (118) Kẻ cày người cuốc đoái hoài chi đâu. Thái Công xưa một cần câu, (119) Hôm mai sông Vị mặc dầu vui chơi. Nghiêm Lăng đã mấy đua bơi, (120) Cày mây câu nguyệt tả tơi áo cầu. (121) Trần Đoàn chẳng chút lo âu, (122) Gió trăng một túi công hầu chiêm bao, (123) Người nay có khác xưa nào, Muốn ra ai cấm muốn vào ai ngăn". Hâm rằng: "Lão quán nói nhăng, Dẫu cho trải việc cũng thằng bán cơm. Gối rơm theo phận gối rơm, Có đâu ở thấp mà chồm lên cao". Quán rằng: "Sấm chớp mưa rào, Ếch ngồi đáy giếng thấy bao lăm trời. Sông trong cá lội thảnh thơi, Xem hai con mắt sáng ngời như châu. Uổng thay đàn gảy tai trâu, Nước xao đầu vịt ngẫm âu nực cười". Tiên rằng: "Ông quán chớ cười, Đây đà nhớ lại bảy người Trước Lâm. (124) Cùng nhau kết bạn đồng tâm, Khi cờ khi rượu khi cầm khi thi. Công danh phú quí màng chi, Sao bằng thong thả mặc khi vui lòng. Rừng nhu biển thánh minh mông, (125) Dù ai lặn lội cho cùng vậy vay". Quán rằng: "Đó biết ý đây, Lời kia đã cạn rượu này thưởng cho". Kiệm Hâm là đứa so đo, Thấy Tiên dường ấy âu lo trong lòng. Khoa này Tiên ắt đầu công, Hâm dầu có đậu cũng không xong rồi. Mảng còn nghĩ việc tới lui, Xảy nghe trống đã giục thôi vào trường. Kẻ thùng người tráp đầy đường, Lao xao đoàn bảy chàng ràng lũ la. Vân Tiên vừa bước chân ra, Bỗng đâu xảy gặp tin nhà gởi thơ. Khai phong mới tỏ sự cơ, (126) Mình gieo xuống đất dật dờ hồn hoa. Hai hàng luỵ ngọc nhỏ sa, Trời nam đất bắc xót xa đoạn trường. Anh em ai nấy đều thương, Trời ơi há nỡ lấp đường công danh. Những lăm công toại danh thành, Nào hay từ mẫu u minh sớm đời! Gắng vào trong quán yên nơi, Tớ thầy than thở liệu lời quy lai. (127) Tiểu đồng than vắn than dài: "Trời sao trời nỡ phụ tài người ngay". Trực rằng: "Đã đến nỗi này, Tiểu đồng bậu hãy làm khuây giải phiền. Sớm hôm thang thuốc giữ gìn, Chờ ta vài bữa ra trường sẽ hay, Bây giờ kíp rước thợ may, Sắm đồ tang phục nội ngày cho xong. Dây rơm mũ bạc áo thùng. Cứ theo trong sách Văn Công mà làm". (128) Tiên rằng: "Con bắc mẹ nam, Nước non vòi vọi đã cam lỗi nghì. Trong mình không cánh không vi, Lấy chi lướt dặm lấy chi bớt đàng. Vào trong phút lại gặp tang, Ngẩn ngơ kẻ ở lỡ làng người đi. Việc trong trời đất biết chi, Sao dời vật đổi còn gì mà trông. Hai hàng lụy ngọc ròng ròng, Tưởng bao nhiêu lại đau lòng bấy nhiêu. Cánh buồm bao quản gió xiêu, Ngàn trùng biển rộng chín chìu ruột đau. Thương thay chín chữ cù lao. (129) Ba năm nhũ bộ biết bao nhiêu tình". (130) Quán rằng: "Trời đất thình lình, Gió mưa đâu phút gãy cành thiên hương". (131) Ai ai trông thấy cũng thương, Lỡ bề báo hiếu lỡ đường lập thân. Dẫu cho chước quỷ mưu thần, Phong trần ai cũng phong trần như ai. Éo le ai khéo đặt bày, Chữ tài liền với chữ tai một vần. Đường đi hơn tháng chẳng gần, Khi qua khi lại mấy lần xông pha. Xảy đâu bạn tác vừa ra, (132) Trực cùng Hâm Kiệm xúm mà đưa Tiên. Hâm rằng: "Anh chớ ưu phiền, Khoa này chẳng gặp ta nguyền khoa sau. Thấy nhau khó nỗi giúp nhau, Một vừng mây bạc dàu dàu khá thương". Vân Tiên cất gánh lên đường, Trịnh Hâm ngó lại đôi hàng nhỏ sa. Đi vừa một dặm đường xa, Phút nghe ông quán bôn ba theo cùng. Quán rằng: "Thương đấng anh hùng, Đưa ba hườn thuốc để phòng hộ thân. Chẳng may gặp lúc gian truân. Đương khi quá đói thuốc thần cũng no". Tiên rằng: "Cúi đội ơn cho, Tấm lòng ngài ngại hãy lo xa gần". (133) Quán rằng: "Ta cũng bâng khuâng, Thấy vầy nên mới tị trần đến đây. (134) Non xanh nước biếc vui vầy, Khi đêm rượu cúc khi ngày trà lan. Dấn thân vào chốn an nhàn, Thoát vòng danh lợi lánh đàng thị phi". Nói rồi quày quả ra đi, (135) Vân Tiên xem thấy càng nghi trong lòng. Trông chừng dặm cũ thẳng xông, Nghĩ đòi cơn lại não nùng đòi cơn: "Nên, hư chút phận chi sờn, Nhớ câu dưỡng dục lo ơn sanh thành. (136) Mang câu bất hiếu đã đành, Nghĩ mình mà thẹn cho mình làm con. Trọn đời một tấm lòng son, Chí lăm trả nợ nước non cho rồi. Nào hay nước chảy hoa trôi, Nào hay phận bạc như vôi thế này. Một mình ngơ ngẩn đường mây, Khác nào chiếc nhạn lạc bầy kêu sương. Đến nay lâm việc mới tường, Hèn chi thầy dạy khoa trường còn xa". Tiểu đồng thấy vậy thưa qua: "Gẫm đây cho đến quê nhà còn lâu. Thầy sao chẳng ngớt cơn sầu, Mình đi đã mỏi dòng châu thêm nhuần. E khi mang bịnh nửa chừng, Trong non khó liệu giừa rừng khôn toan". Tiên rằng: "Khô héo lá gan, Ôi thôi con mắt đã mang lấy sầu. Mịt mù nào thấy chi đâu, (137) Chưa đi đã mỏi mình đau như dần. Có thân phải khổ vì thân, Thân ơi thân biết mấy lần chẳng may!" Đồng rằng: "Trời đất có hay, Ra đi vừa đặng mười ngày lại đau. Một mình nhắm trước nhắm sau, Xanh xanh bờ cõi dào dào cỏ cây. Vốn không làng xóm chi đây, Xin lần tới đó tìm thầy thuốc thang. Vừa may gặp khách qua đàng, Người người đều chỉ vào làng Đồng Văn Dắt nhau khi ấy hỏi phăn, (138) Gặp thầy làm thuốc tên rằng Triệu Ngang. Ngang rằng: "Khá tạm nghỉ an, Rạng ngày coi mạch đầu thang mới đành. (139) Gặp ta bịnh ấy ắt lành, Bạc tiền trong gói sẵn dành bao nhiêu?" Đồng rằng: "Tiền bạc chẳng nhiều, Xin thầy nghĩ lượng đặng điều thuốc thang. May mà bịnh ấy đặng an, Bạc còn hai lượng trao sang cho thầy". Ngang rằng: "Ta ở chốn này, Ba đời nối nghiệp làm thầy vừa ba. Sách chi cũng đủ trong nhà, Nội kinh đã sẵn ngoại khoa thêm mầu. Trước xem Y học làm đầu, Sau coi Thọ thế thứ cầu Đông y. (140) Gẫm trong Ngân hải tinh vi, (141) Cùng là Cang mục thua gì Thanh nang. (142) Gẫm trong Tập nghiệm lương phang. (143) Cùng là Ngự Toản trải đàng Hồi xuân. (144) Vị chi sẵn đặt quân thần, (145) Thuốc thời bào chế mười phần nỏ nan. (146) Mạch thời đọc phú Lư san, (147) Đặt vào tay bịnh biết đàng tử sanh Lục quân tứ vật thanh danh. (148) Thập toàn Bát vị sẵn dành nội thương. (149) Lại thông Bát trận tân phương. (150) Lâm nhằm ngoại cảm đầu thang Ngũ sài. (151) |Đồng rằng: "Thầy thiệt có tài, Xin vào coi mạch luận bài thuốc chi. Ngang rằng: "Lục bộ đều suy, (152) Bộ quan bên tả mạch đi phù hồng. (153) Cứ trong kinh lạc mà thông, (154) Mạng môn tướng hoả đã xông lên đầu. (155) Tam tiêu tích nhiệt đã lâu, Muốn cho giáng hoả phải đầu tư âm. (156) Huỳnh liên huỳnh bá huỳnh cầm, (157) Gia vào cho bội nhiệt tâm mới bình. (158) Ngoài thời cho điểm vạn linh, (159) Trong thời cho uống hoàn tình mới xong. (160) Khá trao hai lượng bạc ròng, Bổ thêm vị thuốc để phòng đầu thang. Chẳng qua làm phước cho chàng, Nào ai đòi cuộc đòi đàn chi ai". (161) Tiểu đồng những ngỡ thiệt tài, Vội vàng mở gói chẳng nài liền trao. Mười ngày chẳng bớt chút nào, Thêm đau trong dạ như bào như xoi. Đồng rằng: "Vào đó thầy coi, Bịnh thời không giảm thầy đòi tiền thêm". Ngang rằng: "Nằm thấy khi đêm. Tiên sư mách bảo một điềm chiêm bao. (162) Quỉ thần người ở trên cao, E khi đường sá lẽ nào biết đâu? (163) Tiểu đồng, người khá qua cầu, (164) Cùng ông thầy bói ở đầu tây viên". Tiểu đồng nghe nói đi liền, Gặp ông thầy bói đặt tiền mà coi. Bói rằng: "Ta bói hẳn hoi, Bói hay đã dậy người coi đã đầy. Ta đây nào phải các thầy, Bá vơ bá vất nói nhây không nhằm. Ôn nhuần Châu Diệc mấy năm, Sáu mươi bốn quẻ ba trăm dư hào. (165) Huỳnh kim Dã hạc sách cao, (166) Lục Nhâm Lục giáp chỗ nào chẳng hay. (167) Can, chi đều ở trong tay, (168) Đã thông trời đất lại hay việc người. Đặt tiền quan mốt bốn mươi, Khay trầu chén rượu cho tươi mới thành". Thầy bèn gieo đặng quẻ linh, Chiêm tên tuổi ấy lộ trình mắc chi. (169) Ứng vào rùa với cỏ thi, (170) Rồi thầy coi quẻ một khi mới tường". Đồng rằng: "Người ở đông phương, Nhơn đi buôn bán giữa đường chẳng an. Con nhà họ Lục là chàng, Tuổi vừa hai tám còn đàng thơ ngây". Bói rằng: "Đinh sửu năm nay, Hèn chi giáp tý ngày rày chẳng an. Mạng kim lại ở cung càn, Tuổi này là tuổi giàu sang trong đời. Cầu tài quẻ ấy xa vời, Khen người khéo nói những lời trêu ta". Cầm tiền gieo xuống xem qua, Một giao hai sách lại ba hào trùng. (171) Trang thành là quẻ lục xung, (172) Thấy hào phụ mẫu khắc cùng tử tôn. Hoá ra làm quẻ du hồn, (173) Lại thêm thế động khắc dồn hào quan. (174) Cứ trong quẻ ấy mà bàn; Tuổi này mới chịu mẫu tang trong mình Xui nên phát bịnh thình lình, Vì chưng ma quỉ lộ trình rất thiêng. Muốn cho quẻ ấy đặng yên, Phải tìm thầy pháp chữa chuyên ít ngày. Đồng rằng: "Thầy pháp đâu đây?" Bói rằng: "Cũng ở chốn này bước ra, Phép hay dậy tiếng đồn xa, Tên là Đạo Sĩ ở Trà Hương thôn". Tiểu đồng mới chạy bôn bôn, Hỏi thăm Đạo sĩ hương thôn chốn nào. Chợ đông buôn bán lao xao, Người ta liền chỉ nơi vào chẳng xa. Đồng đi một buổi tới nhà, Đạo sĩ xem thấy lòng mà mừng thay. Đồng rằng: "Nghe tiếng thầy đây, Trừ ma ếm quỷ phép thầy rất hay". Pháp rằng: "Ân đã cao tay, (175) Lại thêm phù chú xưa nay ai bì. (176) Qua sông cá thấy xếp vi, Vào rừng cọp thấy phải quỳ lạy đưa. Pháp hay hú gió kêu mưa, Sai chim khiến vượn đuổi lừa vật trâu. Pháp hay miệng niệm một câu, Tóm thâu muôn vật vào bầu hồ linh. (177) Pháp hay sái đậu thành binh, (178) Bện hình làm tướng phá thành Diêm vương. Pháp hay đạo hoả phó thang, (179) Ngồi gươm đứng giáo mở đàng thiên hoang. (180) Có ba lượng bạc trao sang, Đặng thầy sắm sửa lập đàn chữa cho". Đồng rằng: "Tôi chẳng so đo, Khuyên thầy gắng sức chớ lo khó giàu. Bấy lâu thầy tớ theo nhau, Bạc dành hai lượng phòng sau đi đàng. Chữa chuyên bịnh ấy đặng an, Rồi tôi sẽ lấy đem sang cho thầy". Pháp rằng: "Về lấy sang đây, Cho thầy toan liệu lập bày đàn ra". Đồng rằng: "Tôi đã lo xa, Cực vì người bịnh ở nhà chẳng yên. Xin thầy gắng sức chịu phiền, Ra công bùa chú chữa chuyên cách nào". Pháp rằng: "Có khó chi sao, Người nằm ta chữa rồi trao phù về". Đồng rằng: "Tôi vốn thằng hề, (181) Bịnh chi mà khiến chịu bề chữa chuyên?" Pháp rằng: "Ta biết kinh quyền, Đau nam chữa bắc mà thuyên mới tài". Tiểu đồng nghe lọt vào tai, Lòng mừng vội vã nằm dài chữa chuyên. Pháp bèn cất tiếng hét lên: "Mời ông Bàn Cổ toạ tiền chứng miêng. (182) Thỉnh ông đại thánh Tề Thiên, (183) Thỉnh bà Võ hậu đều liền đến đây. (184) Thỉnh ông Nguyên soái chinh tây, (185) Cùng bà Vương mẫu sum vầy một khi. (186) Thỉnh ông Phật tổ A Di, Thập phương chư Phật phù trì giúp công. Lại mời công chúa Ngũ Long, (187) Bình Nam ngũ hổ hội đồng an dinh. (188) Thỉnh trong thiên tướng thiên binh, Cùng là tam phủ Động Đình Xích Lân. (189) Thỉnh trong khắp hết quỷ thần, Cũng đều xuống chốn dương trần vui chơi. Cho người ba đạo phù trời, Uống vào khoẻ mạnh như lời chẳng sai". Tiểu đồng vâng lĩnh theo lời, Lấy phù trở lại toan bài thuốc thang. Vào nhà thưa với thầy Ngang: "Pháp phù đã đủ thầy toan phương nào?" Ngang rằng: "Còn bạc trong bao, Thời người khá lấy mà trao cho thầy". Đồng rằng: "Tôi hãy ở đây, Bịnh kia dầu khá mình này bán đi". Triệu Ngang biết chẳng còn chi, Kiếm đường tráo chác đuổi đi khỏi vòng: (190) "ở đây làng xóm khó lòng, E khi mưa nắng ai cùng đỡ che". Đồng rằng: "Trong gói vắng hoe, Bởi tin nên mắc bởi nghe nên lầm. Những lo chạy hết một trăm, Mình ve khô xép ruột tằm héo don. Thương thay tiền mất tật còn, Bơ vơ đất khách thon von thế này. (191) Thôi thôi gắng gượng khỏi đây, Tôi đi khuyên giáo đỡ ngày gạo rau". (192) Vân Tiên chi xiết nỗi sầu, Tiểu đồng dìu dắt qua cầu Lá Buôn. (193) Đương khi mưa gió luông tuồng, (194) Người buồn lại gặp cảnh buồn khá thương. Xiết bao ăn tuyết nằm sương, Màn trời chiếu đất dặm trường lao đao. Dầu cho tài trí bực nào, Gặp cơn nguy hiểm biết sao mà nhờ. Tiên rằng: "Đi đã ngẩn ngơ, Tìm nơi cây cối bụi bờ nghỉ chưn". Đồng rằng: "Chốc nữa khỏi rừng, Tìm nơi quán xá sẽ dừng nghỉ ngơi". Non tây vừa khuất mặt trời, Tớ thầy dìu dắt tới nơi Đại Đề. Trường thi một lũ vừa về, Trịnh Hâm xem thấy lại kề hỏi thăm: "Anh về nay đã hai rằm, (195) Cớ sao mang bịnh còn nằm nơi đây?" Tiên rằng: "Tôi vốn chẳng may, Chẳng hay chư hữu khoa này thế nao?" Hâm rằng: "Tử Trực đậu cao, Tôi cùng Bùi Kiệm đều vào cử nhân. Một mình về trước viếng thân, Hai người trở việc còn lần đi sau. Đương cơn hoạn nạn gặp nhau, Người lành nỡ bỏ người đau sao đành. Từ đây tới quận Đông Thành, Trong mình có bịnh, bộ hành xao xong? Lần hồi đến chốn giang trung, Tìm thuyền ta sẽ tháp tùng với nhau". Tiên rằng: "Tình trước ngãi sau, Có thương xin khá giúp nhau phen này". Hâm rằng: "Anh tạm ngồi đây, Tiểu đồng người tới trước này cùng ta. Vào rừng kiếm thuốc ngoại khoa, Phòng khi sông biển phong ba bất kì". Tiểu đồng vội vã ra đi Muốn cho đặng việc quản gì lao đao. Trịnh Hâm trong dạ gươm dao, Bắt người đồng tử trói vào gốc cây: "Trước cho hùm cọp ăn mày, Hại Tiên phải dụng mưu này mới xong". Vân Tiên ngồi những đợi trông, Trịnh Hâm về nói tiểu đồng cọp ăn. Vân Tiên than khóc nằm lăn: "Có đâu địa hãm thiên băng thình lình. (196) Bấy lâu đất khách lưu linh, Một thầy một tớ lộ trình nuôi nhau. Nay đà hai ngả phân nhau, Còn ai nưng đỡ trước sau cho mình". Hâm rằng: "Anh chớ ngại tình, Tôi xin đưa tới Đông Thành thời thôi". Vân Tiên chi xiết lụy rơi, Buồm đà theo gió chạy xuôi một bề. Tiểu đồng bị trói khôn về, Kêu la chẳng thấu bốn bề rừng hoang: "Phận mình đã mắc tai nàn, Cám thương họ Lục suối vàng bơ vơ. Xiết bao những nỗi dật dờ, Đò giang nào biết bụi bờ nào hay. Vân Tiên hồn có linh rày, Đem tôi theo với đỡ tay chưn cùm". Vái rồi lụy nhỏ ròng ròng, Đêm khuya ngồi dựa cội tùng ngủ quên. Sơn quân ghé lại một bên, (197) Cắn dây mở trói cõng lên ra đàng. Tiểu đồng thức dậy mơ màng, Xem qua dấu đất ràng ràng mới hay. (198) Nửa mừng nửa lại sợ thay, Chạy ra chốn cũ tìm thầy Vân Tiên. Mặt trời vừa khỏi mái hiên, Người buôn kẻ bán chợ phiên nhộn nhàng. Hỏi thăm bà quán giữa đàng: "Bữa qua có thấy người tang chăng là?" (199) Quán rằng: "Thôi đã ra ma, Khi mai làng xóm người đà đi chôn". Tiểu đồng nghe nói kinh hồn, Hỏi rằng: "Biết chỗ nào chôn chỉ chừng". Tay lau nước mắt rưng rưng, Xảy nghe tiếng nói đầu rừng lao xao. Tiểu đồng vội vã bước vào, Xóm làng mới hỏi: "Thằng nào tới đây?" Đồng rằng: "Tớ tới kiếm thầy, Chẳng hay người thác mả này là ai?" Người rằng: "Một gã con trai, ở đâu không biết lạc loài tới đây. Chưn tay mặt mũi tốt thay, Đau chi nên nỗi nước này khá thương". Tiểu đồng chẳng kịp hỏi han, Nằm lăn bên mả khóc than một hồi. Người đều xem thấy thương ôi, Kêu nhau vác cuốc đều lui ra đàng. Tiểu đồng nằm giữa rừng hoang, Che chòi giữ mả lòng toan trọn bề. Một mình ở đất Đại Đề, Sớm đi khuyên giáo tối về quảy đơm. (200) Dốc lòng trả nợ áo cơm, Sống mà trọn nghĩa thác thơm danh hiền. Thứ này đến thứ Vân Tiên, Năm canh ngồi dựa be thuyền thở than. Trong khăn lụy nhỏ chứa chan, Cám thương phận tớ mắc nàn khi không. Lênh đênh thuyền giữa biển đông, Riêng than một tấm cô bồng ngẩn ngơ. (201) Đêm khuya lặng lẽ như tờ, Nghênh ngang sao mọc mịt mờ sương bay. (202) Trịnh Hâm khi ấy ra tay, Vân Tiên bị gã xô ngay xuống vời. (203) Trịnh Hâm giả tiếng kêu trời, Cho người thức dậy lấy lời phôi pha. (204) Trong thuyền ai nấy kêu la, Đều thương họ Lục xót xa tấm lòng. Vân Tiên mình lụy giữa dòng, Giao long dìu đỡ vào trong bãi rày. Vừa may trời đã sáng ngày, Ông chài xem thấy vớt ngay lên bờ. Hối con vầy lửa một giờ, (205) Ông hơ bụng dạ mụ hơ mặt mày. Vân Tiên vừa ấm chân tay, Ngẩn ngơ hồn phách như say mới rồi. Ngỡ thân mình phải nước trôi, Hay đâu còn hãy đặng ngồi dương gian. Ngư ông khi ấy hỏi han, Vân Tiên thưa hết mọi đàng gần xa. Ngư rằng: "Người ở cùng ta, Hôm mai hẩm hút với già cho vui". (206) Tiên rằng: "Ông lấy chi nuôi, Thân tôi như thể trái mùi trên cây. (207) May đà trôi nổi đến đây, Không chi báo đáp mình này trơ trơ". Ngư rằng: "Lòng lão chẳng mơ, Dốc lòng nhơn nghĩa há chờ trả ơn? Nước trong rửa ruột sạch trơn, Một câu danh lợi chi sờn lòng đây. Rày doi mai vịnh vui vầy, (208) Ngày kia hứng gió đêm này chơi trăng. Một mình thong thả làm ăn, Khoẻ quơ chài lưới mệt quăng câu dầm. Nghêu ngao nay chích mai đầm, (209) Một bầu trời đất vui thầm ai hay. Kinh luân đã sẵn trong tay, Thung dung dưới thế vui say trong trời. Thuyền nan một chiếc ở đời. Tắm mưa chải gió trong vời Hàn Giang". Tiên rằng: "Vậy cũng một làng, Võ Công người ở gần đàng đây chăng?" Ngư rằng: "Nhà ở cũng gần, Khỏi ba khúc vịnh thì lần đến nơi". Vân Tiên thưa đã hết lời, Ngư ông chẳng đã, tách vời đưa sang. (211) Dắt Tiên vào chốn hậu đàng, Võ Công xem thấy lòng càng hổ ngươi. Chẳng qua sợ thế gian cười, Một lời gượng gạo: "Chào người ngày xưa, Ngư ông đã có công đưa, Tới ngày sau sẽ lo lừa đền ơn". Ngư rằng: "Tôi chẳng lòng sờn, Xin tròn nhơn ngãi còn hơn bạc vàng. Nhớ xưa trong núi Lư San, Có ông ngư phủ đưa chàng Ngũ Viên. (212) Tới sau đình trưởng đỗ thuyền, Giúp người Hạng Võ qua miền Ô Giang. (213) Xưa còn thương kẻ mắc nàn, Huống nay ai nỡ quên đàng ngãi nhơn". Một lời gắng giúp keo sơn, Ngư ông từ giã lui chưn xuống thuyền. Võ Công không ngớt lòng phiền, Ân tình, thế lợi khó tuyền đặng vay. Dạy Tiên: "Người hãy ngồi đây, Cho ta trở lại sau này liệu toan". Công rằng: "Hỡi mụ Quỳnh Trang, Dò lòng ái nữ Thể Loan thế nào? Mặc con toan liệu làm sao, Vốn không ép vợ lẽ nào ép con". Loan rằng: "Gót đỏ như son, Xưa nay ai nỡ đem chôn xuống bùn. Ai cho sen muống một bồn, Ai từng chanh khế sánh phồn lựu lê? (214) Thà không chót chịu một bề, Nỡ đem mình ngọc dựa kề thất phu! Dốc lòng chờ đợi danh nhu, Rể đâu có rể đui mù thế ni? Đã nghe người nói hội này, Rằng Vương Tử Trực chiếm rày thủ khoa. Ta dầu muốn kết sui gia, Họ Vương, họ Võ một nhà mới xinh". Công rằng muốn trọn việc mình, Phải toan một chước dứt tình mới xong. Nghe rằng trong núi Thương Tòng, Có hang thăm thẳm bịt bùng khôn ra. Đông Thành ngàn dặm còn xa, Đem chàng bỏ đó ai mà biết đâu". Phút vừa trăng đã đứng đầu, Vân Tiên ngồi trước nhà cầu thở than. (215) Võ Công ra trước dỗ chàng, Xuống thuyền rồi sẽ đưa sang Đông Thành. Ra đi đương lúc tam canh, Dắt vào hang tối bỏ đành Vân Tiên. Bỏ rồi rón rén bước liền, Xuống gay chèo quế dời thuyền tách xa. (216) Tiên rằng: "Các chú đưa ta, Xin đưa cho tới quê nhà sẽ hay. Ghi lòng dốc trọn thảo ngay, Một phen mà khỏi ngàn ngày chẳng quên". Lắng nghe vẳng tiếng hai bên, Trong hang tăm tối đá trên chập chồng. Vân Tiên khi ấy hãi hùng, Nghĩ ra mới biết Võ Công hại mình. Nực cười con tạo trớ trinh, (217) Chữ duyên tráo chác, chữ tình lãng xao. Ngẫm mình tai nạn biết bao, Mới lên khỏi biển lại vào trong hang. Dây sầu ai khéo vương mang, Tránh nơi lưới thỏ gặp đàng bẫy cheo. (218) Trong hang sau trước quạnh hiu, Muốn ra cho khỏi ai dìu dắt đi. Oan gia nợ đã khéo gây, Ôi thôi thân thể còn gì mà toan. Đã đành xa cõi nhân gian, Dựa mình vào chốn thạch bàn nằm co. Đêm khuya ngọn gió thổi lò, Sương sa lác đác mưa tro lạnh lùng. (219) Năm ngày chịu đói khát ròng, Nhờ ba hoàn thuốc đỡ lòng hôm mai. Du thần xem thấy ai hoài, (220) Xét trong mình gã có bài phù tiên. Mới hay là Lục Vân Tiên. Cùng nhau dìu dắt đều liền đêm ra. Khỏi hang một dặm vừa xa, Đến nơi đại lộ trời đà hừng đông. Du thần trở lại sơn trung, Vân Tiên còn hãy giấc nồng mê man. Lão tiều cơm gói sẵn sàng, Sớm mai xách búa đi ngang vào rừng. Tới nơi đại lộ là chừng, Xảy nghe có tiếng trong rừng thở than. Hay là yêu quái tà gian, Rung cây nhát lão làm đàng hại nhân. Lão tiều liền bước tới gần, Thiệt là một gã văn nhân mắc nàn. Chi bằng lên tiếng hỏi han: "Nhơn sao mắc việc tai nàn thế nay?" Vân Tiên nghe tiếng mừng thay, Vội vàng gượng dậy trình bày trước sau. Lão tiều nghe nói giờ lâu, Gẫm trong thế sự gật đầu thở than: "ít người trong tuyết đưa than, (221) Khó ngồi giữa chợ, ai màng đoái thương". Vân Tiên nghe nói mới tường, Cũng trang ẩn dật biết đường thảo ngay: "Ngửa trông lượng cả cao dầy, Cứu trong một buổi ơn tày tái sinh. Mai sau về tới Đông Thành, Đền ơn cứu khổ mới đành dạ tôi". Lão tiều mới nói: "Thôi thôi, Làm ơn mà lại trông người sao hay. Già hay thương kẻ thảo ngay, Này thôi để lão dắt ngay về nhà". Tiên rằng: "Trong dạ xót xa, Nay đà sáu bữa không hoà mùi chi. (222) Lại thêm rũ liệt tứ chi, Muốn đi theo đó mà đi khôn rồi". Lão tiều vội ngửa áo tơi, Mở cơm trong gói miệng mời Vân Tiên: "Gắng mà ăn uống cho yên, Lão ra sức lão cõng Tiên về nhà". Khỏi rừng ra tới ngã ba, May đâu gặp một chàng là Hớn Minh. Lão tiều lật đật bôn trình, (223) Hớn Minh theo hỏi sự tình một khi. Vân Tiên nghe tiếng cố tri, Vội mừng bạn cũ còn nghi nỗi mình. Minh rằng: "Dám hỏi nhơn huynh, (224) Cớ sao nên nỗi thân hình thế ni?" Tiên rằng: "Chẳng xiết nói chi, Thân này nào có khác gì cây trôi. Linh đinh gió dập sóng dồi, Rày đây mai đó khôn rồi gian nan." Minh rằng: "Đây khó hỏi han, Xin vào chùa sẽ luận bàn cùng nhau." Tiều rằng: "Chẳng dám ngồi lâu Vào rừng đốn củi bán chầu chợ phiên." Hớn Minh quỳ gối lạy liền: "Ơn ông cứu đặng Vân Tiên bạn lành, Này hai lượng bạc trong mình, Tôi xin báo đáp chút tình cho ông". Tiều rằng: "Vốn lão tình không. Một mình ngơ ngẩn non tòng hôm mai. Tấm lòng chẳng muốn của ai, Lánh nơi danh lợi chông gai cực lòng. Kìa non nọ nước thong dong, Trăng thanh gió mát bạn cùng hươu nai. Công hầu phú quí mặc ai, Lộc rừng gánh vác hai vai tháng ngày". Vân Tiên nghe biết người ngay, Hỏi thăm tên họ phòng ngày đền ơn. Lão tiều trở lại lâm sơn, Tiên, Minh hai gã đều hoàn am mây. (225) Tiên rằng: "Đã gặp khoa này, Cớ sao ngọc hữu ở đây làm gì?" Minh rằng: "Xưa dốc xuống thi, Gặp nơi miếu võ đều đi một lần. Anh thời về trước tỉnh thân. (226) Tôi thời mang gói sau lần ra kinh. Đi vừa tới huyện Loan Minh, Gặp con quan huyện Đặng Sinh là chàng. Giàu sang ỷ thế nghinh ngang, Gặp con gái tốt cưỡng gian không nghì. (227) Tôi bèn nổi giận một khi, Vật chàng xuống đó bẻ đi một giò. Mình làm nỡ để ai lo, Bó tay chịu trói nộp cho huyện đàng. Án đày ra quận Sóc Phang, Tôi bèn vượt ngục lánh đàng đến đây. Vừa may mà gặp chùa này, Mai danh ẩn tích bấy chầy náu nương". Vân Tiên nghe nói thảm thương, Lại bày một khúc tai ương phận mình. Minh nghe Tiên nói động tình, Hai hàng châu lụy như bình nước nghiêng. Tiên rằng: "Thượng cội xuân huyên, (228) Tuổi cao tác lớn chịu phiền lao đao. Trông con như hạn trông dào, Mình này trôi nổi phương nào biết đâu. Vừng mây giăng bạc trên đầu, Ba năm chưa trọn một câu sanh thành. (229) Hữu tam bất hiếu đã đành. (230) Tiểu đồng trước đã vì mình thác oan. Tưởng thôi như cắt ruột gan, Quặn đau chín khúc chứa chan mấy lần". Minh rằng: "Người ở trong trần, Có khi phú quí có lần gian nan. Thấp cao vàng biết tuổi vàng, Gặp khi lửa đỏ màu càng thêm xuê. Thôi thôi anh chớ vội về, Ở đây nương náu toan bề thuốc thang. Bao giờ hết lúc tai nàn, Đem nhau ta sẽ lập đàng công danh. Cam La sớm gặp cũng xinh, (231) Muộn mà Khương Tử cũng vinh một đời. (232) Nên, hư có số ở trời, Bôn chôn sao khỏi đổi dời sao xong". (233) Vân Tiên khi ấy yên lòng, Ở nơi am tự bạn cùng Hớn Minh. Võ công làm việc trớ trinh, (234) Dứt tình họ Lục mến tình họ Vương. Kể từ định chước hại chàng, Thể Loan hớn hở lòng càng thêm vui. Ngày ngày trang điểm phấn dồi, Phòng khi gặp gỡ đứng ngồi cho xuê. Xảy đâu Tử Trực vừa về, Vào nhà họ Võ thăm bề Vân Tiên. Công rằng: "Chớ hỏi thêm phiền, Chàng đà lâm bịnh huỳnh tuyền xa chơi. (235) Thương chàng phận bạc trong đời, Cũng vì Nguyệt lão xe lơi mối hồng". Nghe qua Tử Trực chạnh lòng, Hai hàng nước mắt ròng ròng như mưa. Than rằng: "Chạnh nhớ linh xưa, Nghĩa đà kết nghĩa tình chưa phỉ tình. Trời sao nỡ phụ tài lành, Bảng vàng chưa thấy ngày xanh đã mòn. Cùng nhau chưa đặng vuông tròn. Người đà sớm thác ta còn làm chi? Trong đời mấy bực cố tri, Mấy trang đồng đạo mấy người đồng tâm". Công rằng: "Ta cũng thương thầm, Tủi duyên con trẻ sắt cầm dở dang. (236) Thôi thôi khuyên chớ thở than, Đây đà tính đặng một đàng rất hay. Tới đây thời ở lại đây, Cùng con gái lão sum vầy thất gia. (237) Phòng khi hôm sớm vào ra, Thấy Vương Tử Trực cũng là thấy Tiên. Trực rằng: "Ngòi bút dĩa nghiên, (238) Anh em xưa có thề nguyền cùng nhau. Vợ Tiên là Trực chị dâu, Chị dâu em bạn dám đâu lỗi nghì! Chẳng hay người học sách chi, Nói sao những tiếng dị kì khó nghe? Hay là học thói nước Tề, Vợ người Tử Củ đưa về Hoàn Công? (239) Hay là học thói Đường cung, (240) Vợ người Tiều Lạc sánh cùng Thế Dân? Người nay nào phải nhà Tần, Bất Vi gả vợ Dị Nhân lấy lầm? (241) Nói sao chẳng biết hổ thầm, Người ta há phải là cầm thú sao? Võ Công hổ thẹn xiết bao, Ngồi trân khôn cãi lẽ nào cho qua. Thể Loan trong cửa bước ra. Miệng chào: "Thầy cử tân khoa mới về. Thiếp đà chẳng trọn lời thề, Lỡ bề sửa trắp lỡ bề nưng khăn. Tiếc thay dạ thỏ nằng nằng, (242) Đêm thu chờ đợi bóng trăng bấy chầy. Chẳng ưng thời cũng làm khuây, Nỡ buông lời nói chẳng vì chẳng kiêng". Trực rằng: "Ai Lữ Phụng Tiên, Phòng toan đem thói Điêu Thuyền trêu ngươi. (243) Mồ chồng ngọn cỏ còn tươi, Lòng nào mà nỡ buông lời nguyệt hoa. Hổ hang vậy cũng người ta, So loài cầm thú vậy mà khác chi? Vân Tiên anh hỡi cố tri, Suối vàng có biết sự ni chăng là?" Tay lau nước mắt trở ra, Về nhà sắm sửa tìm qua Đông Thành. Võ Công hổ thẹn trong mình, Năm ngày nhuốm bệnh thất tình chết oan (244) Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang, Mẹ con đóng cửa cư tang trong nhà. Tiên rằng: "Xưa đã gá lời, Sui gia bao nỡ đổi dời chẳng thương. Vợ chồng là đạo tào khương, Chi bằng tới đó tìm phương gởi mình. Trăm năm muốn trọn ân tình, Đương khi hoạn nạn ai đành bỏ nhau. Chút nhờ cứu tử ơn sâu, (210) Xin đem tới đó trước sau cho tròn". Ngư rằng: "Làm đạo rể con, Cũng như sợi chỉ mà lòn trôn kim Sợ bay mà mỏi sức chim, Bơ vơ kiểng lạ khôn tìm cây xưa. E khi chậm bước tới trưa, Chớ tin sông cũ bến xưa mà lầm. Mấy ai ở đặng hảo tâm, Nắng toan giúp nón mưa dầm giúp tơi? Mấy ai hay nghĩ việc đời, Nhớ nơi nghèo khổ quên nơi sang giầu? Đã ba thứ tóc trên đầu, Gẫm trong sự thế thêm âu cho đời". Đoạn này đến thứ Nguyệt Nga, Hà Khê phủ ấy theo cha học hành. Kiều Công lên chức thái khanh, Chỉ sai ra huyện Đông Thành chăn dân. (245) Ra tờ khắp hết xa gần, Hỏi thăm họ Lục tìm lần đến nơi. Khiến quân đem bức thư mời, Lục ông vâng lệnh tới nơi dinh tiền. Kiều công hỏi chuyện Vân Tiên. Lục ông thấy hỏi bỗng liền khóc than. Thưa rằng: "Nghe tiếng đồn vang, Con tôi nhuốm bệnh giữa đàng bỏ thây. Biệt tin từ ấy nhẫn nay, (246) Phút nghe người hỏi dạ này xốn xang. Kiều công trong dạ bàng hoàng, Trở vào nói lại với nàng Nguyệt Nga: "Lục ông nói lại cùng cha, Duyên con rày đã trôi hoa giạt bèo. Riêng than chút phận tơ điều, (247) Hán Giang chưa gặp Ô Kiều lại rơi". (248) Nàng rằng: "Phải thiệt như lời, Xin cha sai kẻ mời người vào trong". Nguyệt Nga đứng dựa bên phòng, Tay ôm bức tượng khóc ròng như mưa. Công rằng: "Nào bức tượng xưa, Nguyệt Nga con khá đem đưa người nhìn". Lục ông một buổi ngồi nhìn, Tay chân mặt mũi giống in con mình. Chuyện trò sau trước phân minh, Lục ông khi ấy sự tình mới hay: Thương con phận bạc lắm thay, Nguyền xưa còn đó con rày đi đâu?" Nguyệt Nga chi xiết nỗi sầu, Lục ông thấy vậy thêm đau gan vàng. Kiếm lời khuyên giải với nàng: "Giải cơn phiền não kẻo mang lấy sầu. Người đời như bóng phù du, (249) Sớm còn tối mất công phu lỡ làng, (250) Cũng chưa đồng tịch đồng sàng, (251) Cũng chưa nên nghĩa tào khương đâu mà. Cũng như cửa sổ ngựa qua, Nghĩ nào mà ủ mặt hoa cho phiền". Nàng rằng trước đã trọn nguyền, Dẫu thay mái tóc phải nhìn mối tơ". Công rằng chút nặng tình xưa, Bèn đem tiền bạc tạ đưa cho người. Lục ông cáo tạ xin lui: "Tôi đâu dám chịu của người làm chi. Ngỡ là con trẻ mất đi, Hay đâu cốt cách còn ghi tượng này. Bây giờ con lại thấy đây, Tấm lòng thương nhớ dễ khuây đặng nào. Ngửa trông đất rộng trời cao, Tre còn măng mất lẽ nào cho cân". Lục ông từ tạ lui chân, Kiều Công sai kẻ gia thần đưa sang. Nguyệt Nga nhuốm bệnh thở than, Năm canh lụy ngọc xốn xang lòng vàng: "Nhớ khi thề thốt giữa đàng, Chưa nguôi nỗi thảm lại vương lấy sầu. Công đà chờ đợi bấy lâu, Thà không cho gặp buổi đầu thời thôi. Biết nhau chưa đặng mấy hồi, Kẻ còn người mất trời ôi là trời. Thề xưa tạc dạ ghi lời, Thương người quân tử biết đời nào phai. Tiếc thay một đứng anh tài, Việc văn việc võ nào ai dám bì. Thương vì đèn sách lòng ghi, Uổng công nào thấy tiếng gì là đâu. Thương vì hai tám tuổi đầu, Người đời như bóng phù du lỡ làng. Thương vì chưa đặng hiển vang, Nước trôi sự nghiệp hoa tàn công danh. Thương vì đôi lứa chưa thành, Vùa hương bát nước ai dành ngày sau. (252) Năm canh chẳng ngớt giọt châu, Mặt nhìn bức tượng ruột đau như dần. Dương gian nay chẳng đặng gần, Âm cung biết có thành thân chăng là". Kiều công thức dậy bước ra, Nghe con than khóc xót xa lòng vàng. Khuyên rằng: "Con chớ cưu mang, Gẫm trong còn mất là đàng xưa nay. Đờn cầm ai nỡ dứt dây, Chẳng qua con tạo đổi xây không thường" Nàng rằng: "Khôn xiết nỗi thương, Khi không gãy cánh giữa đường chẳng hay. Nay đà loan phụng lẻ bầy, Niệm nghiêng gối chích phận này đã cam. Trăm năm thề chẳng lòng phàm, (253) Sông Ngân đưa bạn Cầu Lam rước người. Thân con còn đứng giữa trời, Xin thờ bức tượng trọn đời thời thôi". Kiều công trong dạ chẳng vui: "Con đành giữ tiết trọn đời hay sao?" Có người sang cả ngôi cao, Thái sư chức trọng trong trào sắc phong. Nghe đồn con gái Kiều công, Nay mười sáu tuổi tơ hồng chưa vương. Thái sư dùng lễ vật sang, Mượn người mai chước kết đàng sui gia. (254) Kiều công khôn ép Nguyệt Nga, Lễ nghi đưa lại về nhà thái sư. Thái sư chẳng biết rộng suy, Đem điều oán hận sớm ghi vào lòng. Xảy đâu giặc mọi hành hung, Ô Qua quốc hiệu binh nhung dấy loàn. (255) Đánh vào tới ải Đồng Quan, Sở vương phán hỏi lưỡng ban quần thần: "Sao cho vững nước an dân, Các quan ai biết mưu thần bày ra?" Thái sư nhớ việc cừu nhà, Vội vàng quỳ xuống tâu qua ngai vàng: "Thuở xưa giặc mọi dấy loàn, Vì ham sắc tốt phá tàn Trung Hoa. Muốn cho khỏi giặc Ô Qua, Đưa con gái tốt giao hoà thời xong. Nguyệt Nga là gái Kiều Công, Tuổi vừa hai tám má hồng đương xinh. Nàng đà có sắc khuynh thành, Lại thêm rất bực tài tình hào hoa. Đưa nàng về nước Ô Qua, Phiên vương ưng dạ chắc là bãi binh". Sở vương nghe tấu thuận tình, Châu phê dạy sứ ra dinh Đông Thành. Sắc phong Kiều lão thái khanh: "Việc trong nhà nước đã đành cậy ngươi, Nguyệt Nga nàng ấy nên người, Lựa ngày tháng chín hai mươi cống Hồ". Kiều công vâng lệnh nhà vua, Lẽ nào mà dám nói phô điều nào? Nguyệt Nga trong dạ như bào, Canh chầy chẳng ngủ những thao thức hoài. Thất tình trâm nọ biếng cài, Dựa mình bỏ xả tóc dài ngồi lo: "Chiêu Quân xưa cũng cống Hồ, Bởi người Diên Thọ hoạ đồ gây nên (256) Hạnh Ngươn xưa cũng chẳng yên, Bởi chưng Lư Kỉ cựu hiềm còn nghi. (257) Hai nàng chẳng đã phải đi, Một vì ngay chúa một vì thảo cha. Chiêu Quân nhảy xuống giang hà, Thương vua nhà Hớn nàng đà quyên sinh. Hạnh Ngươn nhảy xuống Trì Linh, Thương người Lương Ngọc duyên lành phui pha. Tới nay phận bạc là ta, Nguyện cùng bức tượng trót đà chung thân. Tình phu phụ nghĩa quân thần, Nghĩa xa cũng trọn ơn gần cũng nên. Nghĩa tình nặng cả hai bên, Nếu ngay cùng chúa lại quên ơn chồng. Sao sao một thác thời xong, (258) Lấy mình báo chúa lấy mình sự phu". Kiều công thương gối đương lo, Nghe con than thở mấy câu thêm phiền. Kêu vào ngồi dựa trướng tiền, Lấy lời dạy dỗ cho tuyền thân danh: (259) "Chẳng qua là việc triều đình, Nào cha có muốn ép tình chi con". Nàng rằng: "Con kể chi con, Bơ vơ chút phận mất còn quản bao. Thương cha tuổi hạc đã cao, E khi ấm lạnh buổi nào biết đâu. Tuổi già bóng xế nhành dâu, Sớm xem tối xét ai hầu cho cha?" Công rằng: "Chẳng sá việc nhà, Hãy an dạ trẻ mà qua nước người. Hôm nay đã tới mùng mười, Khá toan sắm sửa hai mươi tống hành". Nàng rằng: "Việc ấy đã đành, Còn lo hai chữ ân tình chưa xong. Con xin sang lạy Lục ông, Làm chay bảy bữa trọn cùng Vân Tiên. Ngõ cho ơn ngãi vẹn tuyền. Phòng sau xuống chốn huỳnh tuyền gặp nhau". Kiều công biết nghĩ trước sau, Dạy cho tiền bạc cấp hầu đưa đi. Lục ông ra rước một khi, Nguyệt Nga vào đặt lễ nghi sẵn sàng. Ngày lành giờ ngọ đăng đàn. Ăn chay nằm đất cho chàng Vân Tiên. Mở ra bức tượng treo lên, Trong nhà cho tới láng giềng đều thương. Nguyệt Nga cất tiếng khóc than: "Vân Tiên anh hỡi suối vàng có hay". Bảy ngày rồi việc ma chay, Lại đem tiền bạc tạ rày Lục ông: "Trông chồng mà chẳng thấy chồng, Đã đành một nỗi má hồng vô duyên. Rày vua gả thiếp về Phiên, Quyết lòng xuống chốn cửu tuyền thấy nhau. Chẳng chi cũng gọi là dâu, Muốn lo việc nước phải âu việc nhà. Một ngày một bước một xa, Của này để lại cho cha dưỡng già". Lạy rồi nước mắt nhỏ sa, Ngùi ngùi lạy tạ bước ra trở về. Các quan xe giá bộn bề, Năm mươi thể nữ hầu kề chân tay. Hai mươi nay đã đến ngày, Các quan bảo hộ đưa ngay xuống thuyền. Nguyệt Nga vội khiến Kim Liên, Lên mời thân phụ xuống thuyền xem qua. Công rằng: "Thật dạ xót xa, Con đừng bịn rịn cho cha thảm sầu". Nàng rằng non nước cao sâu, Từ đây xa cách con hầu thấy cha. Thân con về nước Ô Qua, Đã đành một nỗi làm ma đất người. Hai phương Nam Bắc cách vời, Chút xin gởi lại một lời làm khuây. Hiu hiu gió thổi ngọn cây, Ấy là hồn trẻ về rày thăm cha". Kiều công lụy ngọc nhỏ sa, Các quan ai nấy cũng là đều thương. Chẳng qua việc ở quân vương, Cho nên phụ tử hai đường xa xôi. Buồm trương thuyền vội tách vời, Các quan đưa đón ngùi ngùi đứng trông. Mười ngày đã tới ải Đồng, Mênh mông biển rộng đùng đùng sóng xao. Đêm nay chẳng biết đêm nào, Bóng trăng vằng vặc bóng sao mờ mờ. Trên trời lặng lẽ như tờ, Nguyệt Nga nhỡ nỗi tóc tơ chẳng tròn. Than rằng nọ nước kìa non, Kiểng thời thấy đó người còn về đâu?" Quân hầu đều ngủ đã lâu, Lén ra mở bức rèm châu một mình: "Vắng người có bóng trăng thanh, Trăm năm xin gởi chút tình lại đây. Vân Tiên anh hỡi có hay, Thiếp nguyền một tấm lòng ngay với chàng". Than rồi lấy tượng vai mang, Nhắm dòng nước chảy vội vàng nhảy ngay. Kim Liên thức dậy mới hay, Cùng quân thể nữ một bầy đều lo. Cùng nhau lặng chẳng dám hô, Thầm toan mưu kế chẳng cho lộ tình: "Việc này là việc triều đình, Đốc quan hay đặng ắt mình thác oan. Muốn cho cẩn nhiệm trăm đàng, Kim Liên thế lấy làm nàng Nguyệt Nga. Trá hôn về nước Ô Qua, Ai mà vạch lá ai mà tìm sâu?" Tính rồi xong xả chước mầu, Phút nghe thuyền đã đến đầu ải quan. Đốc quan xe giá sửa sang, Kiệu trương lọng phụng rước nàng về Phiên. Nào hay tì tất Kim Liên, Đặng làm hoàng hậu nước Phiên một đời. Nguyệt Nga nhảy xuống giữa vời, Sóng thần đưa đẩy vào nơi bãi rày. Bóng trăng vừa khuất ngọn cây, Nguyệt Nga hồn hãy chơi rày âm cung. Xiết bao sương tuyết đêm đông, Mình nằm giữa bãi lạnh lùng ai hay. Quan âm thương đấng thảo ngay, Bèn đem nàng lại bỏ rày vườn hoa. Dặn rằng: "Nàng hỡi Nguyệt Nga, Tìm nơi nương náu cho qua tháng ngày. Đôi ba năm nữa gần đây, Vợ chồng sao cũng sum vầy một nơi". Nguyệt Nga giây phút tỉnh hơi, Định hồn mới nghĩ mấy lời chiêm bao. Nên hư chưa biết làm sao, Bây giờ biết kiếm chốn nào dung thân? Một mình luống những bâng khuâng, Phút đâu trời đã rạng hừng vừng đông. Một mình mang bức tượng chồng, Xảy đâu lại gặp Bùi ông dạo vườn. Ông rằng: "Nàng ở hà phương, Việc chi mà tới trong vườn hoa ta?" Nàng rằng: "Trận gió hôm qua, Chìm thuyền đến nỗi mình ra thế này. Tối tăm sẩy bước tới đây, Xin soi xét tới thơ ngây lạc đàng". Bùi ông đừng ngắm tướng nàng. Chẳng trang đài các cũng hàng trâm anh. Đầu đuôi han hỏi sự tình, Nàng bèn lời thiệt việc mình bày qua. Bùi ông mừng rước về nhà, Thay xiêm đổi áo nuôi mà làm con. Rằng: "Ta sanh đặng chồi non, Tên là Bùi Kiệm hãy còn ở kinh. Trong nhà không gái hậu sinh, Ngày nay đặng gặp minh linh phước trời". Nguyệt Nga ở đã yên nơi, Đêm đêm nghĩ lượng việc đời gần xa. Một lo về nước Ô Qua, E vua bắt tội cha già rất oan. Hai lo phận gái hồng nhan, Sợ khi bảo dưỡng mưu toan lẽ gì. (260) Nguyệt Nga luống những sầu bi, Xảy đâu Bùi Kiệm tới khi về nhà. Từ ngày thấy mặt Nguyệt Nga, Đêm đêm trằn trọc phòng hoa mấy lần. Thấy nàng thờ bức tượng nhân, Nghiệm trong tình ý dần lân hỏi liền: (261) "Tượng này sao giống Vân Tiên. Bấy lâu thờ có linh thiêng điều gì?" Nàng rằng: "Làm phận nữ nhi, Một câu chánh tiết phải ghi vào lòng. (262) Trăm năm cho vẹn đạo tòng, Sống sao thác vậy một chồng mà thôi". Kiệm rằng: "Nàng nói sai rồi, Ai từng bán đắt mà ngồi chợ trưa. Làm người trong cõi gió mưa, Bảy mươi, mất mặt người xưa thấy nào? Chúa xuân còn ở vườn đào, Ong qua bướm lại biết bao nhiêu lần! Chúa đông ra khỏi vườn xuân, Hoa tàn nhụy rữa như rừng bỏ hoang! Ở đời ai cậy giàu sang, Ba xuân mòn hết, ngàn vàng khôn mua. (263) Hay chi như vãi ở chùa, Một căn cửa khép bốn mùa lạnh tanh? Linh đinh một chiếc thuyền tình, Mười hai bến nước biết mình vào đâu? Ai từng mặc áo không bâu, (264) Ăn cơm không đũa ăn trầu không cau? Nàng sao chẳng nghĩ trước sau, Giữ ôm bức tượng bấy lâu thiệt mình". Nàng rằng: "Xưa học sử kinh, Làm thân con gái chữ trinh làm đầu. Chẳng phen thói nước Trịnh đâu, (265) Hẹn người tới giữa vườn dâu tự tình". Kiệm rằng: "Đã biết sử kinh, Sao không soi xét, để mình ngồi không? Hồ Dương xưa mới goá chồng, Còn mơ nhan sắc Tống công cũng vừa. (266) Hạ Cơ lớn nhỏ đều ưa, Sớm đưa Doãn, Phủ tối ngừa Trần Quân. (267) Hớn xưa Lữ Hậu thanh xuân, Còn vừa Cao Tổ mới đành Dị Ki. (268) Đường xưa Võ Hậu thiệt gì, Di Tôn khi trẻ Tam Tư lúc già. (269) Cứ trong sách vở nói ra, Một đời sung sướng cũng qua một đời! Ai ai cũng ở trong trời Chính chuyên, chắc nết, chết thời cũng ma. (270) Người ta chẳng lấy người ta, Người ta đâu lấy những là tượng nhân? Cho nên tiếc phận hồng nhan, Học đời Như ý vẽ chàng Văn Quân". (271) Nguyệt Nga biết đức tiểu nhân, Làm thinh toan chước thoát thân cho rồi. Bùi ông ngon ngọt trau dồi, Muốn nàng cho đặng sánh đôi con mình: "Làm người chấp nhứt sao đành, (272) Hễ là lịch sự có kinh có quyền. (273) Tới đây duyên đã bén duyên, Trăng thanh gió mát cắm thuyền đợi ai? Nhớ câu xuân bất tái lai, Ngày nay hoa nở e mai hoa tàn. Làm chi thiệt phận hồng nhan, Năm canh gối phụng màn loan lạnh lùng? Vọng Phu xưa cũng trông chồng, Ngày xanh mòn mỏi má hồng phui pha. Thôi thôi khuyên chớ thở ra, Vầy cùng con lão một nhà cho xuôi". (274) Nguyệt Nga giả dạng mừng vui, Thưa rằng: "Người có công nuôi bấy chầy. Tôi xin dám gởi lòng này, Hãy tua chậm chậm sẽ vầy nhơn duyên. (275) Tôi xin lạy tạ Vân Tiên, Chay đàn bảy bữa cho tuyền thỉ chung". Cha con thấy nói mừng lòng, Dọn nhà sửa chỗ động phòng cho xuê. Chiếu hoa gối sạch bộn bề, Cỗ đồ bát bửu chỉnh tề chưng ra. (276) Xảy vừa tới lúc canh ba, Nguyệt Nga lấy bút đề và câu thơ. Dán trên vách phấn một tờ, Vai mang bức tượng một giờ ra đi. Hai bên bờ bụi rậm rì, Đêm khuay vắng vẻ gặp khi trăng lờ. Lạ chừng đường sá bơ vơ, Có bầy đom đóm sáng nhờ đi theo. Qua truông rồi lại lên đèo, Dế kêu dắng dỏi sương gieo lạnh lùng. Giày sành, đạp sỏi thẳng xông, (277) Vừa may trời đã vừng đông lố đầu. Nguyệt Nga đi đặng hồi lâu, Tìm nơi bàn thạch ngõ hầu nghỉ chân. Người ngay trời phật cũng vâng, Lão bà chống gậy trong rừng bước ra. Hỏi rằng: "Nàng phải Nguyệt Nga, Khá tua gắng gượng về nhà cùng ta. (278) Khi khuya nằm thấy Phật bà, Người đà mách bảo nên già tới đây". Nguyệt Nga bán tín bán nghi, Đành liều nhắm mắt theo đi về nhà. Bước vào thấy những đàn bà, Làm nghề bô vải lụa là mà thôi. Nguyệt Nga đành dạ ở rồi, Từ đây mới biết nổi trôi chốn nào. Hỏi thăm ra chốn Ô Sào, Quan san mấy dặm đi vào tới nơi. (279) Đoạn này tới thứ ra đời, (280) Vân Tiên thuở ấy ở nơi chùa chiền. Nửa đêm nằm thấy ông tiên, Đem cho chén thuốc mắt liền sáng ra. Kẽ từ nhuốm bệnh đường xa, Tháng ngày thấm thoát kể đà sáu năm. Tuổi cha rày đã năm lăm, Chạnh lòng nhớ tới đầm đầm lụy sa. Vân Tiên tính trở lại nhà, Hớn Minh đưa khỏi năm ba dặm đường. Tiên rằng : "Ta lại hồi hương, Ơn nhau sau gặp khoa trường sẽ hay". Minh rằng : "Tôi vốn chẳng may, Ngày xưa mắc phải án đày trốn đi. Dám đâu bày mặt ra thi, Đã đành hai chữ quy y chùa này". (281) Tiên rằng : "Phước gặp khoa này, Sao sao cũng tính sum vầy cùng nhau. Mấy năm hẩm hút tương rau, (282) Khó nghèo nỡ phụ sang giàu đâu quên. Lúc hư còn có lúc nên, Khuyên người chử dạ cho bền thảo ngay". Hớn Minh trở lại am mây, Vân Tiên về một tháng chầy tới nơi. Lục ông nước mắt tuôn rơi, Ai dè con sống trên đời thấy cha! Xóm giềng cô bác gần xa, Đều mừng chạy tới chật nhà hỏi thăm. Ông rằng : "Kể đã mấy năm, Con mang bệnh tật ăn nằm nơi nao?" Thưa rằng : "Hoạn nạn xiết bao, Mẹ tôi phần mộ nơi nào viếng an ". Đặt bày lễ vật nghiêm trang, Đọc bài văn tế trước bàn minh sinh : (283) "Suối vàng hồn mẹ có linh, Chứng cho con trẻ lòng thành ngày nay. Tưởng bền nguồn nước cội cây, (284) Công cao ngàn trượng ngãi dày chín trăng. (285) Suy trang nằm giá, khóc măng, (286) Hai mươi bốn thảo chẳng bằng người xưa". (287) Vân Tiên nước mắt như mưa, Tế rồi hỏi việc khi xưa ở nhà. Ông rằng : "Có nàng Nguyệt Nga, Bạc tiền đem giúp cửa nhà mới xuê. Nhờ nàng nên mới ra bề, (288) Chẳng thì khó đói bỏ quê đi rồi". Vân Tiên nghe nói hỡi ôi, Chạnh lòng nghĩ lại một hồi giây lâu. Hỏi rằng : "Nàng ấy ở đâu, Đặng con đến đó đáp câu ân tình". Lục ông thuật việc triều đình, Đầu đuôi chuyện vãn tỏ tình cùng Tiên: "Kiều công rày ở Tây Xuyên, Cũng vì mắc nịnh biếm quyền đuổi ra". (289) Tiên rằng : "Cám nghĩa Nguyệt Nga Tôi xin qua đó thăm cha nàng cùng. Tây Xuyên ngàn dặm thẳng xông, Đến nơi ra mắt, Kiều công khóc liền: "Nguyệt Nga rày ở nước Phiên, Biết sao cho đặng đoàn viên cùng chàng? Mấy thu Hồ Việt đôi phang, (290) Cũng vì máy tạo én nhàn rẽ nhau. Thấy chàng dạ lại thêm đau, Đất trời bao nỡ chia bâu cho đành. (291) Hẹp hòi đặng chút nữ sanh. Trông cho chồi quế trổ nhành mẫu đơn". (292) Nói rồi lụy nhỏ đòi cơn: "Cũng vì một sự oán hờn nên gây. Thôi con ở lại bên này, Hôm mai thấy mặt cho khuây lòng già". Vân Tiên từ ấy lân la, Ôn nhuần kinh sử chờ khoa ứng kì, Năm sau lệnh mở khoa thi, Vân Tiên vào tạ xin đi tựu trường. Trở về thưa với xuân đường, Kinh sư ngàn dặm một đường thẳng ra. (293) Vân Tiên dự trúng khôi khoa, (294) Đương trong nhâm tí thiệt là năm nay. Nhớ lời thầy nói thật hay, Bắc phương gặp chuột hẳn rày nên danh. Vân Tiên vào tạ triều đình, Lệnh ban y mão hiển vinh về nhà. Xảy nghe tin giặc Ô Qua, Phủ vây quan ải, quân ba bốn ngàn. Sở vương phán trước ngai vàng: Chỉ sai quốc trạng dẹp loàn bầy ong. (295) Trạng nguyên tâu trước bệ rồng: "Xin dâng một tướng anh hùng đề binh. (296) Có người họ Hớn tên Minh, Sức đương Hạng Võ mạnh kình Trương Phi. Ngày xưa mắc án trốn đi, Phải về nương náu từ bi ẩn mình". Sở vương phán trước triều đình, Chỉ sai tha tội Hớn Minh đòi về. Sắc phong phó tướng bình di, (297) Tiên Minh tương hội xiết gì mừng vui. (298) Nhất thanh phấn phát oai lôi, (299) Tiên phong hậu tập trống hồi tấn binh. (300) Quan sơn ngàn dặm đăng trình, Lãnh cờ bình tặc phá thành Ô Qua. (301) Làm trai ơn nước nợ nhà, Thảo cha, ngay chúa, mới là tài danh. Phút đầu binh đáo quan thành, (302) Ô Qua xem thấy, xuất hành cự đang. (303) Tướng Phiên hai gã đường đường, Một chàng Hoả Hổ một chàng Thần Long. Lại thêm Cốt Đột nguyên nhung, Mắt hùm râu đỏ tướng hung lạ lùng. Hớn Minh ra sức tiên phong, Đánh cùng Hoả Hổ Thần Long một hồi. Hớn Minh chùy giáng dường lôi, (304) Hai chàng đều bị một hồi mạng vong. Nguyên nhung Cốt Đột nổi xung, Hai tay xách búa đánh cùng Hớn Minh. Hớn Minh sức chẳng dám kình, Thấy chàng hoá phép thoát mình trở lui. Vân Tiên đầu đội kim khôi, Tay cầm siêu bạc mình ngồi ngựa ô. (305) Một mình lướt trận xông vô, Thấy người Cốt Đột biển hô yêu tà. Vội vàng trở ngựa lui ra, Truyền đem máu chó đều thoa ngọn cờ. Ba quân gươm giáo đều dơ, Yêu ma xem thấy một giờ vỡ tan. Phép tà Cốt Đột hết phương, Phừng phừng nổi giận đánh chàng Vân Tiên. Trung, tiền, tả, hữu, lưỡng biên, Trạng nguyên - Cốt Đột đánh liên tối ngày. Sa cơ Cốt Đột chạy ngay, Vân Tiên giục ngựa kíp rày đuổi theo. Đuổi qua mới đặng bảy đèo, Khá thương Cốt Đột vận nghèo nài bao. (306) Chạy ngang qua núi Ô Sào, Phút đâu con ngựa sao hào thương ôi. Vân Tiên chém Cốt Đột rồi, Đầu treo cổ ngựa phản hồi bổn quân. Ôi thôi bốn phía đều rừng, Trời đà tối mịt lạc chừng gần xa. Một mình lạc nẻo vào ra, Lần theo đường núi phút đà tam canh. (307) Một mình trong chốn non xanh, Không ai mà hỏi lộ trình trở ra. Đoạn này tới thứ Nguyệt Nga, ở đây tính đã hơn ba năm rồi. Đêm khuya trong ngọn đèn ngồi, Chẳng hay trong dạ bồi hồi việc chi: "Quân âm thuở trước nói chi, Éo le phỉnh thiếp lòng ghi nhớ hoài. Đã đành đá nát vàng phai, Đã đành xuống chốn dạ đài gặp nhau. Không trông mồng bảy đêm thu, Không trông bầy quạ đội cầu đưa sao. (308) Phải chi hỏi đặng Nam Tào, Đêm nay cho đến đêm nào gặp nhau?" Nguyệt Nga gượng giải cơn sầu, Xảy nghe lạc ngựa ở đâu tới nhà. Kêu rằng: "Ai ở trong nhà, Đường về quan ải chỉ ra cho cùng". Nguyệt Nga ngồi sợ hãi hùng, Vân Tiên xuống ngựa thẳng xông bước vào. Lão bà lật đật hỏi chào : "Ở đâu mà tới rừng cao một mình?" Vân Tiên mới nói sự tình : "Tôi là quốc trạng trào đình sai ra. Đem binh dẹp giặc Ô Qua, Lạc đường đến hỏi thăm nhà bà đây". Lão bà nghe nói sợ thay : "Xin ông chớ chấp tôi nay mụ già ". Vân Tiên ngồi ngắm Nguyệt Nga, Lại xem bức tượng lòng đà sinh nghi. Hỏi rằng: "Bức ấy tượng chi, Khen ai khéo vẽ dung nghi giống mình. Đầu đuôi chưa rõ sự tình, Lão bà khá nói tánh danh cho tường ". Lão bà chẳng dám lời gian : "Tượng này vốn thiệt chồng nàng ngồi đây". Tiên rằng : "Nàng xách lại đây, Nói trong tên họ tượng này ta nghe". Nguyệt Nga lòng rất kiêng dè, Mặt thời giống mặt, còn e lạ người. Ngồi che tay áo hổ ngươi, Vân Tiên thấy vậy mỉm cười một khi. Rằng : "Sao nàng chẳng nói đi, Hay là ta hỏi động chi chăng là?" Nguyệt Nga khép nép thưa qua : "Người trong bức tượng tên là Vân Tiên. Chàng đàng về chốn cửu tuyền, Thiếp lăm trọn đạo, lánh miền gió trăng". Vân Tiên nghe nói hỏi phăn : "Chồng là tên ấy vợ rằng tên chi?" Nàng bèn tỏ thiệt một khi, Vân Tiên vội vã xuống quì vòng tay. Thưa rằng : "May gặp nhau đây, Xin đền ba lạy sẽ bày nguồn cơn. Để lời thệ hải minh sơn, (309) Mang ơn trước phải đền ơn cho rồi. Vân Tiên vốn thiệt là tôi, Gặp nhau nay đã phỉ rồi ước mơ". Nguyệt Nga bảng lảng bơ lơ, (310) Nửa tin rằng bạn, nửa ngờ rằng ai. Thưa rằng : "Đã thiệt tên ngài, Khúc nôi xin cứ đầu bài phân qua". (311) Vân Tiên dẫn tích xưa ra, Nguyệt Nga khi ấy khóc oà như mưa. Ân tình càng kể càng ưa, Mảng còn bịn rịn trời vừa sáng ngay. Xa nghe quân ó vang dầy, Bốn bề rừng bụi khắp bày can qua. Vân Tiên lên ngựa trở ra, Thấy cờ đề chữ hiệu là Hớn Minh. Hớn Minh khi ấy dừng binh, Anh em mừng rỡ tỏ tình cùng nhau. Minh rằng : "Tẩu tẩu ở đâu, (312) Cho em ra mắt chị dâu thế nào". Vân Tiên đem Hớn Minh vào, Nguyệt Nga đứng dậy miệng chào có duyên. Minh rằng : "Tưởng chị ở Phiên, Quyết đem binh mã sang miền Ô Qua. May đâu sum hiệp một nhà, Giặc đà an giặc khải ca hồi trào". Tiên rằng : "Nàng tính thế nào?" Nàng rằng : "Anh hãy về trào tâu lên. Ngỏ nhờ lượng cả bề trên, Lịnh tha tội trước mới nên về nhà ". Tiên, Minh trở ngựa đều ra, Đem binh trở lại triều ca đề huề. (313) Sở vương nghe trạng nguyên về, Sai quan tiếp rước vào kề bên ngai. Sở vương bước xuống kim ngai, Tay bưng chén rượu thưởng tài trạng nguyên. Phán rằng : "Trẫm sợ nước Phiên, Có người Cốt Đột phép tiên lạ lùng. Nay đà trừ Cốt Đột xong, Thiệt trời sanh trạng giúp trong nước nhà. Phải chi trước có trạng ra, Làm chi nên nỗi Nguyệt Nga cống Hồ ". Lệnh truyền mở yến triều đô, Rày mừng trừ đặng giặc Ô Qua rồi. Trạng nguyên quì tấu một hồi, Nguyệt Nga các việc khúc nôi rõ ràng. Sở vương nghe tấu ngỡ ngàng. Phán rằng : "Trẫm tưởng rằng nàng ở Phiên Chẳng ngờ nàng với trạng nguyên, Cùng nhau trước có nhân duyên thuở đầu ". Thái sư trước bệ quì tâu : "Ô Qua dấy động qua mâu cũng vì, (314) Trá hôn oán ấy nên gây, Nguyệt Nga nàng thiệt tội thì khi quân" Trạng nguyên mặt đỏ phừng phừng, Bèn đem bức tượng quì dâng làm bằng. Sở vương xem tượng phán rằng : "Nguyệt Nga trinh tiết ví bằng người xưa. Thái sư trước chẳng lo lừa, Thiếu chi dân thứ phải đưa tới nàng? Dầu cho nhựt nguyệt rõ ràng. Không soi chậu úp cũng mang tiếng đời. (315) Ngay gian sao cũng có trời, Việc này vì trẫm nghe lời nên oan ". Trạng nguyên tâu trước triều đàng : "Thái sư trữ dưỡng tôi gian trong nhà. Trịnh Hâm là đứa gian tà, Hại tôi buổi trước cũng đà ghe phen ". (316) Sở vương phán trước bệ tiền : "Những ngờ tướng ngỏ tôi hiền mà thôi. (317) Vậy cũng đạo chúa ngãi tôi, Thái sư ý muốn cướp ngôi chín trùng. (318) Hớn xưa có gã Đổng công, (319) Nuôi thằng Lữ Bố cướp dòng họ Lưu. Đời xưa tôi nịnh biết bao, Thái sư nay có khác nào người xưa? Thấy người trung chánh chẳng ưa, Rắp tâm kế độc lập lừa mưu sâu. Trịnh Hâm tội đáng chém đầu, Ấy là mới hết người sau gian tà ". Sở vương phán trước triều ca : "Thái sư cách chức về nhà làm dân. Trịnh Hâm là đứa bạo thần, Giao cho quốc trạng xử phân pháp hình. Nguyệt Nga là gái tiết trinh, Sắc phong quận chúa hiển vinh rỡ ràng. Kiều công xưa mắc tội oan, Trẫm cho phục chức làm quan Đông Thành. Trạng nguyên dẹp giặc đã bình, Kiệu vàng tán bạc hiển vinh về nhà ". Bãi chầu chư tướng trở ra, Trạng nguyên mời hết đều qua dinh ngồi. Họ Vương họ Hớn họ Bùi, Cùng nhau uống rượu đều vui đều cười. Trạng nguyên mới hỏi một lời : "Trịnh Hâm tội ấy các người tính sao?" Truyền quân dẫn Trịnh Hâm vào, Mặt nhìn khắp hết miệng chào các anh. Minh rằng : "Ai mượn kêu anh, Trước đà đem thói chẳng lành thời thôi. Kéo ra chém quách cho rồi, Để chi gai mắt đứng ngồi căm gan ". Trực rằng : "Minh nóng nói ngang, Giết ruồi ai dụng gươm vàng làm chi Xưa nay mấy đứa vô nghì, Dẫu cho có sống, làm gì nên thân?" Hâm rằng : "Nhờ lượng cố nhân, Vốn em mới dại một lần xin dung ". Trạng rằng : "Hễ đứng anh hùng, Nào ai có giết đứa cùng làm chi. Thôi thôi ta cũng rộng suy, Truyền quân mở trói đuổi đi cho rồi ". Trịnh Hâm khỏi giết rất vui, Vội vàng cúi lạy chân lui ra về. Còn người Bùi Kiệm máu dê, Ngồi chai bề mặt như sề thịt trâu. Hớn Minh - Tử Trực vào tâu, Xin đưa quốc trạng kíp chầu vinh qui. Một người Bùi Kiệm chẳng đi, Trong lòng hổ thẹn cũng vì máu dê. Trạng nguyên xe giá chỉnh tề, Sai quân hộ vệ rước về Nguyệt Nga. Bạc vàng đem tạ lão bà, Nguyệt Nga từ tạ thẳng qua Đông Thành. Võng điều gươm bạc lọng xanh, Trạng nguyên Tử Trực Hớn Minh lên đàng, Trịnh Hâm về tới Hàn Giang, Sóng thần nổi dậy thuyền chàng chìm ngay. Trịnh Hâm bị cá nuốt rày, Thiệt trời báo ứng lẽ này rất ưng. Thấy vầy nên dửng dừng dưng, (320) Làm người ai nấy thì đừng bất nhân. Tiểu đồng trước giữ mộ phần, Ngày qua tháng lại đã gần ba năm. Của đi khuyên giáo mấy năm. Tính đem hài cốt về thăm quê nhà. Hiềm chưa thuê đặng người ta, Còn đương thơ thẩn vào ra Đại Đề. Trạng nguyên khi ấy đi về, Truyền quân bày tiệc lo bề tế riêng : "Tiểu đồng hồn bậu có thiêng, Thoả tình thầy tớ lòng thiềng ngày nay". Đọc văn nhớ tới chau mày, Đôi hàng lụy ngọc tuôn ngay ròng ròng. Người ngay trời phật động lòng, Phút đâu ngó thấy tiểu đồng đến coi. Trạng nguyên còn hãy sụt sùi, Ngó lên bài vị lại xui lòng phiền. (321) Tiểu đồng nhắm ngửa nhìn nghiêng : "Ông này sao giống Vân Tiên cũng kì? Ông nào mất xuống âm ti, Ông nào còn sống nay thì làm quan?" Trạng nguyên khi ấy hỏi chàng : "Phải người đồng tử mắc màn chốn ni?" Mấy năm tớ mới gặp thầy, Cùng nhau kể nỗi đắng cay từ ngằn (322) Ai dè còn thấy bổn quan, (323) Ba năm gìn giữ mồ hoang đã rồi. Trạng nguyên khi ấy mừng vui, Tớ thầy sum họp tại nơi Đại Đề. Đoạn thôi xe giá ra về, Tuần dư phút đã gần kề Hàn Giang. (324) Võ công từ xuống suối vàng, Thể Loan cùng mụ Quỳnh Trang đeo sầu. Mẹ con những mảng lo âu ; "Nghe Vân Tiên sống gặp chầu công danh. Cùng ta xưa có ân tình, Phải ra đón rước lộ trình hoạ may". Loan rằng : "Mình ở chẳng hay, E người còn nhớ những ngày trong hang". Trang rằng : "Con có hồng nhan, Cho chàng thấy mặt thời chàng ắt ưa. Dầu chàng còn nhớ tích xưa, Mẹ con ta lại đổ thừa Võ công". Cùng nhau bàn luận đã xong, Soi gương đánh phấn ra phòng rước duyên. (325) Nay đà tới thứ trạng nguyên, Hàn Giang đã tới bỗng liền đóng quân. Bạc vàng châu báu áo quần, Trạng nguyên đem tạ đáp ân ngư tiều. Ngư tiều nay đặng danh biêu, (326) Ơn ra một buổi của nhiều trăm xe. Trạng nguyên chưa kịp trở về, Thấy Quỳnh Trang đã đứng kề trong quân. Trang rằng : "Tưởng chữ hôn nhân, Mẹ con tôi đến lễ mừng trạng nguyên. Võ công đã xuống huỳnh tuyền, Xin thương lấy chút thuyền quyên phận này". Trạng rằng : "Bưng bát nước đầy, Đổ ngay xuống đất hốt rày sao xong? Oan gia nợ ấy trả xong, Thiếu chi nên nỗi mà mong tới đòi". (327) Hớn Minh Tử Trực đứng coi, Cười rằng : "Hoa khéo làm mồi trêu ong. Khen cho lòng chẳng thẹn lòng, Còn mang mặt đến đèo bòng nỗi chi? Ca ca sao chẳng chịu đi, (328) Về cho tẩu tẩu, để khi xách giày?" Mẹ con đứng thẹn thùng thay, Vội vàng cúi lạy, chân rày trở ra. Trở về chưa kịp tới nhà, Thấy hai con cọp nhảy ra đón đàng. Thảy đều bắt mẹ con nàng, Đem vào lại bỏ trong hang Thương Tòng. Bốn bề đá lấp bịt bùng, Mẹ con than khóc không trông ra rồi. Trời kia quả báo mấy hồi, Tiếc công son điểm phấn dồi bấy lâu. Làm người cho biết nghĩa sâu, Gặp cơn hoạn nạn cùng nhau cho tròn. Chớ đừng theo thói mẹ con, Thác đà mất kiếp tiếng còn bia danh. Trạng nguyên về tới Đông Thành, Lục ông trước đã xây dinh ở làng. Bày ra sáu lễ sẵn sàng, (329) Các quan đi họ cưới nàng Nguyệt Nga. Sui gia đã xứng sui gia, Rày mừng hai họ một nhà thành thân. Trăm năm biết mấy tinh thần, Sinh con sau nối gót lân đời đời. (330)
Nguyễn Đình Chiểu
Bài Thơ Tháng Tám
poem.php?poem=bai_tho_thang_tam__bui_minh_quoc
Các anh – những người Tháng Tám Các anh đâu rồi? Thấm mệt rồi chăng? Các anh nghĩ gì sau nếp nhăn vầng trán “Thế sự du du…” thật giả nhập nhằng!… Có lẽ nào? Có lẽ nào? Lịch sử Lại như con thò lò trong ván bài quỷ dữ Máu nhân dân tuôn chảy đúc ngai vàng Bạo chúa ngồi lem lẻm tụng nhân dân? Ơi em gái Trường Sơn mười tám tuổi Cùng đồng đội đêm nao truy điệu sống cho mình Và cứ thế dấn thân vào lửa dội Em nghĩ gì sau cặp mắt kiên trinh? Em nghĩ tới tương lai tươi thắm ngọt lành? Tương lai ấy bây giờ tôi sống dở Quay mặt vào đâu cũng phải ghìm cơn mửa Cả một thời đểu cáng đã lên ngôi Tôi bước đi trên đất nước nghẹn lời Các anh đâu rồi Những người Tháng Tám? Chẳng nhẽ khoanh tay nhìn tấn trò bội phản Dân tộc này bị vỡ nợ Tự Do? Dân tộc từng sống chết chẳng so đo Quyết không làm nô lệ Sao hôm nay Người đành cam chịu thế Mặc thân phận mình dưới ách tà gian “Việt Nam bao năm ròng rên xiết lầm than…” Câu hát cũ lòng tôi rỉ máu Kìa em gái Trường Sơn hiện hồn về nhìn tôi đau đáu Tháng tám ơi! Tháng Tám nước non mình Tôi lại đi, lầm lũi cuộc hành trình Chỉ có thế thôi! Thơ Với cường quyền Ðối mặt Sống trong tôi là triệu người đã khuất Ðang thét đòi món nợ: Tự Do! (19-8-1994)
Bùi Minh Quốc
Cay Đắng Thay
poem.php?poem=cay_dang_thay__bui_minh_quoc
Cái guồng máy nhục mạ con người Mang bộ mặt hiền lành của người cuốc đất Ù lì quay Quay Thao thao bài đạo đức Liệu mấy ai còn ngây? Cay đắng thay Mỉa mai thay Trọn tuổi xuân ta hiến dâng cuồng nhiệt Lại đúc nên chính cỗ máy này.
Bùi Minh Quốc
Có Khi Nào
poem.php?poem=co_khi_nao__bui_minh_quoc
Có khi nào trên đường đời tấp nập Ta vô tình đã đi lướt qua nhau Bước lơ đãng chẳng ngờ đang để mất Một tâm hồn ta đợi đã từ lâu
Bùi Minh Quốc
Không Mẹ Ơi
poem.php?poem=khong_me_oi__bui_minh_quoc
Dẫu biết rằng đành phải quen mà sống Quen những mặt trơ lì những miệng trơn lu Quen đừng tin yêu quen đừng mơ mộng Quen giả ngu giả điếc giả mù Quen cả bùn nhớp tận sắc trời thu Đêm ngào ngạt nẻo tường vi bỗng ầm ầm chó sủa Và bạn bè văn chương một thuở Đứa nhơn nhơn vác bút đi bồi Thằng vênh vang chức tước ăn chơi Thằng lon ton kiêm nghề mật vụ Tất cả Tất cả mọi điều Có thể đành quen Duy một điều không thể nào quen Không thể nào quen nhìn lưng còng của mẹ Dẫu con biết nghìn năm mẹ đã còng như thế Còng đến đáy ruộng đồng Còng mất con mất cháu mất chồng Để vẫn hoàn còng đứng ngồi rón rén Mắt mờ đục miệng phào móm mém “Nhờ ơn trên, nhớ ơn trên…” Không, mẹ ơi, con không thể nào quen!
Bùi Minh Quốc
Mẹ Đi Chọn Mặt Gửi Vàng
poem.php?poem=me_di_chon_mat_gui_vang__bui_minh_quoc
Chọn mặt nào mà gửi? Này có phải mặt này từ hầm mẹ trồi lên? Mẹ nhìn mãi nét mờ nét tỏ. Mẹ nhìn suốt những mặt con đầy tớ, Mặt đứa nào cũng béo tốt phương phi, Cầm cuốc một đời, cầm bút bỗng vân vi. Chọn mặt nào mà gửi? Chọn mặt nào cho máu mình đỡ tủi? Đà Lạt, 7-7-1992
Bùi Minh Quốc
Mẹ Ngẩn Ngơ Đi…
poem.php?poem=me_ngan_ngo_di__bui_minh_quoc
Những đứa con xưa mẹ nuôi giấu dưới hầm Nay đua nhau xây nhà bạc tỉ Và tuyên bố xanh rờn: Gia tài xin của mẹ Mẹ ngẩn ngơ đi đầu trời cuối bể: - Có ai tầm chiếc cuốc mòn? - Có ai tầm chiếc cuốc mòn? - Có ai? Có ai? Này chiếc cuốc mòn Ta đổi ngàn vàng che mặt cho con.
Bùi Minh Quốc
Một Thoáng Phố Phường
poem.php?poem=mot_thoang_pho_phuong__bui_minh_quoc
(Dùi cui vung dọc phố) Mẹ già táo tác gánh rau Chân run té nhào giữa lộ Còi hú, mẹ ơi dậy mau Cho rộng đường xe “đầy tớ”. * (Gửi một nhà thơ đàn anh) Tưởng bạn nghìn dặm thơ Hóa vòng vo nhảy nhót Trong cái lồng rất to Tự đan bằng tiếng hót. 1997
Bùi Minh Quốc
Óc Tim Này Chẳng Ai Cho
poem.php?poem=oc_tim_nay_chang_ai_cho__bui_minh_quoc
Một đời, một cõi nhân sinh Thẳng lưng dẫu chạm thiên đình chẳng sao Bùn nhơ tự chín tầng cao Ngẩng đầu là thấy thiên tào mặt mo Óc tim này chẳng ai cho Thong dong mà sống tự do tự mình. 1997
Bùi Minh Quốc
Phản Chiến
poem.php?poem=phan_chien__bui_minh_quoc
Chúng đưa con du học nước ngoài Rúc kín lâu đài du hý trên ngai Hãy cảnh giác! Bọn mặt bự dẻo mồm Thời nào chẳng nhân danh Tổ quốc Cao giọng hùng hồn không tiếc máu xương Máu xương lầy đỏ nghiệp đế vương Hãy cảnh giác! Sau chiến tranh chúng lại chiến tranh Cuộc chiến tranh một phía Người sống sót trở về oằn lưng sưu thuế Chúng lấy máu đúc vàng Độc quyền ngự trị nghênh ngang Độc quyền nghĩ Độc quyền nói Độc quyền ráo trọi Dân đen chỉ một quyền được …đói Và thêm nữa là quyền sợ hãi Triền miên… Hãy cảnh giác! Dân đen Cảnh giác! Lòng ta yêu vô cùng Tổ quốc Chúng luôn moi làm bẫy đánh lừa Sập lại chính đời ta Đến con cháu ta Vào kiếp chó Canh túi vàng chúng nó. Đà Lạt, 4-4-2003
Bùi Minh Quốc
Thơ Dâng
poem.php?poem=tho_dang__bui_minh_quoc
Kính dâng anh linh các liệt sĩ Vì Tổ Quốc đã bỏ mình trong lòng đất lòng biển Hoàng Sa Trường Sa Tôi ngước mắt vọng trời Trời rựng máu Hoàng Sa Trường Sa Tôi cúi đầu tìm đất Đất ứa lệ Hoàng Sa Trường Sa Tôi vây giữa ngàn thông ngàn hoa Gốc thông nào cũng khắc Hoàng Sa Trường Sa Cánh hoa nào cũng nhắc Hoàng Sa Trường Sa Kìa vụt hiện ngọc ngà Người mẫu Em lớn từ lệ máu Hoàng Sa Trường Sa Ê a bên thềm miệng sữa ê a Vỗ lòng tôi tựa sóng Hoàng Sa Trường Sa Sực nghe xuân gõ cửa mọi nhà Âm âm Rền Hoàng Sa Trường Sa.
Bùi Minh Quốc
Thơ Vụt Hiện Trong Phòng Thẩm Vấn
poem.php?poem=tho_vut_hien_trong_phong_tham_van__bui_minh_quoc
Xuân hổn hển ngực đồi cỏ thắm Ðà Lạt dậy mùa hoa Anh nghiến răng trong phòng thẩm vấn Giữa ban ngày mà ngập đêm đen. Những câu hỏi làm anh lộn mửa - Bài thơ này anh gửi cho ai? - Ai gửi cho anh bài này bài nọ? Trái tim thơ muốn nổ chuỗi cười dài!… Thật dễ quá đầu môi yêu Tổ Quốc Ðây tình yêu như máu cuộn không lời Người quằn quại người nát thây lầm đất Vẫn người đi, người tiếp mãi bên người. Tổ Quốc hỡi tình chi đau đớn vậy Con yêu người, ngục tối nuốt trời xanh Ôi Tổ Quốc vào tay quỉ dữ Tiếng hát tự do uất nghẹn khắp thân mình. Con đối diện những tia nhìn cú vọ Cả một thời xung trận lại trào sôi Ðôi cánh thơ vẫy vùng trong bão tố Tiếng hát tự do trong biếc mãi dâng đời. Xuân Hè 97
Bùi Minh Quốc
Từ Phút Ấy
poem.php?poem=tu_phut_ay__bui_minh_quoc
Tổ quốc ta giặc giày xéo điên cuồng Mạ bế ta đi suốt những nẻo đường lạnh đói Khúc hát ru ta là khúc hát căm hờn. Miền Bắc tự do. Tôi là em thiếu niên cắp sách đến trường. Một ngôi trường xinh xắn giưới hàng dương Mà anh Giót anh Đàn khi ngã xuống Thấy hiện ra như cả một thiên đường. Tôi đã được nuôi dạy trong bình yên hạnh phúc Những năm tháng đất nước chẳng bình yên Miền Nam miền Nam, bao đồng chí đồng bào đang ngã gục… Tiếng súng bên trời đau nhói con tim Tiếng súng bên trời dựng tôi dậy trong đêm Rồi sẽ có ngày các con tôi chúng hỏi: Tuổi trẻ của cha đã sống thế nào? Tôi không thể quay đầu nói dối Mặt cầu an vờ dây đất chiến hào. Hôm nay tôi nhìn đâu cũng gặp cái nhìn của Trỗi Cám ơn anh, cám ơn anh, chính phút cuối cùng… Hạnh phúc thay khi nhìn mắt những anh hùng Ta được thấy lòng mình không bối rối! 10-1964
Bùi Minh Quốc
Ngọn Đèn Đứng Gác
poem.php?poem=ngon_den_dung_gac__chinh_huu
Trên đường ta đi đánh giặc Ta về Nam hay ta lên Bắc, Ở đâu Cũng gặp Những ngọn đèn dầu Chong mắt Đêm thâu Những ngọn đèn không bao giờ nhắm mắt Như những tâm hồn không bao giờ biết tắt, Như miền Nam Hai mươi năm Không đêm nào ngủ được, Như cả nước Với miền Nam Đêm nào cũng thức… Soi cho ta đi Đánh trận trường kỳ Đèn ta thắp niềm vui theo dõi Đèn ta thắp những lời kêu gọi. Đi nhanh đi nhanh Chiến trừõng đã giục Đầy núi đầy sông Đèn ta đã mọc. Trong gió trong mưa Ngọn đèn đứng gác Cho thắng lợi, nối theo nhau Đang hành quân đi lên phía truớc. 1965
Chính Hữu
Bài Thơ Của Một Người Yêu Nước Mình
poem.php?poem=bai_tho_cua_mot_nguoi_yeu_nuoc_minh__tran_vang_sao
Buổi sáng tôi mặc áo đi giầy ra đứng ngoài đường Gió thổi những bông mía trắng bên sông Mùi toóc khô còn thơm lúa mùa qua Bầy chim sẻ đậu trước sân nhà Những đứa trẻ đứng nhìn ngấp nghé Tôi yêu đất nước này như thế Mỗi buổi mai Bầy chim sẻ ngoài sân Gió mát và trong Đường đi đầy cỏ may và muộng chuộng Tôi vẫn sống Vẫn ăn Vẫn thở Như mọi người Đôi khi chợt nhớ một tiếng cười lạ Một câu ca dao buồn có hoa bưởi hoa ngâu Một vết bùn khô trên mặt đá Không có ai chia tay Cũng nhớ một tiếng còi tàu Mẹ tôi thức khuya dậy sớm Năm nay ngoài năm mươi tuổi Chồng chết đã mười mấy năm Thủa tôi mới đọc được i tờ Mẹ thương tôi mẹ vẫn tảo tần Nước sông gạo chợ Nhà hai buổi nhà không khi nào vắng người đòi nợ Sống qua ngày nên phải nghiến răng Cũng không vui nên mẹ ít khi cười Những buổi trưa buổi tối Ngồi một mình hay khóc Vẫn thở dài mà không nói ra Thương con không cha Hẩm hiu côi cút Tôi yêu đất nước này xót xa Mẹ tôi nuôi tôi mười mấy năm không lấy chồng Thương tôi nên ở goá nuôi tôi Những đứa nhà giàu hàng ngày chửi bới Chúng cho mẹ con tôi áo quần tiền bạc như cho một đứa hủi Ngày kỵ cha họ hàng thân thích không ai tới Thắp ba cây hương Với mấy bông hải đường Mẹ tôi khóc thút thít Cầu cha tôi phù hộ tôi nên người Con nó còn nhỏ dại Trí chưa khôn chân chưa vững bước đi Tôi một mình nuôi nó có kể chi mưa nắng Tôi yêu đất nước này cay đắng Những đêm dài thắp đuốc đi đêm Quen thân rồi không ai còn nhớ tên Dĩ vãng đè trên lưng thấm nặng Áo mồ hôi những buổi chợ về Đời cúi thấp Giành từng lon gạo mốc Từng cọng rau, hột muối Vui sao khi còn bữa đói bữa no Mẹ thương con nên cách trở sông đò Hàng gánh nặng phải qua cầu xuống dốc Đêm nào mẹ cũng khóc Đêm nào mẹ cũng khấn thầm Mong con khôn lớn cất mặt với đời Tôi yêu đất nước này khôn nguôi Tôi yêu mẹ tôi áo rách Chẳng khi nào nhớ tuổi mình bao nhiêu Tôi bước đi Mưa mỗi lúc một to Sao hôm nay lòng thấy chật Như buổi sáng mùa đông chưa có mặt trời mọc Con sông dài nằm nhớ những chặng rừng đi qua Nỗi mệt mỏi, rưng rưng từng con nước Chim đậu trên cành chim không hót Khoảng vắng mùa thu ngủ trên cỏ may Tôi yêu đất nước này những buổi mai Không ai cười không tiếng hát trẻ con Đá đất cỏ cây ơi Mười ba năm có héo mòn Đá đất cỏ cây ơi Lòng vẫn thương mẹ, nhớ cha Ăn quán nằm cầu Hai hàng nước mắt chảy ra Mỗi đêm cầu trời khấn Phật cho tai qua nạn khỏi Ngày mai mua may bán đắt Tôi yêu đất nước này áo rách Căn nhà dột phên không ngăn nổi gió Vẫn yêu nhau trong từng hơi thở Lòng vẫn thương cây nhớ cội hoài Thắp đèn đêm ngồi đợi mặt trời mai Tôi yêu đất nước này như thế Như yêu cây cỏ trong vườn Như yêu mẹ tôi chịu khó chịu thương Nuôi tôi thành người hôm nay Yêu một giọng hát hay Có bài mái đẩy thơm hoa dại Có sáu câu vọng cổ chứa chan Có ba ông táo thờ trong bếp Và tuổi thơ buồn như giọt nước trong lá sen Tôi yêu đất nước này và tôi yêu em Thủa tóc kẹp tuổi ngoan học trò Áo trắng và chùm hoa phượng đỏ Trong bước chân chim sẻ Ngồi học bài và gọi nhỏ tên tôi Hay nói chuyện huyên thuyên Chuyện trên trời dưới đất rất lạ Chuyện bông hoa mọc một mình trên đá Cứ hay cười mà không biết có người buồn Sáng hôm nay gió lạnh vẫn còn Khi xa nhà vẫn muốn ngoái lại Ngó cây cam cây cải Thương mẹ già như chuối ba hương Em chưa buồn Vì chưa rách áo Tôi yêu đất nước này rau cháo Bốn ngàn năm cuốc bẫm cày sâu Áo đứt nút qua cầu gió bay Tuổi thơ em hãy giữ cho ngoan Tôi yêu đất nước này lầm than Mẹ đốt củi trên rừng và cha làm cá ngoài biển Ăn rau rìu, rau éo, rau trai Nuôi lớn người từ ngày mở đất Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật Một tấc lòng cũng trứng Âu Cơ Một tiếng nói cũng đầy hồn Thánh Gióng Tôi đi hết một ngày Gặp toàn người lạ Chưa ai biết chưa ai quen Không biết tuổi không biết tên Cùng sống chung trên trái đất Cùng nỗi đau chia cắt Bắc Nam Cùng có chung tên gọi Việt Nam Mang vết thương chảy máu ngoài tim Cùng nhức nhối với người chết oan ức Đấm ngực giận hờn tức tối Cùng anh em cất cao tiếng nói Bản tuyên ngôn mười bốn triệu người đòi độc lập tự do Bữa ăn nào cũng phải được no Mùa lạnh phải có áo ấm Được ca hát, nói cười, yêu đương không ai cấm Được thờ cúng những người mình tôn kính Hai mươi năm cuộc đời chưa khi nào định Tôi trở về căn nhà nhỏ Đèn thắp ngọn lù mù Gió thổi trong lá cây xào xạc Vườn đêm thơm mát Bát canh rau dền có ớt chìa vôi Bên hàng xóm có tiếng trẻ con khóc Mẹ bồng con lên non ngồi cầu Ái Tử Đất nước hôm nay đã thấm hồn người Ve sắp kêu mùa hạ Nên không còn mấy thu Đất nước này còn chua xót Nên trông ngày thống nhất Cho bên kia không gọi bên này là người miền Nam Cho bên này không gọi bên kia là người miền Bắc Lòng vui hôm nay không thấy chật Tôi yêu đất nước này chân thật Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi Và yêu tôi đã biết làm người Cứ trông đất nước mình thống nhất 19/12/1967
Trần Vàng Sao
Người Đàn Ông Bốn Mươi Ba Tuổi Nói Về Mình
poem.php?poem=nguoi_dan_ong_bon_muoi_ba_tuoi_noi_ve_minh__tran_vang_sao
1. Tôi tuổi tỵ Năm nay bốn mươi ba tuổi Thường không có một đồng trong túi Buổi sáng buổi chiều Thứ hai thứ ba thứ bảy chủ nhật Trong nhà ngoài sân với hai đứa con Cây cà cây ớt Con chó con mèo Cái đầu gãy cái tay gãy của con búp bê Cọng cỏ ngọn lá vú sữa khô Thúng mủng chai chén sách vở quần áo mũ nón cuốc rựa trên ghế dưới bàn Hai ba ngày một tuần một tháng có khi không đi đâu hết Một hai ba giờ sáng thức dậy ngồi vác mặt ngó trời nghe chó sủa Miếng nước trà mốc nguội có mùi bông lài rát cổ Cũng không có chi phiền Vấn một điếu thuốc hút Hai ba lần tắt đỏ Rồi nửa chừng rách giấy Bạn bè gặp nhau Cho uống một ly cà phê Một lần Qua hai lần phải tránh Không phải ai cũng nghĩ như mình Nhiều đứa vui gặp nhau cho năm ba đồng một chục Đưa tay cầm lấy Miệng nói không được 2. Tôi thấy tôi như người tù được thả rông Lang thang giữa đường giữa phố Nhìn hết mọi người Xem mình lâu ngày mặt mũi có khác người không Tôi đi lui Tôi đi tới Phố phường đông chật Tiếng cười tiếng la tiếng nói tiếng xe cộ Chẳng có ai quen thử nói chào tôi một tiếng Tôi đưa hai tay lên đầu vuốt tóc Lấy chân hất một hòn đá Cúi xuống nhìn mấy bao thuốc không bên lề đường Rồi đi về Qua cầu dép sút một quai Tôi không muốn nhớ gì hết 3. Tôi ngồi trên hòn đá trước nhà Buổi chiều không có một con chim đậu trên cây Đám trẻ con chia phe bắn nhau cười la ngoài sân Đứa sống đứa chết cãi nhau ăn gian chửi thề Những người đi bán về nói chuyện to Hai đứa nhỏ nhà bên cạnh cầm đèn che miếng lá chuối Qua xin lửa hỏi tôi nấu cơm chưa Tôi cười lắc đầu muốn đi ngủ Trong gió có mùi rơm cháy Tôi không biết làm gì hết Tôi bỏ hai chân ra khỏi dép cho mát Đám trẻ con bỏ chơi chạy theo phá đàn trâu bò đi qua Tôi bước vào nhà mở rộng hai cánh cửa lớn thắp một cây đèn để lên bàn thờ Hai đứa con ra ngoài đường chờ mẹ chưa về Trời còn lâu mới tối Tôi đi gánh một đôi nước uống 4. Tôi sống yên ổn với những việc làm hàng ngày của mình Không định được ngày mai Có một đồng để mua cho con nửa cái bánh tráng hay hai cái kẹo gừng Có hai đồng cất dưới chân đèn trên bàn thờ lỡ khi hết dầu thắp tới bữa thiếu ruốc hết bột ngọt Mả cha cuộc đời quá vô hậu Cơm không có mà ăn Ngó lui ngó tới không biết thù ai Những thằng có thịt ăn thì chẳng bao giờ ỉa vất 5. Lâu ngày tôi thấy quen đi Như quen thân thể của mình Tiếng ho gà nửa đêm của những đứa bé chưa đầy hai tuổi Buổi chiều không có cơm ăn Những con ruồi ăn nước mũi khô trên má     những đứa đau quan sát những con chuột         chết lòi ruột ở bến xe đò Những tiếng cha mẹ vợ chồng anh em     con cái chửi bới la hét trong bữa ăn Người điên ở trần đứng làm thinh     giữa trời mưa ngoài chợ Những ngày hết gạo hết tiền hết củi     muối sống không còn một hột của tôi Những trách canh rau khoai tháng năm không có bột ngọt Hai mắt tôi mở to Đầu tôi cúi thấp Miệng tôi há ra Những lá khoai nhám và rít mắc vài hột cơm             dồn cứng chật cuống họng Nói thật lúc này tôi muốn được say rượu Họa may thấy một đồng thành ba bốn đồng 6. Nhiều khi tôi quá chán Chân tay rã rời Đầu óc đau nhức Không muốn làm gì hết Mấy đứa nhỏ chơi buôn bán bỏ đi đâu không biết             để đất đá lá cây đầy nhà Tôi dựa cửa ngồi yên một chỗ Dụi mắt nghĩ hết chuyện này tới chuyện khác Nói chi tới những đứa đã chết trên rừng giữa phố Bạn bè có đứa giàu đứa nghèo Đứa ngụy đứa cách mạng Đứa của tiền ăn tiêu mấy không hết Đứa không có được một cái áo lành Đứa đi kinh tế mới ba bốn bảy tám năm              trở về xách một cái bị lát Mặt cắt không có một hột máu Đứa đạp xe thồ ngồi vắt chân ăn củ sắn             chờ khách ở bến xe Đứa vô tích sự ở nhà không có việc chi làm Có đứa râu tóc dài che kín mặt Có đứa tàn không nhớ mình tên chi Có đứa chịu không nổi dắt vợ con vào nam             ăn chợ ngủ đường Mỗi lần gặp nhau mở to mắt cười hút một điếu thuốc Hết chuyện nói Hai đứa con đi chơi về cười nói Đứa nhỏ bắt tôi đánh trống         cho nó làm ông địa múa thiên cẩu 7. Cái trống lon mặt ni lông và hai chiếc đũa tre Tôi đánh Múa đi các con Này đây cái nón gãy vành làm đầu thiên cẩu Và sợi dây chuối treo ngọn lá làm tiền Múa đi các con Cái bụng ông địa to tròn giơ lỗ rún gài nút áo không được Ông địa chống tay vỗ bụng ngửa mặt lên trời cười ha ha Tôi vỗ tay hoan hô Và không biết mình có nhớ ra được         cái mặt ông địa không Tháng chín 1984
Trần Vàng Sao
Câu Cá
poem.php?poem=cau_ca__phan_van_tri
Ngươi hỡi Nghiêm Lăng có biết chăng? Lòng ta ý gã đố ai bằng? Nửa cần thú vị trời trời nước, Một sợi kinh luân gió gió trăng. Thao lược đã đành ngàn dặm bủa, Giang sơn tóm rốc một tay phăn. Xưa nay cũng một lòng sông Vị, Mơ tưởng xe Châu biếng nói năng! Lỗi phải thây ai, chẳng lụy cầu, Sao bằng thong thả một cần câu. Dòng ngân thả lưới dầu trưa sớm, Đáy bích dòng tơ mặc tóm thâu. Dựa bãi Nghiêm Lăng chơbì thới, Neo gành Lữ Vọng nhắp công hầu. Giang sơn thế để minh là thợ, Sanh sát quyền ta thế biết đâu!
Phan Văn Trị
Hà Nội Mùa Thu
poem.php?poem=ha_noi_mua_thu__phan_van_tri
Lâu lắm rồi mới ra đường buổi tối Hà Nội vào thu quá dịu êm Gió rất nhẹ làm ánh đèn xao động Và như xao động cả màn đêm Đường phố vẫn đông người qua lại Những đôi lứa nắm nhẹ tay nhau Từng tốp em trai và em gái Dạo trên đường ríu rít bên nhau Một vài quán nước ánh đèn xanh Kê ghế ra hiên đón gió lành Vài bác về hưu ngồi đàm đạo Thoáng nhìn như cảnh ở trong tranh Như chẳng hề suốt ngày bận rộn Những công trường xưởng máy lò hơi Như chẳng hề suốt ngày tất bật Trong bụi đường áo lấm mồ hôi Buổi tối mùa thu êm dịu quá Hoa sữa thơm ngào ngạt khắp đường Đã bao mùa đến rồi đi mất Vẫn ngỡ ngàng mùa thu quê hương.
Phan Văn Trị
Hương Thầm
poem.php?poem=huong_tham__phan_van_tri
Cửa sổ hai nhà cuối phố Không hiểu vì sao không khép bao giờ. Đôi bạn ngày xưa học cùng một lớp Cây bưởi sau nhà ngan ngát hương đưa. Giấu một chùm hoa sau chiếc khăn tay, Cô gái ngập ngừng sang nhà hàng xóm, Bên ấy có người ngày mai ra trận Họ ngồi im không biết nói năng chi Mắt chợt tìm nhau rồi lại quay đi, Nào ai đã một lần dám nói? Hoa bưởi thơm cho lòng bối rối Anh không dám xin, Cô gái chẳng dám trao Chỉ mùi hương đầm ấm thanh tao Không dấu được cứ bay dịu nhẹ. Cô gái như chùm hoa lặng lẽ Nhờ hương thơm nói hộ tình yêu. (Anh vô tình anh chẳng biết điều Tôi đã đến với anh rồi đấy...) Rồi theo từng hơi thở của anh Hương thơm ấy thấm sâu vào lồng ngực Anh lên đường Hương thơm sẽ theo đi khắp Họ chia tay Vẫn chẳng nói điều gì Mà hương thầm thơm mãi bước người đi
Phan Văn Trị
Không Đề
poem.php?poem=khong_de__phan_van_tri
Đâu đây trong cuộc sống đời thường của em Ngày tháng vui buồn có anh Như niềm hy vọng mong manh Cầm tay rồi lại hoá thành giấc mơ Mặt trời đằm thắm thiết tha Mà tia nắng ấm bên ta vô hình Nghĩ về anh, nghĩ về anh Mơ hay thực cũng không đành trong em Chỉ khi buồn khổ yếu mềm Nâng em dậy có lòng tin một người Anh là thực đấy anh ơi Trong em sáng một mặt trời thân yêu Ta như hai đứa trẻ nghèo Quả ngon chỉ dám nâng niu ngắm nhìn Đừng bao giờ nhé, chín thêm Sợ tan mất giấc mơ em một thời.
Phan Văn Trị
Một Người
poem.php?poem=mot_nguoi__phan_van_tri
Căn phòng vắng một người Bỗng trở nên trống vắng Không còn gì ấm cúng Không còn gì vui tươi Bữa ăn vắng một người Tìm đâu ra mùi vị Khói cơm cay mắt thế Bây giờ em mới hay Hun hút hai hàng cây Gió thổi dài ngơ ngác Thành phố vắng một người Đường không ai dạo chơi Một người mang đi hết Bao nhiêu là thông minh Chẳng còn ai hóm hỉnh Ai cũng đều nhạt tênh Tấm ván nằm chông chênh Sao rơi như nước mắt Lòng em nghiêng về anh Để tháng ngày vắng ngắt Đi dọc dài đất nước Không còn ai đón đưa Không còn ai chờ đợi Không ai mà viết thư Dẫu bao nhiêu bài thơ Chỉ mình em đau xót Một mình như trái đất Em bây giờ không anh…
Phan Văn Trị
Rồi Có Thể
poem.php?poem=roi_co_the__phan_van_tri
Rồi có thể ta nhìn nhau ngượng ngập Anh đi cùng cô gái khác xinh tươi Tôi cố để không rơi nước mắt Còn ai đâu thương mến dỗ cho nguôi Rồi có thể vợ và con ríu rít Anh nhẹ nhàng quên hết chuyện đôi ta Anh hối hả đón cuộc đời hạnh phúc Tôi bàng hoàng mãi chẳng hiểu ra Rồi có thể đắng cay và đơn độc Sao hôm nay tôi vẫn thấy yêu đời Mỗi ngày sống có bao điều đẹp quá Khi chiều về anh nháy mắt chào vui Chỉ một phút sống cùng nhau như thế Tôi đã mang theo đến trọn đời
Phan Văn Trị
Mặc Chê Khen
poem.php?poem=mac_che_khen__nguyen_binh_khiem
Thị phi chẳng quản, mặc chê khen Ngu dại chan chan, tính đã quen Cảnh cũ điền viên, tìm chốn cũ Khách nhàn sơn dã, dưỡng thân quèn Nhà thông, đường trúc (1), lòng hằng mến Cửa mận tường đào (2). bước ngại chen Thế sự tuần hoàn, hay đắp đổi Từng xem thua được, một hai phen.
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Nhân Tình Thế Thái
poem.php?poem=nhan_tinh_the_thai__nguyen_binh_khiem
4. Thấy dặm thanh vân bước ngại chen Được nhàn ta sá dưỡng thân nhàn Ba gian am quán lòng hằng mến Đôi chốn sơn hà mặt đã quen Thanh vắng thú quê giàu bao nả Dữ lành miệng thế mặc chê khen Mai kia chửa dễ thu nên muộn Xuân nọ tin hoa cũng mấy phen 7. Được thua thấy đã ít nhiều phen Để rẻ công danh đổi lấy nhàn Am Bạch Vân rồi nhàn hứng Dặm hồng trần vắng ngại chen Ngày chầy họp mặt hoa là khách Đêm vắng hay lòng nguyệt ấy đèn Chớ chớ thờ ơ nhìn mới biết Đỏ thì son đỏ mực thì đen 16. Chửa dễ ai là bụt Thích Ca Mọi niềm nhân ngã nhẫn thì qua Lòng vô sự trăng in nước Của thảng lai gió thổi hoa Kìa khách xuân xanh khi trẻ Mấy người đầu bạc tuổi già Thanh nhàn ấy ắt là tiên khách Được thú ta đà có thú ta 28. Nép mình qua trước chốn xôn xao Mấy sự bên tai gió thoảng ào Cửa trúc vỗ tay cười khúc khích Hiên mai tréo cẳng hát nghêu ngao Lo le đã vậy thời dầu vậy Vặt vãnh màng bao sá quản bao Chẳng hết trung cần hai chữ ấy Nhờ ơn đất rộng cậy trời cao 36. Một bầu một bát vũng sơn tăng Thế sự ngoài tai biếng nói năng Hoa nở luống hay tin gió Đầm thanh còn thấy dáng trăng Già ai ủ thông làm củi Trẻ người yêu trúc mọc măng Nếu có công danh thì có lụy Cho hay dù có chẳng bằng chăng 38. Một mai một cuốc một cần câu Thơ thẩn dù ai vui thú nào Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ Người khôn người đến chốn lao xao Thu ăn măng trúc đông ăn giá Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao Rượu đến gốc cây ta sẽ uống Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao 40. Vòi vọi xuân xanh nửa tiền Già càng khoẻ khó càng bền Đòi phen lẩn luốt vì thơ dại Mọi sự lờ đờ bởi rượu quen Ngày vãn giải phiền cờ một cuộc Đêm thanh làm bạn sách hai bên Xưa nay xuất xử đâu là phải Ở cũng nên về ắt cũng nên 46. Thị phi chẳng quản mặc chê khen Ngu dại chan chan tính đã quen Cảnh cũ điền viên tìm chốn cũ Khách nhàn sơn dã dưỡng thân nhàn Nhà thông đường trúc lòng hằng mến Cửa mận tường đào bước ngại chen Thế sự tuần hoàn hay đắp đổi Từng xem thua được một hai phen
Nguyễn Bỉnh Khiêm
Cô Bạn Học
poem.php?poem=co_ban_hoc__tran_thien_thanh
Em bảo anh nếu em là nữ hoàng Anh xin gì thì em sẽ ban cho Nhưng nói trước không nhường ngôi đâu nhé Vì vua thường hay chọn lắm cung phi Và một hôm em ghé đến thăm anh Sợ mẹ cha hay chuyện của đôi mình Anh nói dối thưa đây cô bạn học Đã lâu rồi con mới được gặp nhau Cứ mỗi tháng em lại đến thăm anh Sau mỗi tuần em đến thăm anh một lần Rồi quen dần hằng đêm em anh đến Nên láng giềng thấy thế bảo nàng dâu Kỷ niệm đó và còn bao nhiêu nữa Em của anh giờ là vợ người ta Để anh mãi đau thương vì ước nguyện Tháng năm dài chưa xóa được tình em.
Trần Thiện Thanh
Nhịp Cầu Nối Những Bờ Vui
poem.php?poem=nhip_cau_noi_nhung_bo_vui__phan_van_tu
Chiếc cầu là nơi hò hẹn của đôi ta Đêm trăng sáng trên cầu anh thổi sáo Đêm trăng sáng chân cầu em giặt áo Nhịp cầu nối những bờ vui Anh vào bộ đội Làm nhiều cầu treo qua suối Anh bắc cầu phao qua khúc sông sâu Anh nối nhớ thương bằng những nhịp cầu Những chiếc cầu ngày đêm bom dội Vẫn nguyên vẹn đứng trên lửa khói Những chiếc cầu vẫn nối hai quê Đêm trăng sáng chân cầu em giặt áo Anh lại về sau ngàn ngày chiến đấu Ngồi trên cầu thổi sáo đón em
Phan Văn Từ
Long Lanh Buồn Long Lanh Cô Đơn
poem.php?poem=long_lanh_buon_long_lanh_co_don__nguyen_thi_hong_ngat
Ai dám kêu lên giữa thế gian này Rằng ta là người hạnh phúc Họa đó là người điên! Đã có những ngày có thể là vàng Không biết giữ để tuột tay rơi mất Chỉ một lần lười nhác, Chỉ một lần chủ quan. Long lanh ngày lại long lanh đêm Long lanh chán – long lanh buồn tẻ Long lanh xinh – chẳng để làm gì cả Long lanh một mình – long lanh cô đơn. Vui thú nào tồn tại ở thời gian Năm tháng chết cả khi người còn sống Tù khổ sai trong số phận mình đau đớn Long lanh buồn – long lanh cô đơn… Một ngọn đèn thổn thức trong đêm Một quầng sáng lẻ loi, cô độc Ai dám nói mình là người hạnh phúc Họa đó là người điên!
Nguyễn Thị Hồng Ngát
Từ Một Dòng Sông
poem.php?poem=tu_mot_dong_song__vo_minh_trang
Gõ cây bút hỏi thơ già mấy tuổi Bóng trăng ngoan ngày cũ có còn không Dòng ký ức có tung mù gió rối Kiếp lục bình được mấy bận trổ bông Bờ tre cũ trên đất vườn quê cũ Trỗi thanh bình bệu má gió nồm đông Gọi thơ về gom mảnh trời quá khứ Thắp hoa niên bùng cháy ngọn đèn hồng Rủ bạn bè lột áo xuống chơi sông Đá bò đúp hoặc chạy rong đuổi cá Nước sông Thu-Bồn em ơi mùa hạ Không tắm sông không thể biết được đâu Gái chọn bên bồi trai thích vực sâu Mà vẫn giữ tròn câu tình thu thủy Bởi trót vay món nợ lòng thi sĩ Nên thân đành lạ lẫm bến sông quê Mấy mươi năm mới có buổi quay về Thôn xóm cũ chừng lạ huơ lạ hoắc Những đứa trẻ lớn thình không biết mặt Bạn bè xưa tan tác sạch sành sanh Nhìn dải Thu-Bồn thương đất Phú-Hanh Con cá nhỏ sống trong đồng ruộng nhỏ Lắc hàng rào vàng rưng gai mắt ó Thương đôi chân của mẹ quá chừng thôi Ngoài rẫy tranh lắm gai dứa xấp xôi Trời nắng chang chang ngày dài đổ lửa Mẹ tắm mồ hôi nhòe dòng máu ứa Sánh tình con chưa xứng nửa lời ru Đại lượng Mẹ cười mát giọng sông Thu Đã lớn khôn chưa cái thằng khéo dại Đừng bận bịu lạc lòng như con gái Đường vào xuân gai góc lắm kia mà Mẹ nhọc nhằn chờ đá sỏi đơm hoa Chuối thanh tiêu nhỏ buồng nhưng trái ngọt Nương tre lão măng non cao chót vót Tình Mẹ tình quê nặng lắm Mẹ ơi Dòng chảy tháng năm đắng hột bời bời Chạnh cõi người mòn gót chân trên sỏi Vàng trái thị khói lam chiều quê ngoại Mái chèo thơ thổn thức buổi quay về
Võ Minh Trang
Một Người Lính Nói Về Thế Hệ Mình
poem.php?poem=mot_nguoi_linh_noi_ve_the_he_minh__thanh_thao
ngày chúng tôi đi các toa tàu mở toang cửa Không có gì phải che giấu nữa Những thằng lính trẻ măng tinh nghịch ló đầu qua cửa sổ Những thằng lính trẻ măng quân phục xùng xình Chen bám ở bậc toa như chồi như nụ Con tàu nổi hiệu còi rung hết cỡ Và dài muốn đứt hơi Hệt tiếng gã con trai ồm ồm mới vỡ Thế hệ chúng tôi Hiệu còi ấy là một lời tuyên bố một thế hệ mỗi ngày đều đụng trận Mà trách nhiệm nặng hơn nòng cối 82 Vẫn thường vác trên vai một thế hệ thức nhiều hơn ngủ Xoay trần đào công sự Xoay trần trong ý nghĩ Đi con đường người trước đã đi Bằng rất nhiều lối mới những cái tên trên cây rừng khắc vội Những chữ N chữ T vạch ở các bình tông Ba lô đựng một bộ áo quần Vài gói mắm cùng nắm cơm nho nhỏ Bếp dã chiến cháy dọc bờ suối đá Treo tòn ten mấy ống cóng canh chua Nấu lá giang và mắm ruốc Tất cả những gì chúng tôi có được Đều trải cho nhau, trải ra đất thật tình Với quân thù-chi đến tối đa Với bè bạn-phải chơi hết mình nếu chỉ nhìn da chúng tôi đen hơn Nhìn cái vóc dạn dày trước tuổi Đếm vết chai trên bàn tay, chưa đủ Cũng chưa đủ nếu chỉ tính cuộc đời bằng những chiến công ôi trảng dầu những chiếc lá khô cong Mỗi bước dưới chân rì rầm tiếng nói Đêm hành quân qua nhiều đống lửa Bùng tự nhiên ngay giữa lối mòn thế hệ chúng tôi bùng ngọn lửa chính mình Soi sáng đường đi tới Có những đêm mưa quất bốn bề Giữa Tháp Mười không mái lá nương che Nước đã giật phải đẩy xuồng băng trấp Lúc ấy chân trời là lưng người đi trước Vụt loé lên qua ánh chớp màn mưa thế hệ chúng tôi trắng từng đêm lội nước Sình bết từ chân bết đến đầu Nên giọng nói có nhiều khi ngang dọc Nên cái nhìn có lắm phen gai góc Vì ngọn lửa chịu sình là lửa thực Đã bùng lên dám cháy tận sức mình nhủ điều chi ơi tiếng quốc đêm sương Kêu da diết suốt một mùa nước nổi Bông điên điển mở cánh vàng nóng hổi Là nắng chiều đẫm lại giữa lòng tay Đất nước ngấm vào ta, đơn sơ Như Tháp Mười không điểm trang đầy im lặng Trên tất cả tình yêu tình yêu này đi thẳng Đến mỗi đời ta bất chấp những ngôn từ tôi gặp thằng bạn thân trong một chuyến bất ngờ Đêm Mỹ Long hai đứa nằm lộ đất Trải dưới trời một tấm ni lông Nơi khi chiều B52 bừa ba đợt Nơi mấy năm rồi hố bom không đếm hết Nơi tôi chợt thốt niềm mơ giản dị của mình “chừng nào thật hoà bình Ra lộ 4 trải ni lông nằm một đêm cho thoả thích” thằng bạn tôi đăm đăm Nhìn một ngôi sao mọc trong hố bom nhoè nước Đôi mắt nó lạ lùng mà tôi thấy được Chứa đầy một hố bom và một ngôi sao… cơn lốc xoáy trên nóc rừng nguyên thủy Tiếng gió hú dài trong những bộng cây Đàn dơi chấp chới bay Trảng tranh hừng hực nắng chúng tôi qua cái khắc nghiệt mùa khô Qua mùa mưa mùa mưa dai dẳng Võng mắc cột tràm đêm ướt sũng Xuồng vượt sông dưới pháo sáng nhạt nhoà Đôi lúc ngẩn người một ráng đỏ chiều xa Quên đời mình thêm tuổi Chân dép lốp đạp mòn trăm ngọn núi Mà không hề rợp bóng xuống tương lai những trận đánh ập về đầy trí nhớ Pháo chụp nổ ngang trời từng bựng khói Nhịp tim dập dồn lần xuất kích đầu tiên Bình tông cạn khô trên nóc hầm nồng khét Những vỏ đồ hộp lăn lóc Cái im lặng ù tai giữa hai đợt bom Một tiếng gà bất chợt Bên bờ kênh hoang tàn thế hệ chúng tôi không sống bằng kỷ niệm Không dựa dẫm những hào quang có sẵn Lòng vô tư như gió chướng trong lành Như sắc trời ngày nắng tự nhiên xanh đoàn xuồng chuyển quân bơi rậm kênh Bằng Lăng Buổi chiều pháo bắn Những cây bình bát gục ngã Hoàng hôn đôi bờ như máu chảy Trắng dòng kênh xác xăng đặc lều bều tôi bỗng thấy mặt mình trên mặt nước Mặt nước trôi những dề xăng đặc Mặt nước trôi những trái bình bát Mặt nước trôi quê hương không còn nguyên vẹn Và tôi thấy Trôi qua mặt mình bao nhiêu gương mặt Những bạn bè quen những bạn bè chưa gặp Trẻ măng Loang loáng theo con nước Tủa về những đồng sâu Hun hút Buổi chiều đó là những người qua trước Không phải trước hai mươi năm Đó là những người qua sau Không phải sau hai mươi năm Mà vào buổi chiều ấy Trên những dòng kênh ấy Pháo bắn và nước chảy Thế hệ chúng tôi nhìn rất rõ mặt mình 1973
Thanh Thảo
Thử Nói Về Hạnh Phúc
poem.php?poem=thu_noi_ve_hanh_phuc__thanh_thao
I Nửa đêm tôi choàng dậy Tiếng bom hú rất gần Ba đợt B52 Cái hầm của chúng tôi ngày không nắng mặt trời Đêm không ánh sao Những mùa trăng lướt qua Xa cách Tôi thắp đèn Bốn bên là đất Mỗi lúc bom rung Đất rơi đầy mặt Đất rơi đầy giấc mơ Những giấc mơ chập chờn Bao giờ cũng có khoảng trời xanh vòi vọi Lung linh gương mặt của người thương II Những tình yêu thật thường không ồn ào Chúng tôi đều hiểu đất nước đang hồi khốc liệt Chúng tôi hiểu điều ấy bằng mọi giác quan Bằng chén cơm ăn mắm ruốc Bằng giấc ngủ bị cắt ngang cắt dọc Bằng những nắm đất mọc theo đường hành quân Có những thằng con trai mười tám tuổi Chưa từng biết nụ hôn người con gái Chưa từng biết những lo toan phức tạp của đời Câu nói đượm nhiều hơi sách vở Khi nằm xuống Trong đáy mắt vô tư còn đọng một khoảng trời Hạnh phúc nào cho tôi Hạnh phúc nào cho anh Hạnh phúc nào cho chúng ta Hạnh phúc nào cho đất nước Có những thằng con trai mười tám tuổi Nhiều khi cực quá khóc òa Nhiều lúc tức mình chửi bâng quơ Phanh ngực áo và mở trần bản chất Mỉm cười trước những lời lẽ quá to Nhưng nhất định không bao giờ bỏ cuộc Với những thằng con trai mười tám tuổi Đất nước là nhịp tim có thể khác thường Là một làn mây mỏng đến bâng khuâng Là mùi mồ hôi thật thà của lính Đôi khi là một giọng nữ cao nghe từ Hà Nội Hay một bữa cơm rau rừng Chúng tôi không muốn chết vì hư danh Không thể chết vì tiền bạc Chúng tôi lạ xa với những tin tưởng điên cuồng Những liều thân vô ích Đất nước đẹp mênh mang Đất nước thấm tự nhiên đến tận cùng máu thịt Chỉ riêng cho Người Chúng tôi dám chết III Đêm nay ai dắt tay nhau vào tiệc cưới Ai thức trắng lội sình Ai trầm ngâm viết những câu thơ thông minh Ai trả nghĩa đời mình bằng máu Máu đỏ thật không ồn ào Máu ướt đẫm thấm vào ngực áo Hạnh phúc nào cho tôi Hạnh phúc nào cho anh Hạnh phúc nào cho chúng ta Hạnh phúc nào cho đất nước Những câu hỏi chưa bao giờ nguôi được Mảnh đất hôm nay bè bạn chúng tôi nằm Nơi máu đổ phải sống bằng thực chất Không ai nỡ lo vun vén riêng mình Khi mộ bạn chính bàn tay anh đắp Nơi cao nhất thử lòng ta yêu đất nước Thử lòng ta chung thuỷ vô tư Nơi vỡ vụn dưới chân bao mảng đêm hèn nhát Những gương mặt ngẩng lên lấp lánh chất người IV Cuộc chiến tranh đã đi qua một phần tư thế kỷ Tôi nhớ người con gái xưa tìm chồng Như cơn gió lang thang giữa trời đất mênh mông Nỗi tuyệt vọng khiến tình yêu hoá đá Tôi đã gặp những người con gái Mở đường cho chúng tôi ra trận Qua bóng hòn Vọng Phu Nhiều em chưa tìm được người yêu Đã giáp mặt hàng trăm lần cái chết Hòn núi cô đơn đứng ngàn năm chất ngất Mà hạnh phúc bình thường vẫn quá tầm tay Các em mấy năm bám trụ nơi đây Gánh đá phá bom tải hàng dựng lán Đào sẵn huyệt cho mình khi ngã xuống Mà tình yêu không hoá đá bao giờ Xe chúng tôi qua các em mừng vẫy tay Chắc sau ròn rã tiếng cười Nước mắt sẽ thầm rơi Trên những gương mặt lành màu nắng gió V Cuộc chiến tranh đã đi qua một phần tư thế kỷ Từ tiếng khóc oa oa chào đời của anh Đến phút đầu mình thương nhau em khóc Đến một ngày chia ly Đến nhiều tháng năm xa cách Anh sẽ nói với em thế nào về hạnh phúc Mùi thuốc súng bay qua số phận chúng mình Em nói sẽ chờ anh năm năm mười năm Sẽ chờ anh hết cuộc chiến tranh này Dù ngày trở về không nguyên vẹn Buổi chiều dâng vàng rực ngọn cây Những cánh chim mãi bay về một hướng Góc duy nhất trong đời anh yên tĩnh Là em Giữa chúng mình Nỗi nhớ nhau chưa đủ thành hạnh phúc Cái khoảng cách bao giờ cũng thật Nhưng anh tin em sẽ đợi anh về Dù biết đây là những tháng năm dài nhất Nghe gió cồn xao đảo góc rừng khuya Nghĩ đến em đất trời lắng lại Chúng mình sẽ thương nhau như chưa bao giờ thương vậy Nếu bước cuối cùng này Ta bước qua Và em ơi, ngày sum họp ngày mai Giữa chúng mình Còn tên những bạn bè ngã xuống Những người hay mơ mộng Tha thiết yêu và muốn làm được chút gì Cho em Cho anh Cho đất nước Đôi tay họ Đôi bàn tay trong sạch Đã vùi sâu trong đất Sẽ vươn giữa hai ta như những nhành cây Những nhành cây ôm chặt cuộc đời này Giữ cho những người yêu tròn hạnh phúc. 1972
Thanh Thảo
Tổ Quốc
poem.php?poem=to_quoc__thanh_thao
Vệt nắng mỏng trước sân mái gà cục tác Con tôi ngủ trong nôi văng vẳng tiếng còi tàu Bữa cơm gia đình tôi trộn bắp trộn sắn bảy mươi phần trăm Mùa xuân những cơn bão hung hãn bất ngờ ập tới Trầm tĩnh như rừng kia như biển kia Tổ Quốc tôi đứng lên trước bầy xâm lăng phương bắc Những dãy núi cong cánh cung những nỏ thần khủng khiếp Lại tung hàng loạt mũi tên xuyên ngực quân thù Ải Nam Quan ngọn khói xưa Nguyễn Trãi nuốt nước mắt quay về Mười năm nằm gai nếm mật Hẽm Chi Lăng lầm lì sông Kỳ Cùng bốc cháy Pháo đã giăng từ ngàn vạn điểm cao Quân di chuyển những dòng sông chảy ngược Mây uy nghi Yên Tử thuở nào Còn in dáng Trần Nhân Tông mắt dõi về phương bắc Tính nước cờ ung dung trên cao Sông Kỳ Cùng những tảng đá lên hơi Đùa với mặt trời trong nước Tôi chỉ đến tắm một lần nhưng đó là Tổ Quốc Chảy lặng thầm suốt cuộc đời tôi Những câu lượn câu sli đêm chợ Kỳ Lừa Chén rượu nồng thơm sắc màu thổ cẩm Vó ngựa gõ dòn lâng lâng sương khuya Khẩu súng chống tăng ghì chặt vào vai Anh xạ thủ H’Mông mười tám tuổi Khi lũ giặc đang điên cuồng lao tới Một chấm nhỏ trên bản đồ một chấm nhỏ thiêng liêng Phút người lính đứng bật lên cắm chặt chân vào đất Phút ấy, đất dưới chân anh là Tổ Quốc Quả đạn rời nòng trong chớp mắt Xe tăng cháy ngang đồi lũ giặc lùi xa Anh lính trẻ mỉm cười lau mồ hôi trên mặt Gương mặt dịu lành như Tổ Quốc chúng ta Tháng 2/1979
Thanh Thảo
Anh Giả Điếc
poem.php?poem=anh_gia_diec__nguyen_khuyen
Trong thiên hạ có anh giả điếc, Khéo ngơ ngơ ngác ngác, ngỡ là ngây! Chẳng ai ngờ "sáng tai họ, điếc tai cày", Lối điếc ấy sau này em muốn học. Toạ trung đàm tiếu, nhân như mộc Dạ lí phan viên, nhĩ tự hầu. (1) Khi vườn sau, khi ao trước; khi điếu thuốc, khi miếng trầu. Khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu; Sáng một chốc, lâu lâu rồi lại điếc Điếc như thế ai không muốn điếc? Điếc như anh dễ bắt chước ru mà! Hỏi anh, anh cứ ậm à.
Nguyễn Khuyến
Bồ Tiên Thi
poem.php?poem=bo_tien_thi__nguyen_khuyen
(1) Chú huyện Thanh Liêm khéo giở trò, "Bồ tiên thi" lại lấy vần bồ. Nghênh ngang võng lọng nhờ ông sứ, Ngọng nghẹo văn chương giở giọng ngô. Bồ chứa miệng dân chừng bật cạp, Tiên (2) là ý chú muốn vòi xu! Từ vàng sao chẳng luôn từ bạc, Không khéo mà roi nó phết cho.
Nguyễn Khuyến
Cảm Hứng
poem.php?poem=cam_hung__nguyen_khuyen
Ngày trước cùng lên lạy cửa trời (1) Lâu nay vắng vẻ bặt tăm hơi Nước non man mác về đâu tá Bè bạn lơ thơ sót mấy người Đời loạn đi về như hạc độc Tuổi già hình bóng tựa mây côi Đã hay nhờ được hao mòn lắm Một thí lòng son chửa rõ mười
Nguyễn Khuyến
Chợ Đồng
poem.php?poem=cho_dong__nguyen_khuyen
Tháng chạp hai mươi bốn chợ Đồng, Năm nay chợ họp có đông không? Dở trời, mưa bụi còn hơi rét. Nếm rượu, tường đền (1) được mấy ông? Hàng quán người về nghe xáo xác, Nợ nần năm hết hỏi lung tung. Dăm ba ngày nữa tin xuân tới. Pháo trúc (2) nhà ai một tiếng đùng.
Nguyễn Khuyến
Chơi Núi Non Nước
poem.php?poem=choi_nui_non_nuoc__nguyen_khuyen
(1) Chom chỏm trên sông đá một hòn, Nước trôi sóng vỗ biết bao mòn? Phơ đầu đã tự đời Bàn Cổ, (2) Bia miệng còn đeo tiếng trẻ con. Rừng cúc tiền triều (3) trơ mốc thếch, Hồn câu Thái phó (4) tảng rêu tròn. Trải bao trăng gió xuân già giặn, Trời dẫu già, nhưng núi vẫn non.
Nguyễn Khuyến
Đĩ Cầu Nôm
poem.php?poem=di_cau_nom__nguyen_khuyen
(1) Thiên hạ bao giờ cho hết đĩ? Trời sinh ra cũng để mà chơi! Dễ mấy khi làm đĩ gặp thời, Chơi thủng trống long dùi âu mới thích Đĩ bao tử càng chơi càng lịch, Tha hồ cho khúc khích chị em cười: Người ba đấng, của ba loài, Nếu những như ai thì đĩ mốc. Đĩ mà có tàn, có tán, có hương án, có bàn độc (2) Khá khen thay làm đĩ có tông (3) Khắp giang hồ chẳng chốn nào không. Suốt Nam Bắc Tây Đông đều biết tiếng. Đĩ mười phương chơi cho đủ chín, Còn một phương để nhịn lấy chồng. Chém cha cái kiếp đào hồng, (4) Bạn với kẻ anh hùng cho đứng số. Vợ bợm, chồng quan, danh phận đó, Mai sau ngày giỗ có văn nôm. Cha đời con Đĩ Cầu Nôm.
Nguyễn Khuyến
Di Chúc
poem.php?poem=di_chuc__nguyen_khuyen
(1) Kém hai tuổi xuân đầy chín chục. Số thầy sinh phải lúc dương cùng. (2) Đức thầy đã mỏng mòng mong, Tuổi thầy lại sống hơn ông cụ thầy. Học chẳng có rằng hay chi cả. Cưỡi đầu người kể đã ba phen; (3) Tuổi là tuổi của gia tiên, Cho nên thầy được hưởng niên lâu ngày. ấy thuở trước ông mày chẳng đỗ, (4) Hóa bây giờ cho bố làm nên; Ơn vua chửa chút báo đền, Cúi trông hổ đất, ngửa lên thẹn trời. Sống không để tiếng đời ta thán, Chết được về quê quán hương thôn; Mới hay trăm sự vuông tròn, Sống lâu đã trải, chết chôn chờ gì? Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt, Kín chân tay đầu gót thời thôi; Cỗ đừng to lắm con ơi, Hễ ai chạy lại, con mời người ăn. Tế đừng có viết văn mà đọc, Trướng đối đừng gấm vóc làm chi; Minh tinh (5) con cũng bỏ đi, Mời quan đề chủ (6) con thì không nên. Môn sinh (7) chớ bổ tiền đặt giấy, Bạn của thầy cũng vậy mà thôi; Khách quen chớ viết thiếp mời. Ai đưa lễ phúng con thời chớ thu. Chẳng qua nợ để cho người sống, Chết đi rồi còn ngóng vào đâu! Lại mang cái tiếng to đầu, Khi nay bày biện, khi sau chê bàn. Cờ biển của vua ban ngày trước, Khi đưa thầy con rước đầu tiên; Lại thuê một lũ phường kèn, Vừa đi vừa thổi mỗi bên dăm thằng. Việc tống táng nhung nhăng qua quýt, Cúng cho thầy một ít rượu hoa; Đề vào mấy chữ trong bia, Rằng: "Quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu".
Nguyễn Khuyến
Giả Cách Điếc
poem.php?poem=gia_cach_diec__nguyen_khuyen
Trong thiên hạ có người giả điếc, Khéo ngơ ngơ ngác ngác ngỡ là ngây, Chẳng ai ngờ sáng tai họ, điếc tai cày, (1) Rở lối điếc, để sau này em út học. Tọa trung đàm tiếu nhan như mộc, Dạ bán phan viên thủ tự hầu. (2) Khi vườn sau, khi ao trước, khi điếu thuốc, khi miếng trầu. Khi chè chuyên năm bảy chén, khi Kiều lẩy một đôi câu; Tỉnh một lúc, lâu lâu rồi lại điếc. Điếc như thế, ai không muốn điếc? Điếc như anh dễ bắt chước ru mà! Hỏi anh, anh cứ ậm à.
Nguyễn Khuyến
Lời Gái Góa
poem.php?poem=loi_gai_goa__nguyen_khuyen
Chàng chẳng biết gái này gái góa Buồn nằm suông, suông cả áo cơm Khéo thay cái mụ tá ơm Đem chàng tuổi trẻ ép làm lứa đôi Chàng tuổi trẻ chơi bời quên nhọc Gái già này sức vóc được bao? Muốn sao, chiều chẳng được sao Trước tuy sum họp, sau nào được lâu? Lấy chồng vốn nhờ câu ăn mặc Chẳng ngờ rằng đói rách hổ ngươi Vốn xưa cha mẹ dặn lời Tư bôn lại phải kẻ cười người chê Hỡi mụ hỡi, thương chi thương thế? Thương thì hay, nhưng kế chẳng hay Thương thì gạo vải cho vay Lấy chồng thì gái góa này xin van! Tác giả tự dịch bài “ Li phụ hành”
Nguyễn Khuyến
Lời Vợ Anh Phường Chèo
poem.php?poem=loi_vo_anh_phuong_cheo__nguyen_khuyen
Xóm bên đông có phường chèo trọ, Đương nửa đêm gọi vợ chuyện trò: Rằng: "ta thường làm quan to, Sao người coi chẳng ra trò trống chi?" Vợ giận lắm mắng đi mắng lại: "Tuổi đã già sao dại như ri? Đêm hôm ai chẳng biết chi, Người ta biết đến thiếp thì hổ thay! Ở đời có hai điều nên sợ: Sống chết người, quyền ở trong tay. Thế mà chàng đã chẳng hay. Còn ai sợ đến phường này nữa chăng? Vả chàng vẫn lăng nhăng túng kiết, Cuộc sinh nhai chèo hát qua thì, Vua chèo còn chẳng ra gì, Quan chèo vai nhọ (1) khác chi thằng hề".
Nguyễn Khuyến
Mẹ Mốc
poem.php?poem=me_moc__nguyen_khuyen
So danh giá ai bằng mẹ Mốc, Ngoài hình hài, gấm vóc chẳng thêm ra; (1) Tấm hồng nhan đem bôi lấm xoá nhoà, Làm thế để cho qua mắt tục. Ngoại mạo bất cầu như mĩ ngọc, Tâm trung thường thủ tự kiên kim (2) Nhớ chồng con muôn dặm xa tìm, Giữ son sắt êm đềm một tiết. (3) Sạch như nước, trắng như ngà, trong như tuyết, Mảnh gương trinh vằng vặc quyết không nhơ, Đắp tai ngảnh mặt làm ngơ, Rằng khôn cũng kệ, rằng khờ cũng thây. Khôn kia dễ bán dại này!
Nguyễn Khuyến
Mừng Con Dựng Được Nhà
poem.php?poem=mung_con_dung_duoc_nha__nguyen_khuyen
Nghĩ ta, ta cũng sướng ru mà, Mừng thấy con ta dựng được nhà Năm mới lệ thường thêm tuổi một, Cỗ phe ngôi đã chốc bàn ba. (1) Rượu ngon đến bữa nghiêng bầu dốc, Chữ "dại" đầu năm xổ túi ra. (2) Một khóm thủy tiên năm bảy cụm, Xanh xanh như sắp thập thò hoa.
Nguyễn Khuyến
Mừng Đốc Học Hà Nam
poem.php?poem=mung_doc_hoc_ha_nam__nguyen_khuyen
Ông làm đốc học bấy lâu nay, Gần đó mà tôi vẫn chửa hay. Tóc bạc răng long chừng đã cụ, Khăn thâm áo thụng cũng ra thầy. Học trò kẻ chợ trầu dăm miếng, Khảo khóa ngày xưa quyển một chầy. (1) Bổng lộc như ông không mấy nhỉ? Ăn tiêu nhờ được chiếc lương Tây.
Nguyễn Khuyến
Mừng Ông Nghè Mới Đỗ
poem.php?poem=mung_ong_nghe_moi_do__nguyen_khuyen
Anh mừng cho chú đỗ ông Nghè, Chẳng đỗ thì trời cũng chẳng nghe. Ân tứ (1) dám đâu coi rẻ rúng, Vinh quy ắt hẳn rước tùng xòe. Rượu ngon ả nọ khôn đường tránh, (2) Hoãn (3) đẹp nàng này khó nhẽ che. Hiển quí đến nay đà mới rõ, Rõ từ những lúc tổng chưa đe. (4)
Nguyễn Khuyến
Ngày Xuân Dặn Các Con
poem.php?poem=ngay_xuan_dan_cac_con__nguyen_khuyen
Tuổi thêm, thêm được tóc râu phờ, Nay đã năm mươi có lẻ ba. Sách vở ích gì cho buổi ấy, áo xiêm nghĩ lại thẹn thân già. Xuân về ngày loạn càng lơ láo, Người gặp khi cùng cũng ngất ngơ. Lẩn thẩn lấy chi đền tấc bóng, Sao con đàn hát vẫn say sưa? (Tác giả tự dịch bài "Xuân nhật thị chư nhi")
Nguyễn Khuyến
Nghe Hát Đêm Khuya
poem.php?poem=nghe_hat_dem_khuya__nguyen_khuyen
Một khúc đêm khuya tiếng đã chầy, Nửa chen mặt nước, nửa từng mây. Nghĩ mình vườn cũ vừa lui bước, Ngán kẻ phương trời chẳng đứt dây. Bẻ liễu thành Đài thôi cũng xếp, (1) Trồng lan ngõ tối ngát nào hay? Từ xưa mặt ngọc ai là chẳng, Chén rượu bên đèn luống tỉnh say.
Nguyễn Khuyến
Ông Phỗng Đá (2)
poem.php?poem=ong_phong_da_2__nguyen_khuyen
Người đâu tên họ là gì? Khéo thay chích chích chi chi (1) nực cười. Dang tay ngửa mặt lên trời, Hay còn lo tính sự đời chi đây? Thấy phỗng đá lạ lùng muốn hỏi. Cớ làm sao len lỏi đến chi đây? Hay tưởng trông cây cỏ nước non này, Chí cũng rắp dan tay vào hội lạc (2) Thanh sơn tự tiếu đầu tương hạc, Thượng hải thùy tri ngã diệc âu. (3) Thôi cũng đừng chấp chuyện đâu đâu, Túi vũ trụ mặc đàn sau gánh vác. Duyên hội ngộ là duyên tuổi tác, Chén chú, chén anh, chén tôi, chén bác, Cuộc tỉnh say, say tỉnh một vài câu. Nên chăng đá cũng gật đầu!
Nguyễn Khuyến
Tặng Đốc Hà Nam
poem.php?poem=tang_doc_ha_nam__nguyen_khuyen
Ai rằng ông dại với ông điên, Ông dại sao ông biết lấy tiền? Cậy cái bảng vàng treo nhị giáp, Khoét thằng mặt trắng (1) lấy tam nguyên (2) Dấu nhà vừa thoát sừng trâu đỏ, Phép nước xin chừa móng lợn đen (3) Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt, Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen.
Nguyễn Khuyến
Tặng Đốc Học Hà Nam
poem.php?poem=tang_doc_hoc_ha_nam__nguyen_khuyen
Bài này nhà thơ gửi cho ông Trần Tán Bình, đốc học Hà Nam. Ai rằng ông dại với ông điên Ông dại sao ông biết lấy tiền? Cậy cái bảng vàng treo nhị giáp Khoét thằng mặt trắng lấy tam nguyên Dấu nhà vừa thoát sừng trâu đỏ Phép nước xin chừa móng lợn đen Chỉ cốt túi mình cho nặng chặt Trăm năm mặc kệ tiếng chê khen
Nguyễn Khuyến
Thầy Đồ Ve Gái Góa
poem.php?poem=thay_do_ve_gai_goa__nguyen_khuyen
Người bảo rằng thầy yêu cháu đây, Thầy yêu mẹ cháu có ai hay! Bắc cầu, câu cũ (1) không hờ hững, Cầm kính, tình xưa (2) vẫn đắng cay. Ở góa thế gian nào mấy mụ? Đi ve thiên hạ thiếu chi thầy? Yêu thầy cũng muốn cho thầy dạy, Dạy cháu nên rồi mẹ cháu ngây. (Tác giả tự dịch bài "Thiền sư")
Nguyễn Khuyến
Thu Vịnh
poem.php?poem=thu_vinh__nguyen_khuyen
Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao, Cần trúc lơ phơ gió hắt hiu. Nước biếc trông như tầng khói phủ, Song thưa để mặc bóng trăng vào. Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái, Một tiếng trên không ngỗng nước nào? Nhân hứng cũng vừa toan cất bút, Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào. (1)
Nguyễn Khuyến
Trở Về Vườn Cũ
poem.php?poem=tro_ve_vuon_cu__nguyen_khuyen
Vườn Bùi (1) chốn cũ, Bốn mươi năm lụ khụ lại về đây. Trông ngoài sân đua nở mấy chồi cây, Thú khâu hác lâm tuyền (2) âu cũng thế. Bành Trạch (3) cầm xoang ngâm trước ghế, Ôn công (4) rượu nhạt chuốc chiều xuân. Ngọn gió đông ngảnh lại lệ đầm khăn Tính thương hải tang điền qua mấy lớp? Ngươi chớ giận Lỗ Hầu (5) chẳng gặp. Như lơ phơ tóc trắng lại làm chi Muốn về sao chẳng về đi?
Nguyễn Khuyến
Uống Rượu Ở Vườn Bùi
poem.php?poem=uong_ruou_o_vuon_bui__nguyen_khuyen
Tuý Ông (1) ý chẳng say về rượu, Say vì đâu, nước thẳm với non cao. Non lặng ngắt, nước tuôn ào, Tôi với bác xưa nay cùng thích thế. Đời trước thánh hiền đều vắng vẻ, Có người say rượu tiếng còn nay. Cho nên say, say khướt cả ngày, Say mà chẳng biết rằng say ngã đùng. Chu Bá Nhân (2) thuở trước sang sông. Chỉ tỉnh rượu ba ngày không phải ít. Kêu gào thế cười chi cho mệt, Chớ buồn chi nghe tiếng hát làng say Xin người gắng cạn chén này.
Nguyễn Khuyến
Văn Tế Ngạc Nhi
poem.php?poem=van_te_ngac_nhi__nguyen_khuyen
Than ôi! Một phút sa cơ Ra người thiên cổ Nhớ ông xưa: Cái mắt ông xanh, Cái da ông đỏ, Cái tóc ông quăn, Cái mũi ông lõ, Đít ông cưỡi lừa Miệng ông huýt chó. Lưng ông đeo súng lục liên, Chân ông đi giầy có mỏ. Ông ở bên Tây, Ông sang đô hộ. Đánh giặc Cờ Đen, Để yên con đỏ. Nào ngờ: Nó bắt được ông, Nó chặt mất sỏ. Cái đầu ông đây Cái mình ông đó. Khốn nạn thân ông, Đù cha mẹ nó! Tôi: Vâng lệnh quan trên, Cúng ông một cỗ, N ày chuối một buồng Này rượu một hũ, Này xôi một mâm, Này trứng một rổ, Ông có linh thiêng, Mời ông xơi hộ, Ăn uống no say, Nằm yên một chỗ. Ối ông Ngạc Nhi ôi! Nói càng thêm khổ.
Nguyễn Khuyến
Vịnh Lụt
poem.php?poem=vinh_lut__nguyen_khuyen
Tị trước (1) Tị Này(2) chục lẻ ba Thuận dòng nước cũ lại bao la Bóng thuyền thấp thoáng giờn trên vách Tiếng sóng long bong vỗ trước nhà Bắt bậc người còn chờ chúa đến Đóng bè ta phải rước vua ra Sửa sang việc nước cho yên ổn Trời đã sinh ta ắt có ta.
Nguyễn Khuyến
Vịnh Mùa Hè
poem.php?poem=vinh_mua_he__nguyen_khuyen
Biếng trông trời hạ nước non xa, Ý khí ngày thường nghĩ đã trơ. Cá vượt khóm rau lên mặt nước, Bướm len lá trúc lượn rèm thưa. Thơ Đào (1) cửa miệng đưa câu rượu Xóm Liễu (2) quanh khe chịu tiếng khờ. Nhân hứng cũng vừa toan cất chén, Sấm đông rầm rập gió nồm đưa. (Tác giả tự dịch bài "Họ nhật ngẫu hứng")
Nguyễn Khuyến
Vịnh Núi An Lão
poem.php?poem=vinh_nui_an_lao__nguyen_khuyen
Mặt nước mênh mông nổi một hòn, Núi già nhưng tiếng vẫn còn non, (1) Mảnh cây thưa thớt đầu như trọc, Ghềnh đá long lanh ngấn chửa mòn. Một lá (2) về đâu xa thẳm thẳm, Nghìn nhà trông xuống bé con con. Dẫu già đã hẳn hơn ta chửa? Chống gậy lên cao gối chẳng chồn!
Nguyễn Khuyến
Vịnh Tiến Sĩ Giấy
poem.php?poem=vinh_tien_si_giay__nguyen_khuyen
I Rõ chú hoa man (1) khéo vẽ trò, Bỡn ông mà lại dứ thằng cu. Mày râu mặt đó chừng bao tuổi, Giấy má nhà bay đáng mấy xu? Bán tiếng mua danh thây lũ trẻ, Bảng vàng bia đá vẫn nghìn thu. Hỏi ai muốn ước cho con cháu, Nghĩ lại đời xưa mấy kiếp tu. II Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai. Cũng gọi ông nghè có kém ai. Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng, (2) Nét son điểm rõ mặt văn khôi. (3) Tấm thân xiêm áo sao mà nhẹ? Cái giá khoa danh thế mới hời! (4) Ghế tréo, lọng xanh ngồi bảnh choẹ, Nghĩ rằng đồ thật hóa đồ chơi!
Nguyễn Khuyến
Người Đàn Bà Thứ Hai
poem.php?poem=nguoi_dan_ba_thu_hai__phan_thi_vinh_ha
Mẹ đừng buồn khi anh ấy yêu con Bởi trước con anh ấy là của mẹ Anh ấy có thể yêu con một thời trai trẻ Nhưng suốt đời anh yêu mẹ, mẹ ơi! Mẹ đã sinh ra anh ấy trên đời Hình bóng mẹ lồng vào tim anh ấy Dẫu bây giờ con đuợc yêu thế đấy Con cũng chỉ là người đàn bà thứ hai… Mẹ đừng buồn những chiều hôm, những ban mai Anh ấy có thể nhớ con hơn nhớ mẹ Nhưng con chỉ là cơn gió nhẹ Mẹ luôn là bến bờ thương nhớ của đời anh. Con chỉ là cơn gió mong manh Những người đàn bà khác có thể thay thế con trong tim anh ấy Nhưng có một tình yêu âm ỉ cháy Anh ấy chỉ dành cho mẹ, mẹ ơi! Anh ấy có thể sống với con suốt cuộc đời Cũng có thể chia tay trong ngày mai, có thể Nhưng anh ấy suốt đời yêu mẹ Dù thế nào, con chỉ là người thứ hai…
Phan Thị Vĩnh Hà
Hai Nửa Vầng Trăng
poem.php?poem=hai_nua_vang_trang__hoang_huu
Tình cờ anh gặp lại vầng trăng Một nửa vầng trăng thôi, một nửa Trăng vẫn đấy mà em xa quá Nơi cuối trời em có ngóng trăng lên Nắng tắt đã lâu rồi trăng thức dậy dịu êm Trăng đầu tháng có lần em ví Chữ D hoa như vầng trăng xẻ nửa Tên anh như nửa trăng mờ tỏ Ai bỏ quên lặng lẽ sáng bên trời Ơi vầng trăng theo con nước đầy vơi Trăng say đắm dào trên cỏ ướt Trăng từng giọt tan vào anh mặn chát Em đã khóc Nhưng làm sao đến được Bến bờ anh tim dội sóng không cùng Đến bây giờ trăng vẫn cứ còn xanh Cứ một nửa, như đời anh, một nửa Nhưng trăng sẽ tròn đầy, trăng sẽ… Trăng viên mãn cuối trời em có nhớ Mặt trăng từng khuất nửa ở trong nhau. 8.1981
Hoàng Hữu
Chiều Hè Trên Bãi Biển
poem.php?poem=chieu_he_tren_bai_bien__vo_danh
Một trưa hè trôi êm trôi êm  Trên bãi biển chiều nao chung bước  Biển xanh xanh trời xanh màu ngọc bích Cuối tầm nhìn trời nước gặp nhau Sóng rời bãi con dã tràng xe cát  Sóng vỗ bờ con chim nhạn vờn bay  Sáng tinh mơ dấu chân người in cát  Nắng chói chan về làm rát bỏng bàn chân Có phải chăng cát giận, cát hờn?  Chẳng muốn nhận dấu chân em làm kỷ niệm  Để cát bay, cát tạo thành hình của sóng  Để ven bờ cát mãi đùa vui
Không rõ...
Không Đề 01
poem.php?poem=khong_de_01__vo_danh
Trước đêm có cả ban ngày Trước mưa có nắng vương đầy lối đi Trước con mắt có hàng mi Trước khi yêu chẳng có gì khổ đau...
Không rõ...
Ngày Đá Đơm Bông
poem.php?poem=ngay_da_dom_bong__vo_danh
Buổi tối ngủ trên đồi hỏi hòn đá nhỏ Con đường nào, con đường nào dẫn đến một dòng sông Một dòng sông mà em vẫn thường ra ngồi giặt áo Và con đò, và câu hò theo nước trôi xuôi Buổi sáng ngồi trên rừng hỏi ngàn lá đổ Con đường nào, con đường nào dẫn đến một miền quê Một miền quê trời hanh nắng ruộng khô cằn sỏi đá Đợi mưa về, đợi mưa về cho lúa đơm bông Ơ hơ hớ quê mình giờ đây Con sông xưa thuyền có xuôi ngược Ơ hơ hớ kẽo kẹt võng đưa ơ hờ hờ...tiếng ru ngọt môi Thường những buổi trưa buồn hỏi mình khe khẽ Con đường nào, con đường nào dẫn đến những ngày xưa Ngày xưa đó mẹ ra đứng cười rung làn tóc trắng Tre cuối làng, cầu sau vườn theo gió đong đưa Buổi sáng hỏi mây trời đi hoài có rõ Con đường nào, con đường nào dẫn một ngày vui Ngày vui đó bầy chim sáo rủ nhau về xây tổ Mưa sẽ về, mưa sẽ về cho đá đơm bông
Không rõ...
Ngõ Vắng Xôn Xao
poem.php?poem=ngo_vang_xon_xao__vo_danh
Một ngõ vắng xôn xao,  Nằm trong lòng phố lớn  Một tiếng nói yêu thương,  Cho lòng thêm tơ vương  Một đám lá thu bay,  Rắc vương đầy ngõ vắng  Một chùm hoa trưa nắng,  Xôn xao cả lòng tôi  Tôi yêu người,  Làm một bông hoa nắng  Tôi yêu người,  Làm ngõ vắng dịu êm  Trong yên lặng,  Mà lại mênh mông lắm  Hãy ngước nhìn kìa  Trời xanh bao la!  Vì nắng mãi nên mưa  Gội trưa hè loang nước  Vì muốn nói với nhau  Nên nhìn nhau thêm lâu  Chiều ngõ vắng xôn xao  Có thêm bầy bé gái  Cùng nhảy dây khoe áo  Giăng hoa ngập hồn tôi  Khi con người  Để lòng yêu ngõ vắng  Thêm rung động,  Được đứng ngắm trời mây  Ai đã từng một lần qua nơi ấy  Khi xa rồi  Lòng bỗng thấy xôn xao!
Không rõ...
Người Đến Từ Triều Châu
poem.php?poem=nguoi_den_tu_trieu_chau__vo_danh
Dù đi đến nơi nào vẫn nhớ quê nhà  Định mệnh kia... không làm bối rối lòng ta  Nào ta hãy nắm tay nhau, và ung dung đi trong cuộc đời...  Đầy sương gió chẳng chút lo lắng khi mình có nhau  Đường ta đi, gian nan từng bước vẫn đi, hiên ngang  Và trong trái tim ta mặt trời sáng soi...  Dám yêu, dám liều. Dám vượt hết tất cả để thành công  Lòng ta chẳng đổi thay  Phía trước quyết tiến lên muôn đời, xứng danh Triều Châu Nghìn trùng xa ai còn vấn vương sông hồ Mà nơi đây, bỗng dừng bước phiêu du. Ở đây có bếp lửa hồng và nơi đây có mối duyên nồng. Cũng nơi đây em đang chờ anh xây mộng kết tơ. Ngày anh đến ấm lại mùa đông giá lạnh mịt mờ Ngày anh đến cánh hoa vườn em ngát hương. Sẽ không còn, những u buồn. Chúng mình mãi gắn bó suốt đời nhau. Ngày anh đến với em. Gió cũng hát lao xao. Cùng đàn én trong vườn xuân.
Không rõ...
Với Anh
poem.php?poem=voi_anh__vo_danh
Rồi mai này anh sẽ quên em. Cô gái nhỏ thương anh nhiều biết mấy Trước mặt anh em vẫn kiêu kỳ là vậy Mà đêm về nước mắt ướt nhòe mi Rồi mai này khi đã chia ly Tên em sẽ chìm vào trăm ngàn tên khác Như một vật dư thừa vô tình anh đánh mất. Trong cuộc đời chẳng thiếu sự "lỡ tay" Rồi mai này, ừ mai này đây Sẽ có một người nâng cho em từng bước Dạy em biết đặt tình yêu vào phía trước. Vào con người, vào sức mạnh tình yêu. Người ấy dù mạnh mẽ đến bao nhiêu Dù biết nhịn, biết chiều, biết nâng khi em ngã. Dù người ấy sau này biết làm tất cả. Em vẫn chẳng quên rằng đấy không phải là anh.
Không rõ...
Vé Đi Tuổi Thơ
poem.php?poem=ve_di_tuoi_tho__robert_ivanovich_rozhdestvensky
Nơi rất ấm, tuổi thơ ta ở đó Từ rất lâu, đã từ lâu, trôi qua… Đêm nay tôi bước vội khỏi nhà. Đến ga, xếp hàng mua vé: Lần đầu tiên trong nghìn năm. Có lẽ. Cho tôi xin một vé đi Tuổi thơ. Vé hạng trung – Người bán vé hững hờ Khe khẽ đáp: Hôm nay vé hết! – Biết làm sao! Vé hết, biết làm sao! Đường tới Tuổi Thơ còn biết hỏi nơi nào? Nếu không kể đôi khi ta tới đó Qua trí nhớ Của chúng ta Từ nhỏ…. Thành phố Tuổi Thơ – thành phố chuyện thần kỳ Cơn gió đùa, tinh nghịch dẫn ta đi. Ở đấy, làm ta say, chóng mặt Là những cây thông vươn tới mây. Là những ngôi nhà cao, cao ngất. Và mùa đông rón rén bước trong đêm. Qua những cánh đồng phủ tuyết trắng và êm Ôi thành phố Tuổi Thơ – bài ca ngày nhỏ Chúng tôi hát – Xin cảm ơn điều đó! Nhưng chúng tôi không trở lại Đừng chờ! Trái đất nhiều đường. Từ thành phố Tuổi Thơ Chúng tôi lớn đi xa… Hãy tin! Và thứ lỗi! Thái Bá Tân dịch
Robert Ivanovich Rozhdestvensky
Alô Nó Kià!
poem.php?poem=alo_no_kia__bui_chi_vinh
Đưa anh ngón út anh cầm Cái ngón ốm nhách mà em giấu hoài Không đưa, anh nắm bàn tay Anh nâng lên mũi đố ai bắt đền? Bắt đền sao được hả em? Alo di động đắt tiền, anh "to" Nó kìa (*) nếu muốn, anh lo Dế anh "dế lửa" học trò điếc luôn Gáy từ lớp tới vũ trường Bàn tay xịn, thương mến thương anh ghiền Đưa anh ngón út nha em Lộn ngón đeo nhẫn hết tiền của anh! ---------------- (*) Alô đời mới Nokia
Bùi Chí Vinh
Anh Là Một Con Cừu
poem.php?poem=anh_la_mot_con_cuu__bui_chi_vinh
Cướp hết tình yêu dành cho mẹ anh đi Em cướp hết như một người chinh phục Kể từ đây không còn ai thân thuộc Anh mồ côi trong đôi mắt em rồi Hãy an ủi anh bằng những nụ hôn môi Hãy che chở anh bằng vòng tay con gái Hãy dạy anh đánh vần và tập nói: " Yêu, yêu, yêu... " cho đến lúc lìa đời Em đã trở thành một bà mẹ nhân đôi Đi chăn dắt một con cừu thần thoại Một con cừu chứ sao? Đầy vụng dại Anh là con cừu tình nguyện được... mồ côi (Trích từ tập thơ " Thơ Tình Bùi Chí Vinh " - NXB Trẻ 1995 )
Bùi Chí Vinh
Anh Nhớ Em
poem.php?poem=anh_nho_em__bui_chi_vinh
Như con nít nhớ cà rem vậy mà Như con dế trống đi xa Một hôm nhớ đến quê nhà gáy chơi Con dế thì gáy một hơi Còn anh gáy hết một thời con trai ... Cô bé ơi, anh nhớ em Như má lúm nhớ đồng tiền đúng chưa Như cà chớn nhớ cà chua Như da em nhớ da-ua ngọt ngào Cái nhớ nhảy qua hàng rào Chẳng thèm đăng ký cứ nhào vô anh Xô ra thì thấy không đành Nên anh ôm lấy rồi canh giữ hoài ... Con kiến còn nhớ củ khoai Huống chi tóc ngắn tóc dài nhớ nhau Nhớ em không biết để đâu Nếu để trên đầu thì tóc che đi Để trong túi áo cũng kỳ Lỡ đi đường rớt lấy gì chứng minh Thôi thì giả bộ làm thinh Hét lên "nhớ quá" một mình nghe chơi
Bùi Chí Vinh
Anh Và Thằng Nhóc
poem.php?poem=anh_va_thang_nhoc__bui_chi_vinh
I Hai mươi năm trước anh giống thằng nhóc lắm Lủi thủi theo sau áo trắng tan trường Rồi chiếc áo băng qua đường, biến mất Anh tiếc hoài cái kẹp tóc cô nương Anh bịnh thương hàn suốt... ba ngày chẵn Cái tội lang thang quên béng nắng trên đầu Mà nếu có chết anh cũng không hối hận Chỉ sợ tan trường có kẻ lén theo sau... Chỉ một mình anh đau, một mình anh ốm Còn riêng em đừng thương hại ngoái nhìn Hai mươi năm trước anh giống thằng nhóc lắm Anh độc quyền buồn ngay cả lúc... làm thinh II Còn bây giờ anh khác thằng nhóc lắm Ngồi xổm lan can và gặm bánh mì Chờ áo trắng tan trường ơi áo trắng Anh trải thơ tình để lót bước em đi Nếu em bắt chuyện tất nhiên anh lơ đãng Trời thì xanh, xe cộ rất nhiều màu Anh quên màu trắng đến khi em hốt hoảng Mới quay lại cười một cái dễ... xa nhau Nếu em dửng dưng tất nhiên anh hét lớn Em sẽ quan tâm hỡi cô gái tò mò Thấy chưa, bây giờ anh khác thằng nhóc lắm Ai dại độc quyền chịu đựng nỗi buồn... xo!
Bùi Chí Vinh
Bài Thơ Chưa Hoàn Thành
poem.php?poem=bai_tho_chua_hoan_thanh__bui_chi_vinh
Đêm nhớ em, em có tin không? Em như chiếc gối rúc trong lòng Nào ai biết trăm con chim mộng Vây kín đầu giường anh hát rong Ngày nhớ em, em đã tin chưa? Em như sen đẹp tự nghìn xưa Vái trời ao mọc ngay bên cạnh Em nở thành thơ suốt bốn mùa Mốt nhớ em, biết nhớ hay không? Mới ngày, đêm đã đủ tê lòng Thôi nghe đừng nhớ, thôi đừng nhớ Lỡ mai này con sáo sang sông...
Bùi Chí Vinh
Bài Thơ Lì Xì
poem.php?poem=bai_tho_li_xi__bui_chi_vinh
Tết đến em có còn bướm trắng?? Áo dài thơ, hay váy đầm xoè?? Mặc áo dài?? Anh đeo kính cận Còn diện đầm?? Anh..... mắt đỏ hoe Tết đến, em có còn nhớ lớp?? Hay nhớ gì đâu trước cổng trường?? Nhớ lớp?? Anh biến thành trái thị Còn nhớ gì đâu, anh biến...... luôn!! Tết đến, ăn mứt me chua lưỡi Cắn hạt dưa đỏ chót môi cười Trời đất sinh ra chi tiểu muội Để năm nào anh cũng..... ' eo ơi!!' Tết đến đừng xoè tay, ngượng nhé!! Cái đuôi sau gót quá là dài Khỏi cần tập soi gương e lệ Lì xì anh một sợi tóc mai Khoá vào cặp nhốt mười sáu tuổi Lỡ mai em ' bẻ gãy sừng trâu' Thì chắc anh biến thành chú Cuội Ôm cây đa bay tuốt lên..... lầu!!!
Bùi Chí Vinh
Bàn Tay
poem.php?poem=ban_tay__bui_chi_vinh
Khi tay em trong tay anh Kẻ nào dị nghị sẽ thành người dưng Mắc mớ gì phải quan tâm Miễn sao ta nắm không lầm tay ai Tay mà đút túi rất gầy Có đôi chắc chắn bàn tay hồng hào Tội gì không áp vào nhau Đợi cho sợi tóc bạc đầu thì buông...
Bùi Chí Vinh
Bí Mật Mỗi Con Đường
poem.php?poem=bi_mat_moi_con_duong__bui_chi_vinh
Chắc chắn là rất nhiều dấu chân đi qua Chồng chất lên nhau làm người ta có tuổi Anh chưa làm được gã gác - cửa - thời - gian Gỡ các dấu chân để tìm sương khói Chắc chắn là dưới những chiếc guốc, những đôi giày không biết nói Các đôi lứa yêu nhau đã phát biểu ồn ào Như anh đã dụi đầu vào vai em mệt mỏi Thả lại trên đường đúng mười ngón xôn xao Đã có cái hôn quá khứ rất nhiệm mầu Cho vành môi hết thời kỳ tái mét Đã thú nhận nhau những cuộc tình đầu Cho hai gót chụm dần đêm vĩnh biệt Chắc chắn là sẽ còn hoài dấu vết Dấu ngón chân em, vết cứa anh mà Và chắc chắn ở chỗ nào bí mật Có ai tình cờ nhắc một ai xa.
Bùi Chí Vinh
Bình Đẳng Ơi Chào Mi
poem.php?poem=binh_dang_oi_chao_mi__bui_chi_vinh
Bình đẳng nhau tất cả mọi thứ Anh đồng ý hai chân, hai tay Khi giơ lên thì anh té ngửa Xin em đừng xây xẩm mặt mày Nghĩa là anh giống cóc, giống xoài Và ngọt lịm như chè thập cẩm Còn em thì chuyển hệ đắng cay Sáng xỉn, chiều say, trưa đờ đẫn Nghĩa là anh... vào ra ngơ ngẩn Mở trang lưu bút, chép thơ tình Còn em thì vi vu xế nổ Áo bụi quần dơ, tóc tủa đinh Nghĩa là dẹp ngày "Valentine" Anh thèm hoa, còn em vặt lá Vui vui thì đàm đạo văn minh Bình đẳng " ba " và bình đẳng " má " Nghĩa là từ nay anh nội trợ Còn em ngồi nhậu ở vỉa hè Lạy trời cho em đừng trúng gió Bằng không anh mắc nghẹn cơm khê Bình đẳng nhau tất cả mọi thứ Nhưng anh cao, em thấp, ý trời... Em có muốn chồm lên giận dữ Anh cúi đầu hôn nhẹ nhàng thôi....
Bùi Chí Vinh
B'lao
poem.php?poem=b_lao__bui_chi_vinh
Em có giống B' lao không em? Đón anh đừng đóng cửa, cài then Bằng không anh biến thành bông giấy Mọc tỉnh bơ ngay phía trước thềm Em có giống B'lao không em? Ngắt anh đừng nỡ ngắt trong đêm Bằng không anh biến thành trái bắp Cắn vào răng em để bắt đền Em có giống B'lao không em? Vất anh đừng vất ở ngoài hiên Bằng không anh biến thành con muỗi Chờ dịp giường em bị hở mền Em có giống B'lao không em? Đập anh đừng đập bẩn tay tiên Bằng không anh sẽ nằm huýt sáo Suốt mùa thu như chú dế mèn Là phải giống Blao nghe em Chiều, mưa một chút để anh thèm Tối, sương một chút để anh nhớ Một chút gì như thể áo len Là phải giống Blao nghe em Làm duyên một chút để anh hiền Dịu dàng một chút cho anh sợ Một chút gì như thể buốt tim
Bùi Chí Vinh
Bướm Và Hoa
poem.php?poem=buom_va_hoa__bui_chi_vinh
Ra khỏi lớp các em tan như bướm Có bướm màu đen coi giống bướm bà Có em áo dài đẹp như bướm trắng Anh ngẩn người, thầm gọi : bướm kiêu sa!!! Bươm bướm thật vốn nhiều màu sặc sỡ Còn bướm của anh không bay khỏi mặt đường Thơ anh đậu xếp hàng trên bãi cỏ Chờ trước cổng trường một cánh bướm tơ vương Nhưng có thật các em là bướm trắng?? Con gái là hoa, ai gọi bướm bao giờ!! Kìa bông giấy trắng và hoa huệ trắng Lấp ló hàng rào đôi mắt nhãn ngây thơ Bông giấy không hương nên các em từ chối Hoa huệ tràn hương, anh cuống quít thập thò Khi tiếng guốc ở trên đường chưa mỏi Thì anh còn lẽo đẽo bước buồn xo....
Bùi Chí Vinh
Bynight
poem.php?poem=bynight__bui_chi_vinh
"Bynight" có gì lạ không em? Đêm chắc là phố xá có đèn Đêm chắc là đèn không đủ sáng Đêm chắc là u ám tối đen Ờ, "bynight" lạ lắm hả em? Đêm về em "lắc" giống đang điên Đêm về em hát như đang mợ Chỉ tội phụ huynh cạn vì tiền.
Bùi Chí Vinh
Cao Và Thấp
poem.php?poem=cao_va_thap__bui_chi_vinh
Bao nhiêu lần em kiễng chân lên Cũng không thể cắn vành tai anh được Anh có bổn phận phải cao gần hai thước Để xoa đầu em một cách dễ dàng Anh có nhiệm vụ lớn bằng người ngoại quốc Để cùng em dạo phố thật hiên ngang Nếu anh cao một thước tám mươi lăm Chỗ cư trú thường là sân bóng rổ Cao một thước tám mươi tư cũng khổ Không tắm pít-xin anh cũng đánh bóng chuyền Cao một thước tám mươi ba càng buốt tim em Vì môn thể thao mới sẽ là nghề bóng đá Em sẽ tốn tiền mua dầu nóng để bôi vào mắt cá Cầu thủ như anh hay bị "đốn" bất ngờ Nhưng dưới một thước năm mươi thì em sẽ buồn xo Thấy anh bò lết cả ngày vì tập tạ Anh sẽ đô như Hercule nhưng thê thảm quá Dạo phố ngoài đường chỉ đứng đến vai em Vì vậy hôm nay em kiễng chân lên Anh mới thí dụ để mình không mặc cảm Cái chiều dài hay bị thua chiều ngắn Lúc cúi hôn em phải biết lấy thăng bằng Cao cho dữ cũng đành thua lùn xủn Lúc hai cái đầu chụm lại rất tình nhân Chẳng phải vậy sao? Kiễng chân thì dễ..... sợ Nên lúc rụt về em thấp đến dễ..... thương!!!
Bùi Chí Vinh
Chia Buồn Cùng Năm Sửu
poem.php?poem=chia_buon_cung_nam_suu__bui_chi_vinh
(17 bẻ gẫy sừng trâu) Khi em lên mười bảy Loài trâu mất tích sừng Cỏ đang thơm bỗng dại Trái tim chàng rét run Ai bảo em mười bảy Bẻ gãy hết ngọt ngào Con trâu và con gái Cứa một đường hơn dao Vậy thì anh mười tám Hơn một tuổi ngon lành Tình nguyện làm con..... nghé Cưa sừng nhìn xuân xanh!
Bùi Chí Vinh
Chiếc Ghế Mây
poem.php?poem=chiec_ghe_may__bui_chi_vinh
Khi em rời ghế mây Chỉ mùi hương ở lại Tre biến thành thần thoại Trúc biến thành hoang đường Anh biến thành tai ương Thấp thỏm bên chiếc ghế Cái mùi hương ác thế Không theo em bay đi Mà quấn quýt bên tre Mà quẩn quanh bên trúc Để riêng anh biết được Có thực, mùi hương kia Không một ai sẻ chia Chỉ trừ ra chiếc ghế Không ngu gì anh kể Mùi hương này cho ai Hỡi những chiếc ghế mây Hiếm hoi trên trái đất Hãy khinh chiếc ghế sắt Hãy khinh chiếc ghế bành Những chiếc ghế vô danh Trong căn nhà trải thảm Nơi chân em chưa dẫm Nơi tình em chưa ngồi Nơi Chúa chưa ra đời Nơi Phật chưa hiện đến Nơi em chưa rón rén Những gót chân tuyệt vời Nơi mọi người hít thở Chưa thấy mùi em rơi Nơi đây anh đang hay Chỗ này anh đang biết Anh vuốt ve ghế mây Như vuốt ve truyền thuyết Tình yêu anh lẫm liệt Thanh trúc phải cong vòng Tình yêu anh tận cùng Thanh tre đành duỗi thẳng Anh đặt trái tim đắng Vào chiếc ghế em ngồi Trái tim trở nên ngọt Chiếc ghế tình anh ơi Chiếc ghế tình em ơi Lúc người kia đi mất Lúc người này cúi mặt Cái mùi hương chưa đi Như không hề biệt ly Như không hề xa cách Trận gió có thổi sạch Tất cả mọi đền đài Cơn bão có đùa dai Anh cũng không lo sợ Khi lòng anh: em ở Khi ghế anh em ngồi Hương thời gian muôn thuở Thuở bắt đầu lứa đôi...
Bùi Chí Vinh
Chiều Có Lan
poem.php?poem=chieu_co_lan__bui_chi_vinh
Chỉ cần ngón tay đưa lên môi Ngàn năm nhan sắc ở em rồi Ngàn năm trời đất thành thơ nhạc Cây cỏ chào nhau để lứa đôi Chỉ cần chiếc muỗng em trong ly Là tim anh chết rất nhu mì Là chàng thi sĩ bay đâu mất Một chút tình anh lẻn trốn đi Chỉ cần em cứ ngồi như thế Yên lặng nhìn anh suốt buổi chiều Là anh trôi sạch bao dâu bể Mở hết lòng ra đợi tiếng yêu!!.....
Bùi Chí Vinh
Con Gái Tuổi Dần
poem.php?poem=con_gai_tuoi_dan__bui_chi_vinh
Năm tới sẽ là năm con cọp Tuổi bé trùng năm mới động trời Nếu muốn làm tim anh hồi hộp Bé gầm lên một tiếng "Anh ơi!" Sử sách đã nhắc nhiều đến bé Hết sát phu rồi đến bỏ chồng Anh thì gọi đó là "Bà Kẹ" Mới nhìn, đã nuốt chửng đàn ông Vái trời ai cũng xa lánh bé Chỉ riêng anh tan cửa nát nhà Anh chết sớm không hề nuối tiếc Miễn là móng vuốt có mùi hoa Mà anh lại cầm tinh con ngựa Thoát sao qua con gái tuổi Dần Giả đò vồ thật anh lần nữa Để tình run rẩy hết hai chân
Bùi Chí Vinh
Cô Nương Ngày Tết
poem.php?poem=co_nuong_ngay_tet__bui_chi_vinh
Mười hai tháng cô nương già chát Dè đâu xuân đến "lẳng" ra liền! Giống như ngọn sóng anh ngồi hát Nịnh đầm tiểu muội một hơi : em.... Thì em vẫn là em áo trắng Nhất quỉ, nhì ma, thứ ba... huề Anh cao lớn mà chân thì ngắn Bước hoài vẫn bị gọi nhà quê Muội tuyên bố đón xuân tiết kiệm Sơ sơ chỉ một hũ kiệu hành May thay, con mắt không hà tiện Khai vị đầu năm, biết liếc anh Biết liếc anh... nghĩa là chóng lớn Một năm mới đó, đã bay vèo Anh tự cắt cái đuôi cà chớn Lên đồ, đứng cạnh sợi dây leo! Cười như cô nương, khóc như tiểu muội Anh biết sao mà dỗ bây giờ? Thà mùng một trái tim anh chết đuối Mùng hai anh lại nhảy lên bờ.... ....làm thơ!
Bùi Chí Vinh
Cuộc Hành Trình Quanh Đống Rác
poem.php?poem=cuoc_hanh_trinh_quanh_dong_rac__bui_chi_vinh
Bùi Chí Vinh Tự Kể Tôi chỉ có thể chọn cái đầu đề như thế để đặt tên cho cuộc đời của mình. Cho dù báo Thể thao và Văn hoá là báo rất có lòng với tôi, trên tờ báo có lúc nhà phê bình Vương Trí Nhàn đã hạ bút viết về tôi một bài dài lê thê "Thơ tình Bùi Chí Vinh, xanh vỏ đỏ lòng", lại có lúc cô Thu Hồng quan tâm đến nhan sắc bất thành nhân của tôi khi lấp ló sau cánh gà Nhà văn hoá Thanh niên trong đợt lãnh giải 20 năm văn học thành phố, mới đây nhất khi khai chương bộ sách thiếu niên phiêu lưu mạo hiểm "5 Sài Gòn" của nhà xuất bản Kim Đồng mà tôi là tác giả, côĐoàn Ngọc Thu lại còn có nhã ý so sánh "Sự kiện tôi viết bộ sách trẻ con Việt Nam bán chạy với số lượng hơn vạn bản một tuần là hiện tượng văn xuôi hiện nay không kém gì hiện tượng quậy trong thơ ca thưở trước của tôi". Nhưng dẫu được ba nhân sự đáng được tôn trọng trên thông cảm cách nào đi chăng nữa thì cuộc đời tôi vẫn không hề xê dịch: tôi sinh ra, lớn lên, chiến đấu, giãy dụa và tồn tại quanh... đống rác. Tôi, trong lá số tử vi và hình tướng quái dị của tôi, đa số thầy bói đều phán một câu "đi tới đâu tạo sóng gió tới đó". Tôi không biết mình đã vô tình hay hữu ý gây ra rắc rối cho những ai, chỉ biết rằng lỡ chào đời ở xóm Lách dưới chân cầu Công Lý vào lúc 12h đêm ngày 23/10/1954 cực kì ứng với tương lai mờ mịt: "Tôi sinh ra gặp buổi nhiễu nhương Bất lương bàn luận chuyện hiền lương Tráng sĩ cúi đầu làm binh sĩ Thơ quốc doanh cười cợt thơ Đường Lên năm ta đã biết đào trùn Móc vào lưỡi lội sình câu cá Mãi tuổi 30 giống họ Khương Móc thơ phú mà câu thiên hạ" 15 tuổi sau đợt "câu cá" thơ ngây, tôi tự cải thiện thân phận sức của mình bằng cách "câu thiên hạ" qua việc thoát ly tham gia các hoạt động cách mạng thưở bấy giờ của phong trào đấu tranh học sinh, sinh viên đô thị thành phố. Lúc đó tôi đã cả gan làm thơ ca ngợi một "bí danh" khác của Hồ Chí Minh và bị đuổi học khỏi lớp 10 trường Nguyễn Trãi. Chớ gì nữa, trong tờ báo xuân của nhà trường đang thập thò sau vở kịch thơ Người làm lịch sử Nguyễn Trãi, tôi đã phạm huý hai câu: Mặc cho bão táp mưa sa - Trên cây ái Quốc nở hoa anh hùng". Tôi nghĩ rằng đến hôm nay nhiều anh em cả trường Nguyễn Trãi làm quan chức các thứ các cái khó mà quên được hai câu thơ góp phần cho cuộc bãi khoá lớn năm 1970 - 1971. Sau giải phóng, cơn huyền mộng làm hiệp sĩ Don Quichotte chiến đấu với những cái cối xay gió, cướp của cải người giàu chia cho người nghèo của tôi tôửng đã hoàn tất. Còn phải hỏi, tôi được Thành đoàn ưu đãi tạo điều kiện giữ sứ mạng chọn thơ chuyện trên tờ báo Tuổi Trẻ mới ra lò bất chấp lai lịch lộn xộn bản thân. Đáng mừng là tôi không thích hợp với chiếu hoa trải sẵn, năm 1978 cuộc chiến tranh biên giới nổ ra, tôi sung sướng làm đơn tình nguyện đi bộ đội để giải phóng cương vị "không đúng nơi đúng chỗ của một cọng rác biến tướng thành cán bộ salon". Hồi đó hình như tôi có viết máy câu thiệt là đã: "Buộc vào ba lô sách Lỗ Tấn Ca hát như một chàng digan Ta vừa nghịch ngợm vừa đứng đắn Khi đã quàng vai khẩu súng trường Rừng nhờ người đi mà thành đường Ta nhờ tự do mà thành lính Đường áp tai nghe mùi quê hương Lính áp má thấy nòng thép lạnh" Rồi chiến tranh cũng chấm dứt, tôi lại hoá thân làm cọng rác giang hồ xán lách bằng đủ mọi nghề nghiệp: phụ sửa xe lề đường, thợ máy giập, bán ve chai, đạp xích lô, bán kẹo, bán cá, bốc xếp, đọc thơ lưu diễn các quán rượu kiếm cơm. Kết quả sau chục năm mưu sinh trước hàng trăm cặp mắt nghi kỵ, năm 1989 tập Thơ tình Bùi Chí Vinh với 60 bài rút trong tổng số hàng ngàn bài ứng khẩu thất lạc, ung dung ra mắt độc giả, kéo theo sự tốn hao giấy mực báo chí của các nhà ngự sử văn đàn suốt ba năm khen, chê, tranh luận. Aí chà, thơ tình là cái quái gì nhỉ, đối với tôi đó chỉ là một thứ phụ tùng văn chương không hơn không kém, thơ tình làm sao mà an ủi nổi bầu nhiệt huyết của thằng con trai Nam bộ trước những bất công của đời thường. Tôi nhớ như in bài thơ Bán kẹo mở đầu như sau: "Ta sinh ra không hề hảo ngọt Quen đắng cay hơn uống nước đường Chắc tại đời ta như giấy bóng Nên lâu lâu gói kẹo đỡ buồn..." Rồi bài thơ Bán cá: "Đến nhà gặp bạn hiền bán cá Cá rô cá sặc cá thòi lòi Mà ta thì vốn thằng láu cá Thấy cá là chỉ muốn nướng chui..." Rồi bài thơ Ve chai: "Gặp nhau không cần coi lịch ngày Vì đội mũ rơm chân mang hài Lại đây cùng uống ve chai tửu Gặm đậu phụng rang mà nghe say... " Bây giờ năm 1998 ngồi đieemr lại thăng trầm lại càng thấy sắc sắc không không vĩ đại. Tôi còn nhớ cách đây vài năm báo chí tri hô tùm lum: "Văn xuôi cho thiếu nhi Việt nam đâu mà cứ dịch văn xuôi hải ngoại". Nghe mà ghét, cọng rác lại bay lên lần nữa với bộ sách "5 Sài Gòn" mỗi tuần bán hơn chục ngàn cuốn đến nay hơn nửa triệu bản nhưng báo chí im re. Thế đó, Rác là rác. Rác không có chỗ đứng trong thế giới bè phái, giả hình. Thôi xin tạm chấm dứt cuộc hành trình... Thể thao Văn hoá.
Bùi Chí Vinh