text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
El Cantón del San Pablo là một khu tự quản thuộc tỉnh Chocó, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản El Cantón del San Pablo đóng tại Managru Khu tự quản El Cantón del San Pablo có diện tích 386 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản El Cantón del San Pablo có dân số người. | 1 | null |
Litoral del San Juan là một khu tự quản thuộc tỉnh Chocó, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản El Litoral del San Juan đóng tại Santa Genoveva de Docordo Khu tự quản El Litoral del San Juan có diện tích 3755 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản El Litoral del San Juan có dân số 7667 người. | 1 | null |
El Peñol là một khu tự quản thuộc tỉnh Nariño, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản El Peñol đóng tại El Peñol Khu tự quản El Peñol có diện tích 125 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản El Peñol có dân số người. | 1 | null |
El Peñon là một khu tự quản thuộc tỉnh Bolívar, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản El Peñon đóng tại El Peñon Khu tự quản El Peñon có diện tích ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản El Peñon có dân số người. | 1 | null |
El Peñon là một khu tự quản thuộc tỉnh Cundinamarca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản El Peñon đóng tại El Peñon Khu tự quản El Peñon có diện tích ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản El Peñon có dân số 5554 người. | 1 | null |
El Peñon là một khu tự quản thuộc tỉnh Santander, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản El Peñon đóng tại El Peñon Khu tự quản El Peñon có diện tích 415 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản El Peñon có dân số 5752 người. | 1 | null |
El Tablón [de Gomez] là một khu tự quản thuộc tỉnh Nariño, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản El Tablón [de Gomez] đóng tại El Tablón Khu tự quản El Tablón [de Gomez] có diện tích 315 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản El Tablón [de Gomez] có dân số 13963 người. | 1 | null |
El Tambo là một khu tự quản thuộc tỉnh Cauca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản El Tambo đóng tại El Tambo Khu tự quản El Tambo có diện tích 3280 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản El Tambo có dân số 38073 người. | 1 | null |
El Tambo là một khu tự quản thuộc tỉnh Nariño, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản El Tambo đóng tại El Tambo Khu tự quản El Tambo có diện tích 344 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản El Tambo có dân số 28820 người. | 1 | null |
Florida là một khu tự quản thuộc tỉnh Valle del Cauca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Florida đóng tại Florida Khu tự quản Florida có diện tích 415 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Florida có dân số 48505 người. | 1 | null |
Galeras là một khu tự quản thuộc tỉnh Sucre, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Galeras đóng tại Nueva Granada Khu tự quản Galeras có diện tích 306 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Galeras có dân số 12750 người. | 1 | null |
Isnos là một khu tự quản thuộc tỉnh Huila, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Isnos đóng tại San José de Isnos Khu tự quản Isnos có diện tích 697 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Isnos có dân số 17699 người. | 1 | null |
La Apartada là một khu tự quản thuộc tỉnh Córdoba, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản La Apartada đóng tại La Apartada y la Frontera Khu tự quản La Apartada có diện tích 241 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản La Apartada có dân số người. | 1 | null |
La Paz là một khu tự quản thuộc tỉnh Cesar, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản La Paz đóng tại Robles Khu tự quản La Paz có diện tích 1082 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản La Paz có dân số 20390 người. | 1 | null |
La Paz là một khu tự quản thuộc tỉnh Santander, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản La Paz đóng tại La Paz Khu tự quản La Paz có diện tích 362 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản La Paz có dân số 6457 người. | 1 | null |
La Playa [de Belén] là một khu tự quản thuộc tỉnh Norte de Santander, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản La Playa [de Belén] đóng tại La Playa Khu tự quản La Playa [de Belén] có diện tích 288 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản La Playa [de Belén] có dân số 7672 người. | 1 | null |
La Unión là một khu tự quản thuộc tỉnh Antioquia, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản La Unión đóng tại La Unión Khu tự quản La Unión có diện tích 198 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản La Unión có dân số 15035 người. | 1 | null |
La Unión là một khu tự quản thuộc tỉnh Nariño, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản La Unión đóng tại La Unión Khu tự quản La Unión có diện tích 163 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản La Unión có dân số 31288 người. | 1 | null |
La Unión là một khu tự quản thuộc tỉnh Valle del Cauca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản La Unión đóng tại La Unión Khu tự quản La Unión có diện tích 121 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản La Unión có dân số 23531 người. | 1 | null |
La Unión [de Sucre] là một khu tự quản thuộc tỉnh Sucre, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản La Unión [de Sucre] đóng tại La Unión Khu tự quản La Unión [de Sucre] có diện tích 224 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản La Unión [de Sucre] có dân số 8400 người. | 1 | null |
La Vega là một khu tự quản thuộc tỉnh Cauca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản La Vega đóng tại La Vega Khu tự quản La Vega có diện tích 484 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản La Vega có dân số 22201 người. | 1 | null |
La Vega là một khu tự quản thuộc tỉnh Cundinamarca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản La Vega đóng tại La Vega Khu tự quản La Vega có diện tích ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản La Vega có dân số 10846 người. | 1 | null |
La Victoria là một khu tự quản thuộc tỉnh Amazonas, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản La Victoria đóng tại Pacoa Khu tự quản La Victoria có diện tích ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản La Victoria có dân số người. | 1 | null |
La Victoria là một khu tự quản thuộc tỉnh Valle del Cauca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản La Victoria đóng tại La Victoria Khu tự quản La Victoria có diện tích 276 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản La Victoria có dân số 13762 người. | 1 | null |
López [de Micay] là một khu tự quản thuộc tỉnh Cauca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản López [de Micay] đóng tại Micay Khu tự quản López [de Micay] có diện tích 3101 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản López [de Micay] có dân số 17289 người. | 1 | null |
Lorica [, Santa Cruz de] là một khu tự quản thuộc tỉnh Córdoba, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Lorica [, Santa Cruz de] đóng tại Lorica Khu tự quản Lorica [, Santa Cruz de] có diện tích 960 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Lorica [, Santa Cruz de] có dân số 100543 người. | 1 | null |
Los Andes là một khu tự quản thuộc tỉnh Nariño, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Los Andes đóng tại Sotomayor Khu tự quản Los Andes có diện tích 809 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Los Andes có dân số 12905 người. | 1 | null |
Manaure là một khu tự quản thuộc tỉnh La Guajira, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Manaure đóng tại Manaure Khu tự quản Manaure có diện tích 1643 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Manaure có dân số 24375 người. | 1 | null |
Manaure [Balcón del Cesar] là một khu tự quản thuộc tỉnh Cesar, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Manaure [Balcón del Cesar] đóng tại Balcón del Cesar Khu tự quản Manaure [Balcón del Cesar] có diện tích 1264 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Manaure [Balcón del Cesar] có dân số 7591 người. | 1 | null |
Mariquita [, San Sebastian de] là một khu tự quản thuộc tỉnh Tolima, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Mariquita [, San Sebastian de] đóng tại Mariquita Khu tự quản Mariquita [, San Sebastian de] có diện tích 290 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Mariquita [, San Sebastian de] có dân số 27198 người. | 1 | null |
Medio Atrato là một khu tự quản thuộc tỉnh Chocó, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Medio Atrato đóng tại Bete Khu tự quản Medio Atrato có diện tích ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Medio Atrato có dân số người. | 1 | null |
Medio Baudo là một khu tự quản thuộc tỉnh Chocó, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Medio Baudo đóng tại Boca de Pepe Khu tự quản Medio Baudo có diện tích ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Medio Baudo có dân số người. | 1 | null |
Mocoa [, San Miguel de] là một khu tự quản thuộc tỉnh Putumayo, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Mocoa [, San Miguel de] đóng tại Mocoa Khu tự quản Mocoa [, San Miguel de] có diện tích 1030 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Mocoa [, San Miguel de] có dân số 20736 người.
Vào ngày 31 tháng 3 năm 2017, sạt lở và lũ quét đã giết chết hơn 200 người. | 1 | null |
Olaya Herrera là một khu tự quản thuộc tỉnh Nariño, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Olaya Herrera đóng tại Bocas de Satinga Khu tự quản Olaya Herrera có diện tích 425 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Olaya Herrera có dân số 21495 người. | 1 | null |
Pana Pana là một khu tự quản thuộc tỉnh Guainía, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Pana Pana đóng tại Campo Alegre Khu tự quản Pana Pana có diện tích ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Pana Pana có dân số 934 người. | 1 | null |
Pasto là một khu tự quản thuộc tỉnh Nariño, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Pasto đóng tại San Juan de Pasto Khu tự quản Pasto có diện tích 1181 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Pasto có dân số 294024 người. | 1 | null |
Patía là một khu tự quản thuộc tỉnh Cauca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Patía đóng tại El Bordo Khu tự quản Patía có diện tích 1330 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Patía có dân số 25535 người. | 1 | null |
Pijiño del Carmen là một khu tự quản thuộc tỉnh Magdalena, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Pijiño del Carmen đóng tại Pijiño Khu tự quản Pijiño del Carmen có diện tích 739 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Pijiño del Carmen có dân số người. | 1 | null |
đảo Providencia là một khu tự quản thuộc tỉnh San Andrés y Providencia, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản đảo Providencia đóng tại Providencia Khu tự quản đảo Providencia có diện tích 19 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản đảo Providencia có dân số 3840 người. | 1 | null |
Puerto Colombia là một khu tự quản thuộc tỉnh Guainía, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Puerto Colombia đóng tại Puerto Colombia Khu tự quản Puerto Colombia có diện tích ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Puerto Colombia có dân số 1425 người. | 1 | null |
Puerto Concordia là một khu tự quản thuộc tỉnh Meta, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Puerto Concordia đóng tại Puerto Concordia Khu tự quản Puerto Concordia có diện tích 1298 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Puerto Concordia có dân số 9262 người. | 1 | null |
Puerto Nare là một khu tự quản thuộc tỉnh Antioquia, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Puerto Nare đóng tại La Magdalena Khu tự quản Puerto Nare có diện tích 660 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Puerto Nare có dân số 13104 người. | 1 | null |
Puerto Rico là một khu tự quản thuộc tỉnh Caquetá, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Puerto Rico đóng tại Puerto Rico Khu tự quản Puerto Rico có diện tích 2790 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Puerto Rico có dân số 26443 người. | 1 | null |
Puerto Rico là một khu tự quản thuộc tỉnh Meta, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Puerto Rico đóng tại Puerto Rico Khu tự quản Puerto Rico có diện tích 3772 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Puerto Rico có dân số 14793 người. | 1 | null |
Quibdó là một khu tự quản thuộc tỉnh Chocó, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Quibdó đóng tại San Francisco de Quibdó Khu tự quản Quibdó có diện tích 6032 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Quibdó có dân số 102003 người.
Khí hậu.
Quibdó có khí hậu nhiệt đới mưa nhiệt đới ẩm ướt (Köppen Af) không có mùa rõ rệt, và lượng mưa lớn nhất ở Nam Mỹ và bất kỳ thành phố nào có quy mô lớn hơn - thành phố ẩm ướt nhất của Monrovia ở Liberia, 3.050 milimet (120 inch) ít hơn Quibdó. Lý do mưa cực đoan là do Andes ở phía đông thành phố ngăn chặn gió tây do Khu Liên hiệp Xa hóa Xuyên giữa năm, do Humboldt Current ngoài khơi bờ biển phía tây Nam Mỹ, vẫn giữ ở trung tâm của lục địa Ở chiều dài của Quibdó. Kết quả là không khí cực kỳ không ổn định tăng lên từ vùng hội tụ liên vùng buộc phải tăng lên trên vùng đồng bằng Chocó và khi nó nguội sẽ tạo ra một lượng lớn độ ẩm.
Mưa sẽ tích tụ hầu như mỗi ngày từ những đám mây trong những cơn bão dữ dội cùng với một mùa ẩm ướt vĩnh viễn quanh năm; Có nghĩa là 309 ngày (84%) ngày mưa, và những khoảng thời gian nắng ít khi kéo dài hơn vài giờ sau khi mặt trời mọc. Quibdó chỉ có 1.276 giờ nắng hàng năm, làm cho một trong những thành phố ô nhiễm nhất trên thế giới, với tháng nắng nhất là tháng 7, với 135 giờ nắng. | 1 | null |
Rio Quito là một khu tự quản thuộc tỉnh Chocó, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Rio Quito đóng tại Paimado Khu tự quản Rio Quito có diện tích ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Rio Quito có dân số người. | 1 | null |
Roberto Payán là một khu tự quản thuộc tỉnh Nariño, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Roberto Payán đóng tại San José de las Lagunas. Khu tự quản Roberto Payán có diện tích 1179 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Roberto Payán có dân số 8903 người. | 1 | null |
Sabanas de San Angel là một khu tự quản thuộc tỉnh Magdalena, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Sabanas de San Angel đóng tại San Angel Khu tự quản Sabanas de San Angel có diện tích 977 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Sabanas de San Angel có dân số người. | 1 | null |
Sahagún [, San Bernardino de] là một khu tự quản thuộc tỉnh Córdoba, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Sahagún [, San Bernardino de] đóng tại Sahagún Khu tự quản Sahagún [, San Bernardino de] có diện tích 993 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Sahagún [, San Bernardino de] có dân số 92069 người. | 1 | null |
Salazar de las Palmas là một khu tự quản thuộc tỉnh Norte de Santander, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Salazar de las Palmas đóng tại Salazar Khu tự quản Salazar de las Palmas có diện tích 34 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Salazar de las Palmas có dân số 10661 người. | 1 | null |
San Andrés là một khu tự quản thuộc tỉnh San Andrés y Providencia, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Andrés đóng tại San Andrés Khu tự quản San Andrés có diện tích ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Andrés có dân số 46254 người. | 1 | null |
San Andrés là một khu tự quản thuộc tỉnh Santander, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Andrés đóng tại San Andrés Khu tự quản San Andrés có diện tích 222 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Andrés có dân số 11211 người. | 1 | null |
San Andrés de Cuerquia là một khu tự quản thuộc tỉnh Antioquia, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Andrés de Cuerquia đóng tại San Andrés. Khu tự quản San Andrés de Cuerquia có diện tích 177 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Andrés de Cuerquia có dân số 8188 người. | 1 | null |
San Antonio là một khu tự quản thuộc tỉnh Tolima, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Antonio đóng tại San Antonio Khu tự quản San Antonio có diện tích 407 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Antonio có dân số 16282 người. | 1 | null |
San Bernardo là một khu tự quản thuộc tỉnh Cundinamarca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Bernardo đóng tại San Bernardo Khu tự quản San Bernardo có diện tích ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Bernardo có dân số 17777 người. | 1 | null |
San Bernardo là một khu tự quản thuộc tỉnh Nariño, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Bernardo đóng tại San Bernardo Khu tự quản San Bernardo có diện tích 70 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Bernardo có dân số 8995 người. | 1 | null |
San Carlos là một khu tự quản thuộc tỉnh Antioquia, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Carlos đóng tại San Carlos Khu tự quản San Carlos có diện tích 702 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Carlos có dân số 20795 người. | 1 | null |
San Carlos là một khu tự quản thuộc tỉnh Córdoba, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Carlos đóng tại San Carlos Khu tự quản San Carlos có diện tích 505 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Carlos có dân số 17786 người. | 1 | null |
San Cayetano là một khu tự quản thuộc tỉnh Cundinamarca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Cayetano đóng tại San Cayetano Khu tự quản San Cayetano có diện tích ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Cayetano có dân số 4706 người. | 1 | null |
San Cayetano là một khu tự quản thuộc tỉnh Norte de Santander, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Cayetano đóng tại San Cayetano Khu tự quản San Cayetano có diện tích ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Cayetano có dân số 3326 người. | 1 | null |
San Diego là một khu tự quản thuộc tỉnh Cesar, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Diego đóng tại San Diego Khu tự quản San Diego có diện tích 687 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Diego có dân số 12889 người. | 1 | null |
San Francisco là một khu tự quản thuộc tỉnh Antioquia, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Francisco đóng tại San Francisco Khu tự quản San Francisco có diện tích 373 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Francisco có dân số 7171 người. | 1 | null |
San Francisco là một khu tự quản thuộc tỉnh Cundinamarca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Francisco đóng tại San Francisco Khu tự quản San Francisco có diện tích ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Francisco có dân số 6239 người. | 1 | null |
San Francisco là một khu tự quản thuộc tỉnh Putumayo, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Francisco đóng tại San Francisco Khu tự quản San Francisco có diện tích 480 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Francisco có dân số 4901 người. | 1 | null |
San Luis là một khu tự quản thuộc tỉnh Antioquia, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Luis đóng tại San Luis Khu tự quản San Luis có diện tích 453 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Luis có dân số 13026 người. | 1 | null |
San Luís là một khu tự quản thuộc tỉnh Tolima, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Luís đóng tại San Luís Khu tự quản San Luís có diện tích 425 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Luís có dân số 16003 người. | 1 | null |
San Martín là một khu tự quản thuộc tỉnh Cesar, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Martín đóng tại San Martín Khu tự quản San Martín có diện tích 789 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Martín có dân số 14392 người. | 1 | null |
San Martín là một khu tự quản thuộc tỉnh Meta, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Martín đóng tại San Martín Khu tự quản San Martín có diện tích 6454 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Martín có dân số 16702 người. | 1 | null |
San Miguel là một khu tự quản thuộc tỉnh Putumayo, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Miguel đóng tại La Dorada Khu tự quản San Miguel có diện tích 358 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Miguel có dân số người. | 1 | null |
San Miguel là một khu tự quản thuộc tỉnh Santander, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Miguel đóng tại San Miguel Khu tự quản San Miguel có diện tích 115 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Miguel có dân số 3437 người. | 1 | null |
San Pablo là một khu tự quản thuộc tỉnh Bolívar, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Pablo đóng tại San Pablo Khu tự quản San Pablo có diện tích 1977 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Pablo có dân số 20965 người. | 1 | null |
San Pablo là một khu tự quản thuộc tỉnh Nariño, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Pablo đóng tại San Pablo Khu tự quản San Pablo có diện tích 143 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Pablo có dân số 17164 người. | 1 | null |
San Pedro là một khu tự quản thuộc tỉnh Sucre, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Pedro đóng tại San Pedro Khu tự quản San Pedro có diện tích 222 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Pedro có dân số 14883 người. | 1 | null |
San Pedro là một khu tự quản thuộc tỉnh Valle del Cauca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Pedro đóng tại San Pedro Khu tự quản San Pedro có diện tích 240 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Pedro có dân số 11930 người. | 1 | null |
Santa Bárbara là một khu tự quản thuộc tỉnh Antioquia, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Santa Bárbara đóng tại Santa Bárbara Khu tự quản Santa Bárbara có diện tích 185 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Santa Bárbara có dân số 28048 người. | 1 | null |
Santa Bárbara là một khu tự quản thuộc tỉnh Nariño, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Santa Bárbara đóng tại Iscuande Khu tự quản Santa Bárbara có diện tích 1300 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Santa Bárbara có dân số 15476 người. | 1 | null |
Santa Bárbara là một khu tự quản thuộc tỉnh Santander, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Santa Bárbara đóng tại Santa Bárbara Khu tự quản Santa Bárbara có diện tích 186 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Santa Bárbara có dân số 2188 người. | 1 | null |
Santa Cruz là một khu tự quản thuộc tỉnh Nariño, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Santa Cruz đóng tại Guachaves Khu tự quản Santa Cruz có diện tích 560 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Santa Cruz có dân số 3628 người. | 1 | null |
Santafé de Bogotá là một khu tự quản thuộc tỉnh Distrito Capital, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Santafé de Bogotá đóng tại Bogotá Khu tự quản Santafé de Bogotá có diện tích 1732 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Santafé de Bogotá có dân số 4945448 người. | 1 | null |
Santa Helena [del Opón] là một khu tự quản thuộc tỉnh Santander, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Santa Helena [del Opón] đóng tại Santa Helena del Opón Khu tự quản Santa Helena [del Opón] có diện tích 198 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Santa Helena [del Opón] có dân số 5402 người. | 1 | null |
Santa María là một khu tự quản thuộc tỉnh Huila, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Santa María đóng tại Santa María Khu tự quản Santa María có diện tích 378 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Santa María có dân số 8610 người. | 1 | null |
Santa Rosa là một khu tự quản thuộc tỉnh Bolívar, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Santa Rosa đóng tại Santa Rosa Khu tự quản Santa Rosa có diện tích 151 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Santa Rosa có dân số 10842 người. | 1 | null |
Santa Rosa là một khu tự quản thuộc tỉnh Cauca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Santa Rosa đóng tại Santa Rosa Khu tự quản Santa Rosa có diện tích 197 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Santa Rosa có dân số 12329 người. | 1 | null |
Santiago là một khu tự quản thuộc tỉnh Norte de Santander, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Santiago đóng tại Santiago Khu tự quản Santiago có diện tích ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Santiago có dân số 2377 người. | 1 | null |
Santo Domingo là một khu tự quản thuộc tỉnh Antioquia, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Santo Domingo đóng tại Santo Domingo Khu tự quản Santo Domingo có diện tích 271 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Santo Domingo có dân số 12026 người. | 1 | null |
San Vicente là một khu tự quản thuộc tỉnh Antioquia, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản San Vicente đóng tại San Vicente Khu tự quản San Vicente có diện tích 243 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản San Vicente có dân số 20243 người. | 1 | null |
Sevilla là một khu tự quản thuộc tỉnh Valle del Cauca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Sevilla đóng tại Sevilla Khu tự quản Sevilla có diện tích 640 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Sevilla có dân số 51081 người. | 1 | null |
Union Panamericana là một khu tự quản thuộc tỉnh Chocó, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Union Panamericana đóng tại Animas Khu tự quản Union Panamericana có diện tích ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Union Panamericana có dân số người. | 1 | null |
Valle del Guamuez là một khu tự quản thuộc tỉnh Putumayo, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Valle del Guamuez đóng tại La Hormiga Khu tự quản Valle del Guamuez có diện tích 871 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Valle del Guamuez có dân số 35919 người. | 1 | null |
Villanueva là một khu tự quản thuộc tỉnh La Guajira, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Villanueva đóng tại Villanueva Khu tự quản Villanueva có diện tích 270 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Villanueva có dân số 19595 người. | 1 | null |
Villa Rica là một khu tự quản thuộc tỉnh Cauca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Villa Rica đóng tại Villa Rica Khu tự quản Villa Rica có diện tích 78 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Villa Rica có dân số người. | 1 | null |
Zona Bananera là một khu tự quản thuộc tỉnh Magdalena, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Zona Bananera đóng tại Prado Sevilla Khu tự quản Zona Bananera có diện tích 446 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng 5 năm 2005, khu tự quản Zona Bananera có dân số người. | 1 | null |
Park Bom (; sinh ngày 24 tháng 3 năm 1984), thường được biết đến với nghệ danh Bom, là một nữ ca sĩ người Hàn Quốc. Cô được biết đến với tư cách là thành viên của nhóm nhạc nữ Hàn Quốc 2NE1.
Bom bắt đầu sự nghiệp âm nhạc của mình vào năm 2006 với nhiều lần hợp tác với đồng nghiệp cùng công ty như Big Bang, Lexy và Masta Wu. Năm 2009, cô ra mắt với tư cách là thành viên của 2NE1 với vai trò là giọng ca chính. Nhóm sau đó trở thành một trong những nhóm nhạc nữ nổi tiếng nhất và bán chạy nhất mọi thời đại tại Hàn Quốc. Bom đã phát hành 2 bài hát solo là "You and I" và "Don't Cry", đạt vị trí số 1 trên Gaon Digital Chart, bảng xếp hạng âm nhạc quốc gia của Hàn Quốc. Cô đã đoạt giải Bài hát kỹ thuật số xuất sắc nhất tại Mnet Asian Music Awards năm 2010.
Sau khi 2NE1 tan rã vào năm 2016, Bom rời YG Entertainment vào tháng 11 năm 2016. Tháng 7 năm 2018, cô ký hợp đồng với D-Nation Entertainment và phát hành đĩa đơn của cô, "Spring" vào tháng 3 năm 2019. Sau đó vào tháng 5 năm 2019, Bom phát hành album tái phát hành "re: Blue Rose" với đĩa đơn "4:44" hợp tác với Wheein của Mamamoo.
Tiểu sử.
Park Bom sinh ngày 24 tháng 3 năm 1984 tại Seoul, Hàn Quốc. Chị gái của cô, Park Go-eun, là một nghệ sĩ cello. Khi học lớp 6, cô rời Hàn Quốc để học tập tại Hoa Kỳ. Sau khi hoàn thành cấp học phổ thông ở Maine, cô theo học chuyên ngành tâm lý học tại trường Đại học Lesley. Khi còn là học sinh phổ thông, cô có niềm đam mê âm nhạc vì thần tượng Mariah Carey. Cô muốn trở thành ca sĩ nhưng không nhận được sự cho phép từ cha mẹ. Tuy nhiên, dưới sự động viên từ người cô của mình, cô bí mật chuyển đến Trường Cao đẳng âm nhạc Berklee để theo đuổi ước mơ của mình. Khi theo học trường cấp 3 ở Hoa Kỳ, cô được chẩn đoán mắc chứng rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD).
Sự nghiệp.
2006–2013: Khởi nghiệp và đột phá.
Bom trở lại Hàn Quốc để theo đuổi sự nghiệp âm nhạc và nhiều lần thử giọng để gia nhập YG Entertainment, nơi cô được nhận vào công ty sau 3 năm thử giọng, theo lời cựu CEO của YG là Yang Hyun-suk. Khi còn là thực tập sinh tại YG, Bom được chẩn đoán mắc bệnh viêm hạch bạch huyết và phải chịu đựng căn bệnh viêm hạch kể từ đó. Năm 2006, cô góp giọng trong 2 bài hát đầu tay của Big Bang là "We Belong Together" và "Forever with U". Bom cũng hợp tác với Lexy cho bài hát "Baby Boy" từ mini album thứ ba "Rush" và Red Roc cho bài hát "Along My Way". Cô cũng xuất hiện trong quảng cáo cho dòng điện thoại di động Samsung Anycall với video âm nhạc cùng tên cùng với Lee Hyori, G-Dragon và Gummy.
Năm 2009, Bom ra mắt với tư cách là thành viên của 2NE1 với vai trò là giọng ca chính cùng với CL, Dara và Minzy. Sau đó, nhóm hợp tác với Big Bang cho bài hát "Lollipop" trước khi chính thức ra mắt trên chương trình âm nhạc "The Music Trend" của SBS vào ngày 17 tháng 5 năm 2009, nơi nhóm biểu diễn "Fire". Nhóm nhận được thành công đáng kể với bài hát "I Don't Care" từ mini album đầu tay "2NE1" đã mang về cho nhóm giải Bài hát của năm tại Mnet Asian Music Awards năm 2009, khiến nhóm trở thành nhóm nhạc tân binh đầu tiên đoạt giải Daesang trong cùng năm ra mắt. Tháng 8 năm 2009, sau khi kết thúc hoạt động quảng bá cho bài hát đầu tay, các thành viên đã nghỉ ngơi để tập trung vào các hoạt động cá nhân. Cô phát hành bài hát solo đầu tiên của mình mang tên "You and I", đạt vị trí số 1 trên Gaon Digital Chart vào tháng 11. Bài hát cũng đoạt giải Bài hát kỹ thuật số xuất sắc nhất tại Mnet Asian Music Awards năm 2010. Vào cuối năm 2011, "You and I" đạt 4.483.364 lượt tải và trở thành một trong những bài hát bán chạy nhất trong lịch sử âm nhạc Hàn Quốc.
Cuối năm 2010, Bom góp giọng trong bài hát "Oh Yeah" của GD & TOP, xuất hiện trong cả 2 phiên bản tiếng Hàn và tiếng Nhật của bài hát cũng như video âm nhạc tiếng Nhật. Bài hát đạt vị trí số 2 trên Gaon Digital Chart khi phát hành. Ngày 21 tháng 4 năm 2011, cô phát hành bài hát solo thứ hai, "Don't Cry". Bài hát đã thành công về mặt thương mại và đạt "perfect all-kill" trên Instiz, đạt vị trí quán quân trên 7 bảng xếp hạng âm nhạc Hàn Quốc. Cùng năm, Bom góp giọng trong bài hát "Having an Affair" do G-Dragon và diễn viên hài Park Myeong-su thể hiện trong một dự án hợp tác mang tên GG cho "Infinite Challenge Music Festival". G-Dragon đã khen ngợi cô, nói rằng "Trong bất kỳ bài hát nào có giọng hát của cô cất lên, đó là một bản hit. Giọng hát của cô rất tuyệt vời." Bài hát này cũng là một bản hit khác và là bài hát có lượt tải nhiều thứ hai trong năm 2011. Năm 2013, Bom thành lập một nhóm nhỏ với nữ ca sĩ cùng công ty Lee Hi dưới tên Bom & Hi. Bộ đôi phát hành bài hát cover cho "All I Want for Christmas Is You" của Mariah Carey vào ngày 17 tháng 12. Cùng năm, cô góp giọng trong phiên bản tiếng Nhật của bài hát "Black" của G-Dragon.
2014–2017: Gián đoạn sự nghiệp.
Năm 2014, có thông tin rằng Bom bị điều tra vì buôn lậu chất cấm (80 viên thuốc chứa amphetamin) thông qua đường bưu điện quốc tế trong quá khứ. Một bưu phẩm do thành viên gia đình cư trú tại Hoa Kỳ gửi cho Bom, cư trú tại Hàn Quốc, nhưng bị chặn lại tại bộ phận hải quan của sân bay quốc tế Incheon. Bom bị điều tra nhưng không bị buộc tội. Được biết, Bom vốn lớn lên ở Hoa Kỳ và cô không hề biết rằng thuốc an thần amphetamin được dùng để điều trị một số bệnh về rối loạn tâm lý ở Hoa Kỳ nhưng bị cấm lưu hành ở Hàn Quốc. Trong một thông báo được đưa ra bởi Yang Hyun-suk của YG, ông lên tiếng bác bỏ những cáo buộc về sự đãi ngộ. Ông giải thích rằng loại thuốc này là bất hợp pháp ở Hàn Quốc nhưng hợp pháp ở Hoa Kỳ. Cô không thể sang Hoa Kỳ du lịch trong thời gian đó do lịch trình bận rộn. Bom đã liên hệ với bác sĩ của cô ở Hoa Kỳ để được kê đơn thuốc. Yang Hyun-suk giải thích thêm rằng Bom đã tìm kiếm sự chăm sóc y tế từ các bác sĩ ở Hàn Quốc và phải trải qua liệu pháp điều trị, nhưng không hiệu quả bằng cách điều trị của cô ở Hoa Kỳ. Năm 2010, tại thời điểm điều tra, cô cung cấp hồ sơ y tế của mình từ bệnh viện ở Hoa Kỳ cho công tố viên để xác nhận các chẩn đoán cũng như kế hoạch điều trị đang diễn ra của cô. Cùng năm, Bom tham gia chương trình "Roommate" của SBS, một chương trình thực tế về 11 người nổi tiếng sống cùng nhau trong một ngôi nhà chung. Cô rút khỏi chương trình ngay sau vụ bê bối và tạm ngừng mọi hoạt động trong làng giải trí.
Ngày 2 tháng 12 năm 2015, Bom lần đầu xuất hiện sau một thời gian dài, biểu diễn cùng 2NE1 tại Mnet Asian Music Awards năm 2015. Ngày 25 tháng 11 năm 2016, YG thông báo 2NE1 chính thức tan rã sau 7 năm hoạt động. Công ty cũng tiết lộ rằng thành viên CL và Dara đã ký hợp đồng riêng, ám chỉ việc Bom sẽ rời công ty. Tuy nhiên, Bom đã tham gia vào bài hát cuối cùng của 2NE1 mang tên "Goodbye" được phát hành vào ngày 21 tháng 1 năm 2017. Ngày 30 tháng 4 năm 2017, cô thông báo trên phương tiện truyền thông xã hội rằng cô hiện thuộc công ty con của YG, The Black Label và đang chuẩn bị phát hành một album solo. Ngày 1 tháng 5 năm 2017, công ty phủ nhận thông báo đó và tuyên bố rằng Bom không ký kết bất kỳ bản hợp đồng nào với công ty hoặc bất kỳ công ty con nào của họ kể từ khi họ chấm dứt hợp đồng với cô vào tháng 11 năm 2016. Cô sau đó trả lời người hâm mộ trên mạng xã hội rằng cô đã ký hợp đồng và cô sẽ sớm trở lại.
2018–nay: Hồi sinh sự nghiệp.
Ngày 20 tháng 7 năm 2018, Bom được cho là đã ký hợp đồng độc quyền với công ty giải trí mới thành lập D-Nation Entertainment. Theo kế hoạch, cô sẽ phát hành mini album đầu tay bao gồm 5 đến 6 bài hát vào tháng 11 cũng như các hoạt động quảng bá ở nước ngoài. Tuy nhiên, vào ngày 2 tháng 10 năm 2018, có thông báo rằng mini album sẽ được phát hành vào khoảng tháng 1 năm 2019 và Bom sẽ ra mắt kênh YouTube. Ngày hôm sau, có thông tin rằng cô sẽ xuất hiện trên màn ảnh nhỏ lần đầu tiên sau 4 năm thông qua "YG Future Strategy Office", có sự tham gia của đồng nghiệp cùng công ty cũ Seungri. Bom góp mặt trong tập 3 của bộ phim "Music Business" được công chiếu vào ngày 5 tháng 10 năm 2018 trên Netflix.
"Spring" được công bố vào ngày 15 tháng 2 năm 2019 như bài hát chủ đề trong album đầu tay cùng tên của cô, được phát hành vào ngày 13 tháng 3 năm 2019 cùng với video âm nhạc. Bài hát được sản xuất bởi Brave Brothers và được mô tả là một "bài hát R&B có nhịp độ trung bình". Ngoài ra, "Spring" có sự góp giọng của Dara, cựu thành viên cùng nhóm của Bom. Bài hát được biểu diễn lần đầu tiên trong sự kiện ra mắt album "Spring" được tổ chức cùng ngày phát hành. "Spring" ra mắt ở vị trí số 2 trên bảng xếp hạng World Digital Song Sales của "Billboard", trở thành bài hát K-pop bán chạy nhất và bài hát mới có thứ hạng cao nhất trong tuần đó. "Spring" được tái phát hành dưới dạng mini album mang tên "re:Blue Rose" vào ngày 2 tháng 5 năm 2019. Bài hát chủ đề "4:44" được sản xuất bởi Brave Brothers và có sự góp giọng của Wheein. Bom phát hành "I Do, I Do" cho "Perfume" như bản nhạc phim đầu tay của cô vào ngày 1 tháng 7 năm 2019. Cô tổ chức buổi họp mặt người hâm mộ đầu tiên mang tên "Spring Again" vào ngày 20 tháng 7 năm 2019. Bom cũng tham gia cuộc thi truyền hình thực tế "Queendom" của Mnet được công chiếu vào ngày 29 tháng 8 năm 2019. Xuyên suốt quá trình tham gia cuộc thi, cô phát hành tổng cộng 3 bài hát bao gồm bài hát cover cho "Hann (Alone)" của đối thủ cạnh tranh (G)I-dle và "Eyes, Nose, Lips" của đồng nghiệp cùng công ty cũ Taeyang, và một bài hát mới của cô mang tên "Wanna Go Back", trong đó có sự góp giọng của Cheetah. Bom sau đó góp giọng trong "Chanel" của MC Mong được phát hành vào ngày 29 tháng 10 năm 2019. Cô tái hợp với Dara cho bài hát "First Snow" được phát hành vào ngày 10 tháng 12 năm 2019.
Ngày 21 tháng 12 năm 2020, Bom trở lại sau 1 năm gián đoạn với "Red Light", hợp tác với Sai Sai Kham Leng. Cô đã phát hành đĩa đơn "Do Re MI Fa Sol" hợp tác với Changmo vào ngày 31 tháng 3 năm 2021. | 1 | null |
Hearts of Iron (tạm dịch: "Trái tim sắt đá") là trò chơi máy tính thuộc thể loại wargame đại chiến lược thời gian thực lấy bối cảnh Thế chiến II trong khoảng thời gian 1936-1948 do hãng Paradox Interactive phát triển và Strategy First phát hành vào ngày 24 tháng 11 năm 2002, bản Macintosh do hãng Virtual Programming phát hành vào tháng 10 năm 2003.
Sau sự thành công của phiên bản đầu, nhà sản xuất lần lượt tung ra các bản tiếp theo gồm "Hearts of Iron II" phát hành vào năm 2005 với một số thay đổi trong cây công nghệ và lối chơi. "Hearts of Iron III" được phát hành vào ngày 7 tháng 8 năm 2009 với sự cách tân toàn bộ từ đồ họa, âm nhạc cho đến lối chơi đầy phức tạp. "Hearts of Iron - The Card Game" (trò chơi thẻ bài) chỉ dành cho chơi miễn phí, trò chơi thu thập thẻ bài dựa trên trình duyệt được phát hành vào ngày 3 tháng 10 năm 2011.
Cách chơi.
"Hearts of Iron" dựa trên engine của dòng game "Europa Universalis" rất thành công của Paradox nhưng có nhiều thay đổi như sau:
Lối chơi tập trung vào sự tồn tại (hoặc trước hoặc suốt) chiến tranh thế giới thứ hai và người chơi có thể gây ra hoặc chứng kiến các sự kiện khác nhau từ cách mà chúng xảy ra xét về mặt lịch sử. "Hearts of Iron" được xem như một trò chơi lịch sử thay thế.
Có ba liên minh chính trong game gồm phe Đồng minh, Phát xít và Quốc tế Cộng sản mà người chơi có thể tham gia hoặc đứng ngoài cuộc. Trò chơi kết thúc khi chỉ còn lại một liên minh trụ vững hoặc vào nửa đêm ngày 30 Tháng 12 năm 1947 và liên minh chiến thắng được xác định thông qua hệ thống điểm chiến thắng, tính điểm để liên minh kiểm soát các khu vực hoặc thành phố trọng điểm.
Kiểm duyệt.
"Hearts of Iron" đã bị cấm ở nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa bởi vì game mô tả Tây Tạng, Tân Cương và Mãn Châu là những quốc gia độc lập, còn Đài Loan thì thuộc quyền kiểm soát của Nhật Bản (về mặt lịch sử, Đài Loan vẫn nằm dưới sự cai trị của người Nhật vào thời điểm đó). Paradox Interactive đề cập rằng game làm đúng theo sự thực lịch sử và nó đại diện cho thời kỳ khó khăn "mà Trung Quốc phải chịu đựng, cũng như những khó khăn chồng chất mà Đảng Cộng sản Trung Quốc đã vượt qua để giành chiến thắng trong cuộc nội chiến Trung Quốc. | 1 | null |
Hearts of Iron II (tạm dịch: "Trái tim sắt đá 2") là phần thứ hai của loạt trò chơi máy tính thuộc thể loại wargame đại chiến lược thời gian thực "Hearts of Iron" lấy bối cảnh Thế chến II trong khoảng thời gian 1936-1947 (với bản mở rộng thì đến tận năm 1964) do hãng Paradox Interactive đồng phát triển và phát hành vào ngày 4 tháng 1 năm 2005.
Phần tiếp theo là "Hearts of Iron III" được phát hành vào ngày 7 tháng 8 năm 2009. Ngoài ra, "Hearts of Iron II" còn có các bản mod hoàn chỉnh dựa trên engine của nó như "Arsenal of Democracy" phát hành vào ngày 23 tháng 2 năm 2010 Bản mở rộng "Iron Cross" phát hành vào ngày 7 tháng 10 năm 2010 và bản game độc lập "" được phát hành vào ngày 5 tháng 4 năm 2011.
Cách chơi.
Tổng quan.
Những năm từ 1936 đến 1948 là khoảng thời gian đen tối nhất trong lịch sử nhân loại, với những mâu thuẫn âm ỉ giữa các quốc gia, và lên đến đỉnh cao trong cuộc đại chiến thế giới lần 2 kéo dài từ năm 1939 đến 1945. "Hearts of Iron II" sẽ đưa người chơi vào trong vòng xoáy chiến tranh này, trong vai trò là người lãnh đạo một quốc gia để đè bẹp mọi đối thủ và tiến đến đỉnh cao quyền lực. Trong loạt game "Hearts of Iron", người chơi sẽ điều khiển một quốc gia trong Thế chiến II để chống lại kẻ thù, thống trị thế giới hoặc đem lại hòa bình cho thế giới. Người chơi sẽ được lựa chọn hàng trăm quốc gia lớn nhỏ vào thời kì WW2, bao gồm các nước Đồng minh như Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô hay các nước Phát xít Đức, Ý, Nhật hay thậm chí các nước nhỏ như Liberia, Costa Rica, Cuba... để điều khiển và tham gia chiến tranh thế giới thứ 2. Người chơi sẽ được quản lý gần như mọi mặt của quốc gia đó trong chiến tranh như sản xuất, điều khiển quân đội, tàu chiến, máy bay, quản lý kinh tế, đối ngoại, thương mại, tình báo, chính trị, nghiên cứu khoa học. Ngoài ra người chơi còn được tham gia vào quyết định những sự kiện lịch sử trong thế chiến hoặc là làm thay đổi vận mệnh của thế giới hoặc là chỉ chơi để khám phá một cái nhìn khác về chiến tranh từ góc nhìn của người lãnh đạo một quốc gia.
Quốc gia.
Trong game có sự góp mặt của rất nhiều các quốc gia trên thế giới, từ các cường quốc như Liên Xô, Mỹ, Anh, Đức,… đến những nước nhỏ hơn như Ba Lan hay thậm chí là quốc đảo Costa Rica, và người chơi được phép chọn tùy thích. Mỗi quốc gia có thế mạnh riêng, từ đó ảnh hưởng đến cả quá trình chơi. Tuy nhiên, đây không phải là một game dành cho tất cả các fan của thể loại chiến thuật - dàn trận, bởi cách chơi khác biệt so với những dòng game chiến lược khác như "Command & Conquer" hay "Company of Heroes". Mọi hoạt động của game sẽ diễn ra mà không hề có hình ảnh của những quân đoàn đông đảo, những hiệu ứng cháy nổ hoành tráng. Tất cả những cuộc chiến đều diễn ra trên một bản đồ thế giới, gồm khoảng 2000 vùng đất khác nhau.
Quản lý.
Lối chơi chơi của "Hearts of Iron II" mang lại cho người chơi cảm giác của một nhà lãnh đạo trên bàn cờ thế giới. Những nhà lãnh đạo của mỗi quốc gia sẽ có những chỉ số khác nhau, mang lại các lợi thế riêng biệt cho đoàn quân mà họ chỉ huy. Những con số và các quân cờ sẽ đại diện cho các đoàn quân và những trận đánh. Mỗi đoàn quân sẽ thuộc về một sở chỉ huy, và nếu người chơi không đủ khả năng để điều khiển vi mô (micro) cho tất cả, hãy giao bớt một phần việc cho các sở chỉ huy này. Các mệnh lệnh khá đơn giản, như bảo vệ, tấn công... và máy sẽ điều khiển các đội quân dưới quyền thực hiện chúng khá hiệu quả. Người chơi cần ra mệnh lệnh và phân phối quân đội một cách hợp lý, bởi trò chơi tập trung vào tính thực tế của các trận chiến, nên một đoàn quân đông đảo hơn chưa hẳn đã là kẻ chiến thắng. Tính thực của game đã được nâng cao rất nhiều với bản đầu, thậm chí trò chơi còn mang vào chức năng "chính phủ lưu vong", cho phép người chơi điều hành đất nước từ bên ngoài lãnh thổ.
Quân sự.
Quân đội của người chơi trong game được chia làm ba loại là lục, hải, không quân. Đơn vị lục quân nhỏ nhất là sư đoàn, dưới là lữ đoàn gồm các binh chủng công binh, pháo binh, thiết giáp được gộp vào đó. Hải quân bao gồm các đơn vị như chiến hạm chủ lực duy nhất hoặc các loại tàu nhỏ như khu trục hạm, tuần dương hạm. Đối với không quân thì đơn vị được tính là phi đội bao gồm các loại máy bay như chiến đấu cơ, oanh tạc cơ, vận tải cơ. Sư đoàn lục quân bao gồm bộ binh, kỵ binh và xe tăng. Lữ đoàn lục quân bao gồm pháo chống tăng, pháo phòng không và quân cảnh. Ngoài ra người chơi còn có thể nâng sư đoàn lên thành quân đoàn và tập đoàn quân.
Trên bản đồ, người chơi có thể điều khiển sư đoàn hoặc nhóm sư đoàn. Trận chiến bắt đầu khi quân đội bắt đầu di chuyển vào lãnh thổ đối phương được phòng thủ. Các đơn vị xâm lược không được tiến vào tấn công bên trong lãnh thổ đối phương. Người chơi có thể chiếm đóng ngay lập tức một tỉnh khi tiêu diệt hoàn toàn quân đội đối phương thông qua đòn tấn công chớp nhoáng với đội quân đông đảo hơn hẳn đối phương. Tuy nhiên nếu đơn vị quân di chuyển liên tục sẽ rơi vào nguy cơ mất tổ chức và thiếu tiếp tế, hỗ trợ, về lâu dài có khả năng gây suy sụp tinh thần quân đội và binh lính đào ngũ hàng loạt khiến cho việc tiến công bị hoãn lại vô thời hạn. Người chơi còn có thể tăng cường thành phố và cơ sở hạ tầng để cải thiện hiệu suất chiến đấu. Các công trình bao gồm radar và AA cố định. Khá nhiều công sự có thể tái xây dựng như tuyến phòng thủ Maginot dọc theo biên giới Pháp-Đức.
Những đơn vị không quân bao gồm máy bay ném bom, máy bay chiến đấu và máy bay vận tải. Những sư đoàn này còn tùy thuộc vào chủng loại, được phép tham gia vào các nhiệm vụ chiến thuật hay chiến lược. Các đơn vị hải quân bao gồm tàu vận tải, tàu sân bay, tàu chiến, tàu tuần dương, tàu khu trục và tàu ngầm. Mỗi đơn vị có một sức mạnh, tốc độ và phạm vi tham gia khác. Phạm vi mô phỏng hải chiến giữa các hạm đội, chỉ cho phép một đơn vị duy nhất trong tầm bắn. Điều này làm cho chiến thuật trong hải chiến thêm phần phức tạp.
Các binh chủng trong game có rất nhiều nâng cấp khác nhau, như tầm bắn, tốc độ bắn, các loại vũ khí mới... nhưng tất cả các nâng cấp này đều bám sát theo lịch sử: các đoàn quân sẽ không thể được trang bị khẩu AK47 nổi tiếng trước khi nó ra đời. Đối thủ cũng sẽ không ngừng nâng cấp, nên đây thực sự là một cuộc chạy đua vũ trang mà kẻ đi sau sẽ là kẻ bại trận. Nếu khả năng sản xuất trong nước hạn chế, thì giải pháp đề ra là mua vũ khí từ nước khác.
Mục tiêu của người chơi cũng khá đa dạng, không chỉ là chinh phục toàn bộ thế giới mà còn tùy thuộc vào quốc gia lựa chọn, chẳng hạn Đức quốc xã chỉ cần chiếm lấy Stalingrad, London hoặc cầm cự được đến năm 1948 là giành được chiến thắng trong game. Người chơi có thể thay đổi mục tiêu này ở đầu game. Để đạt được mục tiêu này, đôi khi chỉ sức mạnh quân sự là không đủ. Hệ thống chính trị và ngoại giao của game sẽ giúp người chơi dễ dàng hơn bằng cách liên minh với các quốc gia hoặc các khối quân sự hùng mạnh. Một vài phi vụ do thám đúng lúc của các điệp viên cũng có thể thay đổi cục diện chiến tranh.
Tài nguyên.
"Hearts of Iron II" có tổng cộng chín loại tài nguyên, trong đó có sáu loại tài nguyên thông thường gồm năng lượng, quân nhu, dầu, tiền và ba loại đặc biệt là nguồn nhân lực, năng lực công nghiệp và năng lực vận tải. Tuy là một phần không thể thiếu để phát triển đất nước nhưng khó có thể cung cấp đầy đủ mọi nhu cầu của quốc gia. Cùng một lúc không thể nào đáp ứng đầy đủ nhu cầu của người dân và quân đội. Do đó người chơi cần phân phối tài nguyên hợp lý để việc phát triển công nghiệp cân bằng bên cạnh việc cắt bỏ những ngành nghề không thật sự cần thiết.
Sáu loại tài nguyên thông thường có thể giao dịch được với các nước khác, tuy chúng rất dễ bị quân đối phương đánh phá nếu các tuyến đường đến các nước khác bị chiếm đóng. Người chơi còn có thể thực hiện giao thương với bất kỳ nước nào khác, ngay cả những nước có quan hệ ngoại giao xấu dù các quốc gia đồng minh sẵn sàng chấp nhận đề nghị thương mại thuận lợi hơn. Riêng ba loại tài nguyên còn lại không được phép giao dịch là nhân lực, IC và TC.
Công nghệ.
Việc nghiên cứu khoa học kỹ thuật là yếu tố rất quan trọng vì nó sẽ giúp giúp quốc gia phát triển mạnh trong tương lai và quân đội được tăng cường thực lực lên rất nhiều. Mỗi công nghệ đều có thời điểm xuất hiện nên người chơi không thể tạo ra vũ khí dựa theo công nghệ đó trước khi công nghệ đó được phát minh. Có nhiều cấp độ nâng cấp công nghệ và người chơi phải phát triển chúng một cách tuần tự. Việc nghiên cứu là một quá trình lâu dài, không thể đốt cháy giai đoạn. Để tiết kiệm tài nguyên, thời gian và công sức, người chơi nên tập trung vào những ngành chính tác động đến sức mạnh của quốc gia. Và khi đã phát minh ra một công nghệ mới, cần áp dụng ngay vào thực tế nếu không muốn công nghệ đó trở nên lạc hậu và mất đi. Game có khá nhiều lĩnh vực mà người chơi phải để mắt đến, nhưng nếu bị quá tải hay muốn tập trung vào một lĩnh vực nào đó người chơi có thể giao cho máy tự động lo liệu.
Kịch bản.
Trong game, người chơi giả định kiểm soát trực tiếp một quốc gia vào lúc bắt đầu của một kịch bản cho tới năm 1948. Các kịch bản sau đây gồm:
Được thêm vào trong "Iron Cross":
Những chiến dịch chơi được gồm:
Kiểm duyệt.
Giống như người tiền nhiệm "Hearts of Iron", trò chơi bị cấm ở nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Những điểm bất đồng chính ở chỗ là game miêu tả các thế lực quân phiệt Trung Quốc như những thực thể độc lập, trong khi theo chính phủ Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa thì họ trên danh nghĩa chỉ là một phần của nước Cộng hòa Trung Hoa do chính phủ Trung Hoa Dân Quốc cầm quyền, mà đại diện trong game là phe "Quốc Dân Đảng". Ngoài ra, lá cờ Tây Tạng được sử dụng trong trò chơi cũng là lý do bị cấm ở Trung Quốc. Paradox đã tuyên bố rằng nó sẽ không làm giảm mức độ chính xác về mặt lịch sử để xoa dịu các nhà kiểm duyệt Trung Quốc.
Cùng với những sai sót về mặt niên đại, nước Đức được đại diện với lá cờ của Đế quốc Đức được người Đức sử dụng cho đến năm 1935 và không phải là lá cờ chữ Vạn như trong bộ board game đầu tiên Axis & Allies. Luật ở Đức cấm sử dụng hình chữ vạn. Ngoài ra, trong phiên bản tiếng Đức của trò chơi, hình ảnh các nhà lãnh đạo Đức Quốc xã hàng đầu, chẳng hạn như Hitler, Göring và Himmler bị gỡ bỏ và tên của họ được thay đổi, mặc dù điều này là không cần thiết theo quy định của luật kiểm duyệt ở Đức và nó không nằm trong trường hợp với các phiên bản không phải tiếng Đức. Người dùng có thể dễ dàng sửa đổi game chẳng hạn như về mặt đồ họa, nhưng Paradox không cho phép thảo luận kiểu sửa đổi đặc biệt này trên bảng tin của họ.
Mở rộng.
Doomsday.
Tháng 11 năm 2005, phiên bản mở rộng độc lập "Hearts of Iron II: Doomsday" được công bố và phát hành vào ngày 7 tháng 4 năm 2006. Game có tất cả mọi thứ như phiên bản gốc trong khi làm nổi bật và mở rộng giai đoạn sau chiến tranh thế giới thứ II, bao gồm cả giả thuyết một cuộc chiến tranh hạt nhân giữa Liên Xô và Đồng Minh. Các tính năng mới trong bản mở rộng trong số những thứ khác như làm lại kiểu tình báo (cho phép người chơi sử dụng gián điệp, phá hoại và những thứ khác trong mục tình báo truy cập thông qua màn hình chính), cải thiện AI và một trình biên tập kịch bản.
"Doomsday" cũng có một vài điểm thay đổi và bổ sung khác như:
Armageddon.
Một bản mở rộng khác được phát hành vào ngày 29 tháng 3 năm 2007 trong một kịch bản lịch sử thay thế được gọi là "Hearts of Iron II: Armageddon". Ở bản này tiếp tục cho phép nhiều thời gian hơn và người chơi có khả năng lựa chọn năm 1964 là điểm kết thúc. Nó cho phép thêm các mô-đun cho tàu (chẳng hạn như radar được cải thiện, kiểm soát cháy nổ, chống tàu ngầm hoặc các loại vũ khí chống máy bay) và trình hai kịch bản mới để chơi, cũng như AI một nâng cao.
"Armageddon" cũng có một số thay đổi và bổ sung khác như:
Iron Cross.
"Iron Cross" là một bản mở rộng của "Hearts of Iron 2 Armageddon" do hãng Irshappa phát triển và được phát hành dưới dạng tải về kỹ thuật số vào ngày 7 tháng 10 năm 2010. Nó mở rộng số lượng các tỉnh trên bản đồ cũng như rất nhiều bổ sung khác và cũng có thể được cài đặt như một bản mở rộng của "Arsenal of Democracy" và "Darkest Hour".
Các tính năng mới trong Iron Cross gồm: | 1 | null |
Hearts of Iron III (tạm dịch: "Trái tim sắt đá 3") là phần thứ ba của loạt trò chơi máy tính thuộc thể loại wargame đại chiến lược thời gian thực "Hearts of Iron" lấy bối cảnh trước và sau cuộc chiến tranh thế giới thứ hai trong khoảng thời gian 1936-1948 do hãng Paradox Interactive đồng phát triển và phát hành vào ngày 7 tháng 8 năm 2009. Phiên bản Mac OS X được hãng Virtual Programming phát hành vào ngày 4 tháng 12 năm 2009.
Cách chơi.
Tổng quan.
Những năm từ 1936 đến 1948 là khoảng thời gian đen tối nhất trong lịch sử nhân loại, với những mâu thuẫn âm ỉ giữa các quốc gia, và lên đến đỉnh cao trong cuộc đại chiến thế giới lần 2 kéo dài từ năm 1939 đến 1945. "Hearts of Iron III" sẽ đưa người chơi vào trong vòng xoáy chiến tranh này, trong vai trò là người lãnh đạo một quốc gia để đè bẹp mọi đối thủ và tiến đến đỉnh cao quyền lực. Trong loạt game "Hearts of Iron", người chơi sẽ điều khiển một quốc gia trong Thế chiến II để chống lại kẻ thù, thống trị thế giới hoặc đem lại hòa bình cho thế giới. Người chơi sẽ được lựa chọn hàng trăm quốc gia lớn nhỏ vào thời kì WW2, bao gồm các nước Đồng minh như Anh, Pháp, Mỹ, Liên Xô hay các nước Phát xít Đức, Ý, Nhật hay thậm chí các nước nhỏ như Liberia, Costa Rica, Cuba... để điều khiển và tham gia chiến tranh thế giới thứ 2. Người chơi sẽ được quản lý gần như mọi mặt của quốc gia đó trong chiến tranh như sản xuất, điều khiển quân đội, tàu chiến, máy bay, quản lý kinh tế, đối ngoại, thương mại, tình báo, chính trị, nghiên cứu khoa học. Ngoài ra người chơi còn được tham gia vào quyết định những sự kiện lịch sử trong thế chiến hoặc là làm thay đổi vận mệnh của thế giới hoặc là chỉ chơi để khám phá một cái nhìn khác về chiến tranh từ góc nhìn của người lãnh đạo một quốc gia.
Quốc gia.
Trò chơi xoay quanh ba thế lực: Phe Trục (dẫn đầu bởi Đức Quốc xã), Đồng Minh (dẫn đầu bởi Vương quốc Anh), và Quốc tế Cộng sản (dẫn đầu bởi Liên Xô). Tất cả các quốc gia khác có thể dần dần đứng chung hàng ngũ với một trong các phe phái. Quốc gia có nhiều khả năng đứng về phe nào có những ý thức hệ tương tự. Có khoảng 150 quốc gia để người chơi chọn lựa tham gia vào cuộc chiến, với những góc nhìn và toan tính khác nhau. Như các phiên bản trước, người chơi có thể tham gia vào một trong những quốc gia chính thuộc phe Phát xít hay Đồng minh. Ngoài ra, người chơi cũng có thể chọn trở thành một nhà lãnh đạo của cá quốc gia nhỏ hơn.
Mỗi phe phái, mỗi quốc gia đều có những thế mạnh riêng nhưng game vẫn tạo được sự cân bằng. Dễ thấy nhất là phe Phát xít có lợi thế là xây dựng quân đội rất nhanh, dễ dàng tấn công chớp nhoáng mọi đối thủ, còn phe Đồng minh lại có khoa học kỹ thuật tiến bộ nên vũ khí rất mạnh và hiện đại. Điều người chơi muốn là xây dựng một quốc gia thật hùng mạnh để chinh phục mọi vùng đất, nhưng đó lại là nhiệm vụ khó mà thực hiện được. Do mỗi quốc gia đều có thực lực nhất định, chỉ cần hoàn thành mục tiêu với thực lực có hạn thì người chơi đã thành công.
Giao diện.
Giao diện chính của game là bản đồ thế giới, mọi hoạt động đều diễn ra trên bản đồ thế giới, gồm khoảng 10.000 vùng đất - gấp 5 lần so với Hearts of Iron II. Từ góc nhìn từ trên cao, trò chơi hệt như một sa bàn chiến thuật với những biểu trưng quân sự theo quy chuẩn của nhà binh. Với cách bố trí này, người chơi có thể dễ dàng quan sát và điều động trên phạm vi chiến trường rộng lớn, hệt như dòng game "European Theatre" của TalonSoft. Khi phóng to bản đồ lên, người chơi sẽ quay trở lại giao diện quen thuộc của các phiên bản trước, với các quân đoàn được 3D hóa thay cho những mô hình 2D vẽ sẵn của dòng game trước đây. Bề mặt của bản đồ cũng ở trong tình trạng tương tự. Những lớp thể hiện các yếu tố địa hình, khuynh hướng chính trị, quốc gia… cũng được vẽ lại với độ chi tiết cao hơn cho một bản đồ rộng lớn hơn.
Chính trị.
Hệ thống chính trị trong và ngoài nước cũng có vài thay đổi. Không đơn giản chỉ là thay đổi một vài nhân sự trong bộ máy cầm quyền, hay bỏ một ít điểm ngoại giao để chiêu dụ các quốc gia trung lập. Thay vào đó thì giờ đây yếu tố đảng phái cầm quyền mang lại những ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực sản xuất, lực lượng quân trù bị cũng như khả năng chiến đấu của quân đội… Do đó, cách duy nhất thay đổi chính sách đối nội chính là thay đổi đảng phái cầm quyền. Không những thế, người chơi còn có thể lôi kéo, thay đổi khuynh hướng đối ngoại của những quốc gia khác thông qua việc tác động thay đổi đảng cầm quyền của quốc gia đó bằng gián điệp.
Đây cũng là nét mới trong dòng game khi cho phép người chơi sử dụng tình báo như một công cụ chính trị khá hữu hiệu. Gián điệp có thể giúp người chơi thu thập tin tức, phá hoại nền chính trị, lôi kéo quốc gia khác hay chống lại những cuộc tấn công giáp điệp từ đối phương. Chính vì thế, khi so sánh với các phiên bản trước, người chơi có nhiều lựa chọn hơn trong việc tiến hành các quyết sách đối ngoại với các quốc gia khác.
Tài nguyên.
Tài nguyên trong game bao gồm: năng lượng, kim loại, vật liệu quý hiếm, và dầu. Ba loại đầu tiên cần thiết cho sản xuất công nghiệp, trong khi dầu được chuyển đổi thành nhiên liệu cho xe, máy bay và tàu thuyền hoạt động. Phạm vi tổ chức quân sự trải dài từ lữ đoàn cho đến toàn bộ hoạt động trên chiến trường. Các loại tài nguyên thông thường có thể giao dịch được với các nước khác, tuy chúng rất dễ bị quân đối phương đánh phá nếu các tuyến đường đến các nước khác bị chiếm đóng. Người chơi còn có thể thực hiện giao thương với bất kỳ nước nào khác, ngay cả những nước có quan hệ ngoại giao xấu dù các quốc gia đồng minh sẵn sàng chấp nhận đề nghị thương mại thuận lợi hơn. Riêng ba loại tài nguyên còn lại không được phép giao dịch là nhân lực, IC và TC.
Công nghệ.
Việc nghiên cứu khoa học kỹ thuật là yếu tố rất quan trọng vì nó sẽ giúp giúp quốc gia phát triển mạnh trong tương lai và quân đội được tăng cường thực lực lên rất nhiều. Mỗi công nghệ đều có thời điểm xuất hiện nên người chơi không thể tạo ra vũ khí dựa theo công nghệ đó trước khi công nghệ đó được phát minh. Có nhiều cấp độ nâng cấp công nghệ và người chơi phải phát triển chúng một cách tuần tự. Việc nghiên cứu là một quá trình lâu dài, không thể đốt cháy giai đoạn. Để tiết kiệm tài nguyên, thời gian và công sức, người chơi nên tập trung vào những ngành chính tác động đến sức mạnh của quốc gia. Và khi đã phát minh ra một công nghệ mới, cần áp dụng ngay vào thực tế nếu không muốn công nghệ đó trở nên lạc hậu và mất đi. Game có khá nhiều lĩnh vực mà người chơi phải để mắt đến, nhưng nếu bị quá tải hay muốn tập trung vào một lĩnh vực nào đó người chơi có thể giao cho máy tự động lo liệu.
Quân sự.
Để quốc gia có uy thế, người chơi cần có một hệ thống quân đội thật vững mạnh. Điều đầu tiên là phải xây dựng các binh chủng như không quân, hải quân và bộ binh rồi sau đó tiến hành nâng cấp nhiều lĩnh vực khác nhau như tầm bắn, sức mạnh hoặc chế tạo vũ khí mới. Game cho người chơi ba lựa chọn về cách đánh là: tấn công chớp nhoáng, đánh nhử hay là tấn công bình thường. Mỗi loại tấn công có ưu điểm riêng và nếu áp dụng phù hợp cho từng hoàn cảnh cụ thể thì đội quân của người chơi sẽ trở nên rất lợi hại. Tuy chỉ có ba cách đánh cơ bản nhưng người chơi vẫn có thể kết hợp nhuần nhuyễn các lối đánh để tạo ra cách đánh cho riêng mình.
Vấn đề chỉ huy chiến trận cũng là vấn đề hết sức phức tạp. Vì vậy, người chơi có thể đưa ra mục tiêu muốn đánh chiếm cho tổng tư lệnh quân đội, sau đó tổng tư lệnh quân đội sẽ tự điều động các binh chủng thực hiện nhiệm vụ. Các tổng tư lệnh do máy điều khiển đều tỏ ra xuất sắc trong việc ra quyết định giúp người chơi đạt được mục đích. Thậm chí đại bản doanh còn có thể ra các mệnh lệnh tới các nhà máy để bổ sung vật phẩm cho quân đội. Tuy nhiên, chỉ với sức mạnh về quân sự thì không thể giúp người chơi đạt mọi mục tiêu. Người chơi phải tận dụng tài ngoại giao của mình để tìm được những đồng minh thích hợp, vì chỉ có sức mạnh tập thể mới làm nên chiến thắng cuối cùng. Các quốc gia hay lãnh thổ nào đã liên minh sẽ tự động hỗ trợ chiến đấu mà người chơi không cần phải phát tín hiệu cầu viện quân.
Ngoài ra người chơi cần chú trọng phát triển công nghiệp, đó là nền tảng giúp quốc gia thực sự vững mạnh. Công nghiệp phát triển, lượng hàng hóa dồi dào vừa đáp ứng được nhu cầu trong nước, vừa có thể xuất khẩu nếu dư dả. Điều cần lưu ý là phải có sự cân bằng trong việc cung cấp hàng hóa cho quân đội và người dân. Nếu quá ưu tiên cho quân đội thì người dân sẽ bất mãn, họ tiến hành đình công thì các nhà máy không thể sản xuất hàng hóa được nữa. Còn nếu quá chăm lo vào đời sống của người dân mà bỏ lơ quân đội thì tất nhiên lực chiến đấu của quốc gia sẽ bị suy yếu dần.
Phát triển.
Đoạn trailer đầu tiên từ Hội nghị Game ở Leipzig, Đức cho thấy những tính năng mới mẻ chẳng hạn như đồ họa 3D.
Paradox còn phát hành một loạt nhật ký phát triển và các đoạn phim trưng bày về game.
Mặc dù hài lòng với mục tiêu của "Hearts of Iron II", trưởng nhóm thiết kế Johan Andersson vẫn muốn cải thiện tất cả các mặt của game lên, bắt đầu lại với một engine mới. Trí tuệ nhân tạo của trò chơi (AI) đã được thiết kế để có thể đạt được chiến lược mục tiêu và kiểm soát lực lượng giao cho nó, bao gồm hoạt động chiến trường. AI cũng có thể ghi nhớ và so sánh khả năng chiến lược cũng như tình huống thay đổi. Việc chuyển sang đồ họa 3D giúp cải thiện các mặt khác, như Andersson giải thích:
"3D có nghĩa là chúng ta có thể làm một dạng khác của kiến trúc mà chúng tôi có thể hỗ trợ độ phân giải màn hình nhiều hơn và phát triển bản đồ của chúng tôi một cách nhanh hơn. Lợi thế lớn nhất từ công nghệ 3D là thông qua khả năng giảm tải cho GPU. Với sự tiến bộ của máy tính trong suốt thập kỷ vừa qua đã cho chúng ta những lợi ích lớn nhất trong việc phát triển khi nói đến lối chơi và AI".
Paradox đã có một tầm nhìn cho kiểu mẫu bản đồ, người chơi sẽ dành phần lớn thời gian của họ nhìn vào nó: "…để tạo ra một bản đồ mà cảm thấy giống như một bản đồ Thế chiến II, như nó có thể là một bản đồ mà.. một viên chỉ huy trong chiến tranh sẽ thấy được chính mình". Nội dung của bản đồ cũng được thay đổi; số tỉnh tăng hơn 15.000 so với 2.600 trong Hearts of Iron II. Những sư đoàn tùy biến có mặt lần đầu tiên của dòng game, mỗi sư đoàn gồm từ 2-5 lữ đoàn, mỗi lữ đoàn sẽ gia tăng sức mạnh chiến đấu và chi phí của sư đoàn.
Mở rộng.
Ngày 6 tháng 6 năm 2010, Paradox chính thức phát hành bản mở rộng với tên gọi "Hearts of Iron III: Semper Fi" chỉ cho phép tải về chơi.
Phiên bản mở rộng "Semper Fi" cho Mac OS X được Virtual Programming chuyển thể vào ngày 23 tháng 7 năm 2010.
Bản mở rộng thứ hai mang tên "Hearts of Iron III: For the Motherland" được công bố vào ngày 27 tháng 1 năm 2011 và phát hành vào ngày 28 tháng 6 năm 2011.
Phiên bản mở rộng "Hearts of Iron III: For the Motherland" cho Mac OS X được Virtual Programming chuyển thể vào ngày 28 tháng 9 năm 2011.
Ngày 22 tháng 11 năm 2011, Paradox Interactive phát hành "Hearts of Iron III Collection", bao gồm cả bản mở rộng cho "Hearts Of Iron III" và tất cả các gói nội dung tải về được phát hành trước đó.
Phiên bản mở rộng thứ ba có tên "Their Finest Hour" đã phát hành vào ngày 26 tháng 9 năm 2012.
Đón nhận.
"Hearts of Iron III" ban đầu nhận được nhiều đánh giá trái ngược nhau do vì trò chơi được phát hành với một lượng lỗi lớn trong bản phát hành ban đầu. Sau khi một số bản vá lỗi loại bỏ được nhiều lỗi, các lời phê bình được cải thiện và trò chơi nhận được đánh giá tích cực nói chung. Vào tháng 12 năm 2009, game nhận được sự kết hợp điểm trung bình 77 trên Metacritic" và 79% trên Gamerankings".
Gamepro đã viết: "có lẽ là vấn đề tồi tệ nhất là giao diện chính nó, hoặc cụ thể hơn, lượng thông tin phản hồi dành cho người chơi. Trái ngược với hệ thống cũ, không có cách nào ngay lập tức để đánh giá bạn có bao nhiêu sư đoàn trong mỗi tỉnh, và cũng không có giá trị quan trọng như tổ chức đơn vị hoặc giá trị chiến đấu".
Mặt khác, trò chơi được ca ngợi như "phù hợp cho những người rành chiến thuật giàu kinh nghiệm và những tay chơi wargamer với rất nhiều kiên nhẫn, nhưng trò chơi lại dễ tiếp cận hơn so với người tiền nhiệm của nó và là bước nhảy vọt lớn cho những người chơi mới muốn dấn thân vào một pho sử thi đại chiến lược". | 1 | null |
Arsenal of Democracy (tạm dịch: "Kho vũ khí của nền dân chủ") là trò chơi máy tính thuộc thể loại wargame đại chiến lược dựa trên nền engine Europa của "Hearts of Iron II – Armageddon" do hãng BL-Logic phát triển, nguyên là một studio phát triển do người hâm mộ loạt game "Hearts of Iron" và những thành viên hoạt động trong cộng đồng mod lập nên. Game được hãng Paradox Interactive công bố vào ngày 8 tháng 9 năm 2009 và chính thức phát hành vào ngày 23 tháng 2 năm 2010.
Cũng như các phiên bản trong loạt game đại chiến lược "Hearts of Iron", "Arsenal of Democracy" cho phép người chơi kiểm soát và quản lý gần như bất kỳ quốc gia nào trong chiến tranh thế giới thứ II và đầu thời đại chiến tranh lạnh bao gồm cả các mặt như chính trị, ngoại giao, tình báo, kinh tế, quân sự và công nghệ.
Cách chơi.
Trong phiên bản mới này cho phép người chơi xây dựng lữ đoàn lục quân, phi đội máy bay và hạm đội tàu chiến và kết hợp chúng thành từng quân đoàn và quân đội riêng. Người chơi cũng có khả năng kiểm soát việc bổ nhiệm chỉ huy của các lực lượng dưới lá cờ quốc gia của họ hoặc của các quốc gia bị kiểm soát cũng như kiểm soát việc bổ nhiệm cá nhân các bộ trưởng chính phủ và chỉ huy quân sự ở các vị trí then chốt của Bộ Tham mưu. Người chơi còn có thêm khả năng rộng lớn hơn để kiểm soát người đứng đầu nhà nước và chính phủ, tuy nhiên, tùy chọn này chỉ có sẵn cho nền dân chủ và phải thông qua bầu cử để người chơi lựa chọn người chiến thắng. Ngoài ra, người chơi có thể tổ chức các cuộc đảo chính, tuyên bố chiến tranh, sáp nhập lãnh thổ và thiết lập liên minh. Người chơi cũng có thể làm thay đổi các chính sách xã hội và kinh tế của quốc gia mình bằng cách sử dụng thanh trượt, chẳng hạn như dân chủ với độc tài, thị trường tự do với kinh tế kế hoạch và v.v... Di chuyển thanh trượt sẽ dẫn đến tiền thưởng và các hình phạt khác nhau, cho phép một loạt các lựa chọn và chiến lược. Nghiên cứu công nghệ sẽ do người chơi điều khiển. Tất cả sẽ diễn ra trên quy mô toàn cầu, với người chơi đồng thời xử lý và tương tác với các quốc gia trên toàn thế giới. Trò chơi có thể được tạm dừng tại bất kỳ điểm nào.
Những thay đổi từ bản gốc.
"Arsenal of Democracy" duy trì cái nhìn tổng quát và cảm nhận của bản gốc, nhưng bổ sung một số thay đổi và cải tiến hơn 1,2 lần bản "Armageddon" về tính năng. Mục đích và kết quả kết thúc của những thay đổi này khiến game thiếu đi chiều sâu trong phần quản lý, người dùng thân thiện hơn và thông qua việc nâng cao AI sẽ có nhiều thử thách hơn. Những thay đổi được tập trung xung quanh nền kinh tế, sản xuất, chiến đấu, độ chính xác về mặt lịch sử của trò chơi.
Thêm vào đó là còn sửa chữa về mặt đồ họa và giao diện người dùng. Điều này ảnh hưởng đến nhiều hệ thống bao gồm gián điệp, thương mại và các thông báo. Được phép tăng độ phân giải màn hình và một chế độ cửa sổ lựa chọn tự do.
Nhiều thành phần đã được điều chỉnh. Sản xuất và kinh tế giờ cung cấp cho người sử dụng quyền kiểm soát nhiều hơn đáng kể và có kết quả làm cho AI cạnh tranh hơn khi so sánh với bản gốc "Hearts of Iron 2 - Armageddon". Yếu tố chiến đấu, bao gồm các thuật toán tiêu hao được làm lại hoàn toàn phản ánh tốt các hoạt động và thiệt hại của đơn vị trông thực tế hơn. AI đã được chỉnh sửa lại để bày ra nhiều thách thức gây khó khăn cho người chơi và thích nghi với các tính năng mới ở bản "Arsenal of Democracy".
Những tính năng mới bao gồm một hệ thống tiếp liệu hoàn toàn mới, hậu cần, ý thức hệ quốc gia (tương tự như loạt game "Europa Universalis"), công nghệ hệ thống mở rộng và thêm bốn kịch bản trận chiến mới. Ngoài ra, còn có nhiều thay đổi nhỏ hơn khá tốt y như các game khác của Paradox Interactive rất dễ sửa đổi (mod) tạo nên sự thân thiện và hứng khởi đối với người chơi cả mới lẫn cũ.
Phát triển.
"Arsenal of Democracy" lần đầu tiên được công bố vào ngày 8 tháng 9 năm 2009 trên các diễn đàn chính thức của Paradox. Game được hãng Paradox Interactive cấp phép sử dụng engine Europa cho các nhà phát triển độc lập. nó được phát triển dành cho các game thủ lão luyện của thể loại chiến lược. | 1 | null |
Đài tưởng niệm Jefferson hay Điện Thomas Jefferson được chính thức khánh thành vào tháng 4/1943 nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Cố Tổng thống Thomas Jefferson. Công trình nằm bên bờ hồ Tidal Basin, ở giữa rừng hoa anh đào Nhật Bản. Kiến trúc sư của điện Jefferson là John Russell Pope và được xây bởi nhà thầu ở Philadelphia là Tyler Nichols và hoàn thành năm 1943. Điện lấy khuôn mẫu của đền Pantheon, đi kèm với tư tưởng thể hiện khát vọng tự do, độc lập và công bằng của vị Tổng thống nước Mỹ. Khu tưởng niệm mang nhiều nét cổ kính, được xây dựng vào thời điểm mà tư tưởng hiện đại đang phát triển mạnh. Phần ngoại thất được dựng từ đá marble Vermont còn phần nội thất chủ yếu là đá marble Georgia và đá vôi. Đài Tưởng niệm Jefferson theo kiểu bán cổ điển (neoclassical) là kiến trúc nhiều cột (kiểu đền La Hy) với vòm mái hình bán cầu màu trắng.
Bên trong công trình là nơi đặt tượng tổng thống Thomas Jefferson. | 1 | null |
Tuyên bố Cairo là kết quả của Hội nghị Cairo diễn ra tại Cairo, Ai Cập vào ngày 27 tháng 11 năm 1943. Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt, thủ tướng Anh Winston Churchill và tổng tư lệnh Trung Hoa Dân Quốc Tưởng Giới Thạch đều có mặt tại sự kiện này. Bản "Tuyên cáo Cairo" ("Cairo Communiqué") đã được phát sóng trên radio vào ngày 1 tháng 12 năm 1943. Tuyên bố Cairo được trích dẫn ở Khoản Tám (8) của Tuyên bố Potsdam.
Toàn văn.
Bí mật
Giữ cho đến thời điểm quy định mới được công bố
Xin hãy bảo vệ tài liệu này tránh khỏi việc bị công bố sớm.
Bản thông cáo sau đây sẽ được tự động công bố vào lúc 7 giờ 30 phút tối, giờ Eastern War, thứ tư ngày 1 tháng 12 năm 1943.
Phải áp dụng các biện pháp đề phòng đặc biệt để giữ bản thông cáo này hoàn toàn bí mật cho đến lúc tự động công bố.
Trước thời điểm công bố, không được phép tiết lộ nội dung tài liệu; bất cứ người nào nhận được tài liệu cũng không được suy đoán hoặc bàn luận về nội dung của nó."
Các bình luận viên radio và phát thanh viên đưa tin được đặc biệt khuyến cáo không được phỏng đoán nội dung trước giờ công bố tài liệu."
Stephen Early
Thư ký tổng thống"
Tổng thống Roosevelt, Tổng tư lệnh Tưởng Giới Thạch và Thủ tướng Churchill, cùng với các vị cố vấn quân sự và ngoại giao tháp tùng từng người, đã hoàn tất một cuộc hội nghị tại Bắc Phi.
Tuyên bố chung sau đây được đưa ra:
"Các phái đoàn quân sự đã đồng ý tiến hành các chiến dịch quân sự trong tương lai nhằm chống lại Nhật Bản. Ba Đồng Minh Vĩ Đại bày tỏ quyết tâm gây áp lực quân sự liên tục lên kẻ thù hung bạo ở trên biển, trên đất liền và trên không. Áp lực này đã bắt đầu gia tăng.
"Ba Đồng Minh Vĩ Đại đang chiến đấu để ngăn cản và trừng phạt cuộc xâm lăng của Nhật Bản. Họ không ham muốn lợi ích gì cho bản thân và không nghĩ đến việc bành trướng lãnh thổ. Mục tiêu của họ là hất cẳng Nhật Bản ra khỏi tất cả các hòn đảo thuộc Thái Bình Dương mà nước này đã cưỡng chiếm hoặc chiếm đóng từ khi Chiến tranh thế giới thứ nhất bắt đầu vào năm 1914, và tất cả các lãnh thổ mà Nhật Bản đã chiếm đoạt từ người Trung Quốc như Mãn Châu, Đài Loan và quần đảo Bành Hồ phải được trao trả cho Trung Hoa Dân Quốc. Nhật Bản cũng sẽ bị trục xuất khỏi tất cả các vùng lãnh thổ mà nước này đã chiếm được bằng vũ lực và lòng tham. Nhận thức được ách nô lệ mà nhân dân Triều Tiên đang phải chịu đựng, ba cường quốc trên đây kiên định rằng Triều Tiên phải được tự do và độc lập.
"Hướng tới các mục tiêu trên, phù hợp với những mục tiêu của Liên hiệp các Quốc gia đang chiến đấu chống Nhật Bản, Ba Đồng Minh sẽ tiếp tục kiên trì tiến hành các chiến dịch nghiêm túc và kéo dài cần thiết để giành được một sự đầu hàng vô điều kiện từ Nhật Bản." | 1 | null |
Legio undecima Claudia (Quân đoàn Claudia thứ mười một) là một quân đoàn La Mã. XI Claudia có thể đã bắt đầu từ hai quân đoàn (một quân đoàn khác là quân đoàn thứ mười hai) được thành lập bởi Julius Caesar và tham gia vào cuộc xâm lược xứ Gallia trong năm 58 trước Công nguyên, và nó đã tồn tại ít nhất cho đến đầu thế kỷ thứ 5, bảo vệ khu vực hạ lưu sông Danube ở Durostorum (hiện nay là Silistra, Bungari). Biểu tượng của quân đoàn này không được ghi lại, tuy nhiên nó cũng có thể giống như của tất cả các quân đoàn của Caesar, đó là con bò, hoặc có thể là con sói cái đang cho cặp song sinh bú.
Lịch sử.
Quân đoàn thứ mười một của Ceasar.
Hai quân đoàn thứ mười một và mười hai đã được Ceasar thành lập để dành cho chiến dịch Helvetii của ông vào năm 58 trước Công nguyên. Quân đoàn đã chiến đấu trong trận chiến chống lại người Nervi, và có thể họ cũng đã chiến đấu ở cuộc vây hãm Alesia. Trong cuộc nội chiến, quân đoàn thứ mười một đã từng chiến đấu cho Caesar trong trận Dyrrhachium và tại Pharsalus. Quân đoàn sau đó đã bị giải tán vào năm 45 trước Công nguyên, và các cựu chiến binh của nó đã ban cho đất đai tại Bojano, mà từ đó đã nhận được tên gọi "Bovianum Undecumanorum".
Dưới thời Augustus.
Quân đoàn thứ mười một đã được tái thành lập vào năm 42 trước Công nguyên bởi Augustus (vào thời điểm đó được gọi là Octavian), và chiến đấu trong cuộc nội chiến chống lại những kẻ đã ám sát Caesar. Quân đoàn thứ mười một đã tham chiến trong trận Philippi, và sau đó được phái trở lại Ý để dập tắt một cuộc nổi loạn tại Perugia. Có lẽ họ đã tham gia cuộc chiến tranh chống lại Sextus Pompeius vốn đang chiếm giữ Sicilia.
Trong năm 32 TCN, Quân đoàn thứ mười một đã tham gia cuộc nội chiến chống lại Marcus Antonius của Octavian. Cuộc nội chiến đã kết thúc với trận Actium và chiến thắng dành cho Octavian.
Quâm đoàn thứ mười một sau đó đã được phái đến khu vực Balkan, nhưng sau thất bại lớn tại trận rừng Teutoburg (Năm 9 CN), Augustus đã bố trí lại các quân đoàn ở khu vực biên giới phía Bắc, và quân đoàn thứ mười một đã được chuyển tới Burnum, Dalmatia (Kistanje ngày nay), cùng với quân đoàn thứ tám.
Nửa sau thế kỉ 1 SCN.
Vào năm 42 CN, thống đốc Dalmatia, Lucius Arruntius Camillus Scribonianus, đã nổi loạn chống lại Hoàng đế Claudius. Quân đoàn thứ mười một và thứ tám đã đứng về phía với Hoàng đế, và họ đã dập tắt cuộc nổi loạn của Scribonianus. Claudius đã ban cho cả quân đoàn trung thành danh hiệu Claudia title Pia Fidelis.
Trong Năm Tứ hoàng đế (năm 69), quân đoàn thứ mười một, thứ bảy (mà đã rời khỏi Burnum vào năm 58) và Gemina XIV đã đứng về phía Otho. Một tiểu đơn vị của quân đoàn mười một đã di chuyển để tham gia vào trận Cremona giữa Otho và Vitellius đối thủ của ông, nhưng họ đã đến chiến trường quá muộn, và đã được Vitellius phái trở lại Dalmatia. Khi mà vị tướng chỉ huy của quân đội ở phía Đông, Vespasianus, tuyên bố làm hoàng đế, quân đoàn thứ mười một đã đứng về phía ông, họ chiến đấu trong trận Bedriacum lần thứ hai, mà đã đánh dấu sự khởi đầu triều đại của Hoàng đế Vespasianus.
Vào năm sau, năm 70, Claudia đã được chỉ huy bởi Cerialis và nó đã tham gia dập tắt cuộc khởi nghĩa của người Batavi, sau khi cuộc khởi nghĩa bị đàn áp, Claudia đã được chuyển đến Vindonissa, thuộc tỉnh Thượng Germania, để thay thế XXI Rapax, trong khi IIII Flavia Felix chuyển đến Burnum.
Đến cuối thế kỷ 1, Claudia đã từng chiến đấu trên bờ phía đông của sông Rhine (năm 73/74), nó cũng đã tham gia vào chiến dịch chống lại người Chatti của hoàng đế Domitianus vào năm 83.
Thế kỉ thứ hai.
Năm 101, XI Claudia đã chuyển tới Brigetio, Pannonia Inferior, trong lúc diễn ra các cuộc chiến tranh Dacia của Trajan (năm 101-106). Năm 104, quân đoàn có mặt ở Durostorum, Hạ Moesia, để bảo vệ biên giới Danube, và sẽ vẫn sẽ đóng ở đó trong những thế kỷ sau. Quân đoàn đã được giao trọng trách cùng với các quân đoàn Moesia khác (I Italica và V Macedonica), bảo vệ các đồng minh La Mã là các thuộc địa Hy Lạp ở Crimea.
Một số vexillatio của XI Claudia đã được phái đến Iudaea để dập tắt cuộc khởi nghĩa đẫm máu của Bar Kokhba (năm 132-135).
Năm 193, sau khi vụ ám sát Pertinax sẩy ra, một số tướng lĩnh đã tuyên bố làm hoàng đế; trong số này có thống đốc của Pannonia Superior, Septimius Severus, ông đã giành được sự ủng hộ của quân đoàn thứ mười một. XI Claudia đã không tham gia vào cuộc hành quân tiến về Rome của Septimius, nhưng nó đã chiến đấu cùng với Severus, và với cả I Italica, chống lại đối thủ của ông,Pescennius Niger. Severus đã vây hãm Byzantium, vượt qua đèo Gülek, và đánh bại Nigeria trong trận Issus. Cũng có thể XI Claudia đã chiến đấu trong chiến dịch Parthia của Hoàng đế Severus, chinh phục kinh thành của người Parthia là Ctesiphon (năm 198).
Từ thế kỉ thứ 3 về sau.
Trong cuộc chiến giữa hoàng đế Gallienus và Hoàng đế của Đế chế Gallic Postumus, XI Claudia đã đứng về phía Gallienus, và nó nhận được các tên hiệu như "Pia V Fidelis V" và "Pia VI Fidelis VI".
Trong khi vẫn còn đóng quân ở Durostorum, một số vexillatio của quân đoàn mười một đã chiến đấu khắp nơi trong đế quốc: năm 295, một tiểu đơn vị cơ động có mặt tại Ai Cập, trong khi một đơn vị khác ở Mauretania vào năm 298. | 1 | null |