id
stringlengths 6
8
| text
stringlengths 3
2.77k
|
---|---|
10_12_4 | – Một là, sau Chiến tranh lạnh, hầu như tất cả các quốc gia đều ra sức điều
chỉnh chiến lược phát triển lấy kinh tế làm trọng điểm, bởi ngày nay kinh tế đã
trở thành nội dung căn bản trong quan hệ quốc tế. Xây dựng sức mạnh tổng hợp
của quốc gia thay thế cho chạy đua vũ trang đã trở thành hình thức chủ yếu trong
cuộc cạnh tranh giữa các cường quốc. Sức mạnh của mỗi quốc gia là dựa trên
nền sản xuất phồn vinh, nền tài chính vững chắc, một nền công nghệ có trình độ
cao cùng với lực lượng quốc phòng hùng mạnh.
— Hai là, sau Chiến tranh lạnh, quan hệ giữa các nước lớn được điều chỉnh theo
chiều hướng đối thoại, thoả hiệp, tránh xung đột trực tiếp nhằm tạo nên một môi
trường quốc tế thuận lợi giúp họ vươn lên mạnh mẽ, xác lập một vị trí ưu thế trong
trật tự thế giới mới. Mối quan hệ giữa các nước lớn ngày nay mang tính hai mặt nổi
bật là : mâu thuẫn và hài hoà, cạnh tranh và hợp tác, tiếp xúc và kiềm chế v.v...
– Ba là, tuy hoà bình và ổn định là xu thế chủ đạo của tình hình thế giới sau
Chiến tranh lạnh, nhưng ở nhiều khu vực vẫn diễn ra nội chiến và xung đột.
Nguy cơ này càng trở nên trầm trọng, khi ở nhiều nơi lại bộc lộ chủ nghĩa li
khai, chủ nghĩa khủng bố... Những mâu thuẫn sắc tộc, tôn giáo và tranh chấp
lãnh thổ thường có những căn nguyên lịch sử sâu xa nên việc giải quyết không
dễ dàng và thường kéo dài. Cuộc khủng bố ngày 11 – 9 – 2001 ở Mĩ đã gây ra
những tác hại to lớn, báo hiệu nhiều nguy cơ mới đối với thế giới.
– Bốn là, những năm 90 sau Chiến tranh lạnh, thế giới đã và đang chứng kiến
xu thế toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ.
Những nét nổi bật của quá trình toàn cầu hoá là sự phát triển nhanh chóng
của thương mại thế giới ; sự phát triển và vai trò ngày càng to lớn của các
công ti xuyên quốc gia ; sự ra đời của các tổ chức kinh tế, thương mại, tài
chính quốc tế và khu vực v.v...
Toàn cầu hoá là xu thế phát triển khách quan. Đối với các nước đang phát
triển, đây vừa là thời cơ thuận lợi vừa là thách thức gay gắt trong sự vươn lên
của đất nước.
Loài người đã bước sang thế kỉ XXI. Mặc dù còn gặp không ít khó khăn gian
khổ, các dân tộc ngày càng có tiếng nói chung, đoàn kết cùng nhau xây dựng
một thế giới hoà bình ổn định, hợp tác phát triển vì công bằng và hạnh phúc cho
mỗi con người, cho mỗi dân tộc trên hành tinh.
Các xu thế phát triển của thế giới hiện nay là gì ? Qua đó, em hãy nêu
rõ thế nào là những thời cơ và những thách thức đối với các dân tộc ?
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
104
1. Lập niên biểu những sự kiện chính của lịch sử thế giới từ năm 1945 đến
năm 2000.
2. Hãy tóm tắt quá trình hình thành và tan rã của Trật tự thế giới hai cực lanta. |
10_12_5 | Phân
hần hai
LỊCH SỬ VIỆT NAM
TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 2000
(Men, für mich hier) Quy in this
quyển thứ
Dương
Kách měnh
Không có lý thuộc. Kênh mệnh,
The Whong
bao lưới mệnh vận động... Chỉ kí theo
lý luận kinh mệnh tiền trong, dâng bánh.
mệnh mới làm nổi trách nhiệm bánh
mệnh tiên Song
Li-nin
Bi AZT Lin Hop Hoi Tuyan Trai B
A-Ha
NGUYỄN VĂN HOAN
Suu-1958
wwwwwwwwwww
105 |
10_13_1 | 106
Chương
Bài
13
VIỆT NAM
TỪ NĂM 1919 ĐẾN NĂM 1930
Những chuyển biến mới về kinh tế
và xã hội ở Việt Nam
sau chiến tranh thế giới thứ nhất
Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp ở Đông Dương
đã tạo ra những chuyển biến mới về kinh tế và cơ cấu giai cấp xã hội
ở Việt Nam. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp càng
thêm sâu sắc, thúc đẩy phong trào đấu tranh dân tộc dân chủ có bước
phát triển mới.
I – HOÀN CẢNH QUỐC TẾ
SAU CHIẾN TRANH THẾ GIỚI THỨ NHẤT
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, tình hình thế giới có những chuyển biến mới.
Các nước đế quốc thắng trận đã họp để phân chia lại thế giới, thiết lập một
trật tự hoà bình, an ninh mới.
Hậu quả của chiến tranh, khủng hoảng kinh tế ở các nước tư bản chủ nghĩa
và ảnh hưởng của cuộc Cách mạng tháng Mười Nga (11 – 1917), với sự ra đời
của nước Nga Xô viết, đã thúc đẩy phong trào giải phóng dân tộc ở phương Đông,
phong trào công nhân và lao động ở phương Tây phát triển mạnh mẽ. Các đảng
cộng sản ở các nước tư bản chủ nghĩa, các nước thuộc địa và nửa thuộc địa lần
lượt ra đời : Đảng Cộng sản Đức (1 – 1919), Đảng Cộng sản Anh (8 – 1920),
Đảng Cộng sản Mĩ (1921), Đảng Cộng sản Inđônêxia (5 – 1920), Đảng Cộng
sản Trung Quốc (7 – 1921). Quốc tế Cộng sản (Quốc tế thứ ba) được thành lập
ở Mátxcơva (3 – 1919), đảm nhận sứ mệnh tập hợp, lãnh đạo phong trào cách
mạng vô sản và phong trào giải phóng dân tộc ở các nước trên thế giới. Ở Pháp,
Đảng Xã hội đã phân hoá sâu sắc. Tại Đại hội Tua tháng 12 – 1920, bộ phận
tích cực nhất trong Đảng Xã hội Pháp đã bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế |
10_13_2 | Cộng sản và tách ra để thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Những chuyển biến mới
của tình hình thế giới có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển phong trào giải phóng
dân tộc Việt Nam.
Trình bày hoàn cảnh quốc tế sau Chiến tranh thế giới thứ nhất.
II – CHÍNH SÁCH THỐNG TRỊ CỦA THỰC DÂN PHÁP
Ở VIỆT NAM
1. Cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai
Chiến tranh thế giới thứ nhất đã làm cho nền kinh tế của Pháp bị tổn thất nặng
nề, với hơn 1,4 triệu người chết và thiệt hại về vật chất lên tới 200 tỉ phrăng. Để
hàn gắn và khôi phục nền kinh tế, nhà cầm quyền Pháp vừa tìm cách thúc đẩy
sản xuất trong nước, vừa tăng cường đầu tư khai thác thuộc địa, trước hết là các
nước ở Đông Dương và châu Phi.
-
Chương trình khai thác lần thứ hai thực hiện ở Đông Dương do Anbe
Xarô – Toàn quyền Đông Dương – vạch ra. Chương trình này được triển khai từ
sau Chiến tranh thế giới thứ nhất (1919) đến trước cuộc khủng hoảng kinh tế thế
giới (1929 – 1933). Thực dân Pháp đã đầu tư với tốc độ nhanh, quy mô lớn vào
các ngành kinh tế Việt Nam. Chỉ trong vòng 6 năm (1924 – 1929), số vốn đầu
tư vào Đông Dương, chủ yếu là Việt Nam lên đến 4 tỉ phrăng, nhiều nhất là vào
nông nghiệp.
Năm 1924, vốn đầu tư vào nông nghiệp là 52 triệu phrăng, đến năm 1927 đã
lên đến 400 triệu phrăng. Diện tích các đồn điền trồng lúa, cao su, cà phê...
được mở rộng. Diện tích trồng cao su từ 1 500 hécta năm 1918 lên đến 78 620
hécta năm 1930. Nhiều công ti trồng cao su ra đời : Công ti Đất đỏ, Công ti
Misolanh, Công ti Trồng cây nhiệt đới v.v...
Sau nông nghiệp, tư bản Pháp chú trọng đầu tư vào khai thác mỏ, trước hết
là mỏ than. Nhiều công ti khai thác mỏ than mới được thành lập như Công ti
than Hạ Long – Đồng Đăng, Công ti than và kim khí Đông Dương, Công ti than
Tuyên Quang, Công ti than Đông Triều... Ngoài than, các cơ sở khai thác mỏ
thiếc, kẽm, sắt đều được bổ sung thêm vốn, tăng thêm nhân công và đẩy mạnh
tiến độ khai thác. Một số cơ sở chế biến quặng kẽm, thiếc, các nhà máy tơ sợi
Hải Phòng, Nam Định, nhà máy rượu Hà Nội, Nam Định, nhà máy diêm
Hà Nội, Bến Thuỷ, nhà máy đường Tuy Hoà, nhà máy xay xát gạo Chợ Lớn...
đã được nâng cấp và mở rộng quy mô.
107 |
10_13_3 | Thương nghiệp, trước hết là ngoại thương, có sự tăng tiến hơn trước. Trước
chiến tranh, hàng hoá Pháp nhập vào Đông Dương mới chiếm 37%, đến những
năm 1929 – 1930 đã lên đến 63% tổng số hàng nhập. Quan hệ giao lưu buôn
bán nội địa cũng được đẩy mạnh.
Giao thông vận tải phát triển nhằm phục vụ công cuộc khai thác và vận
chuyển nguyên vật liệu, lưu thông hàng hoá trong và ngoài nước. Đường sắt
xuyên Đông Dương được nối thêm đoạn Đồng Đăng – Na Sầm (1922), Vinh –
Đông Hà (1927). Đến năm 1932, Pháp đã xây dựng 2 389 km đường sắt trên
lãnh thổ Việt Nam. Hệ thống giao thông đường thuỷ tiếp tục được khai thác.
Ngoài các cảng đã có từ trước như cảng Hải Phòng, Sài Gòn, Đà Nẵng, Quy
Nhơn, thực dân Pháp xúc tiến xây dựng các cảng mới như Hòn Gai, Bến Thuỷ.
Các đô thị được mở rộng và dân cư đông hơn. Ngân hàng Đông Dương nắm trọn
quyền chỉ huy kinh tế Đông Dương, phát hành tiền giấy và cho vay lãi.
Cùng với chính sách khai thác nông, công, thương nghiệp..., thực dân Pháp
còn thi hành các biện pháp tăng thuế nên ngân sách Đông Dương thu được năm
1930 tăng gấp 3 lần so với năm 1912.
2. Chính sách chính trị, văn hoá, giáo dục
Sau chiến tranh, chính sách thống trị của Pháp ở Đông Dương vẫn không thay
đổi mà còn được tăng cường. Đó là chính sách chuyên chế, mọi quyền hành đều
nằm trong tay thực dân Pháp và bọn tay sai trung thành của chúng. Bộ máy cảnh
sát, mật thám, nhà tù vẫn tiếp tục được củng cố và hoạt động ráo riết. Một số tổ
chức chính trị, an ninh, kinh tế được thành lập.
Thực dân Pháp thi hành một vài cải cách chính trị – hành chính để đối phó
với những biến động đang diễn ra ở Đông Dương, như tăng thêm số người Việt
trong các phòng thương mại và canh nông ở các thành phố lớn, lập Viện Dân
biểu Trung Kì (2 – 1926), Viện Dân biểu Bắc Kì (4 – 1926)... Chúng thông qua
bộ phận cầm đầu tại hương thôn để xâm nhập, kiểm soát xuống các làng xã.
Văn hoá, giáo dục cũng có những thay đổi.
Tháng 12 – 1917, Toàn quyền Đông Dương lập Hội đồng Tư vấn học chính
Đông Dương với chức năng đề ra những quy chế cho ngành giáo dục.
Hệ thống giáo dục được mở rộng gồm các cấp tiểu học, trung học, cao đẳng
và đại học. Mô hình giáo dục có tính hiện đại đang hình thành ở Đông Dương.
108 |
10_13_4 | Cơ sở xuất bản, in ấn xuất hiện ngày càng nhiều với hàng chục tờ báo, tạp
chí chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Nhà cầm quyền Pháp sử dụng báo chí, văn hoá...
để phục vụ công cuộc khai thác và thống trị của chúng ; ưu tiên, khuyến khích
xuất bản các sách báo theo chủ trương "Pháp – Việt đề huề". Các trào lưu tư
tưởng, khoa học – kĩ thuật, văn hoá, nghệ thuật phương Tây có điều kiện tràn
vào Việt Nam. Các ngành văn học, nghệ thuật (hội hoạ, điêu khắc, kiến trúc v.v...)
đã có những biến chuyển mới về nội dung, phương pháp sáng tác. Các yếu tố
văn hoá truyền thống, văn hoá mới tiến bộ và nô dịch cùng tồn tại, đan xen,
đấu tranh với nhau.
-
Nêu những chính sách kinh tế, chính trị, văn hoá của thực dân Pháp
ở Đông Dương.
III – NHỮNG CHUYỂN BIẾN MỚI VỀ KINH TẾ
VÀ GIAI CẤP XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Chuyển biến về kinh tế
『豐錦!
301-FONT
TONT
Hình 34. Phố Hàng Đào (Hà Nội) năm 1926
109 |
10_13_5 | Qua cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai, nền kinh tế của tư bản Pháp tiếp tục
được mở rộng và bao trùm lên nền kinh tế phong kiến Việt Nam. Trong quá trình
đầu tư vốn và mở rộng khai thác thuộc địa, thực dân Pháp cũng có đầu tư kĩ thuật
và nhân lực, song rất hạn chế. Cơ cấu kinh tế Việt Nam có chuyển biến ít nhiều,
song chỉ có tính chất cục bộ ở một số vùng, còn phổ biến vẫn trong tình trạng
lạc hậu, nghèo nàn. Kinh tế Đông Dương ngày càng bị cột chặt vào kinh tế Pháp
và Đông Dương vẫn là thị trường độc chiếm của tư bản Pháp.
2. Chuyển biến về giai cấp xã hội
110
Do tác động của chính sách khai thác thuộc địa trên quy mô lớn và chính sách
thống trị của thực dân Pháp, cơ cấu giai cấp của xã hội Việt Nam có những
chuyển biến mới.
Giai cấp địa chủ bị phân hoá thành ba bộ phận khá rõ rệt là tiểu địa chủ, trung
địa chủ và đại địa chủ (một số đồng thời là tư sản). Hình thành và phát triển
trong một dân tộc có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm, nên một bộ phận
không ít tiểu và trung địa chủ có ý thức dân tộc chống thực dân Pháp và tay sai.
-
Giai cấp nông dân bị thống trị, bị tước đoạt ruộng đất, bần cùng hoá. Mẫu
thuẫn giữa nông dân Việt Nam – lực lượng dân cư đông đảo nhất – với đế quốc
Pháp và tay sai hết sức gay gắt. Đó là cơ sở của sự bùng nổ các cuộc đấu tranh
của nông dân trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập và tự do.
Giai cấp tiểu tư sản (bao gồm những người buôn bán nhỏ, chủ xưởng nhỏ, thợ
thủ công, học sinh, sinh viên, công chức, trí thức...) sau chiến tranh đã có sự phát
triển nhanh về số lượng. Họ có ý thức dân tộc dân chủ, chống thực dân Pháp và
tay sai. Đặc biệt, bộ phận trí thức, học sinh, sinh viên rất nhạy cảm với thời cuộc
và tha thiết canh tân đất nước nên rất hăng hái tham gia các cuộc đấu tranh vì
độc lập, tự do của dân tộc.
Giai cấp tư sản ra đời sau Chiến tranh thế giới thứ nhất và phân hoá thành hai
bộ phận là tư sản mại bản và tư sản dân tộc. Tư sản mại bản là những chủ tư bản
lớn, mở xí nghiệp để gia công và nhận thầu cho đế quốc, lập các hiệu buôn bán
lớn... Tư sản dân tộc đã đi vào con đường phát triển kinh tế dân tộc. Địa vị
kinh tế của tư bản Việt Nam rất nhỏ bé, tổng số vốn kinh doanh chỉ bằng khoảng
5% số vốn của tư bản nước ngoài đầu tư vào nước ta lúc bấy giờ. Tư sản dân tộc
Việt Nam là lực lượng có khuynh hướng dân tộc và dân chủ. |
10_13_6 | Giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng đông đảo. Trước Chiến tranh thế
giới thứ nhất, số lượng công nhân khoảng 10 vạn người ; đến năm 1929, trong
các doanh nghiệp của người Pháp ở Đông Dương, chủ yếu là ở Việt Nam, đã có
trên 22 vạn người. Công nhân Việt Nam bị thực dân và giới tư sản bóc lột. Giai
cấp công nhân gắn bó máu thịt với giai cấp nông dân, kế thừa và phát huy truyền
thống yêu nước bất khuất của dân tộc, sớm chịu ảnh hưởng của trào lưu cách
mạng vô sản trên thế giới nên đã nhanh chóng vươn lên trở thành một động lực
mạnh mẽ của phong trào dân tộc theo khuynh hướng cách mạng tiên tiến của
thời đại.
Tóm lại, từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến cuối những năm 20 của
thế kỉ XX, trên đất nước Việt Nam đã diễn ra những biến đổi quan trọng về
kinh tế và giai cấp xã hội. Mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam ngày càng sâu sắc,
chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và tay sai
phản động. Cuộc đấu tranh của nhân dân ta chống đế quốc và tay sai diễn ra
ngày càng gay gắt.
༡
Sự phân hoá giai cấp xã hội ở Việt Nam sau Chiến tranh thế giới
thứ nhất đã diễn ra như thế nào ?
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Trình bày chính sách khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp và tác động
của nó đến tình hình kinh tế và giai cấp xã hội ở Việt Nam.
2. Thái độ các giai cấp trong xã hội Việt Nam đối với sự thống trị của thực dân
Pháp và tay sai như thế nào ?
111 |
10_14_1 | Bài
14
Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam
từ năm 1919 đến năm 1925
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, dưới ảnh hưởng của tình hình quốc
tế và cuộc khai thác thuộc địa, phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam
diễn ra sôi nổi với sự tham gia của các giai cấp và tầng lớp xã hội, có
nội dung, hình thức tổ chức đấu tranh mới.
I – HOẠT ĐỘNG CỦA PHAN BỘI CHÂU, PHAN CHÂU TRINH
VÀ MỘT SỐ NGƯỜI VIỆT NAM SỐNG Ở PHÁP
1. Hoạt động của Phan Bội Châu
Sau những năm bôn ba hoạt động ở Nhật Bản và Trung Quốc không thành
công, Phan Bội Châu bị bọn quân phiệt Trung Quốc bắt giam (1913), đến cuối
năm 1917 mới được trả tự do. Từ sự thất bại và thời cuộc sau chiến tranh thế
giới, Phan Bội Châu, tuy vẫn nặng lòng yêu nước song đã không thể tiếp tục tìm
được phương lược cứu nước đúng đắn. Viên Toàn quyền Pháp Anbe Xarô tìm
cách dụ dỗ, mua chuộc, nhưng đã bị Phan Bội Châu khước từ.
Giữa lúc đó, ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười và sự ra đời của nước
Nga Xô viết đã bắt đầu đến với ông như một luồng ánh sáng mới. Cảm tình với
nước Nga Xô viết, cuối năm 1920, Phan Bội Châu dịch ra chữ Hán cuốn Điều tra
chân tướng Nga La Tư của một tác giả Nhật Bản, viết Truyện Phạm Hồng Thái,
ngợi ca tinh thần yêu nước, hi sinh anh dũng của người thanh niên họ Phạm.
Tháng 6 – 1925, trong khi chưa thể thay đổi được tổ chức, thay đổi phương
lược đấu tranh thích hợp với biến chuyển mới của đất nước và thời đại thì Phan
Bội Châu bị thực dân Pháp bắt tại Thượng Hải (Trung Quốc) đưa về nước, kết
án tù rồi đưa về an trí ở Huế. Từ đó trở đi, trong hoàn cảnh một người tù bị giam
lỏng, Phan Bội Châu không thể tiến theo nhịp bước đấu tranh mới của dân tộc.
2. Hoạt động của Phan Châu Trinh và một số người Việt Nam trên
đất Pháp
112
Nước Pháp là nơi có nhiều người Việt Nam sinh sống và hoạt động cho phong
trào dân tộc của Việt Nam. Sau khi ra khỏi nhà tù Côn Đảo, Phan Châu Trinh |
10_14_2 | sang Pháp (1911) tiếp tục hoạt động. Ông có quan hệ với Nguyễn Ái Quốc
trong những năm tháng hoạt động ở Pháp.
Vào đầu năm 1922, Phan Châu Trinh đến Mácxây. Nhân dịp vua Khải Định
sang dự Hội chợ thuộc địa để khuếch trương "công lao khai hoá" của Pháp, Phan
Châu Trinh viết Thất điều thư vạch ra 7 tội đáng chém của Khải Định. Phan
Châu Trinh còn tổ chức diễn thuyết lên án chế độ quân chủ và quan trường ở
Việt Nam ; tiếp tục hô hào "Khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh"...
Tháng 6 – 1925, Phan Châu Trinh về nước. Mặc dù sức khoẻ đã yếu, ông vẫn
tiếp tục hoạt động, đả phá chế độ quân chủ, đề cao dân quyền. Nhiều tầng lớp
nhân dân, nhất là thanh niên rất mến mộ và hưởng ứng hoạt động của Phan
Châu Trinh.
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, nhiều Việt kiều tại Pháp đã tham gia hoạt
động như chuyển tài liệu, sách báo tiến bộ về nước. Một số thuỷ thủ Việt Nam
đã hoạt động trong Hội Liên hiệp thuộc địa. Nhiều trí thức và lao động
Việt Nam ở Pháp đã tập hợp trong các tổ chức yêu nước. Năm 1925, Hội những
người lao động trí óc Đông Dương ra đời.
Một số thanh niên, sinh viên yêu nước xuất thân trong các gia đình địa chủ,
tư sản lập ra Đảng Việt Nam độc lập, xuất bản báo Tái sinh. Đảng có một số chi
bộ ở Pari và các tỉnh lân cận, còn ở trong nước thì không có vì thiếu chỗ dựa.
Nêu những hoạt động yêu nước của Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh
trong những năm 1920 – 1925.
II – HOẠT ĐỘNG CỦA TƯ SẢN, TIỂU TƯ SẢN VÀ CÁC CUỘC
ĐẤU TRANH CỦA CÔNG NHÂN VIỆT NAM
1. Hoạt động của tư sản và tiểu tư sản
Ra đời trong cuộc khai thác thuộc địa lần thứ hai của Pháp, giai cấp tư sản
Việt Nam vốn nhỏ yếu về kinh tế và thường xuyên bị tư sản nước ngoài cạnh
tranh, chèn ép. Năm 1919, tư sản Việt Nam đã tổ chức cuộc tẩy chay tư sản
Hoa kiều (1919) ở một số tỉnh và thành phố như Sài Gòn, Hà Nội, Hải Phòng,
Nam Định... Ở Hà Nội có cuộc vận động người Việt Nam chỉ mua hàng của
người Việt Nam.
113 |
10_14_3 | Năm 1923, địa chủ và tư sản Việt Nam đấu tranh chống tư bản Pháp
độc quyền cảng Sài Gòn, độc quyền xuất cảng lúa gạo Nam Kì. Giai cấp tư sản
đã dùng báo chí để bênh vực quyền lợi cho mình trong cuộc đấu tranh chống
độc quyền.
Một số tư sản và địa chủ lớn ở Nam Kì (đại biểu là Bùi Quang Chiêu, Nguyễn
Phan Long...) đã lập ra Đảng Lập hiến (1923). Cơ quan ngôn luận của Đảng Lập
hiến là tờ Diễn đàn Đông Dương và tờ Tiếng dội An Nam. Khi được thực dân Pháp
nhượng bộ cho ít quyền lợi (như cho tham gia Hội đồng Quản hạt Nam Kì),
họ lại thoả hiệp với chúng.
Ngoài Đảng Lập hiến ở trong Nam, còn có nhóm Nam phong của Phạm Quỳnh
và nhóm Trung Bắc tân văn của Nguyễn Văn Vĩnh ở ngoài Bắc. Phạm Quỳnh
cổ vũ cho thuyết "quân chủ lập hiến", còn Nguyễn Văn Vĩnh đề cao tư tưởng
"trực trị".
Tầng lớp tiểu tư sản trí thức (gồm sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm
Hà Nội, học sinh và giáo viên các trường, viên chức, nhà văn, nhà báo, v.v...) sôi
nổi đấu tranh đòi quyền tự do dân chủ.
Vào đầu những năm 20, đã có nhiều thanh niên yêu nước sang Quảng Châu
(Trung Quốc) tìm đường cứu nước, trong đó có Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu,
Nguyễn Công Viễn v.v... Năm 1923, họ lập ra tổ chức Tâm tâm xã.
Để phát huy ảnh hưởng, gây tiếng vang thức tỉnh đồng bào trong nước,
Tâm tâm xã cử Phạm Hồng Thái thực hiện mưu sát Toàn quyền Đông Dương
Méclanh (Merlin) ở Sa Diện (Quảng Châu) ngày 19 – 6 – 1924. Sự việc không
thành, Phạm Hồng Thái đã anh dũng hi sinh trên dòng Châu Giang. Tiếng bom
Phạm Hồng Thái đã nhóm tiếp ngọn lửa chiến đấu, khích lệ tinh thần đấu
tranh của nhân dân ta, nhất là thanh niên. Sự kiện lịch sử đó tuy nhỏ nhưng
"nhu chim én nhỏ báo hiệu mùa xuân"().
Một số tổ chức chính trị như Việt Nam nghĩa đoàn, Hội Phục Việt, Đảng
Thanh niên được thành lập (đại biểu là Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai, Trần
Huy Liệu, Nguyễn An Ninh v.v...), với nhiều hoạt động phong phú và sôi động
(mít tinh, biểu tình, bãi khoá, v.v...). Nhiều tờ báo tiến bộ lần lượt ra đời. Báo
tiếng Pháp có Chuông rè, An Nam trẻ, Người nhà quê; báo tiếng Việt có Hữu thanh,
Tiếng dân, Đông Pháp thời báo, Thực nghiệp dân báo... Họ lập ra một số nhà
xuất bản tiến bộ như Nam đồng thư xã (Hà Nội), Cường học thư xã (Sài Gòn),
Quan hải tùng thư (Huế)...
(1) Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, NXB Văn nghệ, H., 1956,
tr. 67.
114 |
10_14_4 | Trong phong trào yêu nước dân chủ công khai hồi đó có một số sự kiện nổi
bật như cuộc đấu tranh đòi nhà cầm quyền Pháp thả Phan Bội Châu (1925), các
cuộc truy điệu, để tang Phan Châu Trinh (1926). Riêng ở Sài Gòn, đám tang
Phan Châu Trinh đã thu hút khoảng 14 vạn người tham dự.
2. Các cuộc đấu tranh của công nhân
Những năm đầu sau chiến tranh, các cuộc đấu tranh của công nhân tuy còn
lẻ tẻ và tự phát nhưng đã nói lên ý thức giai cấp đang phát triển nhanh chóng,
làm cơ sở cho các tổ chức và phong trào chính trị cao hơn về sau. Ngay từ
năm 1920, công nhân Sài Gòn Chợ Lớn đã thành lập Công hội (bí mật) do
Tôn Đức Thắng đứng đầu.
-
Các cuộc đấu tranh của công nhân và thuỷ thủ Pháp trên các tàu Pháp ghé
vào các cảng Hải Phòng (1919) và Sài Gòn (1920), cũng như các cuộc đấu tranh
của công nhân và thuỷ thủ Trung Quốc tại các cảng lớn Hương Cảng, Áo Môn,
Thượng Hải (1921), đã góp phần cổ vũ, động viên công nhân Việt Nam hăng hái
đấu tranh.
Năm 1922, công nhân và viên chức các cơ sở công thương của tư nhân ở
Bắc Kì đòi chủ tư bản người Pháp phải cho họ nghỉ ngày chủ nhật có trả lương.
Cùng năm đó, còn có cuộc bãi công của công nhân các nhà máy dệt, rượu, xay
xát gạo ở Nam Định, Hà Nội, Hải Dương v.v... Tháng 8 – 1925, thợ máy xưởng
Ba Son tại cảng Sài Gòn không chịu sửa chữa chiến hạm Misơlê của Pháp trước
khi chiến hạm này chở lính sang tham gia đàn áp phong trào đấu tranh cách mạng
của nhân dân Trung Quốc. Cuộc bãi công nổ ra với yêu sách đòi tăng lương 20%
và phải cho những công nhân mất việc làm được trở lại làm việc. Sau 8 ngày bãi
công, nhà chức trách Pháp đã phải chấp nhận tăng lương 10% cho công nhân.
Cuộc bãi công Ba Son thắng lợi, đánh dấu bước tiến mới của phong trào
công nhân Việt Nam.
?
Nêu những hoạt động của tư sản, tiểu tư sản và các cuộc đấu tranh của
công nhân trong những năm 1920 – 1925.
III – HOẠT ĐỘNG CỦA NGUYỄN ÁI QUỐC
Sau những năm bôn ba hầu khắp các châu lục trên thế giới, Nguyễn Tất
Thành trở lại Pháp (1917), gia nhập Đảng Xã hội Pháp vì đây là tổ chức chính
trị duy nhất ở Pháp theo đuổi lí tưởng của Đại Cách mạng Pháp : Tự do, Bình
đẳng, Bác ái và đấu tranh vì quyền lợi cho các nước thuộc địa.
115 |
10_14_5 | Ngày 18 – 6 – 1919, thay mặt những người Việt Nam yêu nước tại Pháp,
Nguyễn Tất Thành với tên gọi mới là Nguyễn Ái Quốc gửi đến Hội nghị Vécxai
bản Yêu sách của nhân dân An Nam. Bản Yêu sách đòi Chính phủ Pháp và các
nước đồng minh thừa nhận các quyền tự do, dân chủ, quyền bình đẳng và quyền
tự quyết của dân tộc Việt Nam.
Bản Yêu sách gồm 8 điểm như sau :
1. Tổng ân xá cho tất cả những người bản xứ bị án tù chính trị,
2. Cải cách nền pháp lí ở Đông Dương bằng cách cho người bản xứ cũng
được quyền hưởng những bảo đảm về mặt pháp luật như người châu Âu;
xoá bỏ hoàn toàn các toà án đặc biệt dùng làm công cụ để khủng bố và
áp bức bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam
3. Tự do báo chí và tự do ngôn luận
4. Tự do lập hội và tự do hội họp
5. Tự do cư trú ở nước ngoài và tự do xuất dương;
6. Tự do học tập, thành lập các trường kĩ thuật và chuyên nghiệp ở tất cả
các tỉnh cho người bản xứ ;
7. Thay chế độ ra các sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật ;
8. Đoàn đại biểu thường trực của người bản xứ, do người bản xứ bầu ra, tại
Nghị viện Pháp để giúp cho Nghị viện biết được những nguyện vọng của
người bản xứ.
Bản Yêu sách không được Hội nghị Vécxai chấp nhận. Sự thật đó cho thấy
những lời tuyên bố của các nhà chính trị đế quốc về quyền tự do, dân chủ và quyền
tự quyết của các dân tộc, mà điển hình là chương trình 14 điểm của Tổng thống
Mĩ Uynxơn chỉ là trò lừa bịp các dân tộc nhỏ yếu. Vì vậy, "muốn được giải
phóng, các dân tộc chỉ có thể trông cậy vào lực lượng của bản thân mình"().
Giữa tháng 7 – 1920, Nguyễn Ái Quốc đọc bản Sơ thảo lần thứ nhất những
luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của V. I. Lênin đăng trên báo
Nhân đạo của Đảng Xã hội Pháp. Luận cương của Lênin đã giúp Nguyễn Ái Quốc
khẳng định, muốn cứu nước và giải phóng dân tộc phải đi theo con đường
cách mạng vô sản.
Ngày 25 – 12 – 1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội đại biểu toàn quốc
của Đảng Xã hội Pháp họp tại thành phố Tua. Người đã đứng về phía đa số đại
biểu bỏ phiếu tán thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và thành lập Đảng Cộng sản
Pháp. Nguyễn Ái Quốc trở thành đảng viên cộng sản, đồng thời là một trong
những người tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp.
(1) Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 36.
116 |
10_14_6 | Từ đây, Nguyễn Ái Quốc càng tích cực hoạt động và tiếp tục học tập, nghiên
cứu lí luận cách mạng dân tộc ở thuộc địa theo con đường cách mạng vô sản để
truyền bá về Việt Nam.
Năm 1921, Nguyễn Ái Quốc cùng với một số người yêu nước của Angiêri,
Marốc, Tuynidi... lập ra Hội Liên hiệp thuộc địa ở Pari nhằm tập hợp những
người dân thuộc địa sống trên đất Pháp, nghiên cứu tình hình chính trị, kinh tế
của thuộc địa để soi sáng cho cuộc đấu tranh vì quyền lợi của nhân dân các nước
thuộc địa. Cơ quan ngôn luận của Hội là báo Người cùng khổ do Nguyễn Ái
Quốc làm chủ nhiệm kiêm chủ bút. Người còn viết nhiều bài cho các báo Nhân
đạo (của Đảng Cộng sản Pháp), Đời sống công nhân (của Tổng Liên đoàn lao
động Pháp)... và đặc biệt là tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp (1925).
LEMANCIATION
TRAVAILLEURS
SERGEUR DES RILLEURS EURES
AIRES DE TOUS PAYS UNISE
Hình 35. Toàn cảnh Đại hội Tua (Pháp) năm 1920
-
Tháng 6 – 1923, Nguyễn Ái Quốc bí mật rời nước Pháp sang Liên Xô dự
Hội nghị Quốc tế Nông dân (10 – 1923) và được bầu vào Ban chấp hành Hội.
Người ở lại Liên Xô, vừa nghiên cứu, học tập vừa viết bài cho báo Sự thật của
Đảng Cộng sản Liên Xô, tạp chí Thư tín Quốc tế của Quốc tế Cộng sản. Tại Đại
hội Quốc tế Cộng sản lần thứ V (1924), Nguyễn Ái Quốc trình bày lập trường,
quan điểm của mình về vị trí chiến lược của cách mạng các nước thuộc địa, về
mối quan hệ giữa phong trào công nhân ở các nước đế quốc với phong trào cách
mạng ở các nước thuộc địa, về vai trò và sức mạnh to lớn của giai cấp nông dân
ở các nước thuộc địa.
117 |
10_15_1 | 11
-
Ngày 11 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc) để
trực tiếp đào tạo cán bộ, xây dựng tổ chức cách mạng, truyền bá lí luận cách
mạng giải phóng dân tộc vào Việt Nam. Sự chuyển biến về kinh tế, xã hội và
giai cấp ở Việt Nam, dưới ách thống trị của thực dân Pháp, đã tạo điều kiện để
"Chủ nghĩa xã hội chỉ còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc
giải phóng nữa thôi"(1).
Những tác phẩm và bài viết của Nguyễn Ái Quốc trong những năm 20 của
thế kỉ XX đã hình thành hệ thống quan điểm lí luận về cách mạng giải phóng
dân tộc và phát triển xã hội theo xu hướng tiến hoá của thời đại, được trực tiếp
truyền bá vào Việt Nam, đã thúc đẩy phong trào dân tộc phát triển.
Nêu những hoạt động của Nguyễn Ái Quốc từ năm 1919 đến năm 1924.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
Bài
15
1. Nhận xét về lực lượng tham gia, mục tiêu và hình thức đấu tranh của phong
trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam trong những năm 1919 – 1925.
2. Quá trình chuyển biến của Nguyễn Ái Quốc từ một người yêu nước trở
thành một người cộng sản đã diễn ra như thế nào ?
Phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam
từ năm 1925 đến năm 1930
Từ năm 1925 đến đầu năm 1930, phong trào dân tộc dân chủ ở Việt Nam
ngày càng phát triển mạnh, các tổ chức cách mạng đã lần lượt ra đời.
I – SỰ RA ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA BA TỔ CHỨC CÁCH MẠNG
1. Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
Sau khi đến Quảng Châu (Trung Quốc), Nguyễn Ái Quốc mở lớp huấn luyện
đào tạo cán bộ. Đa số học viên là thanh niên, học sinh, trí thức Việt Nam yêu
nước. Họ "học làm cách mạng, học cách hoạt động bí mật". Phần lớn số học viên
đó sau khi học xong "bí mật về nước truyền bá lí luận giải phóng dân tộc và
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, H., 1995, tr. 28.
118 |
10_15_2 | tổ chức nhân dân"(1). Một số người được gửi sang học tại Trường Đại học Phương
Đông ở Mátxcơva (Liên Xô) hoặc Trường Quân sự Hoàng Phố (Trung Quốc).
Nguyễn Ái Quốc lựa chọn
một số thanh niên tích cực
ben)
(hing for its bio) Quy in this
Dưỡng
非
trong Tâm tâm xã để tổ chức
Kách měnh
Không nó lý hoặc kính mệnh, thì không
tạo tỉnh mệnh vận động.... Chỉ bỏ theo
lý luận hình mảnh tiền giang dùng kích.
mệnh mới làm nổi trách nhiệm kênh
mệnh tiên Jones
Li-nin
Bi AZT Lin Hip Hoi Tayar Ty
A-H
NOUVER VAN-HOAN
Su-1958
Hình 36. Bìa cuốn sách Đường Kách mệnh
thành nhóm Cộng sản đoàn
(2-1925).
-
Tháng 6 1925, Nguyễn
Ái Quốc thành lập Hội Việt
Nam Cách mạng Thanh niên
nhằm tổ chức và lãnh đạo quần
chúng đoàn kết lại, kịch liệt
tranh đấu để đánh đổ đế quốc
chủ nghĩa Pháp và tay sai để tự
cứu lấy mình.
(2)
Cơ quan lãnh đạo cao nhất
của Hội là Tổng bộ, trong đó
có Nguyễn Ái Quốc, Hồ Tùng
Mậu, Lê Hồng Sơn. Trụ sở của
Tổng bộ đặt tại Quảng Châu
(Trung Quốc).
Báo Thanh niên là cơ quan ngôn luận của Hội do Nguyễn Ái Quốc sáng lập.
Số báo đầu tiên ra ngày 21 – 6 – 1925.
Đầu năm 1927, tác phẩm Đường Kách mệnh của Nguyễn Ái Quốc được xuất bản.
Báo Thanh niên và sách Đường Kách mệnh đã trang bị lí luận giải phóng dân
tộc cho cán bộ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên để tuyên truyền cho
giai cấp công nhân và các tầng lớp nhân dân Việt Nam.
Năm 1928, Hội có gần 300 hội viên, đến năm 1929 có khoảng 1 700 hội viên.
Hội đã xây dựng tổ chức cơ sở của mình hầu khắp cả nước. Các kì bộ Trung Kì,
Bắc Kì, Nam Kì của Hội lần lượt ra đời.
(1) Trần Dân Tiên, Những mẩu chuyện về đời hoạt động của Hồ Chủ tịch, Sđd, tr. 71.
(2) Xem : Tuyên ngôn của Đại hội toàn quốc lần thứ nhất Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
Văn kiện Đảng – Toàn tập, tập 1, NXB Chính trị quốc gia, H., 1998, tr. 98.
119 |
10_15_3 | Hội còn xây dựng cơ sở trong Việt kiều ở Xiêm (Thái Lan). Năm 1926, cơ sở đầu
fiên của Hội được xây dựng ở tỉnh Phi Chịt, sau đó phát triển đến các tỉnh
U Don, Na Khon v.v...
Từ cuối năm 1928, sau khi có chủ trương "vô sản hoá", nhiều cán bộ của Hội
đã đi sâu vào các nhà máy, xí nghiệp, đồn điền cùng lao động và sống với công
nhân để tuyên truyền và vận động cách mạng. Phong trào quần chúng phát triển
mạnh mẽ.
Trong thời gian hoạt động ở Quảng Châu, ngày 9 – 7 – 1925, Nguyễn Ái Quốc
đã cùng một số nhà yêu nước Triều Tiên, Inđônêxia... lập ra Hội Liên hiệp các
dân tộc bị áp bức ở Á Đông. Tôn chỉ của Hội là liên lạc với các dân tộc bị
áp bức để cùng làm cách mạng đánh đổ đế quốc.
2. Tân Việt Cách mạng đảng
120
Ngày 14 – 7 – 1925, một số tù chính trị cũ ở Trung Kì như Lê Văn Huân,
Nguyễn Đình Kiên... cùng một nhóm sinh viên Trường Cao đẳng Sư phạm
Hà Nội như Tôn Quang Phiệt, Đặng Thai Mai... lập ra Hội Phục Việt (1925), sau đó
đổi thành Hội Hưng Nam. Tháng 7 – 1926, Hội đổi tên là Việt Nam Cách mạng
đảng và đến tháng 7 – 1927 lại đổi tên là Việt Nam Cách mạng đồng chí hội.
Hội đã nhiều lần bàn để hợp nhất với Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên song
không thành. Đến ngày 14 – 7 – 1928, Hội họp Đại hội tại Huế, quyết định đổi
tên thành Tân Việt Cách mạng đảng (Đảng Tân Việt).
Đảng Tân Việt chủ trương lãnh đạo quần chúng ở trong nước và liên lạc với
các dân tộc bị áp bức trên thế giới để đánh đổ chủ nghĩa đế quốc nhằm thiết lập
một xã hội bình đẳng và bác ái. Đảng tập hợp những trí thức và thanh niên tiểu
tư sản yêu nước. Địa bàn hoạt động chủ yếu ở Trung Kì.
Đảng Tân Việt ra đời và hoạt động trong điều kiện Hội Việt Nam Cách mạng
Thanh niên phát triển mạnh nên tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và
đường lối của Hội đã lôi cuốn nhiều đảng viên trẻ, tiên tiến của Đảng Tân Việt.
Tác phẩm Đường Kách mệnh được coi như sách chỉ dẫn đối với các hội viên
Tân Việt.
Một số đảng viên tiên tiến đã chuyển sang Hội Việt Nam Cách mạng Thanh
niên. Số đảng viên tiên tiến còn lại thì tích cực chuẩn bị để tiến tới thành lập một
chính đảng theo tư tưởng cách mạng của Nguyễn Ái Quốc, của học thuyết
Mác – Lênin. |
10_15_4 | 3. Việt Nam Quốc dân đảng và khởi nghĩa Yên Bái
Việt Nam Quốc dân đảng được thành
lập ngày 25 – 12 – 1927. Hạt nhân đầu
tiên của Đảng là Nam đồng thư xã, một
nhà xuất bản tiến bộ do Phạm Tuấn Tài
lập ra đầu năm 1927. Việt Nam Quốc
dân đảng do Nguyễn Thái Học, Phó Đức
Chính... sáng lập là một chính đảng cách
mạng, đề ra mục tiêu đấu tranh giành độc
lập dân tộc. Khi mới thành lập, Đảng
chưa có chính cương rõ ràng mà chỉ nêu
chung chung là : "Trước làm dân tộc
cách mạng, sau làm thế giới cách mạng".
Bản điều lệ của Đảng năm 1928 lại nêu
lên chủ nghĩa của Đảng là "chủ nghĩa xã
hội dân chủ". Mục đích của Đảng là
đoàn kết lực lượng để :
– Đẩy mạnh cách mạng dân tộc ;
– Xây dựng nền dân chủ trực tiếp ;
– Giúp đỡ các dân tộc bị áp bức.
Hình 37. Nguyễn Thái Học
(1904-1930)
Bản Chương trình hành động của Đảng công bố năm 1929 đã nêu nguyên tắc
tư tưởng là : "Tự do – Bình đẳng – Bác ái". Chương trình của Đảng chia thành
4 thời kì. Thời kì cuối cùng là bất hợp tác với Chính phủ Pháp và triều đình nhà
Nguyễn, cổ động bãi công, đánh đuổi giặc Pháp, đánh đổ ngôi vua, thiết lập
dân quyền.
Việt Nam Quốc dân đảng chủ trương tiến hành "cách mạng bằng sắt và máu",
chú trọng lấy binh lính người Việt trong quân đội Pháp làm lực lượng chủ lực.
Tổ chức cơ sở của Đảng trong quần chúng rất ít. Địa bàn hoạt động của Đảng
chỉ bó hẹp trong một số địa phương ở Bắc Kì, còn ở Trung Kì và Nam Kì không
đáng kể.
Đảng thành lập chưa được bao lâu, hệ thống tổ chức mới xây dựng ở một số
địa phương, thì đã bị thực dân Pháp khủng bố dữ dội, Đảng lâm vào tình thế bị
động đối phó, nguy cơ tan rã đang đến gần.
Tháng 2 – 1929, Việt Nam Quốc dân đảng tổ chức vụ ám sát tên trùm mộ
phu Badanh ở Hà Nội. Sau đó, thực dân Pháp đã tiến hành cuộc khủng bố
dã man. Hàng loạt đảng viên và quần chúng cảm tình với Đảng bị bắt.
121 |
10_15_5 | 122
Tháng 7 – 1929, Toàn quyền Đông Dương Pátxkiê quyết định lập Toà án đại
hình xử những người cách mạng. Ngày 10 – 10 – 1929, phiên toà đặc biệt của
chính quyền tay sai ở thành phố Vinh (Nghệ An) xử án 45 chiến sĩ cách mạng,
trong đó kết án tử hình vắng mặt Nguyễn Ái Quốc và Trần Phú. Việt Nam Quốc
dân đảng bị khủng bố nặng nề. Các lãnh tụ của Việt Nam Quốc dân đảng như
Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu... bị địch truy lùng ráo riết. Nội bộ lãnh
đạo Việt Nam Quốc dân đảng bị chia rẽ.
Bị động trước tình thế đó, những cán bộ lãnh đạo chủ chốt còn lại của Đảng
đã quyết định dốc hết lực lượng để thực hiện cuộc bạo động cuối cùng với
ý tưởng : "Không thành công cũng thành nhân !".
Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân đảng nổ ra đêm 9 – 2 – 1930 ở
Yên Bái. Cùng đêm, khởi nghĩa nổ ra ở Phú Thọ, Sơn Tây, sau đó là Hải Dương,
Thái Bình... Ở Hà Nội có cuộc đánh bom của quân khởi nghĩa để phối hợp.
Tại Yên Bái, quân khởi nghĩa đã chiếm được trại lính, giết và làm bị thương
một số sĩ quan và hạ sĩ quan Pháp, song không làm chủ được tỉnh lị nên hôm
sau bị quân Pháp phản công và dập tắt. Còn các nơi khác, nghĩa quân chỉ
tạm thời làm chủ vài huyện lị nhỏ nhưng bị địch nhanh chóng chiếm lại.
Cuộc khởi nghĩa của Việt Nam Quốc dân đảng bị thất bại nhanh chóng, song
đã cổ vũ lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam. Hành động yêu nước, tấm gương
hi sinh của các chiến sĩ cách mạng ở Yên Bái là sự nối tiếp truyền thống
đấu tranh bất khuất của dân tộc Việt Nam.
Vai trò lịch sử của Việt Nam Quốc dân đảng với tư cách là một chính đảng
cách mạng trong phong trào dân tộc vừa mới xuất hiện đã chấm dứt cùng với sự
thất bại của khởi nghĩa Yên Bái.
- Trình bày sự ra đời và hoạt động của các tổ chức :Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên, Tân Việt Cách mạng đảng và Việt Nam Quốc
dân đảng.
-
– Cuộc khởi nghĩa Yên Bái đã diễn ra như thế nào ? Ý nghĩa lịch sử.
II – PHONG TRÀO CÔNG NHÂN
VÀ CÁC TẦNG LỚP NHÂN DÂN VIỆT NAM
Trong hai năm 1926 – 1927 đã nổ ra 27 cuộc đấu tranh của công nhân.
Cuối năm 1928, sau khi có chủ trương "vô sản hoá", nhiều cán bộ của Hội
Việt Nam Cách mạng Thanh niên đi vào các nhà máy, hầm mỏ, đồn điền, cùng |
10_15_6 | sinh hoạt và lao động với công nhân để tuyên truyền vận động cách mạng, nâng
cao ý thức chính trị cho giai cấp công nhân. Phong trào công nhân phát triển
mạnh, trở thành nòng cốt của phong trào dân tộc trong cả nước. Trong hai năm
1928 – 1929 đã có tới 40 cuộc đấu tranh của công nhân. Đấu tranh của công
nhân đã nổ ra tại các trung tâm kinh tế, chính trị.
Đó là bãi công của công nhân mỏ than Mạo Khê, đồn điền Lộc Ninh, nhà
máy cưa Bến Thuỷ, nhà máy xi măng Hải Phòng, nhà máy in Poóctay (Sài
Gòn), hãng dầu Nhà Bè, nhà máy tơ Nam Định, nhà máy chai Hải Phòng, nhà
máy sửa chữa xe lửa Trường Thi (Vinh), nhà máy AVIA (Hà Nội), hãng buôn
Sácne Sài Gòn, sở ươm cây Hà Nội, nhà máy điện Nam Định, hãng xe hơi
Đà Nẵng, nhà máy dệt Nam Định, đồn điền cao su Phú Riềng, hãng dầu
Hải Phòng, nhà in Chợ Lớn v.v...
Các cuộc bãi công đó không chỉ giới hạn trong phạm vi một nhà máy, một
địa phương, một ngành mà đã bắt đầu có sự liên kết thành phong trào chung.
Cùng với các cuộc bãi công của công nhân, các cuộc đấu tranh của nông dân,
tiểu thương, tiểu chủ, học sinh cũng đã diễn ra ở một số nơi, trong đó đáng chú
ý là các cuộc đấu tranh của nông dân chống sưu cao, thuế nặng, chống các thủ
đoạn chiếm đoạt ruộng đất của cường hào ác bá.
?
Nêu những nét chính về phong trào đấu tranh của giai cấp công
nhân trong những năm 1925 – 1929.
III – ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI
1. Sự xuất hiện các tổ chức cộng sản năm 1929
Năm 1929, phong trào đấu tranh của công nhân, nông dân, tiểu tư sản và các
tầng lớp nhân dân yêu nước khác phát triển, kết thành một làn sóng dân tộc
dân chủ ngày càng lan rộng.
Cuối tháng 3 – 1929, với sự nhạy cảm về chính trị, một số hội viên tiên tiến
của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Bắc Kì họp tại nhà số 5D phố Hàm
Long (Hà Nội) lập ra Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Việt Nam gồm có 7 đảng
viên(!). Chi bộ mở rộng cuộc vận động để thành lập một đảng cộng sản nhằm
thay thế cho Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên.
(1) Ngô Gia Tự, Nguyễn Đức Cảnh, Đỗ Ngọc Du, Trịnh Đình Cửu, Trần Văn Cung, Dương Hạc
Đính, Kim Tôn (tức Nguyễn Tuân).
123 |
10_15_7 | 124
Từ ngày 1 đến ngày 9 – 5 – 1929, Đại hội lần thứ nhất của Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên họp tại Hương Cảng (Trung Quốc). Tại Đại hội, đoàn đại
biểu Bắc Kì đặt vấn đề thành lập ngay đảng cộng sản để thay thế Hội Việt Nam
Cách mạng Thanh niên, song không được chấp nhận nên đã bỏ Đại hội về nước.
Đại hội vẫn tiếp tục họp và thông qua Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ
của Hội v.v...
Chính cương của Hội xác định cách mạng Việt Nam là cuộc cách mạng
tư sản dân quyền, đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và chế độ phong kiến
Việt Nam, phát triển theo con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa. Phải đấu
tranh để giành lấy chính quyền, thành lập nền chuyên chính công nông theo
hình thức Xô viết ; giai cấp vô sản là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
Đại hội khẳng định việc lập một đảng cộng sản để lãnh đạo cách mạng
Việt Nam là một nhu cầu cần thiết, song vì trình độ giác ngộ chính trị và đấu
tranh của quần chúng còn non yếu, trình độ lí luận về chủ nghĩa cộng sản và
kinh nghiệm đấu tranh của những người cách mạng còn thấp nên chưa thể
thành lập ngay đảng cộng sản được. Vì vậy, trước mắt phải chỉnh đốn Hội,
tạo điều kiện tổ chức vững rồi sẽ tổ chức đảng cộng sản sau...
Ngày 17 – 6 – 1929, đại biểu các tổ chức cơ sở cộng sản ở Bắc Kì họp Đại
hội tại nhà số 312 phố Khâm Thiên (Hà Nội), quyết định thành lập Đông Dương
Cộng sản đảng, thông qua Tuyên ngôn, Điều lệ của Đảng, ra báo Búa liềm làm
cơ quan ngôn luận và cử ra Ban Chấp hành Trung ương của Đảng. Đông Dương
Cộng sản đảng đã tiếp tục mở rộng tổ chức cơ sở Đảng trong nhiều địa phương
ở Bắc, Trung và cả ở Nam Kì.
Khoảng tháng 8
1929, các cán bộ lãnh đạo tiên tiến trong Tổng bộ và
Kì bộ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên ở Nam Kì cũng đã quyết định lập
An Nam Cộng sản đảng. Đảng có một chi bộ hoạt động ở Trung Quốc và một
số chi bộ hoạt động ở Nam Kì. Tờ báo Đỏ là cơ quan ngôn luận của Đảng.
Vào khoảng tháng 11 – 1929, An Nam Cộng sản đảng họp Đại hội để thông qua
đường lối chính trị và bầu Ban Chấp hành Trung ương của Đảng.
An Nam Cộng sản đảng đã tích cực vận động để hợp nhất với Đông Dương
Cộng sản đảng, liên lạc với Quốc tế Cộng sản và một số đảng cộng sản trên
thế giới. Đảng đã đẩy mạnh cuộc vận động phát triển tổ chức Đảng, Công hội,
Nông hội, Đoàn Thanh niên.
Một số đảng viên tiên tiến của Đảng Tân Việt cũng tích cực vận động lập các
chi bộ cộng sản và xúc tiến việc chuẩn bị lập đảng cộng sản. Tháng 9 – 1929,
những đảng viên tiên tiến trong Đảng Tân Việt tuyên bố thành lập Đông Dương
Cộng sản liên đoàn. Nhiều đảng viên Đảng Tân Việt lần lượt gia nhập Đông
Dương Cộng sản liên đoàn, hình thành nhiều chi bộ Đảng ở Trung Kì, Nam Kì |
10_15_8 | và cả ở Bắc Kì. Theo kế hoạch, Đông Dương Cộng sản liên đoàn chính thức
họp đại hội vào ngày 1 – 1 – 1930, song do nhiều đại biểu trên đường đi dự đại
hội bị địch bắt, nên không tiến hành được. Tuy vậy, với Tuyên đạt tháng 9 – 1929,
Đông Dương Cộng sản liên đoàn đã chính thức ra đời, hoạt động và lãnh đạo
quần chúng đấu tranh.
Sự ra đời của ba tổ chức cộng sản lúc bấy giờ là một xu thế khách quan của
cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Các tổ chức cộng sản trên đã nhanh chóng phát triển cơ sở trong nhiều địa
phương và trực tiếp lãnh đạo các cuộc đấu tranh của quần chúng.
Nhưng các tổ chức đó đều hoạt động riêng rẽ, tranh giành ảnh hưởng của
nhau, thậm chí công kích lẫn nhau làm cho phong trào cách mạng trong cả nước
có nguy cơ bị chia rẽ lớn.
Giữa lúc đó, Nguyễn Ái Quốc được tin Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên
phân biệt thành hai nhóm, mỗi nhóm tổ chức thành một đảng cộng sản. Người
liền rời khỏi Xiêm sang Trung Quốc để thống nhất các tổ chức cộng sản.
2. Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam
Với chức trách là phái viên của
Quốc tế Cộng sản có quyền quyết định
mọi vấn đề liên quan tới phong trào
cách mạng ở Đông Dương, Nguyễn Ái
Quốc chủ động triệu tập đại biểu của
Đông Dương Cộng sản đảng và An Nam
Cộng sản đảng đến Cửu Long (Hương
Cảng, Trung Quốc) để bàn việc thống
nhất đảng.
Hội nghị hợp nhất Đảng bắt đầu họp
ngày 6 – 1 1930 tại Cửu Long do
Nguyễn Ái Quốc chủ trì(1). Dự Hội
nghị có Trịnh Đình Cửu và Nguyễn
Đức Cảnh là đại biểu của Đông Dương
Cộng sản đảng, Châu Văn Liêm và
Nguyễn Thiệu là đại biểu của An Nam
Cộng sản đảng.
Hình 38. Nguyễn Ái Quốc đầu những năm 30
(1) Xem : Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, NXB Chính trị quốc gia, H., 1995, tr. 12.
125 |
10_15_9 | Nguyễn Ái Quốc phê phán những quan điểm sai lầm của mỗi tổ chức cộng
sản riêng rẽ và nêu chương trình hội nghị.
Hội nghị đã thảo luận và nhất trí với ý kiến của Nguyễn Ái Quốc là thống
nhất các tổ chức cộng sản thành một đảng duy nhất lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam, thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng... do
Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Đó là Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng, có
giá trị lí luận và thực tiễn lâu dài đối với cách mạng Việt Nam.
Cương lĩnh xác định đường lối chiến lược cách mạng của Đảng là tiến hành
cuộc "tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản". Nhiệm vụ của cách mạng là đánh đổ đế quốc Pháp, bọn phong kiến
và tư sản phản cách mạng, làm cho nước Việt Nam được độc lập tự do ; lập chính
phủ công nông binh ; tổ chức quân đội công nông, tịch thu hết sản nghiệp lớn
của đế quốc ; tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn phản cách mạng chia cho
dân cày nghèo, tiến hành cách mạng ruộng đất v.v... Lực lượng cách mạng là
công nhân, nông dân, tiểu tư sản, trí thức. Đối với phú nông, trung tiểu địa chủ
và tư sản thì lợi dụng hoặc trung lập, đồng thời phải liên lạc với các dân tộc bị
áp bức và vô sản thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp
vô sản, sẽ giữ vai trò lãnh đạo cách mạng...
Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, do Nguyễn Ái Quốc
soạn thảo, là một cương lĩnh giải phóng dân tộc sáng tạo, kết hợp đúng đắn vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp. Độc lập và tự do là tư tưởng cốt lõi của cương lĩnh này.
Nhân dịp Đảng ra đời, Nguyễn Ái Quốc ra Lời kêu gọi công nhân, nông dân,
binh lính, thanh niên, học sinh, anh chị em bị áp bức bóc lột.
Lời kêu gọi có đoạn :
"Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thành lập. Đó là Đảng của giai cấp vô sản.
Đảng sẽ dìu dắt giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng An Nam đấu tranh
nhằm giải phóng cho toàn thể anh chị em bị áp bức, bóc lột của chúng ta".(I)
Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử của
một Đại hội thành lập Đảng.
Ngày 8 – 2 – 1930, các đại biểu dự Hội nghị về nước.
Ban Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng được thành lập, gồm : Trịnh
Đình Cửu, Trần Văn Lan, Nguyễn Văn Hới, Nguyễn Phong Sắc, Hoàng Quốc
Việt, Phạm Hữu Lầu, Lưu Lập Đạo, do Trịnh Đình Cửu đứng đầu. Tiếp đến, các
xứ uỷ Bắc Kì, Trung Kì và Nam Kì cũng được thành lập.
Ngày 24
- 2 – 1930, theo đề nghị của Đông Dương Cộng sản liên đoàn,
tổ chức này được gia nhập Đảng Cộng sản Việt Nam.
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 3, Sđd, tr. 10.
126 |
10_15_10 | Sau này, Đại hội Đảng lần thứ III (9 – 1960) quyết định lấy ngày 3 – 2 hằng
năm là ngày kỉ niệm thành lập Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là kết quả tất yếu của cuộc đấu tranh dân tộc
và giai cấp của nhân dân Việt Nam. Đảng là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa
Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam trong
thời đại mới.
Việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch
sử Việt Nam. Từ đây, cách mạng giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam
được đặt dưới sự lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng có
đường lối cách mạng khoa học và sáng tạo, có tổ chức chặt chẽ, có đội ngũ cán
bộ đảng viên kiên trung nguyện suốt đời hi sinh cho lí tưởng của Đảng, cho độc
lập của dân tộc, cho tự do của nhân dân(1).
Đảng ra đời là sự chuẩn bị tất yếu đầu tiên có tính quyết định cho những bước
phát triển nhảy vọt tiếp theo trong lịch sử dân tộc Việt Nam.
– Nêu vai trò của Nguyễn Ái Quốc đối với quá trình vận động chuẩn bị
thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
– Trình bày ý nghĩa lịch sử của việc thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Trình bày nội dung Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
2. Tại sao nói Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm lịch sử của cuộc
đấu tranh yêu nước của nhân dân Việt Nam trong ba thập kỉ đầu thế kỉ XX ?
PHẦN ĐỌC THÊM
ĐÔNG DƯƠNG
"Tuy rằng Quốc tế Cộng sản đã làm cho vấn đề thuộc địa có được tầm quan
trọng xứng đáng với nó bằng cách coi nó là thuộc về những vấn đề thời sự
khẩn trương nhất, nhưng trong thực tiễn, các ban thuộc địa ở các cường quốc
thực dân, cho đến nay, vẫn chưa quan tâm đến vấn đề này, thậm chí các ban
này cũng chưa xem xét vấn đề một cách nghiêm túc !
(1) Theo báo cáo của Nguyễn Ái Quốc gửi Quốc tế Cộng sản ngày 18 – 2 – 1930, trong toàn Đảng
lúc này có 310 đảng viên, còn các tổ chức quần chúng có 3 584 hội viên. Xem : Hồ Chí Minh,
Toàn tập, tập 3, Sđd, tr. 14.
127 |
10_15_11 | 128
Sự không hoạt động này thật đáng ngạc nhiên, nhất là khi không còn sự tranh
cãi nội bộ trong đảng đã được thanh trừ, và đáng ngạc nhiên khi vấn đề tuyển
mộ người thuộc địa lại được chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa đế quốc của chính
quốc nghiên cứu ráo riết. Sự không hoạt động này có lẽ do các đồng chí
chúng ta không hiểu biết tình hình chính xác của những xứ bị áp bức. Do vậy,
tôi thấy có ích, nếu phác hoạ ngắn gọn ở đây tình hình của một trong những
thuộc địa lớn nhất của nước Pháp, là Đông Dương.
Nói rằng Đông Dương gồm hai mươi triệu người bị bóc lột, hiện nay đã chín
muồi cho một cuộc cách mạng là sai, nhưng nói rằng Đông Dương không
muốn cách mạng và bằng lòng với chế độ bây giờ như các ông chủ của
chúng ta vẫn thường nghĩ thế, thì lại càng sai hơn nữa. Sự thật là người Đông
Dương không có một phương tiện hành động và học tập nào hết. Báo chí, hội
họp, lập hội, đi lại đều bị cấm... Việc có những tờ báo và tạp chí mang tư
tưởng tiến bộ một chút hoặc có một tờ báo của giai cấp công nhân Pháp là
một tội nặng. Rượu cồn và thuốc phiện cùng báo chí phản động của bọn cầm
quyền bổ sung cho cái công cuộc ngu dân của chính phủ. Máy chém và nhà
tù làm nốt phần còn lại.
Bị đầu độc cả về tinh thần lẫn thể xác, bị bịt mồm và bị giam hãm, người ta
có thể tưởng rằng cái bầy người ấy cứ mãi mãi bị dùng làm đồ để tế cái ông
thần tư bản, rằng bầy người đó không sống nữa, không suy nghĩ nữa và là vô
dụng trong việc cải tạo xã hội. Không : người Đông Dương không chết, người
Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi. Sự đầu độc có hệ thống của bọn tư
bản thực dân không thể làm tê liệt sức sống, càng không thể làm tê liệt tư
tưởng cách mạng của người Đông Dương. Luồng gió từ nước Nga thợ thuyền,
từ Trung Quốc cách mạng hoặc từ Ấn Độ chiến đấu đang thổi đến giải độc
cho người Đông Dương. Người Đông Dương không được học, đúng thế, bằng
sách vở và bằng diễn văn, nhưng người Đông Dương nhận sự giáo dục bằng
cách khác. Đau khổ, nghèo đói và sự đàn áp tàn bạo là những người thầy duy
nhất của họ. Nếu những người xã hội chủ nghĩa lơ là việc giáo dục, thì giai
cấp tư sản thực dân bản xứ – bọn quan lại – cứ phụ trách giáo dục bằng
phương pháp của chúng. Người Đông Dương tiến bộ một cách rất màu nhiệm
và khi thời cơ cho phép họ sẽ biết tỏ ra xứng đáng với những người thầy của
họ. Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang
sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến. Bộ
phận ưu tú có nhiệm vụ phải thúc đẩy cho thời cơ đó mau đến.
Sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi : Chủ nghĩa xã hội chỉ
còn phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi".
NGUYỄN ÁI QUỐC
(Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 1,
NXB Chính trị quốc gia, H., 1995, tr. 27 – 28) |
10_16_1 | Chương
Bai
16
VIỆT NAM
TỪ NĂM 1930 ĐẾN NĂM 1945
Phong trào cách mạng 1930 – 1935
Trong những năm 1929 – 1933, Việt Nam phải gánh chịu những thiệt
hại của cuộc khủng hoảng kinh tế ở nước Pháp. Điều đó trở thành
một trong những nguyên nhân làm bùng nổ phong trào cách mạng
1930 – 1931 dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam (từ tháng
10 – 1930 là Đảng Cộng sản Đông Dương) ; tiếp đó, trong những năm
1932 – 1935 là cuộc đấu tranh phục hồi phong trào cách mạng.
I – VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ THẾ GIỚI 1929 – 1933
1. Tình hình kinh tế
Từ năm 1930, kinh tế Việt Nam bước vào thời kì suy thoái, bắt đầu từ nông
nghiệp. Lúa gạo bị sụt giá. Ruộng đất bỏ hoang năm 1930 là 200 000 hécta, năm
1933 là 500 000 hécta.
Sản xuất công nghiệp bị suy giảm. Năm 1929, tổng giá trị sản lượng khai khoáng
của Đông Dương là 18 triệu đồng, năm 1933 chỉ còn 10 triệu đồng. Trong
thương nghiệp, xuất nhập khẩu đình đốn. Hàng hoá khan hiếm, giá cả đắt đỏ.
Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế ở Việt Nam rất nặng nề so với các
thuộc địa khác của Pháp cũng như so với các nước trong khu vực.
2. Tình hình xã hội
Hậu quả lớn nhất của cuộc khủng hoảng kinh tế là làm trầm trọng thêm tình
trạng đói khổ của các tầng lớp nhân dân lao động. Nhiều công nhân bị sa thải.
Ở Bắc Kì, nơi tập trung nhiều công nhân, có tới 25 000 người bị sa thải. Số người
có việc làm thì lương bị cắt giảm từ 30% đến 50%. Cuộc sống của thợ thuyền
ngày càng khó khăn.
129 |
10_16_2 | Nữ kí giả người Pháp Ăngđrê Viôlít viết về tình trạng công nhân Đông Dương
năm 1931 như sau : "Lương công nhân không bao giờ vượt quá từ 2 đến 2,5
phrăng mỗi ngày (tức từ 2 hào đến 2 hào 5 XU).
Trong các xưởng dệt, ngày làm việc từ 7 giờ sáng đến 9 giờ tối. Đàn ông
lương từ 1,75 phrăng đến 2 phrăng, đàn bà từ 1,25 đến 1,50 phrăng, trẻ em từ
8 đến 10 tuổi được lĩnh 0,75 phrăng.
Tôi được biết ở các đồn điền, và nói riêng ở các đồn điền trồng cao su tại
các vùng khí hậu rất xấu, công nhân phải làm việc từ 15 đến 16 giờ mỗi ngày
và được trả từ 1,2 đến 2,2 phrăng mỗi ngày"().
Nông dân phải chịu cảnh thuế cao, vay nợ nặng lãi, nông phẩm làm ra phải
bán giá hạ. Ruộng đất bị địa chủ người Pháp và người Việt chiếm đoạt. Họ bị
bần cùng hoá.
Các tầng lớp nhân dân lao động khác cũng không tránh khỏi tác động xấu
của khủng hoảng kinh tế. Thợ thủ công bị phá sản, nhà buôn nhỏ phải đóng cửa
hiệu, viên chức bị sa thải... Một số đông tư sản dân tộc cũng gặp nhiều khó khăn
trong kinh doanh.
Mâu thuẫn xã hội ngày càng sâu sắc, với hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn
giữa dân tộc Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông dân với địa
chủ phong kiến, trong đó chủ yếu là mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với thực
dân Pháp và tay sai phản động.
Vì vậy, trong những năm cuối thập niên 20 của thế kỉ XX, phong trào
công nhân và phong trào yêu nước phát triển mạnh mẽ, lôi cuốn đông đảo các
giai cấp, tầng lớp xã hội tham gia. Đầu năm 1930, cuộc khởi nghĩa Yên Bái do
Việt Nam Quốc dân đảng lãnh đạo thất bại. Chính quyền thực dân đã tiến hành
một chiến dịch khủng bố dã man những người yêu nước Việt Nam. Điều đó càng
làm căng thẳng thêm những mâu thuẫn và tình trạng bất ổn trong xã hội.
Hãy nêu thực trạng kinh tế – xã hội Việt Nam trong những năm khủng
hoảng kinh tế thế giới 1929 – 1933.
II – PHONG TRÀO CÁCH MẠNG 1930 – 1931
VỚI ĐỈNH CAO XÔ VIẾT NGHỆ – TĨNH
1. Phong trào cách mạng 1930 – 1931
Trong bối cảnh của cuộc khủng hoảng kinh tế diễn ra gay gắt và phong trào
cách mạng dâng cao, ngay sau khi ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo
phong trào đấu tranh của quần chúng công – nông rộng khắp trên cả nước.
(1) A. Viollis, Indochine S.O.S (Đông Dương cấp cứu), Les Éditeurs Français réunis, Paris, 1949, tr. 107.
130 |
10_16_3 | Tháng 2 1930, nổ ra một số cuộc đấu tranh của công nhân, nông dân và
các tầng lớp lao động khác. Tiêu biểu là cuộc bãi công của công nhân đồn
điền cao su Phú Riềng, Dầu Tiếng. Ở Hà Nội, cờ đỏ búa liềm được treo ở một
số đường phố chính.
Mục tiêu đấu tranh là đòi cải thiện đời sống. Công nhân đòi tăng lương, giảm
giờ làm. Nông dân đòi giảm sưu, giảm thuế. Bên cạnh đó cũng xuất hiện những
khẩu hiệu chính trị như "Đả đảo chủ nghĩa đế quốc ! Đả đảo phong kiến", "Thả tù
chính trị"v.v...
Sang tháng 3 và 4, diễn ra các cuộc đấu tranh của công nhân nhà máy sợi
Nam Định, công nhân nhà máy diêm Bến Thuỷ.
Tháng 5, trên phạm vi cả nước bùng nổ nhiều cuộc đấu tranh nhân ngày
Quốc tế Lao động 1 – 5.
Các cuộc đấu tranh này đánh dấu bước ngoặt của phong trào cách mạng. Lần
đầu tiên, công nhân Việt Nam biểu tình kỉ niệm ngày Quốc tế Lao động, đấu
tranh đòi quyền lợi cho nhân dân lao động trong nước và thể hiện tình đoàn kết
cách mạng với nhân dân lao động thế giới.
Từ tháng 6 đến tháng 8 – 1930, cả nước có 121 cuộc đấu tranh (Bắc Kì : 17,
Trung Kì : 82, Nam Kì : 22), trong đó công nhân có 22 cuộc, nông dân : 95,
các tầng lớp lao động khác : 4.
Sang tháng 9, phong trào đấu tranh dâng cao, nhất là ở hai tỉnh Nghệ An và
Hà Tĩnh. Những cuộc biểu tình của nông dân (có vũ trang tự vệ) với hàng nghìn
người tham gia kéo đến huyện lị, tỉnh lị đòi giảm sưu, giảm thuế ở các
huyện Nam Đàn, Thanh Chương, Diễn Châu, Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên,
Đô Lương (Nghệ An), Can Lộc, Thạch Hà, Cẩm Xuyên, Kì Anh (Hà Tĩnh).
Các cuộc đấu tranh này được công nhân Vinh – Bến Thuỷ hưởng ứng.
-
Hình 39. Đấu tranh trong phong trào Xô viết Nghệ – Tĩnh (tranh sơn dầu)
131 |
10_16_4 | Tiêu biểu là cuộc biểu tình của nông dân huyện Hưng Nguyên (Nghệ An)
ngày 12 – 9 – 1930. Khoảng 8 000 nông dân kéo đến phủ lị với những khẩu
hiệu cách mạng "Đả đảo chủ nghĩa đế quốc !", "Đả đảo phong kiến !", "Bỏ
sưu thuế, chia ruộng đất" v.v... Đoàn biểu tình xếp thành hàng dài hơn
1 kilômét kéo về thành phố Vinh. Đi đầu là những người cầm cờ đỏ, đi hai bên
là những đội viên tự vệ được trang bị dao, gậy. Trên đường đi, đoàn biểu tình
dừng lại vài nơi để diễn thuyết và chỉnh đốn đội ngũ. Dòng người càng đi
càng được bổ sung thêm. Khi đến gần Vinh, con số lên tới 30 000 người và
xếp thành hàng dài tới 4 kilômét. Thực dân Pháp đã đàn áp dã man. Chúng
cho máy bay ném bom xuống đoàn biểu tình làm chết 217 người, bị thương
125 người. Sự đàn áp không ngăn được cuộc đấu tranh. Quần chúng kéo
đến huyện lị phá nhà lao, đốt huyện đường, vây đồn lính khố xanh.
Hệ thống chính quyền thực dân, phong kiến bị tê liệt, tan rã ở nhiều huyện,
xã. Nhiều tên tri huyện, lí trưởng bỏ trốn hoặc đầu hàng.
Trong tình hình đó, nhiều cấp uỷ Đảng ở thôn xã đã lãnh đạo nhân dân đứng
ra làm chủ vận mệnh của mình, tự quản lí đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá,
xã hội ở địa phương, làm chức năng của chính quyền cách mạng theo hình thức
Xô viết.
Ở Bắc Kì, có các cuộc biểu tình của nông dân Tiền Hải (Thái Bình), Duy Tiên,
Bình Lục (Hà Nam), công nhân nhà máy dệt Nam Định, công nhân các nhà máy
ở Hải Phòng.
Ở Trung Kì, trong tháng 10 – 1930 có các cuộc đấu tranh của nông dân các
huyện Đức Phổ, Sơn Tịnh (Quảng Ngãi).
Ở Nam Kì, trong tháng 10 – 1930 có các cuộc đấu tranh ở Bà Chiểu (Sài Gòn),
Chợ Lớn, Cao Lãnh (Sa Đéc)...
Tháng 9 và tháng 10 năm 1930, cả nước có 362 cuộc đấu tranh (Bắc Kì : 29,
Trung Kì : 316, Nam Kì : 17), trong đó có hơn 20 cuộc của công nhân, hơn 300
cuộc của nông dân, hơn 10 cuộc của các tầng lớp khác.
2. Xô viết Nghệ – Tĩnh
132
Tại Nghệ An, Xô viết ra đời từ tháng 9 – 1930 ở các xã thuộc huyện Thanh
Chương, Nam Đàn, một phần huyện Anh Sơn, Nghi Lộc, Hưng Nguyên, Diễn
Châu. Ở Hà Tĩnh, Xô viết hình thành ở các xã thuộc huyện Can Lộc, Nghi Xuân,
Hương Khê vào cuối năm 1930, đầu năm 1931. Các xô viết thực hiện quyền làm
chủ của nhân dân lao động, điều hành mọi mặt đời sống xã hội.
Về chính trị, quần chúng được tự do tham gia hoạt động trong các đoàn thể
cách mạng, tự do hội họp. Các đội tự vệ đỏ và toà án nhân dân được thành lập. |
10_16_5 | 104°
QUẾ PHONG
105°
THANH HOÁ
106°
B. PhoQ
QUỲ
CHÂU
KÌ SƠN
ĐĐ, Hoàng Sa
BIEN DONG
QB Truning Sa
DIET NAM!
TƯƠNG DƯƠNG
QUỲ HỢP
NGHĨA
ĐÀN
chòn Mê
ÔĐ. Biển Sơn
VỊNH
QUỲNH LƯU
BẮC BỘ
DIỄN CHÂU
NGHỆ AN
sông Cả,
CON CUÔNG
LÀ O
4/ sống Con
AN
TÂN KÌ
ANH SƠN
THANH
YÊN THÀNH
ĐỔ LƯỢNG
, Diêm Trang . NGHI LỘC
CHƯƠNG
Hoa Quân
HƯƠNG
NAM ĐÀN VĨNH
NUNG
chòn Mắt
NGHI XUÂN
can Son
Căn cứ cách mạng
Nơi cơ quan Tỉnh uỷ đóng
Nơi có các cuộc đấu tranh, biểu tình
của công nhân
Nơi có các cuộc đấu tranh, biểu tình
của nông dân
Địa phương đã lập chính quyền Xô viết cấp xã
Biên giới quốc gia
Ranh giới tỉnh
Ranh giới huyện
NGUYÊN
s.Ngàn Phố
SƠN
ĐỨC THỌ
. HÀ TĨNH
VŨ QUANG
Hình 40. Lược đồ phong trào Xô viết Nghệ – Tĩnh
HƯƠNG
KHE
BẾN THUỶ
S. Ngàn Sâu
CAN LOC
THẠCH HÀ
HÀ TĨNH
CAM
XUYÊN
QUẢNG BÌNH .
KÌ ANH
Về kinh tế, thi hành các biện pháp chia ruộng đất công, tiền, lúa công cho dân
cày nghèo ; bãi bỏ thuế thân, thuế chợ, thuế đò, thuế muối ; xoá nợ cho người
nghèo ; chú trọng đắp đê phòng lụt, tu sửa cầu cống, đường giao thông ; lập các
tổ chức để nông dân giúp đỡ nhau trong sản xuất.
Về văn hoá – xã hội, chính quyền cách mạng mở lớp dạy chữ Quốc ngữ cho
các tầng lớp nhân dân, xoá bỏ các tệ nạn như mê tín, dị đoan, rượu chè, cờ bạc,...
Trật tự trị an được giữ vững. Tinh thần đoàn kết, giúp đỡ nhau trong nhân dân
được xây dựng.
Xô viết Nghệ – Tĩnh là đỉnh cao của phong trào cách mạng 1930 – 1931.
Tuy chỉ tồn tại được 4 – 5 tháng, nhưng nó là nguồn cổ vũ mạnh mẽ quần chúng
nhân dân trong cả nước.
Trước tình hình đó, thực dân Pháp tập trung lực lượng đàn áp, khủng bố
phong trào. Chúng điều động binh lính đóng nhiều đồn bốt ở hai tỉnh Nghệ An
và Hà Tĩnh. Cùng với việc cho lính đi càn quét, bắn giết nhân dân, đốt phá, triệt
hạ làng mạc, chúng còn dùng nhiều thủ đoạn chia rẽ, dụ dỗ, mua chuộc. Vì vậy,
nhiều cơ quan lãnh đạo của Đảng, cơ sở quần chúng bị phá vỡ ; nhiều cán bộ,
đảng viên, quần chúng yêu nước bị bắt bớ, tù đày hoặc bị giết hại.
Từ giữa năm 1931, phong trào cách mạng trong cả nước dần dần lắng xuống.
133 |
10_16_6 | 3. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương lâm thời Đảng
Cộng sản Việt Nam (10 – 1930)
134
Giữa lúc phong trào cách mạng của quần chúng đang diễn ra quyết liệt, Ban
Chấp hành Trung ương lâm thời của Đảng Cộng sản Việt Nam họp Hội nghị lần
thứ nhất tại Hương Cảng (Trung Quốc) vào tháng 10 – 1930.
Hình 41. Trần Phú (1904 – 1931)
Hội nghị đã quyết định đổi tên
Đảng Cộng sản Việt Nam thành
Đảng Cộng sản Đông Dương ; cử
ra Ban Chấp hành Trung ương
chính thức do Trần Phú làm Tổng
Bí thư và thông qua Luận cương
chính trị của Đảng.
Luận cương xác định những
vấn đề chiến lược và sách lược
của cách mạng Đông Dương.
Cách mạng Đông Dương lúc đầu
là cuộc cách mạng tư sản dân
quyền, sau đó sẽ tiếp tục phát
triển, bỏ qua thời kì tư bản chủ
nghĩa, tiến thẳng lên con đường
xã hội chủ nghĩa.
Hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng là đánh đổ phong kiến và đánh đổ
đế quốc có quan hệ khăng khít với nhau. Động lực cách mạng là giai cấp vô sản
và nông dân. Lãnh đạo cách mạng là giai cấp vô sản với đội tiên phong của nó
là Đảng Cộng sản.
Luận cương chính trị nêu rõ hình thức và phương pháp đấu tranh, về mối
quan hệ giữa cách mạng Việt Nam và cách mạng thế giới.
Tuy nhiên, Luận cương chưa nêu được mâu thuẫn chủ yếu của xã hội Đông
Dương, không đưa ngọn cờ dân tộc lên hàng đầu mà nặng về đấu tranh giai cấp
và cách mạng ruộng đất ; đánh giá không đúng khả năng cách mạng của tầng
lớp tiểu tư sản, khả năng chống đế quốc và phong kiến ở mức độ nhất định của
giai cấp tư sản dân tộc, khả năng lôi kéo một bộ phận trung, tiểu địa chủ tham
gia mặt trận dân tộc thống nhất chống đế quốc và tay sai.
Sau Hội nghị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng tập trung lãnh đạo phong trào
cách mạng cả nước chống lại cuộc khủng bố và các thủ đoạn thâm độc của kẻ
thù, đồng thời có những chỉ thị cụ thể cho Nghệ – Tĩnh và kêu gọi nhân dân cả
nước đấu tranh ủng hộ và bảo vệ Xô viết Nghệ – Tĩnh. |
10_16_7 | 4. Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của phong trào cách mạng
1930-1931
Phong trào cách mạng 1930 – 1931 chỉ diễn ra trong một thời gian ngắn
nhưng có ý nghĩa lịch sử to lớn. Phong trào khẳng định đường lối đúng đắn của
Đảng, quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng các nước ở
Đông Dương. Từ trong phong trào, khối liên minh công – nông hình thành, công
nhân và nông dân đã đoàn kết với nhau trong đấu tranh cách mạng.
Phong trào cách mạng 1930 – 1931 được đánh giá cao trong phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế. Quốc tế Cộng sản đã công nhận Đảng Cộng sản Đông
Dương là phân bộ độc lập, trực thuộc Quốc tế Cộng sản.
Phong trào cách mạng 1930 – 1931 đã để lại cho Đảng ta nhiều bài học kinh
nghiệm quý báu về công tác tư tưởng, về xây dựng khối liên minh công nông và
mặt trận dân tộc thống nhất, về tổ chức và lãnh đạo quần chúng đấu tranh v.v...
Phong trào có ý nghĩa như cuộc tập dượt đầu tiên của Đảng và quần chúng
cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.
– Trình bày diễn biến phong trào cách mạng 1930 – 1931.
– Nêu rõ sự ra đời và hoạt động của Xô viết Nghệ – Tĩnh.
-
– Nội dung cơ bản của Luận cương chính trị tháng 10
1930 của
Đảng Cộng sản Đông Dương. Ưu điểm và hạn chế của Luận cương là gì ?
III – PHONG TRÀO CÁCH MẠNG
TRONG NHỮNG NĂM 1932 – 1935
1. Cuộc đấu tranh phục hồi phong trào cách mạng
Khi phong trào cách mạng 1930 – 1931 lắng xuống, thực dân Pháp vẫn tiếp
tục thi hành chính sách khủng bố và mị dân.
Hàng vạn người bị bắt, tù đày. Các trại giam và nhà tù chật ních tù chính trị,
như nhà tù Hoả Lò (Hà Nội), Khám Lớn (Sài Gòn), nhà tù Côn Đảo, Kon Tum,
Lao Bảo, Sơn La... Hầu hết các uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Xứ uỷ
Bắc Kì, Trung Kì, Nam Kì bị bắt.
Từ năm 1930 đến năm 1933, thực dân Pháp bắt giam 246 532 người. Riêng
nhà tù Côn Đảo trong những năm 1930 – 1935 có 833 tù chính trị bị tra tấn
đến chết. Ở ngục Kon Tum có khoảng 300 người bị thủ tiêu.
135 |
10_16_8 | 136
Cùng với chính sách khủng bố, thực dân Pháp dùng những thủ đoạn mị dân,
lừa bịp để lôi kéo các tầng lớp quan lại, địa chủ, tư sản, trí thức, để mê hoặc một
bộ phận nhân dân. Về chính trị, chúng cho tăng số đại diện người Việt vào cơ
quan lập pháp ; về kinh tế, chúng cho người bản xứ được tham gia đấu thầu một
số công trình công cộng ; về giáo dục, chúng cho tổ chức lại một số trường cao
đẳng ; chúng còn lợi dụng các tôn giáo để chia rẽ khối đoàn kết dân tộc.
Trong hoàn cảnh đó, những người cộng sản vẫn kiên cường đấu tranh. Những
đảng viên trong tù kiên trì bảo vệ lập trường, quan điểm cách mạng của Đảng,
tổng kết bài học kinh nghiệm chỉ đạo phong trào, tổ chức vượt ngục. Những
đảng viên không bị bắt thì tìm cách gây dựng lại tổ chức Đảng và quần chúng.
Một số đảng viên đang hoạt động ở Trung Quốc và Xiêm (Thái Lan) đã trở
về nước hoạt động.
Năm 1932, Lê Hồng Phong và một số đồng chí nhận chỉ thị của Quốc tế
Cộng sản tổ chức Ban lãnh đạo Trung ương của Đảng.
Tháng 6 – 1932, Ban lãnh đạo Trung ương thảo ra Chương trình hành động
của Đảng. Chương trình hành động nêu chủ trương đấu tranh đòi các quyền tự
do dân chủ cho nhân dân lao động, thả tù chính trị, bãi bỏ các thứ thuế bất công,
củng cố và phát triển các đoàn thể cách mạng của quần chúng.
Dựa vào chương trình hành động, phong trào đấu tranh của quần chúng được
nhen nhóm trở lại với các tổ chức như hội cấy, hội cày, hội hiếu hỉ, hội đọc
sách báo v.v...
Nhiều cuộc đấu tranh của công nhân và nông dân cũng đã nổ ra : năm 1932
có 230 cuộc, năm 1933 có 244 cuộc, tập trung ở Quảng Nam, Quảng Ngãi,
Sài Gòn, Gia Định. Nông dân các tỉnh Gia Định, Long Xuyên, Trà Vinh,
Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, Cao Bằng, Lạng Sơn... liên tiếp có các
cuộc đấu tranh.
Trong thời kì này, một số hình thức đấu tranh mới xuất hiện như vận động
bầu cử, hoạt động trên lĩnh vực báo chí. Năm 1935, đại biểu cho những người
lao động đã trúng cử vào Hội đồng thành phố Sài Gòn. Một số đảng viên hoạt
động hợp pháp đã sử dụng báo chí công khai đấu tranh chống những quan điểm
chính trị, triết học, văn học, nghệ thuật tư sản, tuyên truyền chủ nghĩa Mác
Lênin và đường lối chủ trương của Đảng.
Cuối năm 1933, các tổ chức của Đảng dần dần được khôi phục và củng cố.
Đầu năm 1934, Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương được thành |
10_16_9 | lập do Lê Hồng Phong đứng đầu. Cuối năm 1934 – đầu năm 1935, các xứ uỷ Bắc
Kì, Trung Kì và Nam Kì được lập lại.
Như vậy, đến đầu năm 1935, các tổ chức Đảng và phong trào quần chúng
được phục hồi.
2. Đại hội đại biểu lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương (3 – 1935)
Từ ngày 27 đến ngày 31 – 3 – 1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng
họp tại Ma Cao (Trung Quốc). Tham dự Đại hội có 13 đại biểu, thay mặt cho
hơn 500 đảng viên thuộc các đảng bộ trong nước và ở nước ngoài.
Sau khi đánh giá tình hình, Đại hội xác định 3 nhiệm vụ chủ yếu của Đảng
trong thời gian trước mắt là củng cố và phát triển Đảng ; tranh thủ quần chúng
rộng rãi ; chống chiến tranh đế quốc.
Đại hội thông qua Nghị quyết chính trị, Điều lệ Đảng, các nghị quyết về vận
động công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, phụ nữ ; về công tác trong các
dân tộc thiểu số, về đội tự vệ và cứu tế đỏ.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 13 người và bầu Lê Hồng
Phong làm Tổng Bí thư của Đảng. Nguyễn Ái Quốc được cử làm đại diện của
Đảng tại Quốc tế Cộng sản.
Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng đánh dấu mốc quan trọng : Đảng đã
khôi phục được hệ thống tổ chức từ Trung ương đến địa phương, đã khôi phục
được các tổ chức quần chúng của Đảng.
– Phong trào cách mạng nước ta được phục hồi trong những năm 1932 –
1935 như thế nào ?
– Nêu nội dung và ý nghĩa của Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Em có nhận xét gì về quy mô, lực lượng tham gia, hình thức đấu tranh của
phong trào cách mạng 1930 – 1931 ?
2. Nêu ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của phong trào cách mạng
1930 – 1931, đỉnh cao là Xô viết Nghệ – Tĩnh.
3. Ở địa phương em trong những năm 1930 – 1931 có diễn ra phong trào đấu
tranh nào không ? Hãy trình bày diễn biến và kết quả của phong trào.
137 |
10_17_1 | Bài
17
Phong trào dân chủ 1936 – 1939
Vào nửa cuối những năm 30 của thế kỉ XX, trước những biến chuyển
của tình hình thế giới và trong nước, Đảng Cộng sản Đông Dương thay
đổi chủ trương, chuyển sang hình thức đấu tranh công khai, hợp pháp
và nửa hợp pháp với mục tiêu đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo và
hoà bình.
I – TÌNH HÌNH VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1936 – 1939
1. Tình hình chính trị
138
Trong những năm 1936 – 1939, tình hình thế giới có nhiều sự kiện tác động
mạnh mẽ đến phong trào cách mạng Việt Nam.
Từ đầu những năm 30 của thế kỉ XX, bọn phát xít cầm quyền ở một số nước
như Đức, Italia, Nhật Bản ráo riết chạy đua vũ trang, chuẩn bị chiến tranh
thế giới.
Tháng 7 – 1935, Quốc tế Cộng sản tiến hành Đại hội lần thứ VII tại
Mátxcơva (Liên Xô). Đại hội đã quyết nghị nhiều vấn đề trọng đại, như xác định
kẻ thù là chủ nghĩa phát xít và nhiệm vụ trước mắt của giai cấp công nhân là
chống chủ nghĩa phát xít nhằm mục tiêu đấu tranh giành dân chủ, bảo vệ hoà
bình, thành lập mặt trận nhân dân rộng rãi. Đoàn đại biểu Đảng Cộng sản Đông
Dương, do Lê Hồng Phong dẫn đầu, tham dự Đại hội.
Tháng 6 – 1936, Mặt trận Nhân dân lên cầm quyền ở Pháp. Chính phủ mới
đã cho thi hành một số cải cách tiến bộ ở thuộc địa.
Ở Đông Dương, Chính phủ Pháp cử phái viên sang điều tra tình hình, thay
Toàn quyền mới, sửa đổi đôi chút luật bầu cử vào Viện dân biểu, ân xá một số
tù chính trị, nới rộng quyền tự do báo chí v.v...
Lúc này ở Việt Nam, nhiều đảng phái chính trị ra hoạt động, trong đó có đảng
cách mạng, đảng theo xu hướng cải lương, đảng phản động v.v... Các đảng tận
dụng cơ hội, đẩy mạnh hoạt động, tranh giành ảnh hưởng trong quần chúng. Tuy
nhiên, chỉ có Đảng Cộng sản Đông Dương là đảng mạnh nhất, có tổ chức chặt
chẽ và có chủ trương rõ ràng. |
10_17_2 | 2. Tình hình kinh tế – xã hội
Sau cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới (1929 – 1933), chính quyền thực dân
Pháp ở Đông Dương tập trung đầu tư, khai thác thuộc địa để bù đắp sự thiếu hụt
cho kinh tế "chính quốc".
Về nông nghiệp, chính sách của chính quyền thực dân tạo điều kiện cho tư
bản Pháp chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, làm cho 2/3 nông dân không có
ruộng hoặc chỉ có ít ruộng. Phần lớn đất nông nghiệp độc canh trồng lúa.
Các đồn điền của tư bản Pháp chủ yếu trồng cao su, cà phê, chè, đay, gai, bông...
Về công nghiệp, ngành khai mỏ được đẩy mạnh. Tổng sản lượng khai mỏ
năm 1929 trị giá 18,6 triệu đồng, năm 1939 là 29,5 triệu đồng.
Sản lượng các ngành dệt, sản xuất xi măng, chế cất rượu tăng. Các ngành ít
phát triển là điện, nước, cơ khí, đường, giấy, diêm.
Về thương nghiệp, chính quyền thực dân độc quyền bán thuốc phiện, rượu,
muối, thu được lợi nhuận rất cao. Hàng xuất khẩu chủ yếu là khoáng sản, nông
sản. Hàng nhập khẩu là máy móc và hàng tiêu dùng.
Nhìn chung, những năm 1936 – 1939 là thời kì phục hồi và phát triển nền
kinh tế ở Việt Nam, nhưng chỉ tập trung vào một số ngành đáp ứng cho nhu cầu
chiến tranh. Nền kinh tế Việt Nam vẫn lạc hậu và lệ thuộc vào kinh tế Pháp.
Đời sống các tầng lớp nhân dân vẫn gặp nhiều khó khăn do chính sách tăng
thuế của chính quyền thuộc địa.
Số công nhân thất nghiệp còn nhiều. Ngay cả những người có việc làm, mức
lương vẫn không bằng thời kì trước khủng hoảng.
Báo Bạn Dân ngày 24 – 6 – 1937 viết : "Tại Sài Gòn ngày 14 – 6 – 1937, độ 2 000
người thất nghiệp vừa đàn ông, đàn bà, con nít kéo nhau đến toà Đốc lí xin
việc và xin gạo".
Nông dân không đủ ruộng cày. Họ còn chịu mức địa tô cao và nhiều thủ đoạn
bóc lột khác của địa chủ cường hào, những hủ tục cưới cheo, đình đám...
Tư sản dân tộc có ít vốn nên chỉ lập được những công ti nhỏ, phải chịu thuế
cao, bị tư bản Pháp chèn ép.
Nhiều người trong giới tiểu tư sản trí thức thất nghiệp. Công chức nhận được
mức lương thấp. Các tầng lớp lao động khác phải chịu thuế khoá nặng nề,
giá cả sinh hoạt đắt đỏ.
-
Báo Ngày nay số 131 ngày 8 10 – 1938 thuật lại một cuộc phỏng vấn :
"Hỏi : Công chức Việt Nam có gì lo nhất ? – Đáp : Nợ ! Nợ ! Nợ ! Nợ tuốt...".
139 |
10_17_3 | Đời sống của đa số nhân dân khó khăn, cực khổ. Chính vì thế họ hăng hái
tham gia phong trào đấu tranh đòi tự do, cơm áo dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Đông Dương.
?
Nêu những nét chính về tình hình kinh tế – xã hội Việt Nam trong những
năm 1936 – 1939.
II – PHONG TRÀO DÂN CHỦ 1936 – 1939
1. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
tháng 7 – 1936
Tháng 7 – 1936, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông
Dương, do Lê Hồng Phong chủ trì, họp ở Thượng Hải (Trung Quốc). Hội nghị
dựa trên Nghị quyết Đại hội lần thứ VII của Quốc tế Cộng sản, căn cứ vào tình
hình cụ thể Việt Nam để định ra đường lối và phương pháp đấu tranh. Hội nghị
xác định : Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng tư sản dân quyền Đông Dương
là chống đế quốc và chống phong kiến ; nhiệm vụ trực tiếp, trước mắt là đấu
tranh chống chế độ phản động thuộc địa, chống phát xít, chống nguy cơ chiến
tranh, đòi tự do, dân sinh, dân chủ, cơm áo và hoà bình. Phương pháp đấu tranh
là kết hợp các hình thức công khai và bí mật, hợp pháp và bất hợp pháp. Hội nghị
chủ trương thành lập Mặt trận Thống nhất nhân dân phản đế Đông Dương.
Đảng Cộng sản Đông Dương kêu gọi các đảng phái chính trị, các tổ chức
quần chúng và nhân dân Đông Dương hành động, đấu tranh cho dân chủ.
Phong trào quần chúng lan rộng trong cả nước.
Sau hội nghị này, Hà Huy Tập được cử làm Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản
Đông Dương.
Tiếp đó, Hội nghị Trung ương các năm 1937 và 1938 bổ sung và phát triển
nội dung cơ bản Nghị quyết Hội nghị Trung ương tháng 7 – 1936. Tại Hội nghị
Ban Chấp hành Trung ương tháng 3 1938, Mặt trận Thống nhất nhân dân
phản đế Đông Dương đổi thành Mặt trận Thống nhất dân chủ Đông Dương, gọi
tắt là Mặt trận Dân chủ Đông Dương.
-
2. Những phong trào đấu tranh tiêu biểu
a) Phong trào đấu tranh đòi tự do, dân sinh, dân chủ
140
Từ giữa năm 1936, được tin Quốc hội Pháp cử phái đoàn sang điều tra tình
hình Đông Dương, Đảng chủ trương vận động và tổ chức các tầng lớp nhân dân |
10_17_4 | hội họp, thảo ra bản "dân nguyện" để gửi tới phái đoàn, tiến tới triệu tập Đông
Dương Đại hội vào tháng 8 – 1936. Đảng cũng kêu gọi các đảng phái chính trị,
các tổ chức quần chúng cùng tham gia.
Khởi đầu ở Nam Kì, đến cuối tháng 9 – 1936 đã có hơn 600 uỷ ban hành động
được thành lập. Phong trào mạnh nhất ở Sài Gòn, Chợ Lớn, Thủ Dầu Một,
Gia Định, Biên Hoà...
Uỷ ban hành động phân phát truyền đơn, ra báo chí, tổ chức mít tinh, hội họp
quần chúng, thảo luận những yêu cầu về dân chủ, dân sinh...
Ở Bắc Kì, trong tháng 9, Uỷ ban lâm thời chi nhánh Bắc Kì Đông Dương Đại
hội thành lập. Các uỷ ban hành động thành lập ở Hà Nội, Hà Đông, Bắc Ninh,
Vĩnh Yên, Hà Nam...
Ở Trung Kì, ngày 12 – 9 – 1936, Uỷ ban lâm thời chi nhánh Trung Kì Đông Dương
Đại hội thành lập. Các uỷ ban hành động được thành lập ở Quảng Trị,
Quảng Nam, Quảng Ngãi, Đà Nẵng...
Trước sự lan rộng của phong trào, bọn phản động thuộc địa đàn áp và chia rẽ
quần chúng. Ngày 15 – 9 – 1936, chúng ra lệnh giải tán Uỷ ban hành động,
cấm hội họp, tịch thu các báo cổ động cho Đông Dương Đại hội.
Mặc dù phái đoàn của Quốc hội Pháp không sang, phong trào Đông Dương
Đại hội bị cấm hoạt động, song đông đảo quần chúng đã được thức tỉnh, đoàn
kết đấu tranh đòi quyền sống ; Đảng Cộng sản Đông Dương thu được một số
kinh nghiệm về phát động và lãnh đạo phong trào đấu tranh công khai, hợp pháp.
Chính quyền thực dân đã phải giải quyết một phần yêu sách của nhân dân như
nới rộng quyền xuất bản báo chí, tự do đi lại, thả một số tù chính trị...
Song song với cuộc vận động Đông Dương Đại hội và sau khi phong trào
bị cấm, các tầng lớp nhân dân trong cả nước tiến hành nhiều cuộc đấu tranh đòi
quyền lợi. Chỉ riêng 6 tháng cuối năm 1936 có 361 cuộc đấu tranh, trong đó
có 236 cuộc đấu tranh của công nhân. Tiêu biểu là cuộc bãi công ngày 23 – 11
của công nhân Hòn Gai, Cẩm Phả, Mông Dương... đòi tăng lương 25%(1).
Năm 1937 có 400 cuộc bãi công của công nhân. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh
của công nhân xe lửa Nam Đông Dương ngày 9 – 7 – 1937 và mỏ than Vàng Danh
ngày 28 – 9 1937. 15 cuộc đấu tranh của nông dân đòi giảm tô, giảm tức...
Tiểu thương ở Hà Nội, Hải Phòng, các thành phố và thị xã khác bãi thị, đòi giảm
thuế chợ, thuế hàng.
(1) Ngày này trở thành ngày hội truyền thống của công nhân mỏ.
141 |
10_17_5 | 142
-
Trong tháng 1 và tháng 2 – 1937 còn có những cuộc mít tinh và biểu tình lớn
của nhân dân cả nước nhằm biểu dương lực lượng khi G. Gôđa – phái viên của
Chính phủ Pháp – sang điều tra tình hình Đông Dương và Brêviê sang nhậm
chức Toàn quyền Đông Dương.
Trong tháng 3 và tháng 7, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp để
bàn về công tác quần chúng. Đảng quyết định lập Công hội thay Công hội đỏ,
Đoàn Thanh niên phản đế thay Đoàn Thanh niên cộng sản, Hội Cứu tế bình dân
thay Hội Cứu tế đỏ v.v... Ở nông thôn, lập Hội cấy, Hội cày, Hội hiếu hỉ v.v...
Những hình thức tổ chức linh hoạt, hoạt động công khai, nửa công khai, đã tập
hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân tham gia.
Năm 1938 có 131 cuộc bãi công của công nhân. Tuy số lượng cuộc đấu tranh
giảm so với năm trước, nhưng chất lượng cao hơn biểu hiện ở trình độ giác ngộ của
quần chúng, khẩu hiệu đấu tranh, sự phối hợp đấu tranh giữa các địa phương.
Cuối năm 1938 ở Nam Kì xảy ra nạn đói. Nông dân nhiều nơi biểu tình. Điển
hình là cuộc biểu tình của hơn 1000 nông dân Cà Mau (10 – 1938). Phong trào
đấu tranh của tiểu thương, học sinh dâng cao.
Đặc biệt là cuộc đấu tranh ngày 1 – 5 – 1938. Lần đầu tiên, trong ngày Quốc tế
Lao động, nhiều cuộc mít tinh được tổ chức công khai ở Hà Nội, Sài Gòn và
nhiều nơi khác, đã thu hút đông đảo quần chúng tham gia.
Năm 1939, phong trào tập trung ở những trung tâm công nghiệp lớn như
Hà Nội, Hải Phòng, Sài Gòn, Chợ Lớn...
-
Hình 42. Mít tinh kỉ niệm ngày Quốc tế Lao động (1 – 5 – 1938) tại khu Đấu Xảo
(nay là khu vực Cung Văn hoá Hữu nghị Hà Nội) |
10_17_6 | Nguyễn Ái Quốc nhận xét : "So với trước thì các cuộc bãi công năm 1939 có
tổ chức và có kỉ luật hơn. Các cuộc bãi công ấy đều đưa ra những yêu sách
cụ thể hơn : đòi tăng lương, ngày làm 8 giờ, bảo hiểm xã hội, công nhận các
đại biểu, tự do nghiệp đoàn. Đó là những yêu sách cơ bản.
Hầu hết các cuộc bãi công đều được sự ủng hộ tinh thần và vật chất của
công nhân các ngành khác, của nông dân và tiểu thương, đôi khi ngay cá
tù chính trị cũng đóng góp vào các cuộc lạc quyên ủng hộ."()
b) Đấu tranh nghị trường
Đấu tranh ở nghị trường là một lĩnh vực đấu tranh mới mẻ của Đảng Cộng
sản Đông Dương.
Trong các cuộc tuyển cử vào các cơ quan lập pháp, Mặt trận Dân chủ, trong đó
Đảng Cộng sản là thành viên tích cực, đã đưa người ra ứng cử với chương trình
hành động, như mở rộng quyền tự do, dân chủ, bỏ thuế môn bài, thuế chợ, thuế đò,
bỏ thuốc phiện, bỏ độc quyền rượu, mở mang y tế, cứu tế thất nghiệp v.v...
Trong cuộc bầu cử vào Viện Dân biểu Trung Kì tháng 8 – 1937, Đảng vận
động những người tiến bộ trong hàng ngũ trí thức ra ứng cử. Đảng sử dụng
báo chí để tuyên truyền và vận động cử tri bỏ phiếu cho những ứng cử viên này.
Kết quả là hầu hết các ứng cử viên do Đảng vận động ra ứng cử đã trúng cử.
Trong kì họp của Viện Dân biểu tháng 9 – 1938, các nghị viên đã bác bỏ dự
án thuế thân và thuế điền thổ của chính phủ thuộc địa.
Năm 1938, trong cuộc tranh cử vào Viện Dân biểu Bắc Kì, 15 ứng cử viên
của Mặt trận Dân chủ đã trúng cử. Mặt trận Dân chủ còn giành thắng lợi trong
Hội đồng Kinh tế lí tài Đông Dương – cơ quan "dân cử" cao nhất ở Đông Dương.
Năm 1939, diễn ra cuộc tuyển cử vào Hội đồng Quản hạt Nam Kì. Trong
cuộc tuyển cử này, Mặt trận Dân chủ bị thất bại do những thủ đoạn thâm độc
của bọn phản động thuộc địa, do nội bộ Mặt trận không thống nhất ý kiến.
Đảng Cộng sản Đông Dương chủ trương tham gia đấu tranh công khai trên
nghị trường nhằm mục đích mở rộng lực lượng của Mặt trận Dân chủ và vạch trần
chính sách phản động của bọn thực dân và tay sai, bênh vực quyền lợi của
nhân dân lao động.
(1) Hồ Chí Minh, Tuyển tập, Tập 1 (1919 – 1945), NXB Chính trị quốc gia, H., 2002, tr. 550.
143 |
10_17_7 | 144
c) Đấu tranh trên lĩnh vực báo chí
Đảng Cộng sản Đông Dương triệt để sử dụng báo chí công khai làm vũ khí
đấu tranh cách mạng ; tuyên truyền đường lối, quan điểm của Đảng, tập hợp,
hướng dẫn phong trào đấu tranh của quần chúng.
Đây cũng là lĩnh vực đấu tranh mới mẻ của Đảng. Những người cộng sản tìm
mọi cách xuất bản báo. Từ năm 1937, báo chí công khai của Đảng phát triển
nhanh chóng.
Bắc Kì là nơi báo Đảng phát triển mạnh nhất. Các tờ báo tiếng Việt là
Hồn trẻ, Tân xã hội, Thời báo, Thời thế, Tin tức, Đời nay, Phong hoá...
Các tờ báo tiếng Pháp là Le Travail (Lao động), Rassemblement (Tập hợp),
En Avant (Tiến lên), Notre Voix (Tiếng nói của chúng ta)...
Ở Trung Kì, các tờ báo tiêu biểu là Nhành lúa, Dân, Sông Hương tục bản,
Kinh tế tân văn.
Ở Nam Kì, các báo xuất bản bằng tiếng Việt là Phổ thông, Dân chúng,
Lao động, Mới..., báo tiếng Pháp có các tờ La Luffe (Tranh đấu), L’avant
garde (Tiền phong), Le Peuple (Nhân dân)...
-
Các báo của Đảng tuyên truyền, giới thiệu về chủ nghĩa Mác Lênin,
Đảng Cộng sản Đông Dương, Liên Xô, Quốc tế Cộng sản, Mặt trận Nhân dân
Pháp v.v...
Báo chí cách mạng trở thành mũi xung kích trong những phong trào lớn và
hoạt động của cuộc vận động dân chủ, dân sinh thời kì 1936 – 1939 như Đông
Dương Đại hội, "đón" Gôđa và Brêviê, những cuộc bầu cử và đấu tranh nghị
trường v.v...
Trong thời gian này, nhiều sách chính trị – lí luận được xuất bản công khai
hoặc được đưa từ Pháp về. Nhiều tác phẩm văn học hiện thực phê phán ra đời như
Bước đường cùng của Nguyễn Công Hoan ; Tắt đèn, Lều chõng của Ngô Tất Tố ;
Giông tố, Số đỏ của Vũ Trọng Phụng ; thơ cách mạng của Tố Hữu ; kịch có
tác phẩm Kim tiền của Vi Huyền Đắc, Đời cô Lựu của Trần Hữu Trang.
Cuối năm 1937, Đảng phát động phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ nhằm
giúp quần chúng lao động đọc được sách báo, nâng cao sự hiểu biết về chính trị.
Cuộc đấu tranh của Đảng trên lĩnh vực báo chí những năm 1936 – 1939 đã
thu được kết quả to lớn, trước hết về văn hoá – tư tưởng. Đông đảo các tầng lớp
nhân dân được giác ngộ về con đường cách mạng của Đảng. |
10_17_8 | 3. Ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của phong trào dân chủ
1936
1939
Cuộc vận động dân chủ 1936 – 1939 là một phong trào quần chúng rộng lớn,
có tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Phong trào dân
chủ 1936 – 1939, bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng, đã buộc chính quyền
thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách cụ thể trước mắt về dân sinh, dân chủ ;
quần chúng được giác ngộ về chính trị, đã tham gia mặt trận dân tộc thống nhất,
trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng ; đội ngũ cán bộ, đảng
viên được rèn luyện và ngày càng trưởng thành.
Trong quá trình đấu tranh, Đảng Cộng sản Đông Dương tích luỹ được nhiều
bài học kinh nghiệm về xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất, kinh nghiệm
tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp. Đồng thời, Đảng
thấy được những hạn chế của mình trong công tác mặt trận, vấn đề dân tộc...
Có thể nói, phong trào dân chủ 1936 – 1939 như một cuộc tập dượt, chuẩn bị
cho cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám sau này.
– Nêu nội dung cơ bản của Hội nghị Trung ương Đảng tháng 7 – 1936.
– Nhiệm vụ, mục tiêu, hình thức đấu tranh trong thời kì 1936 – 1939
là gì ?
– Trình bày một trong các phong trào đấu tranh thời kì 1936 – 1939.
-
– Trình bày ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm của phong trào
dân chủ 1936 – 1939.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Em có nhận xét gì về quy mô, lực lượng tham gia và hình thức đấu tranh
của phong trào dân chủ 1936 – 1939 ?
2. Hãy so sánh chủ trương, sách lược cách mạng của Đảng, hình thức đấu
tranh giữa thời kì 1936 – 1939 với thời kì 1930 – 1931.
145 |
10_18_1 | Bai
18
Phong trào giải phóng dân tộc 1939 – 1945
Cuộc đấu tranh chống phát xít của phe Đồng minh trong Chiến tranh
thế giới thứ hai (1939 – 1945) đã tạo cơ hội khách quan cho các
thuộc địa vùng lên tự giải phóng khỏi ách thực dân. Đảng Cộng sản
Đông Dương đã kịp thời chuyển hướng đấu tranh, tích cực chuẩn bị lực
lượng, chờ thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Cách mạng tháng
Tám thắng lợi, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời.
I – TÌNH HÌNH VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1939 – 1945
1. Tình hình chính trị
Ngày 1 – 9 – 1939, phát xít Đức tiến công Ba Lan. Ngày 3 – 9 – 1939, Pháp
và Anh tuyên chiến với Đức. Chính phủ Pháp thực hiện chính sách thù địch đối
với các lực lượng tiến bộ trong nước và phong trào cách mạng ở các thuộc địa,
trong đó có Đông Dương.
Tháng 6 – 1940, Pháp đầu hàng Đức. Ở Đông Dương, Đô đốc G. Đơcu được
cử làm Toàn quyền thay G. Catoru. Chính quyền mới thực hiện một loạt chính
sách vơ vét sức người, sức của của Đông Dương dốc vào cuộc chiến tranh.
-
Cuối tháng 9 1940, quân Nhật Bản vượt biên giới Việt – Trung vào miền
Bắc Việt Nam. Quân Pháp nhanh chóng đầu hàng. Phát xít Nhật giữ nguyên bộ
máy thống trị của thực dân Pháp, dùng nó để bóc lột kinh tế phục vụ cho nhu
cầu chiến tranh và đàn áp phong trào cách mạng. Việt Nam bị đặt dưới ách
thống trị của Nhật – Pháp. Ở trong nước lúc này không chỉ có những đảng phái
chính trị thân Pháp mà cả những đảng phái thân Nhật Bản, như Đại Việt, Phục
quốc... Nhật Bản và tay sai ra sức tuyên truyền lừa bịp về văn minh và sức mạnh
của Nhật Bản, về thuyết Đại Đông Á, dọn đường cho Nhật Bản hất cẳng Pháp.
Tháng 6
-
1941, Đức tấn công Liên Xô. Cuộc chiến đấu của nhân dân
Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc đã cổ vũ mạnh mẽ phong trào cách
mạng Việt Nam.
146 |
10_18_2 | -
2. Tình hình kinh tế – xã hội
Đầu tháng 9 – 1939, Toàn quyền Catoru ra lệnh tổng động viên nhằm cung
cấp cho "mẫu quốc" tiềm lực tối đa của Đông Dương về quân sự, nhân lực, các
sản phẩm và nguyên liệu.
Thực dân Pháp thi hành chính sách "Kinh tế chỉ huy". Chúng tăng mức thuế
cũ, đặt thêm thuế mới..., đồng thời sa thải bớt công nhân, viên chức, giảm tiền
lương, tăng giờ làm... Chúng kiểm soát gắt gao sản xuất và phân phối, ấn định
giá cả...
Khi quân Nhật vào Đông Dương, Pháp buộc phải để cho Nhật sử dụng các
sân bay, phương tiện giao thông, kiểm soát hệ thống đường sắt và các tàu biển.
Nhật Bản còn bắt chính quyền thực dân Pháp hằng năm nộp cho chúng một
khoản tiền lớn. Trong 4 năm 6 tháng, Pháp phải nộp một khoản tiền gần
724 triệu đồng.
Quân Nhật còn cướp ruộng đất của nông dân, bắt nông dân nhổ lúa, ngô để
trồng đay, thầu dầu phục vụ cho nhu cầu chiến tranh.
Nhật Bản yêu cầu chính quyền thực dân Pháp xuất khẩu các nguyên liệu
chiến lược sang Nhật như than, sắt, cao su, xi măng v.v...
Một số công ti của Nhật Bản đầu tư vào những ngành phục vụ cho nhu cầu
quân sự như khai thác mănggan, sắt ở Thái Nguyên, apatít ở Lào Cai, crôm ở
Thanh Hoá.
Chính sách vơ vét bóc lột của Pháp – Nhật đã đẩy nhân dân ta tới chỗ
cùng cực. Hậu quả là cuối năm 1944 – đầu năm 1945 có khoảng 2 triệu đồng
bào ta chết đói.
Tất cả các giai cấp, tầng lớp xã hội ở nước ta, trừ bọn tay sai đế quốc, đại địa
chủ và tư sản mại bản, đều bị ảnh hưởng bởi chính sách bóc lột của Pháp – Nhật.
Công nhân bị bóc lột nặng nề, phải làm việc từ 10 đến 12 giờ/ngày, tiền lương
giảm, giá cả sinh hoạt đắt đỏ.
Nông dân chịu sưu cao, thuế nặng, phải đi lính đi phu, bị cưỡng bức nhổ lúa
trồng đay, thầu dầu.
Tiểu tư sản trí thức, viên chức mất việc làm hoặc bị giảm lương ; tiểu thương
bán ế hàng, nhiều tiểu chủ phải ngừng sản xuất.
Tư sản dân tộc vừa bị chính sách "Kinh tế chỉ huy" làm cho phá sản, vừa bị
thiệt hại vì sức mua của nhân dân giảm sút.
Địa chủ vừa và nhỏ bị thiệt hại và bị phá sản vì chiến tranh, do phải nộp
thóc tạ, chịu thuế cao.
147 |
10_18_3 | Những biến chuyển của tình hình thế giới và trong nước đặt ra cho Đảng ta
nhiệm vụ phải nắm bắt và đánh giá chính xác, kịp thời tình hình, đề ra đường
lối đấu tranh phù hợp.
Hãy trình bày những nét chính về tình hình nước ta những năm đầu
Chiến tranh thế giới thứ hai.
II – PHONG TRÀO GIẢI PHÓNG DÂN TỘC
TỪ THÁNG 9 – 1939 ĐẾN THÁNG 3 – 1945
1. Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
tháng 11 – 1939
148
Hai tháng sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, từ ngày 6 đến ngày
8 – 11 – 1939, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng được triệu tập tại Bà
Điểm (Hóc Môn – Gia Định), do Tổng Bí thư Nguyễn Văn Cừ chủ trì. Sau khi
phân tích tính chất cuộc Chiến tranh thế giới thứ hai, nhận định về tình hình thế
giới và Đông Dương, Hội nghị xác định mục tiêu chiến lược trước mắt của cách
mạng Đông Dương là đánh đổ đế quốc và tay sai, giải phóng các dân tộc Đông
Dương, làm cho Đông Dương hoàn toàn độc lập. Hội nghị chủ trương tạm gác
khẩu hiệu cách mạng ruộng đất và đề ra khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của đế
quốc và địa chủ phản bội quyền lợi dân tộc, chống tô cao, lãi nặng. Khẩu hiệu
lập chính quyền Xô viết công, nông, binh được thay thế bằng khẩu hiệu lập
chính quyền dân chủ cộng hoà.
Về phương pháp cách mạng, chuyển từ đấu tranh đòi quyền dân sinh, dân chủ
sang đấu tranh trực tiếp đánh đổ chính quyền đế quốc và tay sai ; từ hoạt động
hợp pháp, nửa hợp pháp sang hoạt động bí mật và bất hợp pháp.
Để tập trung mọi lực lượng của dân tộc vào nhiệm vụ chủ yếu là chống chiến
tranh đế quốc và ách thống trị phát xít thuộc địa, Đảng chủ trương thành lập Mặt
trận Thống nhất dân tộc Phản đế Đông Dương (gọi tắt là Mặt trận Phản đế Đông
Dương) thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương không còn phù hợp với tình
hình và nhiệm vụ mới.
Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng tháng 11 – 1939 đánh
dấu bước chuyển hướng quan trọng – đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên
hàng đầu, thể hiện sự nhạy bén về chính trị và năng lực sáng tạo của Đảng. |
10_18_4 | 2. Những cuộc đấu tranh mở đầu thời kì mới
a) Cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn (27 _ 9 _ 1940)
Mặc dù thực dân Pháp đã nhượng bộ mọi yêu sách, Nhật Bản vẫn thực hiện
kế hoạch đánh chiếm Đông Dương.
Ngày 22 – 9 – 1940, quân Nhật Bản vượt qua biên giới Việt – Trung, đánh
chiếm Lạng Sơn, ném bom Hải Phòng, đổ bộ lên Đồ Sơn.
Ở Lạng Sơn, quân Pháp bị tổn thất nặng nề. Số lớn quân Pháp đầu hàng, số
còn lại rút chạy về Thái Nguyên qua châu Bắc Sơn.
Đêm 27 – 9 – 1940, nhân dân Bắc Sơn dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa
phương đã nổi dậy chặn đánh quân Pháp, chiếm đồn Mỏ Nhài. Nguỵ quyền ở
Bắc Sơn tan rã. Nhân dân làm chủ châu lị và các vùng lân cận. Đội du kích
Bắc Sơn được thành lập.
Bình Gia
Bắc Sơn
Thất Khê
Mỏ Nhài
Vũ Lăng
Võ Nhai,
Khuổi Nội
Na Sam
Điểm He
sông Thương
TRUNG
QUỐC
LANG
SƠN
6THÁI NGUYÊN
→ Hướng tiến đánh của quân Nhật
Quân Pháp đầu hàng
Quân Pháp tháo chạy
Chính quyền địch lung lay,
Tri châu chạy trốn
Quần chúng và binh lính ngụy quyền
nổi dậy khởi nghĩa
Nơi thành lập đội du kích Bắc Sơn
Pháp phản công, đàn áp quân khởi nghĩa
Nơi quân Pháp đóng đồn, bốt trở lại
Đường giao thông
Biên giới quốc gia
Hình 43. Lược đồ khởi nghĩa Bắc Sơn
Tuy Pháp và Nhật Bản mâu thuẫn với nhau, nhưng đều hoảng sợ trước lực
lượng cách mạng, đã nhanh chóng câu kết lại. Mấy hôm sau, Nhật Bản thả tù
binh Pháp và cho quân Pháp trở lại đóng các đồn bốt ở Lạng Sơn. Thực dân Pháp
149 |
10_18_5 | tiến hành khủng bố phong trào cách mạng Bắc Sơn. Chúng đốt phá làng bản,
dồn làng, tập trung dân, bắn giết những người tham gia khởi nghĩa.
Khởi nghĩa Bắc Sơn có ý nghĩa lịch sử quan trọng – mở đầu phong trào đấu
tranh vũ trang giải phóng dân tộc sau khi có chủ trương chuyển hướng đấu tranh
của Đảng. Khởi nghĩa Bắc Sơn giúp Đảng ta rút ra những bài học quý báu về
khởi nghĩa vũ trang, chọn thời cơ khởi nghĩa.
b) Cuộc khởi nghĩa Nam Kì (23 _ 11 _ 1940)
-
Tháng 11 1940, xảy ra cuộc xung đột giữa thực dân Pháp và Thái Lan.
Chính quyền thực dân bắt thanh niên Việt Nam và Cao Miên đi làm bia đỡ đạn.
Nhân dân Nam Kì và binh lính đấu tranh phản đối việc đưa binh lính ra mặt trận.
Trong bối cảnh đó, Xứ uỷ Nam Kì chuẩn bị phát động nhân dân khởi nghĩa
và cử đại biểu ra Bắc xin chỉ thị của Trung ương.
Trước những thay đổi của tình hình thế giới và trong nước, Hội nghị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng được triệu tập từ ngày 6 đến ngày 9 – 11 – 1940
tại làng Đình Bảng (Từ Sơn – Bắc Ninh). Hội nghị đề ra chủ trương trong tình
hình mới : xác định kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương là đế quốc Pháp –
Nhật ; quyết định duy trì đội du kích Bắc Sơn để xây dựng thành lực lượng vũ
trang cách mạng ; tiến tới thành lập căn cứ du kích ; quyết định đình chỉ khởi
nghĩa vũ trang ở Nam Kì vì thời cơ chưa chín muồi.
Quyết định hoãn khởi nghĩa của Trung ương Đảng chưa tới nơi, nhưng lệnh
khởi nghĩa của Xứ uỷ Nam Kì đã đến các địa phương, nên cuộc khởi nghĩa vẫn
nổ ra đúng thời gian quy định là đêm 22 rạng sáng 23 – 11 – 1940.
Khởi nghĩa bùng nổ từ miền Đông đến miền Tây Nam Bộ : Biên Hoà, Gia
Định, Chợ Lớn, Tân An, Bến Tre, Trà Vinh, Cần Thơ, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Rạch
Giá, Mĩ Tho, Vĩnh Long. Chính quyền cách mạng được thành lập ở nhiều nơi.
Từ trong khởi nghĩa, lần đầu tiên xuất hiện cờ đỏ sao vàng.
Do kế hoạch bị lộ, thực dân Pháp kịp thời đối phó. Chúng cho máy bay ném
bom tàn sát nhân dân những vùng nổi dậy, bắt bớ nhiều người, trong đó có nhiều
cán bộ lãnh đạo Đảng ở Nam Kì.
Lực lượng khởi nghĩa còn lại phải rút về vùng Đồng Tháp và U Minh để củng
cố lực lượng.
Cuộc khởi nghĩa Nam Kì chứng tỏ tinh thần yêu nước của các tầng lớp nhân
dân miền Nam, sẵn sàng đứng lên chiến đấu chống quân thù.
150 |
10_18_6 | Nơi quần chúng và binh lính người Việt
nổi dậy khởi nghĩa
Nơi thành lập chính quyền cách mạng
Nơi quân Pháp ném bom tàn sát
* Nơi quân Pháp bắt và giết hại quân khởi nghĩa
TÂY NINH,
sông Bé
Đường giao thông
Biên giới quốc gia
CAMPUCHIA
ĐỒNG THÁP
I. Vàm Cỏ Tây
HOC MON
MITHO
-12-
THỦ DẦU MỘT
S.Dong Nai
BIÊN HOÀ
( * GIA ĐỊNH
SÀI GÒN
CHỢ LỚN
TÅN AN
VN CẦN GIỜ
GÒ CÔNG
V1: BẾN TRE
TRÀ VINH
10
Đ. Phú Quốc
LONG XUYÊN L
RẠCH GIÁ
CẦN THƠ
HÀ NOI
U MINH
CÀ MAU
K. Phụng Hiệp
SÔNG TIỀN, CH
VĨNH LONG
XÔNG HẬU
“SÓC TRĂNG
BAC LIEUS
B. Can Som
Qo, Hoàng Sa
(VIETNAM)
ĐÔNG
BIẾN
QO, T
VIỆT NAM,
Sa
Hòn khoai
I
B
Hình 44. Lược đồ khởi nghĩa Nam Kì
106°
c) Cuộc binh biến Đô Lôơng (13 _ 1 _ 1941)
Đ
N
Đ. Côn Sơn
N
Trong khi thực dân Pháp khủng bố dữ dội những người tham gia khởi nghĩa
Nam Kì, tại Trung Kì những binh lính người Việt trong quân đội Pháp đã làm
binh biến, chống lại việc Pháp đưa họ sang Lào đánh quân Thái Lan.
Ngày 13 – 1 – 1941, binh lính đồn Chợ Rạng (Nghệ An) dưới sự chỉ huy của
Đội Cung (Nguyễn Văn Cung) đã nổi dậy. Tối hôm đó, họ đánh chiếm đồn
Đô Lương rồi lên ô tô tiến về Vinh để phối hợp với binh lính ở đây chiếm thành.
Nhưng kế hoạch không thực hiện được. Quân Pháp kịp thời đối phó. Chiều hôm
sau, toàn bộ binh lính tham gia nổi dậy bị bắt. Ngày 11 – 2 – 1941, Đội Cung
cũng bị sa vào tay giặc.
Ngày 24 – 4 – 1941, thực dân Pháp xử bắn Đội Cung cùng 10 đồng chí
của ông. Nhiều người khác bị kết án khổ sai, đưa đi đày.
151 |
10_18_7 | | Đô Lương
Chợ Rạng
VỊNH
BẮC BỘ
sông Cả
(15)
Nơi binh lính nổi dậy
Đường tiến công của binh lính nổi dậy
Pháp bắt bớ, giết hại các binh lính nổi dậy
Nơi Pháp xử bắn Đội Cung
cùng 10 đồng chí của ông
Đường giao thông và số đường
(15)
VINH
sông Lam
Hình 45. Lược đồ binh biến Đô Lương
Trong thời gian hơn 3 tháng, 3 cuộc nổi dậy nối tiếp nổ ra ở 3 miền của đất
nước, do nhiều tầng lớp nhân dân và binh lính tham gia, đã nêu cao tinh thần bất
khuất của dân tộc. Các cuộc nổi dậy đã thất bại vì điều kiện chưa chín muồi,
nhưng "đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước
đầu đấu tranh bằng vũ lực của các dân tộc Đông Dương".
3. Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng. Hội nghị
lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
(5-1941)
152
Ngày 28 – 1 – 1941, Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng.
Sau một thời gian chuẩn bị, Người chủ trì Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành
Trung ương Đảng tại Pác Bó (Hà Quảng – Cao Bằng) từ ngày 10 đến ngày
195-1941.
Hội nghị khẳng định nhiệm vụ chủ yếu trước mắt của cách mạng là giải
phóng dân tộc, tiếp tục thực hiện chủ trương tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, nêu
khẩu hiệu giảm tô, giảm tức, chia lại ruộng công, tiến tới thực hiện người cày
có ruộng. Hội nghị chỉ rõ sau khi đánh đuổi đế quốc Pháp – Nhật, sẽ thành lập |
10_18_8 | Chính phủ nhân dân của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. Hội nghị quyết định
thành lập Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh thay cho Mặt trận Thống nhất
dân tộc phản đế Đông Dương và giúp đỡ việc lập mặt trận ở các nước Lào,
Campuchia, thay tên các hội Phản đế thành hội Cứu quốc.
Hội nghị xác định hình thái cuộc khởi nghĩa ở nước ta là đi từ khởi nghĩa từng
phần tiến lên tổng khởi nghĩa và kết luận : chuẩn bị khởi nghĩa là nhiệm vụ trung
tâm của toàn Đảng, toàn dân trong giai đoạn hiện tại.
Hội nghị bầu ra Ban Chấp hành Trung ương mới, bầu Trường Chinh làm Tổng
Bí thư.
Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã hoàn chỉnh
chủ trương được đề ra tại Hội nghị Trung ương tháng 11 – 1939, nhằm giải
quyết mục tiêu số 1 của cách mạng là dân tộc giải phóng và đề ra nhiều chủ
trương sáng tạo thực hiện mục tiêu ấy.
Ngày 19 – 5 – 1941, Việt Nam độc lập đồng minh (gọi tắt là Việt Minh) ra đời.
Năm tháng sau, Tuyên ngôn, Chương trình, Điều lệ Việt Minh được công bố
chính thức. Chương trình cứu nước của Việt Minh được đông đảo các tầng lớp
nhân dân hưởng ứng.
4. Chuẩn bị tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền
a) Xây dựng lực lượng cho cuộc khởi nghĩa vũ trang
-
Xây dựng lực lượng chính trị : Một trong những nhiệm vụ cấp bách của
Đảng là vận động quần chúng tham gia Việt Minh. Cao Bằng là nơi thí điểm cuộc
vận động xây dựng các hội Cứu quốc trong Mặt trận Việt Minh. Đến năm 1942,
khắp các châu ở Cao Bằng đều có Hội Cứu quốc, trong đó có 3 châu "hoàn
toàn"(1). Tiếp đó, Uỷ ban Việt Minh tỉnh Cao Bằng và Uỷ ban Việt Minh lâm
thời liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng được thành lập.
Ở nhiều tỉnh, thành thuộc Bắc Kì và ở một số tỉnh Trung Kì, hầu hết
các hội Phản đế (thời kì Mặt trận Phản đế Đông Dương từ tháng
11 – 1939 đến tháng 5 – 1941) chuyển thành các hội Cứu quốc (thời kì Mặt
trận Việt Minh từ tháng 5 – 1941), đồng thời nhiều hội Cứu quốc mới được
thành lập.
(1) Nghĩa là mọi người đều gia nhập Việt Minh.
153 |
10_18_9 | 154
Trong khi chú trọng tới công nhân và nông dân, Đảng còn tranh thủ tập hợp
rộng rãi các tầng lớp khác như sinh viên, học sinh, trí thức, tư sản dân tộc vào
mặt trận cứu nước. Năm 1943, Đảng đề ra bản Đề cương Văn hoá Việt Nam.
Năm 1944, Đảng Dân chủ Việt Nam và Hội Văn hoá cứu quốc Việt Nam được
thành lập, đứng trong Mặt trận Việt Minh. Đảng cũng tăng cường công tác vận
động binh lính người Việt trong quân đội Pháp, những ngoại kiều ở Đông Dương
chống phát xít.
Báo chí của Đảng và của Mặt trận Việt Minh (Việt Nam độc lập, Giải phóng,
Cờ giải phóng, Chặt xiềng,...) đã góp phần vào việc tuyên truyền đường lối
chính sách của Đảng, đấu tranh chống thủ đoạn chính trị, văn hoá của địch...
– Xây dựng lực lượng vũ trang : Cùng với việc xây dựng lực lượng chính trị,
công tác xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng được Đảng đặc biệt coi trọng.
Sau khi cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn thất bại, một bộ phận lực lượng vũ trang khởi
nghĩa chuyển sang xây dựng thành những đội du kích, hoạt động ở căn cứ địa
Bắc Sơn – Võ Nhai. Bước sang năm 1941, những đội du kích ở khu căn cứ này
lớn mạnh lên và thống nhất lại thành Trung đội Cứu quốc quân I (14 – 2 – 1941).
Cứu quốc quân phát động chiến tranh du kích trong 8 tháng (từ tháng 7 – 1941
đến tháng 2 – 1942) để đối phó với sự vây quét của địch, sau đó phân tán thành
nhiều bộ phận để chấn chỉnh lực lượng, gây dựng cơ sở chính trị trong quần
chúng tại các tỉnh Thái Nguyên, Tuyên Quang, Lạng Sơn. Ngày 15 – 9 – 1941,
Trung đội Cứu quốc quân II ra đời.
Cuối năm 1941, Nguyễn Ái Quốc quyết định thành lập đội tự vệ vũ trang để
chuẩn bị cho việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và thúc đẩy cơ sở
chính trị phát triển. Người còn tổ chức các lớp huấn luyện chính trị, quân sự,
biên soạn các tài liệu về đánh du kích, kinh nghiệm du kích Nga, kinh nghiệm
du kích Tàu...
– Xây dựng căn cứ địa : Công tác xây dựng căn cứ địa cách mạng cũng được
Đảng quan tâm. Vùng Bắc Sơn – Võ Nhai được xây dựng thành căn cứ địa cách
mạng. Năm 1941, sau khi về nước, Nguyễn Ái Quốc chọn Cao Bằng để xây
dựng căn cứ địa dựa trên cơ sở lực lượng chính trị được tổ chức và phát triển.
Đó là hai căn cứ địa đầu tiên của cách mạng nước ta.
Trong những vùng căn cứ cách mạng, hằng ngày diễn ra hoạt động sản xuất,
xây dựng, chiến đấu, hoạt động của các đoàn thể cứu quốc, lực lượng vũ trang. |
10_18_10 | b) Gấp rút chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền
Từ đầu năm 1943, cuộc chiến tranh thế giới chuyển biến theo chiều hướng có
lợi cho cách mạng nước ta. Hồng quân Liên Xô chuyển sang phản công quân
Đức, sự thất bại của phe phát xít đã rõ ràng. Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta đẩy
mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa giành chính quyền.
Từ ngày 25 đến ngày 28 – 2 – 1943, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp
ở Võng La (Đông Anh – Phúc Yên)(!). Hội nghị đã vạch ra một kế hoạch cụ thể
về công việc chuẩn bị toàn diện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang. Sau hội nghị này,
công tác chuẩn bị khởi nghĩa được tiến hành gấp rút.
Ở hầu khắp các vùng nông thôn và thành thị Bắc Kì, các đoàn thể Việt Minh,
Hội Cứu quốc được xây dựng và củng cố. Ở các thành phố, thị xã như Hà
Nội, Hải Phòng, Uông Bí, Nam Định, Việt Trì..., các hội Cứu quốc được thành
lập trong nhiều nhà máy, trường học...
Ở nhiều tỉnh ven biển Trung Kì, phong trào Việt Minh cũng phát triển mạnh
trong nông dân, công nhân, dân nghèo thành thị.
Ở Nam Kì, tổ chức Việt Minh có cơ sở ở Sài Gòn, Gia Định, Tây Ninh và một
số tỉnh khác.
Đặc biệt, ở các căn cứ địa Trung ương, công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa diễn
ra khẩn trương. Ở căn cứ Bắc Sơn – Võ Nhai, Cứu quốc quân hoạt động mạnh,
tuyên truyền vũ trang, gây dựng cơ sở chính trị, mở rộng khu căn cứ. Trong quá
trình đó, Trung đội Cứu quốc quân III ra đời (25 – 2 – 1944). Ở căn cứ
Cao Bằng, những đội tự vệ vũ trang, đội du kích được thành lập. Năm 1943,
Ban Việt Minh liên tỉnh Cao – Bắc – Lạng lập ra 19 ban "Xung phong Nam tiến"
để liên lạc với căn cứ địa Bắc Sơn – Võ Nhai và phát triển lực lượng xuống các
tỉnh miền xuôi.
Ngày 7 – 5 – 1944, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị cho các cấp "Sửa soạn
khởi nghĩa" và ngày 10 – 8 – 1944, Trung ương Đảng kêu gọi nhân dân "Sắm
vũ khí đuổi thù chung".
Ngày 22
12 – 1944, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, Đội Việt Nam Tuyên
truyền Giải phóng quân được thành lập (Nguyên Bình, Cao Bằng). Sau khi ra đời,
Đội đã đánh thắng liên tiếp hai trận ở Phay Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng).
Căn cứ Cao – Bắc – Lạng được củng cố và mở rộng.
Công cuộc chuẩn bị vẫn tiếp tục cho đến trước ngày Tổng khởi nghĩa.
(1) Đông Anh nay thuộc Hà Nội.
155 |
10_18_11 | ?
Hình 46. Lễ thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
-
- Nêu nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng
tháng 11 – 1939.
– Hãy trình bày nguyên nhân, diễn biến, ý nghĩa lịch sử của Khởi nghĩa
Bắc Sơn, Khởi nghĩa Nam Kì và Binh biến Đô Lương.
– Nêu nội dung cơ bản của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp
hành Trung ương (5 – 1941).
– Công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa của Đảng từ sau Hội nghị Trung ương 8
(5 – 1941) đã diễn ra như thế nào ?
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Tại sao trong 3 năm liên tiếp 1939, 1940, 1941 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng đều triệu tập hội nghị ? Vấn đề quan trọng nhất được các hội nghị
đề cập tới là gì ?
2. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc tại Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (5 – 1941) được thể hiện như thế nào ?
156 |
10_19_1 | Bài
19
cao trào kháng nhật cứu nước
và tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945.
Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra Đời
Giữa tháng 8 – 1945, Nhật hoàng tuyên bố đầu hàng Đồng minh, quân
đội Nhật Bản ở Đông Dương cùng Chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim
hoang mang tan rã. Thời cơ tổng khởi nghĩa đã tới. Dưới sự lãnh đạo
của Đảng, nhân dân cả nước khởi nghĩa giành chính quyền. Nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được thành lập.
I – KHỞI NGHĨA VŨ TRANG GIÀNH CHÍNH QUYỀN
1. Khởi nghĩa từng phần (từ tháng 3 đến giữa tháng 8 – 1945)
Đầu năm 1945, trên đường Hồng quân Liên Xô tiến đánh Béclin, sào huyệt
cuối cùng của phát xít Đức, một loạt nước châu Âu được giải phóng.
Ö mặt trận châu Á – Thái Bình Dương, quân Đồng minh giáng cho phát xít
Nhật những đòn nặng nề.
Ở Đông Dương, lực lượng Pháp theo phái Đờ Gôn ráo riết hoạt động, chờ thời
cơ phản công quân Nhật Bản, mâu thuẫn Nhật – Pháp trở nên gay gắt.
Trước tình hình đó, quân đội Nhật Bản ra tay trước. Vào lúc 20 giờ ngày
9 – 3 – 1945, Nhật đảo chính Pháp. Quân Pháp chống cự yếu ớt ở một vài nơi
rồi mau chóng đầu hàng. Sau khi hất cẳng Pháp, phát xít Nhật tuyên bố "giúp
các dân tộc Đông Dương xây dựng nền độc lập". Chúng dựng lên Chính phủ
Trần Trọng Kim và đưa Bảo Đại lên làm "Quốc trưởng". Nhật Bản đã hoàn toàn
độc chiếm Đông Dương, tăng cường vơ vét, bòn rút tiền của của nhân dân ta và
đàn áp dã man những người cách mạng.
Đang lúc Nhật đảo chính Pháp, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng
Đình Bảng (Từ Sơn – Bắc Ninh). Ngày 12 – 3 – 1945, Ban Thường vụ Trung
ương Đảng ra chỉ thị "Nhật – Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta". Bản
chỉ thị nhận định : Cuộc đảo chính đã tạo nên sự khủng hoảng chính trị sâu sắc,
nhưng những điều kiện tổng khởi nghĩa chưa chín muồi. Phát xít Nhật trở thành
kẻ thù chính của nhân dân Đông Dương. Khẩu hiệu "Đánh đuổi Pháp – Nhật"
được thay bằng khẩu hiệu "Đánh đuổi phát xít Nhật".
Hình thức đấu tranh được xác định là từ bất hợp tác, bãi công, bãi thị đến biểu
tình, thị uy, vũ trang du kích và sẵn sàng chuyển qua hình thức tổng khởi nghĩa
khi có điều kiện.
157 |
10_19_2 | Hội nghị quyết định phát động một "cao trào kháng Nhật cứu nước mạnh mẽ
làm tiền đề cho cuộc tổng khởi nghĩa".
Ở khu căn cứ địa Cao – Bắc – Lạng, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
và Cứu quốc quân phối hợp với lực lượng chính trị của quần chúng giải phóng
hàng loạt xã, châu, huyện. Tại những nơi này, chính quyền cách mạng được
thành lập, các hội Cứu quốc được củng cố và phát triển.
Ở Bắc Kì và Bắc Trung Kì, trước thực tế nạn đói đang diễn ra trầm trọng do
chính sách cướp bóc của Pháp – Nhật, Đảng đề ra khẩu hiệu "Phá kho thóc giải
quyết nạn đói". Khẩu hiệu đã đáp ứng nguyện vọng cấp bách nhất của nông dân
nên tạo thành phong trào đấu tranh mạnh mẽ chưa từng có.
Hàng triệu quần chúng kéo đi phá kho thóc, chống đói dưới nhiều hình thức.
Có nơi quần chúng đã giành được chính quyền. Phong trào diễn ra sôi nổi ở các
tỉnh Bắc Giang, Bắc Ninh, Vĩnh Yên, Phúc Yên, Ninh Bình, Quảng Yên, Nghệ An,
Hà Tĩnh...
Đồng thời với phong trào này, làn sóng khởi nghĩa từng phần dâng lên
tại nhiều nơi. Việt Minh lãnh đạo quần chúng nổi dậy ở Tiên Du (Bắc Ninh,
10 – 3), Bần Yên Nhân (Hưng Yên, 11 – 3)...
-
Ở Quảng Ngãi, tù chính trị ở nhà lao Ba Tơ nổi dậy, lãnh đạo quần chúng
khởi nghĩa, thành lập chính quyền cách mạng (11 – 3), tổ chức đội du kích Ba Tơ.
Đảng viên, cán bộ cách mạng bị giam trong các nhà tù Nghĩa Lộ, Sơn La,
Hoả Lò (Hà Nội), Buôn Ma Thuột (Đắk Lắk), Hội An (Quảng Nam) đã đấu tranh
đòi tự do hoặc nổi dậy phá nhà giam, vượt ngục ra ngoài hoạt động. Đó là nguồn
bổ sung cán bộ quan trọng, là nhân tố thúc đẩy phong trào khởi nghĩa và tổng
khởi nghĩa về sau.
Ở Nam Kì, phong trào Việt Minh hoạt động mạnh nhất tại Mĩ Tho và Hậu Giang.
2. Sự chuẩn bị cuối cùng trước ngày Tổng khởi nghĩa
158
Để đẩy mạnh hơn nữa công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, từ ngày 15 đến
ngày 20 – 4 – 1945, Ban Thường vụ Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị Quân sự
cách mạng Bắc Kì. Hội nghị quyết định thống nhất các lực lượng vũ trang,
phát triển hơn nữa lực lượng vũ trang và nửa vũ trang ; mở trường đào tạo
cấp tốc cán bộ quân sự và chính trị ; tích cực phát triển chiến tranh du kích ;
xây dựng chiến khu chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa khi thời cơ đến. Uỷ ban
Quân sự cách mạng Bắc Kì được thành lập có nhiệm vụ chỉ huy các chiến khu
ở Bắc Kì và giúp đỡ cả nước về mặt quân sự. |
10_19_3 | Ngày 16 – 4 – 1945, Tổng bộ Việt Minh ra chỉ thị thành lập Uỷ ban Dân tộc
giải phóng Việt Nam và Uỷ ban dân tộc giải phóng các cấp.
Thực hiện quyết nghị của Hội nghị Quân sự cách mạng Bắc Kì, ngày
15 – 5 – 1945, Cứu quốc quân và Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
thống nhất thành Việt Nam Giải phóng quân. Nhiều chiến khu của Trung ương
và khu căn cứ của địa phương được xây dựng.
Tháng 5 – 1945, Hồ Chí Minh rời Pác Bó (Cao Bằng) về Tân Trào (Tuyên Quang).
Người chọn Tân Trào làm trung tâm chỉ đạo phong trào cách mạng cả nước.
106°
Q
C
104°
T
RUN
HÀ GIANG
CAO BẰNG
Rừng
Trần Hưng Đạo
LÀO CAI
Khu giải phóng
Việt Bắc
Thủ đô Khu giải phóng
Việt Bắc
Tỉnh lị
Biên giới quốc gia
HA NO
22°
SƠN LÀ
SÔNG HỒNG
HUYỂN
BAC KAN
YÊN BÁL
QUANG Tân Trào,
sông Đà
sông Mã
PHÚ THỌ
THÁI NGUYÊN
LẠNG SƠN
VĨNH YÊN
song Thughg
BẮC
GIANG
HÀ NỘI
HOÀ BÌNH
SONG HONG
HẢI DƯƠNG
HẢI PHÒNG
NAM ĐỊNH
VINH
BẮC BỘ
BIEN
00. Ho
VIET NAND
Sa
DONG
9 Sa
Hình 47. Lược đồ Khu giải phóng Việt Bắc
Ngày 4 – 6 – 1945, theo chỉ thị của Hồ Chí Minh, khu giải phóng chính thức
được thành lập, gọi là Khu giải phóng Việt Bắc, gồm hầu hết các tỉnh Cao Bằng,
Bắc Kạn, Lạng Sơn, Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên và một số vùng
thuộc các tỉnh lân cận như Bắc Giang, Phú Thọ, Yên Bái, Vĩnh Yên. Tân Trào
được chọn làm Thủ đô Khu giải phóng. Uỷ ban chỉ huy lâm thời Khu giải phóng
được thành lập. Khu giải phóng Việt Bắc là hình ảnh thu nhỏ của nước
Việt Nam mới.
Công cuộc chuẩn bị được gấp rút hoàn thành. Toàn dân tộc đội ngũ đã sẵn sàng,
đón chờ thời cơ vùng dậy Tổng khởi nghĩa.
159 |
10_19_4 | 3. Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945
a) Nhật Bản đầu hàng Đồng minh, lệnh Tổng khởi nghĩa được ban bố
160
Đầu tháng 8 – 1945, quân Đồng minh tiến công mạnh mẽ vào các vị trí của
quân đội Nhật Bản ở châu Á – Thái Bình Dương. Để uy hiếp Nhật Bản, ngày 6
và 9 – 8 – 1945, Mĩ đã ném hai quả bom nguyên tử xuống hai thành phố
Hirôsima và Nagaxaki của Nhật Bản, huỷ diệt hai thành phố này, giết hại hàng
vạn dân thường.
Ngày 8 – 8 – 1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật Bản. Ngày 9 – 8, quân đội
Xô viết mở màn chiến dịch tổng công kích đạo quân Quan Đông của Nhật Bản
ở Đông Bắc Trung Quốc.
Trước tình thế đó, ngày 9 – 8 – 1945, Hội đồng tối cao chiến tranh của Nhật
Bản đã họp bàn về các điều kiện đầu hàng theo Tuyên bố Pốtxđam. Sau những
cuộc thương lượng giữa Nhật Bản và Đồng minh, ngày 14 – 8 – 1945, Hội đồng
tối cao chiến tranh và Nội các Nhật Bản họp với sự tham gia của Nhật hoàng đã
thông qua quyết định đầu hàng. Giữa trưa 15 – 8 – 1945, Nhật hoàng tuyên bố
đầu hàng không điều kiện các lực lượng Đồng minh trên sóng phát thanh của
Nhật Bản.
Quân Nhật ở Đông Dương rệu rã. Chính phủ thân Nhật Trần Trọng Kim
hoang mang. Điều kiện khách quan thuận lợi cho Tổng khởi nghĩa đã đến.
Ngay từ ngày 13 – 8 – 1945, khi nhận được những thông tin về việc Nhật Bản
sắp đầu hàng, Trung ương Đảng và Tổng bộ Việt Minh lập tức thành lập Uỷ ban
khởi nghĩa toàn quốc. 23 giờ cùng ngày, Uỷ ban khởi nghĩa toàn quốc ban bố
"Quân lệnh số 1", chính thức phát lệnh Tổng khởi nghĩa trong cả nước.
Từ ngày 14 đến ngày 15 – 8 – 1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp ở
Tân Trào (Sơn Dương – Tuyên Quang). Hội nghị thông qua kế hoạch lãnh đạo
toàn dân Tổng khởi nghĩa và quyết định những vấn đề quan trọng về chính sách
đối nội, đối ngoại sau khi giành được chính quyền.
Tiếp đó, từ ngày 16 đến ngày 17 – 8 – 1945, Đại hội Quốc dân được triệu tập
ở Tân Trào. Đại hội tán thành chủ trương Tổng khởi nghĩa của Đảng, thông qua
10 chính sách của Việt Minh, cử ra Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do
Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. |
10_19_5 | b) Diễn biến Tổng khởi nghĩa
Đến giữa tháng 8 – 1945, khí thế cách mạng sục sôi trong cả nước. Từ
ngày 14 – 8, một số cấp bộ Đảng và tổ chức Việt Minh, tuy chưa nhận được
lệnh Tổng khởi nghĩa do thông tin liên lạc khó khăn, nhưng căn cứ vào tình hình
cụ thể của địa phương và vận dụng chỉ thị "Nhật – Pháp bắn nhau và hành động
của chúng ta" đã phát động nhân dân khởi nghĩa. Khởi nghĩa đã nổ ra ở nhiều
xã, huyện thuộc các tỉnh châu thổ sông Hồng, Thanh Hoá, Nghệ An, Hà Tĩnh,
Thừa Thiên – Huế, Khánh Hoà...
Chiều 16 – 8 – 1945, theo lệnh của Uỷ ban khởi nghĩa, một đơn vị giải phóng
quân do Võ Nguyên Giáp chỉ huy, xuất phát từ Tân Trào tiến về giải phóng thị
xã Thái Nguyên.
Ngày 18 – 8 – 1945, nhân dân Bắc Giang, Hải Dương, Hà Tĩnh, Quảng Nam
giành được chính quyền ở tỉnh lị. Đây là các địa phương giành được chính quyền
sớm nhất trong cả nước.
Ở Hà Nội, chiều ngày 17 – 8, quần chúng nội, ngoại thành tổ chức mít tinh
ở Nhà hát Lớn, sau đó xếp thành đội ngũ, đi từ Nhà hát Lớn qua các trung tâm,
hô vang các khẩu hiệu : "Ủng hộ Việt Minh !", "Đả đảo bù nhìn !", "Việt Nam
độc lập !"...
Hình 48. Quần chúng cách mạng chiếm Phủ Khâm sai (Hà Nội)
161 |
10_19_6 | Uỷ ban Khởi nghĩa quyết định khởi nghĩa giành chính quyền vào ngày
19 - 8 - 1945.
Ngày 18 – 8, cờ đỏ sao vàng xuất hiện trên các đường phố chính của Hà Nội.
Ngày 19 – 8, hàng vạn nhân dân nội, ngoại thành xuống đường biểu dương
lực lượng. Quần chúng cách mạng, có sự hỗ trợ của các đội tự vệ chiến đấu,
lần lượt chiếm Phủ Khâm sai, Sở Cảnh sát Trung ương, Sở Bưu điện, Trại Bảo
an binh... Tối 19 – 8, cuộc khởi nghĩa giành chính quyền ở Hà Nội thắng lợi.
Ở Huế, ngày 20 – 8, Uỷ ban Khởi nghĩa tỉnh được thành lập. Uỷ ban quyết
định giành chính quyền vào ngày 23 – 8. Hàng vạn nhân dân nội, ngoại thành
kéo về biểu tình thị uy chiếm các công sở. Chính quyền về tay nhân dân.
THU
162
Hình 49. Nhân dân Sài Gòn trong những ngày tháng 8 – 1945
Tại Sài Gòn, Xứ uỷ Nam Kì quyết định khởi nghĩa ở Sài Gòn và các tỉnh vào
ngày 25 – 8.
Sáng 25 – 8, các đơn vị "Xung phong công đoàn", "Thanh niên tiền phong",
công nhân, nông dân các tỉnh Gia Định, Biên Hoà, Thủ Dầu Một, Mĩ Tho kéo
về thành phố. Quần chúng chiếm Sở Mật thám, Sở Cảnh sát, nhà ga, bưu điện,
nhà máy điện... giành chính quyền ở Sài Gòn.
Khởi nghĩa thắng lợi ở ba thành phố lớn Hà Nội, Huế, Sài Gòn đã tác động
quyết định đến các địa phương trong cả nước. Nhiều nơi, từ rừng núi, nông thôn,
thành thị nối tiếp nhau khởi nghĩa. Đồng Nai Thượng và Hà Tiên là những địa
phương giành chính quyền muộn nhất vào ngày 28 – 8. |
10_19_7 | Như vậy, trừ mấy thị xã do lực lượng của Trung Hoa Dân quốc và tay sai
chiếm đóng từ trước (Móng Cái, Hà Giang, Lào Cai, Lai Châu, Vĩnh Yên), cuộc
Tổng khởi nghĩa giành được thắng lợi trên cả nước trong vòng nửa tháng, từ
ngày 14 đến ngày 28 – 8 – 1945.
Chiều 30 – 8, trước cuộc mít tinh lớn có hàng vạn quần chúng tham gia, vua
Bảo Đại tuyên bố thoái vị. Chế độ phong kiến Việt Nam hoàn toàn sụp đổ.
?
– Hãy cho biết hoàn cảnh lịch sử và diễn biến khởi nghĩa từng phần từ
tháng 3 đến giữa tháng 8 – 1945.
– Nêu hoàn cảnh lịch sử và diễn biến Tổng khởi nghĩa tháng Tám
-
năm 1945.
II – NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ ĐƯỢC THÀNH LẬP
(2-9-1945)
Ngày 25 – 8 – 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và
Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam từ Tân Trào về đến Hà Nội.
Theo đề nghị của Hồ Chí Minh, Uỷ ban Dân tộc giải phóng Việt Nam cải tổ
thành Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (28 – 8 – 1945).
Trong những ngày lịch sử này, Hồ Chí Minh soạn thảo bản Tuyên ngôn Độc lập,
chuẩn bị mọi công việc để Chính phủ lâm thời ra mắt quốc dân.
Ngày 2 – 9 – 1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), trước cuộc mít tinh
lớn của hàng vạn nhân dân Thủ đô và các vùng lân cận, Chủ tịch Hồ Chí Minh
thay mặt Chính phủ lâm thời đọc Tuyên ngôn Độc lập, trịnh trọng tuyên bố với
toàn thể quốc dân và thế giới : Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập.
Bản Tuyên ngôn nêu rõ : "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân
ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để xây dựng nên nước
Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỉ mà lập
nên chế độ dân chủ cộng hoà"(1).
Cuối bản Tuyên ngôn, Hồ Chí Minh thay mặt nhân dân Việt Nam khẳng định
ý chí sắt đá của nhân dân Việt Nam quyết giữ vững nền độc lập, tự do vừa giành
được : "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành
một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần
và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy"(2).
(1), (2), Hồ Chí Minh, Tuyển tập, Tập 1 (1919 – 1945), Sđd, tr. 701 – 702.
163 |
10_19_8 | with
Hình 50. Quảng trường Ba Đình (Hà Nội) ngày 2 - 9 - 1945
Ngày 2 – 9 – 1945 mãi mãi đi vào lịch sử Việt Nam, là một trong những ngày
hội lớn nhất, vẻ vang nhất của dân tộc.
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà đã ra đời như thế nào ? Nội dung
cơ bản của Tuyên ngôn Độc lập ngày 2 – 9 – 1945.
III – NGUYÊN NHÂN THẮNG LỢI, Ý NGHĨA LỊCH SỬ
VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA CÁCH MẠNG THÁNG TÁM
NĂM 1945
1. Nguyên nhân thắng lợi
164
– Nguyên nhân khách quan :
Chiến thắng của Đồng minh trong cuộc chiến tranh chống phát xít, đặc biệt
là chiến thắng phát xít Đức và quân phiệt Nhật của Hồng quân Liên Xô đã cổ
vũ tinh thần, củng cố niềm tin cho nhân dân ta trong sự nghiệp đấu tranh giải
phóng dân tộc, tạo thời cơ để nhân dân ta đứng lên Tổng khởi nghĩa.
– Nguyên nhân chủ quan :
Dân tộc ta vốn có truyền thống yêu nước nồng nàn, từng trải qua những cuộc
đấu tranh kiên cường, bất khuất cho độc lập, tự do. Vì vậy, khi Đảng Cộng sản |
10_19_9 | Đông Dương và Mặt trận Việt Minh phất cao cờ cứu nước thì toàn dân nhất tề
đứng lên cứu nước, cứu nhà, với tinh thần "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta".
Cách mạng tháng Tám do Đảng Cộng sản Đông Dương lãnh đạo, đứng đầu là
Hồ Chí Minh lãnh đạo, đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn dựa trên cơ
sở lí luận Mác – Lênin được vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh Việt Nam.
Để giành thắng lợi trong Cách mạng tháng Tám, Đảng ta đã có quá trình
chuẩn bị trong suốt 15 năm, qua các phong trào cách mạng 1930 – 1935,
1936 – 1939, đã đúc rút được những bài học kinh nghiệm qua những thành công
và thất bại, đặc biệt là trong quá trình xây dựng lực lượng chính trị, lực lượng
vũ trang, căn cứ địa thời kì vận động giải phóng dân tộc 1939 – 1945.
Trong những ngày khởi nghĩa, toàn Đảng, toàn dân nhất trí, đồng lòng, không
sợ hi sinh, gian khổ, quyết tâm giành độc lập tự do. Các cấp bộ Đảng và Việt Minh
từ Trung ương đến địa phương linh hoạt, sáng tạo chỉ đạo khởi nghĩa, chớp thời
cơ phát động quần chúng nổi dậy giành chính quyền.
2. Ý nghĩa lịch sử
Cách mạng tháng Tám mở ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử dân tộc ta, đã
phá tan xiềng xích nô lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm, ách thống trị của phát
xít Nhật gần 5 năm, lật nhào ngai vàng phong kiến ngự trị ngót chục thế kỉ ở
nước ta, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà – Nhà nước do nhân dân lao
động làm chủ.
-
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của
cách mạng Việt Nam, mở đầu kỉ nguyên mới của dân tộc : kỉ nguyên độc lập,
tự do ; kỉ nguyên nhân dân lao động nắm chính quyền, làm chủ đất nước, làm chủ
vận mệnh dân tộc ; kỉ nguyên giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng xã hội.
Với thắng lợi của Cách mạng tháng Tám, Đảng Cộng sản Đông Dương đã
lãnh đạo thắng lợi cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở một nước thuộc địa, trở
thành một Đảng cầm quyền, chuẩn bị những điều kiện tiên quyết cho những
thắng lợi tiếp theo.
Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám đã góp phần vào chiến thắng chủ nghĩa
phát xít trong Chiến tranh thế giới thứ hai, đã chọc thủng khâu yếu nhất trong
hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc, góp phần làm suy yếu chúng, cổ vũ
mạnh mẽ các dân tộc thuộc địa đấu tranh tự giải phóng, "có ảnh hưởng trực tiếp
và rất to lớn đến hai dân tộc bạn là Miên và Lào".
165 |
10_19_10 | 3. Bài học kinh nghiệm
Đảng vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào thực tiễn Việt Nam, nắm
bắt diễn biến tình hình thế giới và cách mạng trong nước để thay đổi chủ trương
cho phù hợp ; giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và dân
chủ, đề cao vấn đề dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu.
Đảng tập hợp, tổ chức đoàn kết lực lượng cách mạng trong một mặt trận dân
tộc thống nhất rộng rãi – Mặt trận Việt Minh, trên cơ sở liên minh công nông,
tạo nên sức mạnh toàn dân, phân hoá và cô lập cao độ kẻ thù rồi tiến lên đánh
bại chúng.
Trong chỉ đạo khởi nghĩa, Đảng linh hoạt kết hợp đấu tranh chính trị với đấu
tranh vũ trang, kết hợp chiến tranh du kích, đấu tranh chính trị và khởi nghĩa
từng phần, khởi nghĩa ở nông thôn và thành thị tiến tới Tổng khởi nghĩa.
Đảng luôn kết hợp giữa đấu tranh và xây dựng để ngày càng vững mạnh
về tổ chức, tư tưởng và chính trị, đủ năng lực và uy tín lãnh đạo cách mạng
thành công.
១
Nêu nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm
của Cách mạng tháng Tám năm 1945.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Chứng minh : Cách mạng tháng Tám năm 1945 thắng lợi là kết quả của
15 năm (1930 – 1945) chuẩn bị lực lượng và lãnh đạo đấu tranh của Đảng.
2. Trong Cách mạng tháng Tám năm 1945, Đảng ta đã vận dụng những bài
học kinh nghiệm gì từ phong trào cách mạng 1930 – 1931 và phong trào
dân chủ 1936 – 1939 ?
3. Trình bày các hình thức tổ chức mặt trận dân tộc thống nhất từ năm 1930
đến năm 1945. Nêu vai trò của từng mặt trận.
4. Tìm hiểu về cuộc khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 ở địa
phương em.
166 |
10_19_11 | | PHẦN ĐỌC THÊM
"
1. LỆNH KHỞI NGHĨA
(Quân lệnh số 1 của Uỷ ban khởi nghĩa)
Giờ tổng khởi nghĩa đã đánh !
Cơ hội có một cho quân dân Việt Nam vùng dậy giành lấy quyền độc lập của
nước nhà !
Mang nhiệm vụ lãnh đạo cuộc khởi nghĩa toàn quốc cho đến toàn thắng,
Uỷ ban khởi nghĩa đã thành lập.
Hỡi các tướng sĩ và đội viên Quân giải phóng Việt Nam !
Dưới mệnh lệnh của Uỷ ban khởi nghĩa, các bạn hãy tập trung lực lượng,
kíp đánh vào các đô thị và trong trận của quân địch ; đánh chẹn các đường
rút lui của chúng, tước võ khí của chúng ! Đạp qua muôn trùng trở lực, các
bạn hãy kiên quyết tiến !
Hỡi nhân dân toàn quốc !
Dưới mệnh lệnh của Uỷ ban khởi nghĩa, đồng bào hãy đem hết tâm lực ủng hộ
đạo Quân giải phóng, sung vào bộ đội, xông ra mặt trận đánh đuổi quân thù.
Chúng ta phải hành động cho nhanh với một tinh thần vô cùng quả cảm, vô
cùng thận trọng !
Tổ quốc đang đòi hỏi những hi sinh lớn lao của các bạn !
Cuộc thắng lợi hoàn toàn nhất định sẽ về ta !
Ngày 13 tháng 8 năm 1945, 11 giờ đêm
Uỷ ban khởi nghĩa"
(Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng _ Toàn tập, Tập 7,
NXB Chính trị quốc gia, H., 2000 tr. 421 – -422)
2. HIỆU TRIỆU CỦA TỔNG BỘ VIỆT MINH
"Hỡi quốc dân đồng bào !
Hỡi các đoàn thể cứu quốc !
Phát xít Nhật đã gục đầu hàng Anh, Mĩ, Nga, Tàu. Quân Đồng minh sắp tràn
vào Đông Dương. Giờ Tổng khởi nghĩa đã đánh ! Dân tộc ta đã đến lúc vùng
dậy cướp lại quyền độc lập của mình !
Trước cơ hội có một không hai ấy, toàn thể dân tộc ta phải đem hết lực lượng,
dùng hết can đảm, bao quanh đạo quân Giải phóng Việt Nam, tung xương
máu ra đánh đuổi giặc Nhật, đòi lấy tự do, hạnh phúc cho nhân dân
Ngày vinh quang ấy đương đòi hỏi những hi sinh quyết liệt, nhưng dũng cảm
phi thường của non nước. Thắng lợi nhất định về ta !
Ngày 14 tháng 8 năm 1945
Tổng bộ Việt Minh"
(Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng _ Toàn tập, Tập 7, Sđd, tr. 558)
167 |
10_20_1 | Chương]]]
168
Bai
20
VIỆT NAM
TỪ NĂM 1945 ĐẾN NĂM 1954
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà
Từ sau ngày 2 – 9 – 1945
đến trước ngày 19 – 12 – 1946
Trong hơn một năm đầu sau Cách mạng tháng Tám, cách mạng nước
ta đứng trước muôn vàn khó khăn thử thách, có giải quyết được thì
thành quả cách mạng mới được giữ vững và phát huy. Xây dựng chính
quyền cách mạng, phát huy thuận lợi, khắc phục khó khăn, đấu tranh
chống ngoại xâm, nội phản, bảo vệ chính quyền... là những nhiệm vụ
cấp bách của Đảng, Chính phủ và nhân dân ta.
I – TÌNH HÌNH NƯỚC TA
SAU CÁCH MẠNG THÁNG TÁM NĂM 1945
Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vừa ra đời đã phải đối mặt với nhiều khó
khăn thử thách. Quân đội các nước Đồng minh, dưới danh nghĩa giải giáp quân
đội Nhật Bản, lũ lượt kéo vào nước ta.
Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc, có gần 20 vạn quân Trung Hoa Dân quốc đóng ở
Hà Nội và hầu hết các tỉnh. Theo sau chúng là bọn tay chân từ các tổ chức phản
động như Việt Nam Quốc dân đảng (Việt Quốc), Việt Nam Cách mạng đồng
minh hội (Việt Cách). Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam, quân Anh tạo điều kiện cho
thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta. Lợi dụng tình hình đó, bọn phản động
trong nước ngóc đầu dậy làm tay sai cho Pháp, chống phá cách mạng.
Ngoài ra, trên cả nước ta còn 6 vạn quân Nhật Bản chờ giải giáp. Một bộ
phận quân Nhật Bản theo lệnh Anh đánh lại lực lượng vũ trang của fa, tạo
điều kiện cho quân Pháp mở rộng phạm vi chiếm đóng ở Nam Bộ.
Trong khi đó, chính quyền cách mạng vừa mới thành lập, chưa được củng cố ;
lực lượng vũ trang còn non yếu. Nền kinh tế nông nghiệp nước ta vốn đã lạc hậu, |
10_20_2 | lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề. Hậu quả nạn đói cuối năm 1944 – đầu năm 1945
chưa được khắc phục. Nạn lụt lớn, làm vỡ đê ở 9 tỉnh Bắc Bộ, rồi hạn hán kéo
dài làm cho một nửa diện tích không canh tác được. Nhiều xí nghiệp còn nằm trong
tay tư bản Pháp. Các cơ sở công nghiệp của ta chưa phục hồi được sản xuất.
Hàng hoá khan hiếm, giá cả tăng vọt, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn.
Ngân sách Nhà nước lúc này hầu như trống rỗng, kho bạc Nhà nước chỉ có
hơn 1,2 triệu đồng. Chính quyền cách mạng lại chưa quản lí được Ngân hàng
Đông Dương. Trong lúc đó, quân Trung Hoa Dân quốc tung ra thị trường các loại
tiền của Trung Quốc đã mất giá, làm cho nền tài chính nước ta thêm rối loạn.
“Tàn dư” văn hoá lạc hậu do chế độ thực dân phong kiến để lại hết sức nặng nề,
hơn 90% dân số không biết chữ.
Nước ta đứng trước tình thế "ngàn cân treo sợi tóc". Tuy nhiên, chúng ta có
nhiều thuận lợi cơ bản. Nhân dân ta đã giành quyền làm chủ, bước đầu được
hưởng tự do, nên rất phấn khởi, gắn bó với chế độ. Cách mạng nước ta có Đảng
dầy dạn kinh nghiệm, có lãnh tụ sáng suốt là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo.
Trên thế giới, hệ thống xã hội chủ nghĩa đang hình thành, phong trào giải phóng
dân tộc dâng cao ở nhiều nước thuộc địa và phụ thuộc, phong trào đấu tranh vì
hoà bình, dân chủ phát triển ở nhiều nước tư bản.
?
Tình hình nước ta sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 có những
thuận lợi và khó khăn gì ?
II – BƯỚC ĐẦU XÂY DỰNG VÀ CỦNG CỐ CHÍNH QUYỀN
CÁCH MẠNG
-
1. Về chính trị – quân sự
Chỉ một tuần sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời, ngày 8 – 9 – 1945,
Chính phủ lâm thời công bố lệnh tổng tuyển cử trong cả nước.
Ngày 6 – 1 – 1946, vượt qua mọi hành động chống phá của kẻ thù, hơn 90%
cử tri trong cả nước đi bỏ phiếu, bầu được 333 đại biểu Bắc Trung – Nam vào
Quốc hội, tượng trưng cho khối đoàn kết toàn dân tộc. Đây là lần đầu tiên trong
lịch sử dân tộc, nhân dân ta được thực hiện quyền công dân, bầu ra những đại
biểu chân chính của mình vào cơ quan quyền lực cao nhất của Nhà nước.
Sau cuộc bầu cử Quốc hội, tại các địa phương thuộc Bắc Bộ và Trung Bộ,
nhân dân tiến hành bầu cử hội đồng nhân dân các cấp (tỉnh, xã) theo nguyên
tắc phổ thông đầu phiếu. Uỷ ban hành chính các cấp được thành lập.
169 |
10_20_3 | 170
Hình 51. Nhân dân bỏ phiếu bầu đại biểu Quốc hội khoá I (6 – 1 – 1946)
Ngày 2 – 3 – 1946, tại phiên họp đầu tiên ở Hà Nội, Quốc hội xác nhận
thành tích của Chính phủ lâm thời trong những ngày đầu xây dựng chế độ mới,
thông qua danh sách Chính phủ liên hiệp kháng chiến do Chủ tịch Hồ Chí Minh
đứng đầu và lập ra Ban dự thảo Hiến pháp. Bản Hiến pháp đầu tiên của nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà được Quốc hội thông qua ngày 9 – 11 – 1946.
ẾN QUỐC
Hình 52. Quốc hội khoá I họp phiên đầu tiên tại Nhà hát Lớn Hà Nội (2 – 3 – 1946) |
10_20_4 | Lực lượng vũ trang được xây dựng. Việt Nam Giải phóng quân (thành lập
tháng 5 – 1945), được chấn chỉnh và đổi thành Vệ quốc đoàn (9 – 1945).
Ngày 22 – 5 – 1946, Vệ quốc đoàn được đổi thành Quân đội Quốc gia Việt Nam.
Cuối năm 1945, lực lượng dân quân, tự vệ tăng lên hàng chục vạn người, có mặt
ở hầu hết các thôn xã, đường phố, xí nghiệp trên khắp cả nước.
2. Về kinh tế – tài chính
Một trong những nhiệm vụ cấp bách sau Cách mạng tháng Tám là giải quyết
nạn đói và khó khăn về tài chính.
Để giải quyết nạn đói, Chính phủ lâm thời đề ra nhiều biện pháp cấp thời như
tổ chức quyên góp, điều hoà thóc gạo giữa các địa phương trong nước, nghiêm
trị những người đầu cơ tích trữ gạo. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi nhân dân cả
nước "Nhường cơm sẻ áo".
Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trên khắp cả nước, nhân
dân ta lập "Hũ gạo cứu đói", tổ chức "Ngày đồng tâm", không dùng gạo, ngô,
khoai, sắn... để nấu rượu.
OCTH TRA
MỘT NẮM KHI ĐÓI
BANG MOT GOI
Hình 53. Nhân dân Nam Bộ quyên góp gạo cứu giúp đồng bào bị đói
ở Bắc Bộ (10 – 1945)
Để giải quyết căn bản nạn đói, tăng gia sản xuất là biện pháp hàng đầu và có
tính chất lâu dài. Chủ tịch Hồ Chí Minh kêu gọi "Tăng gia sản xuất ! Tăng gia
sản xuất ngay ! Tăng gia sản xuất nữa !".
171 |
10_20_5 | Hưởng ứng lời kêu gọi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, một phong trào thi đua
tăng gia sản xuất dấy lên khắp cả nước, dưới các khẩu hiệu "Tấc đất tấc vàng",
"Không một tấc đất bỏ hoang"...
Chính quyền cách mạng ra lệnh bãi bỏ thuế thân và các thứ thuế vô lí khác
của chế độ cũ, giảm tô 25%, giảm thuế ruộng đất 20%, tịch thu ruộng đất của
đế quốc và Việt gian chia cho dân cày nghèo, chia lại ruộng đất công một cách
công bằng, dân chủ.
Nhờ những biện pháp tích cực trên đây, sản xuất nông nghiệp nhanh chóng
được phục hồi, nạn đói bị đẩy lùi một bước.
Để khắc phục tình trạng trống rỗng về ngân sách, Chính phủ kêu gọi tinh thần
tự nguyện đóng góp của nhân dân cả nước. Hưởng ứng cuộc vận động xây dựng
"Quỹ độc lập", phong trào "Tuần lễ vàng" do Chính phủ phát động, nhân dân ta
hăng hái đóng góp tiền của, vàng bạc ủng hộ nền độc lập của Tổ quốc.
Chỉ trong thời gian ngắn, nhân dân đã tự nguyện đóng góp 370 kilôgam
vàng, 20 triệu đồng vào "Quỹ độc lập", 40 triệu đồng vào "Quỹ đảm phụ
quốc phòng.
Ngày 23 – 11 – 1946, Quốc hội quyết định cho lưu hành tiền Việt Nam trong
cả nước thay cho tiền Đông Dương của Pháp trước đây.
-
3. Về văn hoá – giáo dục
172
-
-
Xoá nạn mù chữ, nâng cao trình độ văn hoá cho nhân dân cũng là một trong
những nhiệm vụ cấp bách cần giải quyết. Ngày 8 – 9 – 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
kí sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ cơ quan chuyên trách việc chống
"giặc dốt" – kêu gọi nhân dân cả nước tham gia phong trào xoá nạn mù chữ.
Trong vòng một năm, từ ngày 8 – 9 – 1945 đến ngày 8 9 – 1946, trên toàn
quốc đã tổ chức gần 76 000 lớp học, xoá mù chữ cho hơn 2,5 triệu người. Trường
học các cấp phổ thông và đại học sớm được khai giảng nhằm đào tạo những công
dân và cán bộ trung thành, có năng lực phụng sự Tổ quốc. Nội dung và phương
pháp giáo dục bước đầu được xác định theo tinh thần dân tộc – dân chủ.
Hãy nêu những kết quả chủ yếu đạt được trong năm đầu xây dựng
chính quyền cách mạng, giải quyết khó khăn của đất nước sau Cách mạng
tháng Tám năm 1945. |
10_20_6 | III – ĐẤU TRANH CHỐNG NGOẠI XÂM VÀ NỘI PHẢN,
BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG
1. Kháng chiến chống thực dân Pháp trở lại xâm lược ở Nam Bộ
Với dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa, ngay sau khi Nhật Bản đầu hàng
Đồng minh, Chính phủ Đờ Gôn đã quyết định thành lập một đạo quân dưới
quyền chỉ huy của tướng Lơcơléc, đồng thời cử Đô đốc Đácgiăngliơ làm Cao uỷ
Pháp ở Đông Dương.
Ngày 2 – 9 – 1945, trong khi nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn tổ chức mít tinh
chào mừng "Ngày Độc lập", thực dân Pháp đã xả súng vào những người dự mít tinh,
làm 47 người chết và nhiều người bị thương.
Ngày 6 – 9 – 1945, quân Anh, với danh nghĩa Đồng minh giải giáp quân Nhật,
đến Sài Gòn, kéo theo sau là một đại đội quân Pháp. Vừa đến Sài Gòn, quân
Anh yêu cầu ta giải tán lực lượng vũ trang, thả hết tù binh Pháp do Nhật giam
giữ sau ngày 9 – 3 – 1945, trang bị vũ khí cho số tù binh này và cho quân Pháp
chiếm đóng những nơi quan trọng trong thành phố.
Đêm 22 rạng sáng 23 – 9 – 1945, được sự giúp đỡ của quân Anh, thực dân
Pháp cho quân đánh úp trụ sở Uỷ ban nhân dân Nam Bộ và cơ quan tự vệ thành
phố Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ hai.
Quân dân Sài Gòn – Chợ Lớn cùng với quân dân Nam Bộ đã nhất tề đứng lên
chiến đấu chống quân xâm lược. Các chiến sĩ lực lượng vũ trang của ta đột nhập
sân bay Tân Sơn Nhất, đốt cháy tàu Pháp vừa cập bến Sài Gòn, đánh phá kho tàng,
phá nhà giam.
-
Phối hợp với các lực lượng vũ trang đánh địch, nhân dân Sài Gòn – Chợ Lớn
đấu tranh triệt phá nguồn tiếp tế của địch, từ chối hợp tác với chúng, dựng
chướng ngại vật và chiến luỹ trên đường phố. Các công sở, trường học, nhà máy,
hãng buôn đóng cửa, chợ không họp, tàu xe ngừng chạy, điện nước bị cắt. Quân
Pháp trong thành phố bị bao vây và luôn bị tấn công.
Ngày 5 – 10 – 1945, tướng Locoléc đến Sài Gòn cùng với nhiều đơn vị bộ binh
và xe bọc thép mới từ Pháp sang tăng viện. Với lực lượng được tăng cường,
lại có sự hỗ trợ của quân Anh và Nhật, quân Pháp phá vòng vây Sài Gòn –
Chợ Lớn, rồi mở rộng đánh chiếm Nam Bộ và Nam Trung Bộ.
Trung ương Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh huy động lực lượng
cả nước chi viện cho Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến. Hàng vạn thanh
niên hăng hái gia nhập quân đội, sung vào các đoàn quân "Nam tiến", sát cánh
cùng với nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ chiến đấu. Những cán bộ và chiến
sĩ hăng hái, có ít nhiều kinh nghiệm chiến đấu, những vũ khí, trang bị tốt nhất
173 |
10_20_7 | của ta lúc đó đều dành cho đoàn quân "Nam tiến". Nhân dân Bắc Bộ và Bắc
Trung Bộ còn thường xuyên tổ chức quyên góp tiền, gạo, áo quần, thuốc men...
gửi ủng hộ nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ kháng chiến.
Hình 54. Đoàn quân "Nam tiến" lên đường vào Nam chiến đấu
2. Đấu tranh với quân Trung Hoa Dân quốc và bọn phản cách mạng
ở miền Bắc
174
Trong hoàn cảnh phải đối phó với dã tâm xâm lược trở lại của thực dân Pháp
ở Nam Bộ, sự uy hiếp của quân Trung Hoa Dân quốc ở ngoài Bắc hòng lật đổ
chính quyền cách mạng, Đảng, Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh vạch rõ : tránh
trường hợp một mình đối phó với nhiều lực lượng kẻ thù cùng một lúc ; từ đó
chủ trương tạm thời hoà hoãn, tránh xung đột với quân Trung Hoa Dân quốc.
Với danh nghĩa quân Đồng minh vào giải giáp quân Nhật, quân Trung Hoa
Dân quốc không dám ra mặt công khai, mà dùng bọn tay sai Việt Quốc,
Việt Cách phá hoại cách mạng nước ta từ bên trong. Dựa vào quân
Trung Hoa Dân quốc, bọn tay sai đòi ta cải tổ Chính phủ, dành cho chúng
một số ghế trong Quốc hội không qua bầu cử, đòi những người cộng sản ra
khỏi Chính phủ.
Nhằm hạn chế sự phá hoại của quân Trung Hoa Dân quốc và tay sai, tại phiên
họp đầu tiên (2 – 3 – 1946), Quốc hội khoá I đồng ý nhường cho các đảng Việt
Quốc, Việt Cách 70 ghế trong Quốc hội không qua bầu cử, 4 ghế bộ trưởng trong
Chính phủ liên hiệp chính thức, Nguyễn Hải Thần (lãnh tụ Việt Cách) giữ chức
Phó Chủ tịch nước ; đồng thời nhân nhượng cho quân Trung Hoa Dân quốc một |
10_20_8 | số quyền lợi về kinh tế, như cung cấp một phần lương thực, thực phẩm, phương
tiện giao thông vận tải, cho phép dùng tiền Trung Quốc trên thị trường.
Để giảm bớt sức ép công kích của kẻ thù, tránh những hiểu lầm trong nước
và ngoài nước có thể trở ngại đến tiền đồ, sự nghiệp giải phóng dân tộc, đồng
thời đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, Đảng Cộng sản Đông Dương tuyên bố "tự
giải tán" (11 – 11 – 1945), nhưng thật ra là tạm thời rút vào hoạt động "bí mật",
tiếp tục lãnh đạo đất nước, lãnh đạo chính quyền cách mạng.
Tháng 7 – 1946, với sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản, giới trí thức yêu nước
thành lập Đảng Xã hội Việt Nam.
Đối với các tổ chức phản cách mạng, tay sai của Trung Hoa Dân quốc
(Việt Quốc, Việt Cách), chính quyền cách mạng dựa vào quần chúng đã kiên
quyết vạch trần âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại của chúng. Những kẻ
phá hoại có đủ bằng chứng thì bị trừng trị theo pháp luật. Chính phủ còn ban
hành một số sắc lệnh nhằm trấn áp bọn phản cách mạng.
Những biện pháp trên đã hạn chế các hoạt động chống phá của quân
Trung Hoa Dân quốc và tay sai, làm thất bại âm mưu lật đổ chính quyền
cách mạng của chúng.
3. Hoà hoãn với Pháp nhằm đẩy quân Trung Hoa Dân quốc ra khỏi
nước ta
Sau khi chiếm đóng các đô thị ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp
đề ra kế hoạch tiến quân ra Bắc nhằm thôn tính cả nước ta.
Để thực hiện ý đồ trên, thực dân Pháp điều đình với Chính phủ Trung Hoa
Dân quốc và kí Hiệp ước Hoa – Pháp (28 – 2 – 1946). Theo đó, Trung Hoa Dân
quốc được Pháp trả lại các tô giới và nhượng địa của Pháp trên đất Trung Quốc
và được vận chuyển hàng hoá qua cảng Hải Phòng vào Vân Nam không phải
đóng thuế. Đổi lại, Pháp được đưa quân ra Bắc thay quân Trung Hoa Dân quốc
làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật Bản.
Hiệp ước Hoa – Pháp đã đặt nhân dân ta trước sự lựa chọn một trong hai con
đường : hoặc cầm súng chiến đấu chống thực dân Pháp, không cho chúng đổ bộ
lên miền Bắc ; hoặc hoà hoãn, nhân nhượng Pháp để tránh tình trạng phải đối
phó cùng một lúc với nhiều kẻ thù.
Ngày 3 – 3 – 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp, do Hồ Chí Minh
chủ trì, đã chọn giải pháp "hoà để tiến".
-
Chiều 6 – 3 – 1946, tại Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ
Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, kí với G. Xanhtơni – đại diện Chính phủ Pháp –
bản Hiệp định Sơ bộ.
175 |
10_20_9 | 176
Nội dung cơ bản của Hiệp định :
– Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà là một quốc
gia tự do, có chính phủ riêng, nghị viện riêng, quân đội riêng, tài chính riêng, và
là thành viên của Liên bang Đông Dương, nằm trong khối Liên hiệp Pháp.
– Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thoả thuận cho 15 000 quân Pháp ra
Bắc thay quân Trung Hoa Dân quốc làm nhiệm vụ giải giáp quân đội Nhật Bản,
số quân này sẽ đóng ở những địa điểm quy định và rút dần trong thời hạn 5 năm.
_
Hai bên ngừng mọi cuộc xung đột ở phía Nam và giữ nguyên quân đội của
mình tại vị trí cũ, tạo không khí thuận lợi đi đến cuộc đàm phán chính thức bàn
các vấn đề về ngoại giao của Việt Nam, chế độ tương lai của Đông Dương,
quyền lợi kinh tế và văn hoá của người Pháp ở Việt Nam.
Kí Hiệp định Sơ bộ, hoà hoãn với Pháp, ta đã tránh được cuộc chiến đấu
bất lợi vì phải chống lại nhiều kẻ thù cùng một lúc, đẩy được 20 vạn quân
Trung Hoa Dân quốc cùng bọn tay sai ra khỏi nước ta, có thêm thời gian hoà bình
để củng cố chính quyền cách mạng, chuẩn bị lực lượng mọi mặt cho cuộc
kháng chiến lâu dài chống thực dân Pháp.
Sau khi kí Hiệp định Sơ bộ, thực dân Pháp vẫn tiếp tục gây xung đột vũ trang
ở Nam Bộ, lập Chính phủ Nam Kì tự trị, âm mưu tách Nam Bộ ra khỏi Việt Nam.
Do ta đấu tranh kiên quyết, cuộc đàm phán chính thức giữa hai chính phủ
Việt Nam và Pháp đã được tổ chức tại Phôngtennoblô (Pháp) từ ngày 6 – 7 – 1946.
Cuộc đàm phán thất bại vì phía Pháp ngoan cố không chịu công nhận độc lập và
thống nhất của nước ta. Trong lúc đó, tại Đông Dương, quân Pháp tăng cường
hoạt động khiêu khích. Quan hệ Việt – Pháp ngày càng căng thẳng, có nguy cơ
nổ ra chiến tranh.
Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh, bấy giờ đang ở thăm nước Pháp
với tư cách thượng khách, đã kí với Mutê – đại diện của Chính phủ Pháp – bản
Tạm ước ngày 14 – 9 – 1946, nhân nhượng Pháp một số quyền lợi kinh tế – văn
hoá ở Việt Nam. Bản Tạm ước đã tạo điều kiện cho ta kéo dài thời gian hoà hoãn
để xây dựng, củng cố lực lượng, chuẩn bị bước vào cuộc kháng chiến toàn quốc
khó tránh khỏi chống thực dân Pháp.
?
-
– Cuộc đấu tranh của quân và dân ta với quân Trung Hoa Dân quốc
và bọn phản cách mạng đã diễn ra như thế nào ở phía Bắc sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945 ?
-
– Hiệp định Sơ bộ Việt – Pháp ngày 6 3 1946 đã được kí kết trong
hoàn cảnh nào ? Nêu nội dung và ý nghĩa của Hiệp định. |
10_21_1 | CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Những khó khăn của cách mạng nước ta sau Cách mạng tháng Tám
năm 1945 đã được Đảng và Chính phủ cách mạng giải quyết như thế nào ?
Nêu kết quả và ý nghĩa.
2. Đảng và Chính phủ cách mạng đã thực hiện chủ trương, sách lược như thế nào
đối với Pháp trong thời gian trước ngày 6 – 3 – 1946 và từ ngày 6 – 3 – 1946 ?
3. Lập niên biểu những sự kiện về xây dựng chính quyền, đấu tranh chống thù trong
và giặc ngoài, bảo vệ chính quyền cách mạng trong năm đầu sau Cách mạng
tháng Tám (1945 – 1946).
Bài
21
Những năm đầu của cuộc kháng chiến
toàn quốc chống thực dân pháp (1946 – 1950)
Do hành động phá hoại Hiệp định Sơ bộ (6 – 3 – 1946) và Tạm ước
(14 – 9 – 1946) nhằm đẩy nhanh tới chiến tranh của thực dân Pháp, ta
đã chủ động phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân
Pháp (1946 – 1954). Với đường lối kháng chiến đúng đắn, từ năm 1946
đến năm 1950, ta đã xây dựng lực lượng về mọi mặt, chuẩn bị cho cuộc
chiến đấu lâu dài và bước đầu giành thắng lợi quan trọng trong các
chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947 và Biên giới thu – đông năm 1950.
I - CUỘC KHÁNG CHIẾN TOÀN QUỐC
CHỐNG THỰC DÂN PHÁP BÙNG NỔ
1. Âm mưu và hành động chiến tranh của Pháp
Chính phủ Pháp không thành thật trong việc kí Hiệp định Sơ bộ 6 – 3 – 1946
và Tạm ước 14 – 9 – 1946 với Việt Nam, nên kí xong lại tìm cách phá hoại, đẩy
mạnh việc chuẩn bị xâm lược nước ta một lần nữa.
Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực dân Pháp tiến đánh các vùng tự do của ta.
177 |
10_21_2 | Ở Bắc Bộ và Trung Bộ, hạ tuần tháng 11 – 1946, thực dân Pháp khiêu khích,
tiến công ta ở Hải Phòng và Lạng Sơn. Tháng 12 – 1946, chúng chiếm đóng trái
phép ở Đà Nẵng, Hải Dương, đưa thêm viện binh đến Hải Phòng.
Ở Hà Nội, tình hình nghiêm trọng hơn. Trong các ngày 15 và 16 – 12, quân
Pháp bắn súng, ném lựu đạn ở nhiều nơi : đốt Nhà Thông tin ở phố Tràng Tiền,
chiếm đóng cơ quan Bộ Tài chính và Bộ Giao thông công chính. Chúng còn cho
xe phá các công sự của ta ở phố Lò Đúc, gây ra những vụ tàn sát đẫm máu ở
phố Hàng Bún, phố Yên Ninh, đầu cầu Long Biên, khu Cửa Đông... Trắng trợn
hơn, trong các ngày 18 và 19 – 12 – 1946, tướng Moóclie gửi tối hậu thư đòi ta
phá bỏ mọi công sự và chướng ngại trên các đường phố, giải tán lực lượng tự vệ
chiến đấu, để quân Pháp làm nhiệm vụ giữ trật tự ở Hà Nội. Nếu yêu cầu đó
không được chấp nhận thì chậm nhất là vào sáng 20 – 12 – 1946, quân Pháp sẽ
chuyển sang hành động !
2. Đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng
Tình thế khẩn cấp đã buộc Đảng, Chính phủ ta phải có quyết định kịp thời.
Ngày 12 – 12 – 1946, Ban Thường vụ Trung ương Đảng ra chỉ thị Toàn dân
kháng chiến.
Ngày 18 và 19 – 12 – 1946, Hội nghị bất thường mở rộng Ban Thường vụ
Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương họp tại Vạn Phúc (Hà Đông) dưới sự
chủ toạ của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã quyết định phát động cả nước kháng
chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
Tối 19
-
12 – 1946, thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến.
Lời kêu gọi có đoạn :
Chúng ta muốn hoà bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta
càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp
nước ta lần nữa !
Không ! Chúng ta thà hi sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất
định không chịu làm nô lệ.
Hỡi đồng bào !
Chúng ta phải đứng lên !
Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, người trẻ, không chia tôn giáo, đảng
phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp
để cứu Tổ quốc...
178 |
10_21_3 | Hội đồ lao toàn quốc.
Cho ta mun hoa binh, chy
to than whiny hy
chig ta cg
There on Fap co lantor;
vũ công quyết tâm cướp
mive ta lan mia!
Phố chỉ là thà hy sinh
tal ca, chi what dil khiy
chine mal nilor, will al
this chine lam no le.
Nơi đồ bào.
Chig to four dung len
Bat by Man ong
lan
dank there zan Fap de
cinto quoe.
Adi co soony zung sung.
Ai có grom guing gliom.
Khg B gerom the gang
Cuve my gay gie. Ai
ra suc chang
Going fac
Ный лезет
Fáp cellenébe.
Hor auch en bich situ
we, zan germ.
zo cine mive za stein. ta
fai by sich ten zot man
vig, de zi zin dal
Flas kly
Zin fai gon
the thing is what dink ve zan
time ta!
E
BTC:
V. N. dilap
ham
khó chiến thế lợi
Hà nội ngày 12-12
Hình 55. Bút tích Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh
Ngày 21 – 12 – 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư đến nhân dân Việt Nam,
nhân dân Pháp và nhân dân các nước Đồng minh. Trong thư, Người khẳng định
niềm tin vào thắng lợi của cuộc kháng chiến.
Bức thư nêu rõ :
"Cuộc kháng chiến rất lâu dài và đau khổ. Dù phải hi sinh bao nhiêu và thời gian
kháng chiến đến bao giờ, chúng ta cũng nhất định chiến đấu đến cùng, đến
bao giờ nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất. Chúng ta 20 triệu
chống lại 10 vạn thực dân. Cuộc thắng lợi của chúng ta rất được bảo đảm", (1)
Từ tháng 3 – 1947, Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Đông Dương Trường Chinh viết
một loạt bài báo giải thích cụ thể về đường lối kháng chiến, đến tháng 9 – 1947
in thành tác phẩm Kháng chiến nhất định thắng lợi.
Chỉ thị Toàn dân kháng chiến, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và tác phẩm
Kháng chiến nhất định thắng lợi là những văn kiện lịch sử quan trọng về đường
lối kháng chiến, nêu rõ tính chất, mục đích, nội dung và phương châm
kháng chiến chống thực dân Pháp, đó là : toàn dân, toàn diện, trường kì, tự lực
cánh sinh và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế.
Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ ngày
19 – 12 – 1946 trong hoàn cảnh như thế nào ?
- Phân tích nội dung cơ bản của đường lối kháng chiến chống Pháp
của Đảng ta.
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, NXB Chính trị quốc gia, H., 1995, tr. 484.
179 |
10_21_4 | II – CUỘC CHIẾN ĐẤU Ở CÁC ĐÔ THỊ PHÍA BẮC VĨ TUYẾN 16
1. Cuộc chiến đấu ở thủ đô Hà Nội
Trưa ngày 19 – 12 – 1946, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương đã chỉ
thị cho các mặt trận trong cả nước "Chỉ trong vòng 24 giờ là cùng, giặc Pháp sẽ
nổ súng. Tất cả hãy sẵn sàng !".
-
Khoảng 20 giờ ngày 19 12 – 1946, công nhân nhà máy điện Yên Phụ
(Hà Nội) phá máy, cả thành phố tắt điện, cuộc chiến đấu bắt đầu. Vệ quốc quân,
công an xung phong, tự vệ chiến đấu đồng loạt tiến công các vị trí quân Pháp.
Nhân dân đã khiêng bàn ghế, giường tủ, kiện hàng, hạ cây cối... làm thành những
chướng ngại vật hoặc chiến luỹ chiến đấu. Cụ già, em nhỏ và những người
không tham gia phục vụ chiến đấu, nhanh chóng tản cư ra các vùng ngoại thành.
Từ ngày 19 – 12 đến ngày 29 – 12 – 1946, những cuộc chiến đấu ác liệt đã
diễn ra ở nội thành. Hai bên giành nhau từng khu nhà, góc phố, như ở Bắc Bộ
phủ, Bưu điện Bờ Hồ, đầu cầu Long Biên, sân bay Bạch Mai, ga Hàng Cỏ, ở các
phố Khâm Thiên, Hàng Đậu, Hàng Bông, Hàng Da, Hàng Trống... Quân dân ta
đã đánh gần 40 trận, loại khỏi vòng chiến đấu hàng trăm tên địch.
180
Hình 56. Quyết tử quân Hà Nội ôm bom ba càng đón đánh xe tăng Pháp |
10_21_5 | Từ ngày 30 – 12 – 1946, địch phản công, ta phải thu hẹp phạm vi chiến đấu,
chuyển lực lượng về Liên khu I (thuộc quận Ba Đình và phía Bắc quận Hoàn
Kiếm ngày nay). Trong quá trình chiến đấu, Trung đoàn Thủ đô chính thức được
thành lập. Những cuộc chiến đấu ác liệt tiếp tục diễn ra ở khu chợ Đồng Xuân,
ở rạp hát Olympia (nay là rạp Hồng Hà).
Ngày 17 – 2 – 1947, Trung đoàn Thủ đô thực hiện cuộc rút quân vượt khỏi vòng
vây của địch, ra căn cứ hậu phương an toàn. Trong 60 ngày đêm chiến đấu,
quân và dân Hà Nội đã chiến đấu gần 200 trận, diệt và làm bị thương hàng
nghìn tên địch, phá huỷ hàng chục xe cơ giới, 5 máy bay..., hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ giam chân địch trong thành phố một thời gian dài để hậu
phương kịp thời huy động lực lượng kháng chiến, di chuyển kho tàng, công
xưởng về chiến khu, bảo vệ Trung ương Đảng, Chính phủ về căn cứ lãnh đạo
kháng chiến.
2. Cuộc chiến đấu ở các đô thị khác
Cùng với thủ đô Hà Nội, quân dân ta tại các đô thị khác ở phía Bắc vĩ tuyến 16
đứng lên chiến đấu, mở đầu kháng chiến toàn quốc chống Pháp.
Ở thành phố Nam Định, quân dân ta bao vây địch từ ngày 19 – 12 – 1946
đến ngày 12 – 3 – 1947.
Ở thành phố Vinh, ngay từ đầu cuộc chiến đấu, quân dân ta đã buộc địch
đầu hàng.
Ở thành phố Huế, trong 50 ngày đêm, quân dân ta bao vây, tiến công địch.
Ở thành phố Đà Nẵng, quân dân ta tiến công, bao vây, cô lập sân bay và đánh
lui nhiều đợt tiến công phá vây của địch.
Cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16 đã tạo điều kiện cho cả nước
chuyển vào cuộc kháng chiến lâu dài.
Phối hợp với cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ tuyến 16, quân dân ta ở
các tỉnh phía Nam (Nam Bộ và Nam Trung Bộ) đẩy mạnh chiến tranh du kích,
chặn đánh địch trên các tuyến giao thông, phá cơ sở hậu cần của chúng.
Trình bày tóm tắt diễn biến cuộc chiến đấu ở các đô thị phía Bắc vĩ
tuyến 16 mở đầu kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp. Ý nghĩa
của những cuộc chiến đấu đó.
181 |
10_21_6 | III – TÍCH CỰC CHUẨN BỊ
CHO CUỘC KHÁNG CHIẾN LÂU DÀI
1. Công tác di chuyển, thực hiện "Tiêu thổ kháng chiến"
Sau khi rút khỏi Hà Nội, các cơ quan Đảng, Chính phủ, Mặt trận, các đoàn
thể chuyển lên căn cứ địa Việt Bắc.
Trong vòng 3 tháng đầu của cuộc kháng chiến, ta đã vận chuyển hàng vạn
tấn máy móc và dụng cụ sản xuất, hàng vạn tấn nguyên vật liệu về chiến
khu để tiếp tục sản xuất phục vụ nhu cầu cuộc kháng chiến. Riêng ở Bắc Bộ,
gần 2/3 máy móc được chuyển lên căn cứ Việt Bắc.
Nhân dân các đô thị nhanh chóng tản cư ra các vùng hậu phương và tiến hành
phá hoại nhà cửa, đường sá, cầu cống để không cho địch sử dụng, thực hiện khẩu
hiệu "Vườn không nhà trống", "Tản cư cũng là kháng chiến", "Phá hoại để
kháng chiến" v.V...
Hình 57. Lập cản trên sông ở miền Tây Nam Bộ
2. Xây dựng lực lượng mọi mặt cho cuộc kháng chiến lâu dài
182
Đảng, Chính phủ lãnh đạo và tổ chức nhân dân cả nước xây dựng lực lượng
kháng chiến về mọi mặt. |
10_21_7 | Về chính trị, Chính phủ quyết định chia cả nước thành 14 khu hành chính.
Các Uỷ ban hành chính chuyển thành Uỷ ban kháng chiến hành chính để thực
hiện nhiệm vụ kháng chiến và kiến quốc. Mặt trận dân tộc thống nhất được mở
rộng, thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Hội Liên Việt).
Về kinh tế, Chính phủ đề ra các chính sách nhằm duy trì và phát triển sản xuất,
trước hết là sản xuất lương thực. Sản lượng lúa năm 1947 đạt 2 189 000 tấn
(năm 1946 đạt dưới 2 triệu tấn). Nha Tiếp tế được thành lập, có nhiệm vụ thu
mua, dự trữ và phân phối, đảm bảo nhu cầu ăn, mặc cho nhân dân và quân đội.
Về quân sự, Chính phủ quy định mọi người dân từ 18 đến 45 tuổi được tuyển
chọn tham gia các lực lượng chiến đấu. Lực lượng vũ trang các cấp không ngừng
tăng lên về số lượng và trang bị.
Về văn hoá, phong trào bình dân học vụ tiếp tục được duy trì và phát triển.
Trường phổ thông các cấp được xây dựng. Việc chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân
được chú trọng.
?
Từ sau khi rút khỏi đô thị đến trước chiến dịch Việt Bắc thu – đông
năm 1947, quân dân ta đã làm gì để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến
lâu dài ?
IV – CHIẾN DỊCH VIỆT BẮC THU – ĐÔNG NĂM 1947
1. Thực dân Pháp tiến công căn cứ địa kháng chiến Việt Bắc
Tháng 3 – 1947, Chính phủ Ramađiê cử Bolae sang làm Cao uỷ Pháp ở Đông
Dương, thay Đácgiăngliơ. Bôlae vạch ra kế hoạch tiến công Việt Bắc, nhằm
đánh phá căn cứ địa, tiêu diệt cơ quan đầu não kháng chiến và quân chủ lực, triệt
đường liên lạc quốc tế của ta. Chúng âm mưu giành thắng lợi quân sự, tiến tới
thành lập chính phủ bù nhìn, nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
Thực dân Pháp huy động 12 000 quân và hầu hết máy bay ở Đông Dương do
tướng Valuy chỉ huy, tiến công Việt Bắc từ ngày 7 – 10 – 1947.
Rạng sáng 7 − 10 – 1947, binh đoàn quân dù do Sôvanhắc chỉ huy đổ quân
xuống chiếm thị xã Bắc Kạn, thị trấn Chợ Mới... Cùng ngày, binh đoàn bộ binh
do Bôphơrê chỉ huy từ Lạng Sơn theo Đường số 4 đánh lên Cao Bằng rồi vòng
xuống Bắc Kạn, theo Đường số 3, bao vây Việt Bắc ở phía đông và phía bắc.
Ngày 9
10, một binh đoàn hỗn hợp bộ binh và lính thuỷ đánh bộ do
Cômmuynan chỉ huy từ Hà Nội ngược sông Hồng và sông Lô lên Tuyên
Quang, đến Chiêm Hoá, đánh vào Đài Thị, bao vây Việt Bắc ở phía tây.
183 |
10_21_8 | 2. Quân dân ta chiến đấu chống cuộc tiến công Việt Bắc của địch
Khi địch vừa tiến công Việt Bắc, Đảng ta đã có chỉ thị "Phải phá tan cuộc tiến
công mùa đông của giặc Pháp".
Chỉ thị nêu rõ : Giam chân địch tại mấy căn cứ chúng vừa chiếm, bao vây
những căn cứ đó... Chặt đứt giao thông liên lạc giữa các cứ điểm của địch,
không cho chúng tiếp ứng và tiếp tế... Phải giữ gìn chủ lực, nhưng đồng thời
cũng phải nhằm những chỗ yếu của địch mà đánh những trận vang dội,
những trận tiêu diệt....
Trên khắp các mặt trận, quân dân ta đã anh dũng chiến đấu, từng bước đẩy
lùi cuộc tiến công của địch.
Ở Bắc Kạn, quân ta đã chủ động bao vây và tiến công địch ở Chợ Mới, Chợ
Đồn, Chợ Rã, Ngân Sơn, Bạch Thông…, buộc Pháp phải rút khỏi Chợ Đồn, Chợ
Rã cuối tháng 11 – 1947.
184
105°
“ HÀ GIANG
106°
107°
- sông Gâm
Chợ Rã
Ngân
Sơn
Đài Thi
Bản Thi
CAO BẰNG.
TRUNG
Bông QUỐC
Lau
Chiêm Hoá,
Cho
22°
Đồn
Bạch Thông
BẮC KẠN
Thất Khê
TUYÊN
QUANG
Khe Lau
Chợ Chùa
Chợ Mới
LẠNG SƠN
Đại Từ
* Kì Cùng
THÁI NGUYÊN
sông Thương
21°
PHÚ THỌ
sống Đà
Đoan Hùng
Nơi quân Pháp nhảy dù
VĨNH
YÊN
HÀ NỘI
HÒA BÌNH
Đường tiến công của quân Pháp
Quân ta tấn công, chặn đánh địch
== Quân Pháp rút lui, tháo chạy
Đường giao thông và số đường
Biên giới quốc gia ngày nay
S. Lục Nam
BẮC GIANG
HẢI DƯƠNG,
“HẢI PHÒNG
PHỦ L
NAM ĐỊNH
VINH
BẮC BỘ
NINH BÌNH
-
Hình 58. Lược đồ chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947 |
10_21_9 | Ở mặt trận hướng đông, quân dân ta phục kích chặn đánh địch trên Đường số 4,
tiêu biểu là trận phục kích ở đèo Bông Lau (30 – 10), đánh trúng đoàn xe cơ giới
của địch, thu nhiều vũ khí, quân trang quân dụng của chúng. Đường số 4 trở
thành "con đường chết", địch ở vào thế bị động.
Ở mặt trận hướng tây, quân ta chặn đánh địch nhiều trận trên sông Lô. Một
đoàn tàu chiến địch gồm 5 chiếc, có máy bay yểm trợ, đi từ Tuyên Quang đến
Đoan Hùng thì rơi vào trận địa phục kích, bị quân ta bắn cháy hai tàu, bắn hư
hỏng hai tàu khác. Ngày 10 – 11, đoàn tàu từ Chiêm Hoá về Tuyên Quang lại bị
quân ta phục kích ở Khe Lau (ngã ba sông Gâm – sông Lô), hai tàu chiến, một
ca nô bị bắn cháy, hàng trăm tên địch bị tiêu diệt.
Như vậy, hai gọng kìm Đông và Tây của địch đã bị bẻ gãy, không khép
lại được.
Cuộc chiến đấu hơn hai tháng giữa ta và địch đã kết thúc bằng cuộc rút chạy
của đại bộ phận quân Pháp khỏi Việt Bắc ngày 19 – 12 – 1947. Cơ quan đầu
não kháng chiến được bảo toàn. Bộ đội chủ lực của ta đã trưởng thành.
Quân dân ta loại khỏi vòng chiến đấu hơn 6 000 địch, bắn rơi 16 máy bay,
bắn chìm 11 tàu chiến, ca nô, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh.
Tuy vẫn còn chiếm đóng một số vị trí trên Đường số 3 và Đường số 4 nhưng
quân Pháp không thực hiện được ý đồ "đánh nhanh, thắng nhanh".
Với chiến thắng Việt Bắc, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp
xâm lược chuyển sang giai đoạn mới.
?
Phối hợp với cuộc chiến đấu ở Việt Bắc, quân dân ta trên các chiến trường
toàn quốc hoạt động mạnh, đánh kiềm chế không cho địch tập trung binh
lục vào chiến trường chính.
Quân dân Hà Nội liên tiếp mở những cuộc tập kích vào các đồn bốt địch ở
ngoại thành, như Gia Lâm, Thạch Bích, Chèm, Văn Điển, Vĩnh Tuy, Cầu Giấy,
Cầu Đuống...
Đầu tháng 12 – 1947, quân dân Sài Gòn mở hàng loạt cuộc tập kích vào các
đồn bốt, kho tàng của địch ở Thị Nghè, Gia Định, Gò Vấp, Bến Cát, Bà Quẹo,
Bà Điểm, Phú Lâm, Phú Thọ.
Ở nhiều địa phương khác cũng có những cuộc tập kích vào các đồn bốt,
kho tàng của địch, như Sơn La, Sơn Tây, Hà Đông, Bắc Ninh, Hải Phòng,
Hải Dương, Quảng Nam, Đà Nẵng, Khánh Hoà, Bình Thuận, Vĩnh Long...
và các tỉnh Tây Nguyên.
Chiến dịch Việt Bắc thu – đông năm 1947 đã diễn ra như thế nào ?
Kết quả và ý nghĩa của chiến dịch.
185 |
10_21_10 | V - ĐẨY MẠNH KHÁNG CHIẾN TOÀN DÂN, TOÀN DIỆN
1. Âm mưu của Pháp sau thất bại ở Việt Bắc
Sau thất bại của quân Pháp ở Việt Bắc, phong trào đấu tranh của nhân dân
Pháp đòi giảm bớt ngân sách quân sự, đòi chấm dứt chiến tranh xâm lược ở
Đông Dương ngày càng lên cao. Pháp nợ Mĩ gần 6 tỉ USD, trong khi vẫn phải
tiêu phí cho cuộc chiến tranh Đông Dương mỗi ngày 100 triệu phrăng.
Trước tình hình đó, Pháp buộc phải thay đổi chiến lược chiến tranh, từ "đánh
nhanh, thắng nhanh" chuyển sang "đánh lâu dài", thực hiện chính sách "dùng
người Việt đánh người Việt, lấy chiến tranh nuôi chiến tranh".
Chính phủ Pháp cử tướng Bledô sang thay tướng Valuy làm Tổng chỉ huy
quân Pháp ở Đông Dương. Chúng ra sức củng cố nguỵ quyền, phát triển nguy
quân, mở rộng các vùng tề, tăng cường những cuộc hành quân càn quét, ra sức
bắt người, cướp của để cung cấp cho chiến tranh.
Để chống lại Chính phủ kháng chiến của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà,
năm 1949 thực dân Pháp đưa Bảo Đại về nước thành lập chính phủ bù nhìn
fay sai. Tháng 7 – 1949, Bảo Đại đứng ra lập chính phủ, tự xưng là Quốc trưởng
kiêm Thủ tướng.
2. Cuộc kháng chiến của ta sau thắng lợi ở Việt Bắc
186
Thực hiện phương châm chiến lược "đánh lâu dài" phá âm mưu mới của địch,
Đảng và Chính phủ ta chủ trương tăng cường sức mạnh và hiệu lực của chính
quyền dân chủ nhân dân từ trung ương đến cơ sở, tăng cường lực lượng vũ trang,
đẩy mạnh cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện.
Trên mặt trận chính trị : Tháng 6 – 1948, Chủ tịch Hồ Chí Minh phát động
phong trào thi đua yêu nước toàn quốc. Phong trào lôi cuốn mọi lực lượng xã
hội tham gia thực hiện nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc.
Đầu năm 1949, Chính phủ quyết định tổ chức bầu cử Hội đồng nhân dân và
Uỷ ban kháng chiến hành chính các cấp. Chính quyền dân chủ nhân dân từng
bước được kiện toàn, phát huy vai trò tổ chức, động viên toàn dân tham gia
kháng chiến, kiến quốc.
Tháng 6 – 1949, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt quyết định tiến tới
thống nhất hai tổ chức. Khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết giai cấp ngày càng củng
cố và mở rộng, phá âm mưu chia rẽ "dùng người Việt đánh người Việt" của địch.
Trên mặt trận quân sự : Đảng và Chính phủ chủ trương động viên nhân dân
thực hiện vũ trang toàn dân, phát triển chiến tranh du kích, tiến hành du kích chiến
là chính, vận động chiến là phụ, rồi từ du kích chiến tiến dần lên vận động chiến. |
10_21_11 | Trên mặt trận kinh tế : Chính phủ ra các sắc lệnh giảm tô 25%, giảm tức,
hoãn nợ, xoá nợ, chia lại ruộng đất công, tạm cấp ruộng đất vắng chủ, ruộng đất
lấy từ tay đế quốc và bọn phản động. Tính đến cuối năm 1950, chính quyền cách
mạng đã tạm cấp được 253 863 hécta ruộng đất cho gần 500 000 nông dân.
Nông dân phấn khởi, hăng hái sản xuất.
Công nghiệp và thủ công nghiệp phát triển theo quy mô nhỏ và phân tán, chú
trọng công nghiệp địa phương và công nghiệp quốc phòng, đáp ứng nhu cầu
thiết yếu của đời sống và chiến đấu. Trong những năm 1948 – 1949, ta đã sản
xuất được súng cối 60 mm và 120 mm, súng SKZ...
Trên mặt trận văn hoá, giáo dục : Năm 1948, tại Hội nghị Văn hoá toàn quốc,
Tổng Bí thư Trường Chinh đọc báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá
Việt Nam, nêu rõ nền văn hoá mới cách mạng Việt Nam được xây dựng theo
phương châm : Dân tộc – Khoa học – Đại chúng.
Phong trào "Bình dân học vụ" và giáo dục phổ thông các cấp được duy trì và
phát triển. Tháng 7 – 1950, Chính phủ đề ra chủ trương cải cách giáo dục phổ
thông nhằm xoá bỏ những tàn tích của nền giáo dục thực dân phong kiến, hướng
giáo dục phục vụ nhiệm vụ kháng chiến, kiến quốc và đặt nền móng cho nền
giáo dục dân tộc, dân chủ Việt Nam (thay hệ thống giáo dục cũ bằng hệ thống
giáo dục mới 9 năm). Hệ thống các trường đại học và trung học chuyên nghiệp
cũng bắt đầu được xây dựng.
Cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện của ta được đẩy mạnh như thế
nào sau chiến thắng Việt Bắc thu – đông năm 1947 ?
VI – HOÀN CẢNH LỊCH SỬ MỚI VÀ CHIẾN DỊCH BIÊN GIỚI
THU – ĐÔNG NĂM 1950
1. Hoàn cảnh lịch sử mới của cuộc kháng chiến
Bước sang năm 1950, cuộc kháng chiến của ta có thêm nhiều thuận lợi nhưng
cũng phải đối mặt với những thách thức mới.
Ngày 1
-
10 – 1949, cách mạng Trung Quốc thành công, nước Cộng hoà
Nhân dân Trung Hoa ra đời.
Ngày 14 – 1 – 1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố sẵn sàng đặt quan hệ
ngoại giao với các nước. Ngày 18 – 1 – 1950, Chính phủ Cộng hoà Nhân dân
Trung Hoa, ngày 30 – 1 1950 Chính phủ Liên Xô và trong vòng một tháng
sau, các nước trong phe XHCN lần lượt công nhận và đặt quan hệ ngoại giao với
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
187 |
10_21_12 | Đây là thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam. Cuộc kháng chiến của nhân
dân ta được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân thế giới.
Về phía địch, ngày 13 – 5 – 1949, có sự đồng ý của Mĩ, Chính phủ Pháp đề ra
kế hoạch Rơve.
Với kế hoạch Rơve, Mĩ từng bước can thiệp sâu và "dính líu trực tiếp" vào
cuộc chiến tranh Đông Dương.
-
Ngày 7 – 2 – 1950, Mĩ công nhận Chính phủ Bảo Đại. Ngày 8 5 - 1950,
Mĩ đồng ý viện trợ kinh tế và quân sự cho Pháp nhằm từng bước nắm quyền điều
khiển chiến tranh ở Đông Dương.
Thực hiện kế hoạch Rơve, từ tháng 6 – 1949, Pháp đưa nhiều vũ khí mới vào
Việt Nam, tập trung quân ở Nam Bộ, Trung Bộ, tăng cường hệ thống phòng ngự
trên Đường số 4, thiết lập "Hành lang Đông – Tây" (Hải Phòng – Hà Nội – Hoà
Bình – Sơn La). Trên cơ sở đó, Pháp chuẩn bị một kế hoạch quy mô lớn tiến công
Việt Bắc lần thứ hai, mong giành thắng lợi, nhanh chóng kết thúc chiến tranh.
2. Chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950
Pháp thực hiện kế hoạch Rơve đã làm cho khu vực tự do của ta bị thu hẹp,
căn cứ địa Việt Bắc bị bao vây... Để khắc phục khó khăn đó, đưa cuộc kháng
chiến phát triển lên bước mới, tháng 6 – 1950, Đảng và Chính phủ quyết định
mở chiến dịch Biên giới nhằm tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch ;
khai thông đường sang Trung Quốc và thế giới ; mở rộng và củng cố căn cứ địa
Việt Bắc, đồng thời tạo những thuận lợi mới thúc đẩy cuộc kháng chiến tiến lên.
188
Hình 59. Bác Hồ thăm một đơn vị tham gia chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950 |
10_21_13 | Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp ra mặt trận để cùng Bộ Chỉ huy chỉ đạo và
động viên bộ đội chiến đấu.
Sáng 16 – 9 – 1950, các đơn vị quân đội ta nổ súng mở đầu chiến dịch bằng
trận đánh vào vị trí Đông Khê. Mất Đông Khê, quân địch ở Thất Khê lâm vào
tình thế bị uy hiếp, Cao Bằng bị cô lập. Trước nguy cơ bị tiêu diệt, quân Pháp
buộc phải rút khỏi Cao Bằng theo Đường số 4. Để yểm trợ cho cuộc rút quân
này, Pháp huy động quân từ Thất Khê tiến lên chiếm lại Đông Khê và đón cánh
quân từ Cao Bằng rút về ; đồng thời cho quân đánh lên Thái Nguyên để thu hút
bớt chủ lực của ta. Đoán được ý định của địch, quân ta chủ động mai phục, chặn
đánh địch nhiều nơi trên Đường số 4 khiến cho hai cánh quân này không gặp
được nhau. Hai binh đoàn Lơ Pagiơ và Sáctông bị tiêu diệt. Đến lượt Thất Khê
bị uy hiếp, quân Pháp buộc phải rút về Na Sầm (8 – 10) ; ngày 13 – 10, rút khỏi
Na Sầm về Lạng Sơn. Trong khi đó, cuộc hành quân của địch lên Thái Nguyên
cũng bị quân ta chặn đánh.
Quân Pháp trở nên hoảng loạn, phải rút chạy, Đường số 4 được giải phóng
ngày 22 – 10 – 1950.
HÀ GIANG
sông Lê
106°
TRUNG QUỐC
Quân ta tấn công
Quân địch rút chạy
Quân ta chặn đánh, truy kích địch
Quân địch tiến đánh
Hành lang Đông - Tây của địch
Đường giao thông và số đường
Biên giới quốc gia
(Sông Gâm
BẮC KẠN
TUYÊN
QUANG
CAO BẰNG
Đông
Khê
Thất Khê
Na Sam
LẠNG SƠN
THÁI NGUYÊN
sông Thương
107°
S. Kì Cùng
Ts. Lục Nam An Châu
Đình Lập
PHÚ THỜ
VĨNH
YÊN
BẮC GIANG
sống Đà
HÀ NỘI
đảo
Cái Bầu
80
-21
HẢI DƯƠNG,
“HÒA BÌNH
HỒN
HẢI PHÒNG,
3 Hòn Gai,
PHỦ L
đảo Cát Bà
NAM ĐỊNH
NINH BÌNH
VỊNH BẮC BỘ
Hình 60. Lược đồ chiến dịch Biên giới thu - đông năm 1950
189 |
10_21_14 | Phối hợp với mặt trận Biên giới, quân ta hoạt động mạnh ở tả ngạn sông
Hồng, Tây Bắc, Đường số 6, số 12, buộc địch phải rút khỏi thị xã Hoà Bình
(4 – 11 – 1950). Phong trào du kích chiến tranh phát triển mạnh ở Bình – Trị – Thiên,
Liên khu V và Nam Bộ.
Chiến dịch Biên giới kết thúc, ta đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 8 000 tên
địch, giải phóng tuyến biên giới Việt – Trung từ Cao Bằng đến Đình Lập với
35 vạn dân ; chọc thủng "Hành lang Đông – Tây" của Pháp. Thế bao vây của
địch cả trong và ngoài đối với căn cứ địa Việt Bắc bị phá vỡ. Kế hoạch Rơve bị
phá sản.
Với chiến thắng Biên giới, con đường liên lạc của ta với các nước XHCN
được khai thông ; quân đội ta đã trưởng thành, giành được thế chủ động chiến
lược trên chiến trường chính (Bắc Bộ), mở ra bước phát triển mới của cuộc
kháng chiến.
?
Chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950 của ta được mở ra trong hoàn
cảnh như thế nào ? Nêu diễn biến, kết quả và ý nghĩa của chiến dịch.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
1. Phân tích tính chất chính nghĩa và tính nhân dân của đường lối kháng chiến
chống thực dân Pháp của Đảng.
2. Lập bảng thống kê các sự kiện lịch sử lớn của cuộc kháng chiến toàn quốc
chống thực dân Pháp từ khi bùng nổ đến chiến dịch Biên giới thu - đông
năm 1950.
190 |
10_22_1 | Bài
22
Bước phát triển của cuộc kháng chiến toàn quốc chống
thực dân Pháp
(1951-1953)
Bước sang giai đoạn từ năm 1951 đến năm 1953, cuộc chiến tranh xâm
lược của thực dân Pháp, có sự giúp đỡ của đế quốc Mĩ, được đẩy mạnh ;
lực lượng kháng chiến của ta trưởng thành mọi mặt, quân dân ta giành
nhiều thắng lợi to lớn và toàn diện.
I – THỰC DÂN PHÁP TIẾP TỤC ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH
XÂM LƯỢC ĐÔNG DƯƠNG
1. Mĩ can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh xâm lược Đông Dương
Từ tháng 5 – 1949, Mĩ từng bước can thiệp sâu vào cuộc chiến tranh xâm
lược Đông Dương.
Ngày 23
12 – 1950, Mĩ kí với Pháp Hiệp định phòng thủ chung Đông
Dương. Đây là hiệp định viện trợ quân sự, kinh tế – tài chính của Mĩ cho Pháp
và tay sai, qua đó Mĩ từng bước thay chân Pháp ở Đông Dương.
Tháng 9 – 1951, Mĩ kí với Bảo Đại Hiệp ước hợp tác kinh tế Việt – Mĩ nhằm
trực tiếp ràng buộc Chính phủ Bảo Đại vào Mĩ.
Sau những hiệp định này, viện trợ của Mĩ chiếm tỉ lệ ngày càng cao trong
ngân sách chiến tranh của Pháp ở Đông Dương : Năm 1950 là 52 tỉ phrăng,
chiếm 19% ngân sách ; năm 1954 là 555 tỉ phrăng, chiếm 73% ngân sách. Các
phái đoàn viện trợ kinh tế, cố vấn quân sự... của Mĩ đến Việt Nam ngày càng
nhiều. Các trung tâm và các trường huấn luyện của Mĩ bắt đầu tuyển chọn,
đưa người Việt Nam sang học ở Mĩ.
2. Kế hoạch Đờ Lát đơ Tátxinhi
Ngày 6 – 12 – 1950, Chính phủ Pháp cử Đại tướng Đờ Lát đơ Tátxinhi làm
Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh, kiêm Cao uỷ Pháp ở Đông Dương. Dựa vào
viện trợ Mĩ, lại có quyền lực tập trung trong tay, Đờ Lát đơ Tátxinhi đề ra kế
hoạch mới nhằm kết thúc nhanh chiến tranh.
191 |
10_22_2 | 192
Kế hoạch gồm bốn điểm chính :
-
- Gấp rút tập trung quân Âu Phi nhằm xây dựng một lực lượng cơ động
chiến lược mạnh, đồng thời ra sức phát triển nguỵ quân để xây dựng "quân
đội quốc gia".
– Xây dựng phòng tuyến công sự bằng xi măng cốt sắt (boong ke), thành lập
"vành đai trắng" bao quanh trung du và đồng bằng Bắc Bộ nhằm ngăn chặn
chủ lực của ta và kiểm soát ta đưa nhân, tài, vật lực ra vùng tự do.
- Tiến hành "chiến tranh tổng lực", bình định vùng tạm chiếm, vơ vét sức người ;
sức của của nhân dân ta để tăng cường lực lượng của chúng.
- Đánh phá hậu phương của ta bằng biệt kích, thổ phỉ, gián điệp, kết hợp
oanh tạc bằng phi pháo với chiến tranh tâm lí, chiến tranh kinh tế.
Kế hoạch Đờ Lát đơ Tátxinhi đã đưa cuộc chiến tranh xâm lược của Pháp ở
Đông Dương lên quy mô lớn, làm cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta, nhất
là ở vùng sau lưng địch, trở nên khó khăn, phức tạp.
Trình bày âm mưu và hành động mới của Pháp – Mĩ từ sau thất bại
ở chiến dịch Biên giới thu – đông năm 1950.
II – ĐẠI HỘI ĐẠI BIỂU LẦN THỨ II CỦA ĐẢNG
-
(2 - 1951)
Từ ngày 11 đến ngày 19 2 – 1951, Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng
Cộng sản Đông Dương họp ở xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hoá (Tuyên Quang).
Dự Đại hội có 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn
76 vạn đảng viên.
Đại hội thông qua hai bản báo cáo quan trọng :
"Báo cáo Chính trị" do Chủ tịch Hồ Chí Minh trình bày đã tổng kết kinh
nghiệm của Đảng qua các chặng đường lịch sử đấu tranh oanh liệt từ ngày ra
đời, khẳng định đường lối kháng chiến chống Pháp của Đảng.
Báo cáo "Bàn về cách mạng Việt Nam" do Tổng Bí thư Trường Chinh trình bày
nêu rõ nhiệm vụ cơ bản của cách mạng Việt Nam là đánh đuổi bọn
đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất hoàn toàn cho dân tộc, xoá bỏ
những tàn tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng,
phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. |
10_22_3 | 80 CING TYCK
Hình 61. Đại hội đại biểu lần thứ II của Đảng (2 – 1951)
Đại hội quyết định tách Đảng Cộng sản Đông Dương để thành lập ở
Việt Nam, Lào, Campuchia mỗi nước một Đảng Mác – Lênin riêng, có cương
lĩnh phù hợp với đặc điểm phát triển của từng dân tộc. Ở Việt Nam, Đại hội
quyết định đưa Đảng ra hoạt động công khai, với tên mới là Đảng Lao động Việt
Nam, tiếp tục đảm nhiệm sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cuộc kháng chiến của nhân
dân Việt Nam.
Đại hội thông qua Tuyên ngôn, Chính cương, Điều lệ mới ; quyết định xuất
bản báo Nhân dân, cơ quan ngôn luận của Trung ương Đảng.
Đại hội bầu ra Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị. Hồ Chí Minh
được bầu làm Chủ tịch Đảng, Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư
của Đảng.
Đại hội đại biểu lần thứ II là mốc đánh dấu bước phát triển mới trong quá
trình lãnh đạo và trưởng thành của Đảng ta, là "Đại hội kháng chiến thắng lợi".
Nêu những quyết định chính và ý nghĩa lịch sử của Đại hội đại biểu
lần thứ II của Đảng (2 – 1951).
193 |
10_22_4 | III – HẬU PHƯƠNG KHÁNG CHIẾN PHÁT TRIỂN MỌI MẶT
1. Về chính trị
Từ ngày 3 đến ngày 7 – 3 – 1951, đã diễn ra Đại hội toàn quốc thống nhất
Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt thành một mặt trận duy nhất, lấy tên là
Mặt trận Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Mặt trận Liên Việt), do Tôn Đức Thắng
làm Chủ tịch, Hồ Chí Minh làm Chủ tịch danh dự.
ĐẠI HỘI TOÀN QUỐC
THỐNG NHẤT
VIET - MINH
LIÊN - VIỆT
194
Hình 62. Các đại biểu dự Đại hội thống nhất Mặt trận Việt Minh – Liên Việt (1951)
Ngày 11 – 3 – 1951, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Khơme Itxarắc, Mặt trận
Lào Itxala họp Hội nghị đại biểu để thành lập Liên minh nhân dân Việt – Miên –
Lào. Liên minh thành lập đã tăng cường hơn nữa tình đoàn kết giữa nhân dân ba
nước trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là thực dân Pháp và can thiệp Mĩ.
Phong trào thi đua yêu nước ngày càng ăn sâu, lan rộng trong các ngành, các
giới, làm nảy nở nhiều đơn vị, cá nhân ưu tú. Ngày 1 – 5 – 1952, Đại hội Chiến
sĩ thi đua và Cán bộ gương mẫu toàn quốc lần thứ nhất đã tổng kết, biểu dương
thành tích của phong trào thi đua yêu nước và bầu chọn 7 anh hùng : Cù Chính
Lan, La Văn Cầu, Nguyễn Quốc Trị, Nguyễn Thị Chiên, Ngô Gia Khảm, Trần
Đại Nghĩa, Hoàng Hanh. |
10_22_5 | 2. Về kinh tế
Năm 1952, Chính phủ mở cuộc vận động lao động sản xuất và thực hành tiết
kiệm. Cuộc vận động đã lôi cuốn mọi ngành, mọi giới tham gia. Năm 1953,
vùng tự do và vùng căn cứ du kích từ Liên khu IV trở ra đã sản xuất được
2 757 000 tấn thóc và hơn 650 000 tấn hoa màu.
Sản xuất thủ công nghiệp và công nghiệp về cơ bản đáp ứng được những nhu
cầu về công cụ sản xuất và những mặt hàng thiết yếu của đời sống. Năm 1953,
ta sản xuất được 3 500 tấn vũ khí đạn dược, cung cấp tạm đủ cho bộ đội về thuốc
men, quân trang, quân dụng.
Đi đôi với đẩy mạnh sản xuất, Chính phủ đề ra những chính sách nhằm chấn
chỉnh chế độ thuế khoá, xây dựng nền tài chính, ngân hàng và thương nghiệp.
Để bồi dưỡng sức dân, nhất là nông dân, đầu năm 1953 Đảng và Chính phủ
quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô và cải cách ruộng đất.
-
Từ tháng 4 1953 đến tháng 7 – 1954, ta thực hiện 5 đợt giảm tô và 1 đợt
cải cách ruộng đất ở 53 xã thuộc vùng tự do Thái Nguyên, Thanh Hoá.
Đến cuối năm 1953, từ Liên khu IV trở ra, chính quyền cách mạng đã tạm
cấp cho nông dân 184 000 hécta ruộng đất.
3. Về văn hoá, giáo dục, y tế
Ta tiếp tục cuộc cải cách giáo dục (từ năm 1950) thực hiện theo ba phương
châm : phục vụ kháng chiến, phục vụ dân sinh, phục vụ sản xuất, gắn nhà trường
với đời sống xã hội.
Tính đến năm 1952, ở các liên khu Việt Bắc, III, N và V đã có trên 1 triệu học
sinh phổ thông. Phong trào Bình dân học vụ đạt kết quả tốt, đến năm 1952
có khoảng 14 triệu người thoát nạn mù chữ ; công tác bổ túc văn hoá, đến
tháng 9 – 1953, đã có 10 450 lớp học với 335 946 học viên.
Văn nghệ sĩ hăng hái thâm nhập mọi mặt của đời sống, chiến đấu và sản xuất,
thực hiện lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh "Kháng chiến hoá văn hoá và văn
hoá hoá kháng chiến".
Công tác vận động vệ sinh phòng bệnh, thực hiện đời sống mới, bài trừ mê
tín dị đoan ngày càng mang tính chất quần chúng rộng lớn.
Công tác chăm lo sức khoẻ cho nhân dân được coi trọng. Bệnh viện, bệnh xá,
phòng y tế, trạm cứu thương được xây dựng nhiều nơi.
?
Từ sau chiến thắng Biên giới thu – đông năm 1950 đến trước đông
xuân 1953 – 1954, hậu phương kháng chiến đã phát triển như thế nào
trên các mặt chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, y tế ?
195 |
10_22_6 | IV – NHỮNG CHIẾN DỊCH TIẾN CÔNG
GIỮ VỮNG QUYỀN CHỦ ĐỘNG TRÊN CHIẾN TRƯỜNG
1. Các chiến dịch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ (cuối năm 1950
đến giữa năm 1951)
Để giữ vững quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ và
đẩy địch lùi sâu vào thế bị động đối phó, trong thời gian từ cuối năm 1950 đến
giữa năm 1951, quân ta liên tục mở 3 chiến dịch : chiến dịch Trần Hưng Đạo
(chiến dịch Trung du), chiến dịch Hoàng Hoa Thám (chiến dịch Đường số 18)
và chiến dịch Quang Trung (chiến dịch Hà – Nam – Ninh).
Đây là những chiến dịch tiến công quy mô lớn của quân ta đánh vào phòng
tuyến kiên cố của địch ở trung du và đồng bằng, đã loại khỏi vòng chiến đấu
nhiều sinh lực địch, phá vỡ từng mảng kế hoạch bình định của chúng. Tuy
nhiên, do nhiều nguyên nhân và do lựa chọn địa bàn 3 chiến dịch chưa phù
hợp với khả năng tác chiến của bộ đội ta, mà có lợi cho địch, nên kết quả
chiến đấu bị hạn chế.
Với phương châm chiến lược "Đánh chắc thắng" và phương hướng chiến
lược "Tránh chỗ mạnh, đánh chỗ yếu", ta chủ trương mở những chiến dịch tiếp
theo ở rừng núi.
2. Chiến dịch Hoà Bình đông – xuân 1951 – 1952
196
Hoà Bình là cửa ngõ nối liền vùng tự do với vùng đồng bằng Bắc Bộ qua
Chợ Bến, là mạch máu giao thông giữa Việt Bắc với Liên khu IV.
Ngày 9 – 11 – 1951, Đờ Lát đơ Tátxinhi sử dụng một lực lượng lớn quân
cơ động tiến đánh Chợ Bến, đến ngày 14 – 11 đánh chiếm khu vực Hoà Bình.
Nhằm tiêu diệt sinh lực địch ở Hoà Bình, phá kế hoạch bình định của chúng
ở đồng bằng Bắc Bộ và đẩy mạnh phong trào chiến tranh du kích của ta, từ giữa
tháng 11 – 1951 đến cuối tháng 2 – 1952, ta mở chiến dịch phản công và tiến
công địch ở Hoà Bình.
Chiến dịch Hoà Bình kết thúc sau hơn 3 tháng. Ta giải phóng hoàn toàn khu
vực Hoà Bình – Sông Đà rộng 2 000 km với 15 vạn dân. Các căn cứ du kích
của ta được mở rộng, nối liền từ Bắc Giang xuống Bắc Ninh tới sát Đường số 5,
qua Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình. |
10_22_7 | -
3. Chiến dịch Tây Bắc thu – đông năm 1952
Tây Bắc là vùng chiến lược quan trọng, bị địch chiếm đóng, từ đó chúng
uy hiếp căn cứ Việt Bắc của ta và che chở cho vùng Thượng Lào của chúng.
Từ ngày 14 – 10 đến ngày 10 – 12 – 1952, ta mở chiến dịch Tây Bắc. Cuộc chiến
đấu diễn ra ác liệt ở Mộc Châu, Thuận Châu, Lai Châu, Sơn La, Yên Bái.
Kết thúc chiến dịch, ta đã giải phóng 28 000 km2 với 25 vạn dân, gồm toàn
tỉnh Nghĩa Lộ, gần hết tỉnh Sơn La (trừ Nà Sản), bốn huyện ở Lai Châu, hai
huyện ở Yên Bái, phá một phần âm mưu lập "xứ Thái tự trị" của địch.
4. Chiến dịch Thượng Lào xuân hè năm 1953
Thượng Lào là vùng chiến lược quan trọng, là hậu phương an toàn của địch.
Sau thất bại ở Tây Bắc (Việt Nam), địch tăng cường phòng thủ ở đây.
Đầu năm 1953, Trung ương Đảng và Chính phủ ta cùng Chính phủ kháng chiến
Lào và Mặt trận Itxala thoả thuận mở chiến dịch Thượng Lào, nhằm tiêu diệt
sinh lực địch, giải phóng đất đai, đẩy mạnh cuộc kháng chiến của nhân dân Lào.
Chiến dịch diễn ra từ ngày 8 4 đến ngày 18 – 5 – 1953. Liên quân Việt –
Lào đã giải phóng toàn bộ tỉnh Sầm Nưa, một phần tỉnh Xiêng Khoảng và tỉnh
Phongxalì với trên 30 vạn dân.
Phối hợp với chiến trường chính Bắc Bộ, từ năm 1951 đến năm 1953, ở các
chiến trường Trung Bộ và Nam Bộ, quân dân ta đã tận dụng các hình thức chiến
tranh du kích, tiêu diệt, tiêu hao nhiều sinh lực địch, phá huỷ nhiều tổ chức
tê nguy và nhiều cơ sở kinh tế của chúng.
Chứng minh thế chủ động đánh địch trên chiến trường chính Bắc Bộ
của quân ta vẫn được giữ vững sau chiến thắng Biên giới thu - đông
năm 1950 đến trước đông – xuân 1953 – 1954.
CÂU HỎI VÀ BÀI TẬP
-
1. Tại sao nói sau chiến thắng Biên giới thu
chiến của ta bước sang giai đoạn phát triển ?
đông năm 1950 cuộc kháng
2. Lập niên biểu những thắng lợi tiêu biểu của quân dân ta trên các mặt trận
quân sự, chính trị - ngoại giao, kinh tế tài chính trong kháng chiến
chống thực dân Pháp từ sau thu – đông năm 1950 đến trước đông – xuân
-
1953
-
1954.
197 |
10_23_1 | Bài
cuộc kháng chiến toàn quốc
23
chống thực dân pháp kết thúc (1953 – 1954)
-
-
Bước vào đông – xuân 1953 – 1954, Pháp Mĩ âm mưu giành một
thắng lợi quân sự quyết định nhằm "kết thúc chiến tranh trong danh dự" ;
quân ta mở cuộc Tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954 với
đỉnh cao là chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Chiến thắng Điện Biên
Phủ đã buộc thực dân Pháp kí Hiệp định Giơnevơ năm 1954 về chấm
dứt chiến tranh, lập lại hoà bình ở Đông Dương.
I – ÂM MƯU MỚI CỦA PHÁP – MĨ Ở ĐÔNG DƯƠNG :
KẾ HOẠCH NAVA
Trải qua 8 năm kháng chiến và kiến quốc, lực lượng kháng chiến của nhân
dân ta lớn mạnh đáng kể.
Tướng Nava nhận xét : "Việt Minh là một quốc gia rõ rệt. Họ có chính quyền,
ảnh hưởng của họ lan cả vào vùng kiểm soát của quân đội viễn chinh. Tại đó
họ tuyển được người, thu được thuế, thực hiện được các chính sách, mua
được các thứ cần thiết cho chiến tranh. Từ năm 1945 đến nay, họ chỉ có một
Chính phủ Hồ Chí Minh, chỉ có một tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp, trong
khi nước Pháp đã 19 lần thay đổi chính phủ và 7 lần thay đổi chỉ huy..."(),
Trong khi đó, phía Pháp bị thiệt hại ngày càng nặng nề ; đến năm 1953, bị loại
khỏi vòng chiến đấu hơn 39 vạn quân và tiêu tốn hơn 2.000 tỉ phrăng.
Vùng chiếm đóng bị thu hẹp. Quân Pháp trên chiến trường ngày càng đi vào thế
phòng ngự, bị động.
Trước tình thế bị sa lầy và thất bại của Pháp, Mĩ can thiệp sâu vào cuộc
chiến tranh Đông Dương, ép Pháp phải kéo dài và mở rộng chiến tranh, tích cực
chuẩn bị thay thế Pháp.
Ngày 7 – 5 – 1953, với sự thoả thuận của Mĩ, Chính phủ Pháp cử tướng Nava
làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương (thay tướng Xalăng).
Nava đề ra kế hoạch quân sự với hi vọng trong 18 tháng giành lấy một thắng lợi
quyết định để "kết thúc chiến tranh trong danh dự".
(1) Henri Navarre, Agonie de l’Indochine. Plon, Paris 1958. Trích lại trong Tiếng sấm Điện Biên Phủ,
NXB Quân đội nhân dân, H., 1984, tr. 49.
198 |
10_23_2 | Kế hoạch Nava được chia thành hai bước :
-
Bước thứ nhất, trong thu – đông năm 1953 và xuân năm 1954, giữ thế phòng
ngự chiến lược ở Bắc Bộ, tấn công chiến lược để bình định Trung Bộ và Nam
Đông Dương, giành lấy nguồn nhân lực, vật lực ; xoá bỏ vùng tự do Liên khu V,
đồng thời ra sức mở rộng nguỵ quân, tập trung binh lực, xây dựng đội quân cơ
động chiến lược mạnh.
Bước thứ hai, từ thu – đông năm 1954, chuyển lực lượng ra chiến trường
Bắc Bộ, thực hiện tiến công chiến lược, cố giành thắng lợi quân sự quyết định,
buộc ta phải đàm phán với những điều kiện có lợi cho chúng nhằm kết thúc
chiến tranh.
Để thực hiện kế hoạch Nava, thực dân Pháp tăng thêm ở Đông Dương
12 tiểu đoàn bộ binh đưa từ Pháp, Bắc Phi, đồng thời xin Mĩ tăng thêm viện
trợ quân sự (tăng gấp đôi so với trước, chiếm tới 73% chi phí chiến tranh
ở Đông Dương), ra sức tăng cường nguỵ quân, đưa lực lượng này lên đến
334 000 quân vào đầu năm 1954.
-
Từ thu – đông năm 1953, Nava tập trung lực lượng quân cơ động ở đồng bằng
Bắc Bộ lên đến 44 tiểu đoàn (trong tổng số 84 tiểu đoàn toàn Đông Dương), tiến
hành những cuộc càn quét bình định vùng chiếm đóng, mở rộng hoạt động thổ
phỉ, biệt kích ở vùng rừng núi biên giới phía Bắc, mở cuộc tiến công lớn vào
Ninh Bình, Thanh Hoá (10 – 1953)... để phá kế hoạch tiến công của ta.
?
Thủ tướng Pháp Lanien nói : "Kế hoạch Nava chẳng những được Chính phủ
Pháp mà cả những người bạn Mĩ cùng tán thành. Nó cho phép hi vọng đủ
mọi điều"(1).
Âm mưu mới của Pháp – Mĩ ở Đông Dương khi bước vào đông – xuân
1953 – 1954 như thế nào ?
II – CUỘC TIẾN CÔNG CHIẾN LƯỢC ĐÔNG – XUÂN 1953 – 1954
VÀ CHIẾN DỊCH ĐIỆN BIÊN PHỦ NĂM 1954
1. Cuộc Tiến công chiến lược Đông – Xuân 1953 – 1954
Cuối tháng 9 – 1953, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng họp ở
Việt Bắc để bàn về kế hoạch quân sự Đông – Xuân 1953 – 1954.
(1) Đỗ Thiện – Đinh Kim Khánh, Tiếng sấm Điện Biên Phủ, Sđd, tr. 61.
199 |
10_23_3 | Nắm vững nhiệm vụ tiêu diệt địch là chính, phương hướng chiến lược của ta
trong đông – xuân 1953 – 1954 là : "Tập trung lực lượng mở những cuộc tiến
công vào những hướng quan trọng về chiến lược mà địch tương đối yếu, nhằm
tiêu diệt một bộ phận sinh lực địch, giải phóng đất đai, đồng thời buộc chúng
phải bị động phân tán lực lượng đối phó với ta trên những địa bàn xung yếu mà
chúng không thể bỏ, do phải phân tán lực lượng mà tạo ra cho ta những điều
kiện thuận lợi mới để tiêu diệt thêm từng bộ phận sinh lực của chúng"(1).
Thực hiện quyết định của Bộ Chính trị, trong đông – xuân 1953 – 1954,
quân ta mở một loạt chiến dịch tiến công địch ở hầu khắp các chiến trường
Đông Dương.
Ngày 10 – 12 – 1953, một bộ phận quân chủ lực của ta tiến công thị xã
Lai Châu, loại khỏi vòng chiến đấu 24 đại đội địch, giải phóng Lai Châu
(trừ Điện Biên Phủ).
Nava buộc phải đưa 6 tiểu đoàn cơ động từ đồng bằng Bắc Bộ tăng cường
cho Điện Biên Phủ. Sau đồng bằng Bắc Bộ, Điện Biên Phủ trở thành nơi tập
trung binh lực thứ hai của Pháp.
Đầu tháng 12 – 1953, liên quân Lào – Việt mở cuộc tiến công địch ở Trung
Lào, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, giải phóng 4 vạn km và thị xã Thà Khẹt ; bao
vây uy hiếp Xavannakhét và căn cứ Xênô.
Nava buộc phải tăng cường lực lượng cho Xênô và Xênô trở thành nơi tập
trung binh lực thứ ba của Pháp.
Cuối tháng 1 – 1954, liên quân Lào – Việt tiến công địch ở Thượng Lào, giải
phóng lưu vực sông Nậm Hu, toàn tỉnh Phongxalì, căn cứ kháng chiến của nhân
dân Lào được mở rộng thêm gần 1 vạn km.
Nava vội dùng đường hàng không đưa quân từ đồng bằng Bắc Bộ tăng
cường cho Luông Phabang và Mường Sài. Luông Phabang và Mường Sài trở
thành nơi tập trung binh lực thứ tư của Pháp.
Đầu tháng 2 – 1954, quân ta tiến công địch ở Bắc Tây Nguyên, loại khỏi
vòng chiến đấu 2 000 địch, giải phóng toàn tỉnh Kon Tum, một vùng rộng lớn
với 20 vạn dân ; bao vây, uy hiếp Plâyku.
Pháp buộc phải bỏ dở cuộc tiến công Tuy Hoà (Phú Yên) để tăng cường lực
lượng cho Plâyku và Plâyku trở thành nơi tập trung binh lực thứ năm của Pháp.
Phối hợp với mặt trận chính khi quân chủ lực địch bị giam chân và phân tán
nhiều nơi, tại các vùng sau lưng địch, phong trào chiến tranh du kích phát
triển mạnh.
(1) Võ Nguyên Giáp, Điện Biên Phủ, NXB Quân đội nhân dân, H., 1964, tr. 47.
200 |
10_23_4 | TRUNG QUỐC
Chí tuyến Bắc
PHONGXALI
LAI CHÂU
Nam Hu
| MƯỜNG SÀI
LÀO CAI
S. HỒNG
HÀ GIANG
YÊN BÁIL
sông Đà
ĐIỆN BIÊN PHỦ
LUÔNG PHABANG
XIÊNG KHOẢNG
SAM NUA
CAO BẰNG
SƠN TÂY
HÀ NỘI
song
sông Cả
À
LẠNG SƠN.
BẮC NINH
THANH HOÁ
VINH
– MÓNG CÁI
HAIPHONG
Đ. Bạch Long Vĩ
VỊNH B
VIÊNG CHĂN
THÁI LAN
Vùng tự do và căn cứ
du kích của ta
Vùng quân Pháp tạm chiếm
Các nước khác
THÀ KHÉT
- ΧΕΝΟ
XAVANNAKHÉT
Đ. Cồn Cỏ
(QUẢNG TRỊ
-20°
ΑΤΟΡΟ
KON
TUM
HUE
ĐÀ NẴNG
A cù lao Chàm
Đ. Lý Sơn
QUẢNG NGÃI
QĐ. Hoàng Sa
(VIỆT NAM)
PẮCXẾ
Hướng tiến công của quân đội
nhân dân Việt Nam
Hướng tiến công của quân đội
giải phóng Lào và bộ đội
tình nguyện Việt Nam
Hướng tiến công của quân Pháp
Biên giới quốc gia ngày nay
CAMPUCHIA
ME CONGO
PLAYKU
QUY NHƠN
Cheo Reo
TUY HOÀ
D. Đà Rằng,
BUÔN MA THUỘT
ENHA TRANG
ĐÀ LẠT
LỘC NINH
PHNOM PENHO
TÂY NINH
ĐI LINH) PHAN RANG
THỦ DẦU MỘT
PHAN RÍ
- BIỂN HOÀ
PHAN THIẾT
SÀI GÒN
BEN TRE
Đ. Phú Quốc
CHÂU ĐỐC
HÀ TIÊN
RẠCH GIÁ
“QĐ. Thổ Chu
VĨNH LONG
CAN THO
BẠC LIÊU
VỊNH THÁI LAN
Đ. Côn Sơn
104°
a Hòn Khoai
108°
18
N
Đ
112°
NG
NO G
-12°
BIEN
QĐ. Trường Sa
(VIỆT NAM)
104°
108°
112°
Hình 63. Lược đồ hình thái chiến trường trong Đông – Xuân 1953 – 1954.
12
201 |
10_23_5 | Ở Nam Bộ, các tiểu đoàn chủ lực khu, chủ lực tỉnh tiến vào vùng tạm chiếm
để tiêu diệt địch, đẩy mạnh phong trào đấu tranh của nhân dân kết hợp với
địch vận. Sân bay Tân Sơn Nhất bị tập kích làm nổ hàng trăm tấn bom. Hơn
1.000 đồn trại, tháp canh địch bị diệt và bức rút.
Ở Nam Trung Bộ, chiến tranh du kích phát triển mạnh, bao vây bức rút hàng
loạt cứ điểm, đồn bốt địch, giải phóng nhiều vùng rộng lớn như Điện Bàn
(Quảng Nam) với 4 vạn dân ; vùng Hòn Khói và Tây Bắc Khánh Hoà ; huyện
Tánh Linh và Lương Sơn (Bình Thuận).
Ở Bình – Trị – Thiên, quân ta hoạt động mạnh trên Đường số 9, phá huỷ nhiều
cầu cống, tiêu diệt và bức rút 6 vị trí địch, giải phóng huyện Hướng Hoá. Trên
đường sắt và Đường số 1, nhiều đoàn tàu, xe của địch bị diệt.
Ở đồng bằng Bắc Bộ, phòng tuyến sông Đáy của địch bị phá vỡ, các căn cứ
của ta ở hai bên bờ sông Hồng được mở rộng. Du kích tiến hành tập kích địch
trên tuyến đường Hà Nội – Hải Phòng, phá huỷ nhiều tàu, xe. Các đô thị, ngay
cả Hà Nội, bị quân ta tiến công ; các sân bay Cát Bi (Hải Phòng), Gia Lâm
(Hà Nội) cũng bị quân ta tập kích, phá huỷ nhiều máy bay.
Thắng lợi trong đông – xuân 1953 – 1954 đã chuẩn bị về vật chất và tinh thần
cho quân dân ta mở cuộc tiến công quyết định vào tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ.
2. Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ (1954)
Điện Biên Phủ là một thung lũng rộng lớn nằm ở phía tây rừng núi Tây Bắc,
gần biên giới với Lào, có vị trí chiến lược then chốt ở Đông Dương và cả ở
Đông Nam Á, nên Pháp cố nắm giữ.
Nava tập trung mọi cố gắng để xây dựng Điện Biên Phủ thành tập đoàn cứ
điểm mạnh nhất ở Đông Dương.
Tổng số binh lực địch ở đây lúc cao nhất có tới 16 200 quân, gồm 12 tiểu đoàn
và 7 đại đội bộ binh, 3 tiểu đoàn pháo binh, 1 tiểu đoàn công binh, 1 đại đội
tăng, 1 đại đội vận tải, 1 phi đội 12 máy bay.
Địch bố trí thành ba phân khu : phân khu Bắc gồm các cứ điểm Độc Lập, Bản
Kéo ; phân khu Trung tâm ở ngay giữa Mường Thanh, nơi đặt sở chỉ huy, có trận
địa pháo, kho hậu cần, sân bay, tập trung 2/3 lực lượng ; phân khu Nam đặt tại
Hồng Cúm, có trận địa pháo, sân bay. Tổng cộng cả ba phân khu có 49 cứ điểm.
Trong khi quân ta mở chiến dịch tiến công Lai Châu (10 – 12 – 1953), Nava vội
tăng cường lực lượng cho Điện Biên Phủ để "cứu nguy Lai Châu", "bảo vệ
Thượng Lào". Đó là một hành động ngoài dự tính của kế hoạch Nava. Nhưng
do vị trí chiến lược quan trọng của Điện Biên Phủ đối với Bắc Đông Dương,
Nova tập trung xây dựng Điện Biên Phủ thành một "cái bẫy hiểm ác", một "cái
máy nghiền khổng lồ".
202 |
10_23_6 | Đầu tháng 12 – 1953, Bộ Chính trị Trung ương Đảng họp thông qua kế hoạch
tác chiến của Bộ Tổng tư lệnh và quyết định mở chiến dịch Điện Biên Phủ. Mục
tiêu của chiến dịch là tiêu diệt lực lượng địch ở đây, giải phóng vùng Tây Bắc,
tạo điều kiện giải phóng Bắc Lào.
Ta đã huy động một lực lượng lớn chuẩn bị cho chiến dịch, gồm 4 đại đoàn
bộ binh, 1 đại đoàn công pháo và nhiều tiểu đoàn công binh, thông tin, vận
tải, quân y... với tổng số khoảng 55 000 quân, hàng chục nghìn tấn vũ khí, đạn
ĐỒI ĐỘC LẬP
PHÂN KHU BẮC
BẢN KÉO
PHÂN KHU TRUNG TÂM
MƯỜNG THANH
BẢN HỒNG LẾCH
BẢN BÔNG
BẢN NÀ KHƯA
PHÂN KHU NAM
BẢN HỒNG CÚM A
D
ས་
D1
HỒNG QUAY TẠI
BẢN SỚM
ĐỒI HIM LAM
Sở chỉ huy của địch
Cứ điểm của địch
Sân bay của địch
Quân ta tiến công đợt 1
Quân ta tiến công đợt 2
Quân ta tiến công đợt 3
Vòng vây của quân ta
sau đợt 1
Vòng vây của quân ta
sau đợt 2
Đường giao thông
Hình 64. Lược đồ diễn biến chiến dịch Điện Biên Phủ (1954)
(1) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 7, Sđd, tr. 226.
dược ; 27 000 tấn gạo... ; 628 ô tô
vận tải, 11 800 thuyền bè, 21 000
xe đạp, hàng nghìn xe ngựa,
trâu, bò v.v... chuyển ra mặt trận.
Đầu tháng 3 – 1954, công
tác chuẩn bị mọi mặt đã
hoàn tất. Ngày 13 – 3 – 1954,
quân ta nổ súng mở màn cuộc
tấn công tập đoàn cứ điểm
Điện Biên Phủ.
Ngày 15 – 3 – 1954, Trung ương
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh
gửi điện khen ngợi, động viên
cán bộ, chiến sĩ ngoài mặt trận.
Bức điện có đoạn viết : "Chiến
dịch này là một chiến dịch lịch
sử của quân đội ta, ta đánh
thắng chiến dịch này có
ý nghĩa quân sự và chính trị
quan trọng"(I).
Chiến dịch Điện Biên Phủ
được chia làm ba đợt :
Đợt 1, từ ngày 13 đến ngày
17 – 3 – 1954 : Quân ta tiến
công tiêu diệt cụm cứ điểm
Him Lam và toàn bộ phân
khu Bắc. Kết quả, ta loại
khỏi vòng chiến đấu gần
2 000 địch.
203 |