id
int64
0
23k
passage
stringlengths
27
4.61k
metadata
dict
600
Title: Đạo đức Đạo đức là một từ Hán-Việt, được dùng từ xa xưa để chỉ một yếu tố trong tính cách và giá trị của mỗi con người. Là hệ thống các quy tắc về chuẩn mực của cộng đồng và xã hội. Đạo là con đường, đức là tính tốt hoặc những công trạng tạo nên. Khi nói một người có đạo đức là ý nói người đó có sự rèn luyện thực hành các lời răn dạy về đạo đức, sống chuẩn mực và có nét đẹp trong đời sống và tâm hồn.Và người có đạo đức rất biết quan tâm người khác. Đạo đức trong tâm lý học. Khái niệm đạo đức. Đạo đức là hệ thống quy tắc, tiêu chuẩn, chuẩn mực xã hội mà nhờ đó con người tự nguyện điều chỉnh hành vi của mình cho phù hợp với lợi ích của cộng đồng, xã hội. Một số phạm trù cơ bản của đạo đức. Nghĩa vụ. Nghĩa vụ chính là trách nhiệm của cá nhân đối với nhu cầu, lợi ích chung của cộng đồng, xã hội. Có hai loại nghĩa vụ cơ bản là nghĩa vụ đạo đức và nghĩa vụ pháp lý. Khi nhu cầu, lợi ích cá nhân nảy sinh mâu thuẫn với nhu cầu lợi ích xã hội: cá nhân phải biết hi sinh cái riêng vì cái chung; Xã hội có trách nhiệm bảo đảm cho sự thoả mãn nhu cầu, lợi ích của cá nhân. Lương tâm. Lương tâm có thể được hiểu như tiếng nói bên trong đầy quyền uy chỉ dẫn, thôi thúc con người ta làm những điều tốt, ngăn cản, chỉ trích làm những điều xấu. Theo quan điểm biện chứng của đạo đức học thì lương tâm là ý thức trách nhiệm và tình cảm đạo đức của cá nhân về sự tự đánh giá những hành vi, cách cư xử của mình trong đời sống xã hội. Sự hình thành lương tâm là quá trình phát triển lâu dài từ thấp đến cao trong quá trình lao động sản xuất và giao tiếp xã hội. Có thể nêu ra các mức độ phát triển của lương tâm như sau: Khi con người làm những điều xấu, độc ác thì lương tâm cắn rứt. Trái lại khi cá nhân làm những điều tốt, cao thượng thì lương tâm thanh thản. Do vậy, trong cấu trúc của lương tâm tồn tại khái niệm xấu hổ, hối hận. Giữ cho lương tâm trong sạch là một tiêu chí hạnh phúc và tiêu chí sống của con người.
{ "split": 0, "title": "Đạo đức", "token_count": 507 }
601
Title: Đạo đức Thiện và Ác. Thiện và Ác là cặp phạm trù đối lập nhau trong mọi thời đại, là thước đo đời sống đạo đức của mọi cá nhân trong xã hội Cái Thiện là cái tốt đẹp biểu hiện lòng nhân ái của con người trong cuộc sống hàng ngày. Đó chính là hành vi thể hiện lợi ích của cá nhân phù hợp với yêu cầu và sự tiến bộ xã hội. Cái thiện phải được thể hiện qua việc góp phần thúc đẩy sự tiến bộ xã hội, đem lại lợi ích cho mọi người trong xã hội. Hồ Chí Minh đã nói: "Việc thiện thì dù nhỏ đến mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ đến mấy cũng tránh" (Hồ Chí Minh, Về vấn đề giáo dục, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1990, tr. 55). Là cái thiện là phấn đấu cho cuộc sống của con người ngày càng trở nên tốt đẹp hơn và giàu tính nhân văn hơn. Cái Ác là cái đáng ghét, ghê tởm, cái cần phải gạt bỏ trong đời sống cá nhân và xã hội. Cái ác làm mất đi sự văn minh của cuộc sống con người. Quan điểm về thiện và ác mang tính lịch sử và có thể hoán đổi cho nhau. cái thiện và ác được chúng ta đánh giá tuỳ vào nó có thúc đẩy hay cản trở sự phát triển của xã hội, hạnh phúc của con người. Chiết tự. Đạo đức được xem là khái niệm luân thường đạo lý của con người, nó thuộc về vấn đề tốt-xấu, hơn nữa xem như là đúng-sai, được sử dụng trong 3 phạm vi: lương tâm con người, hệ thống phép tắc đạo đức và trừng phạt đôi lúc còn được gọi giá trị đạo đức; nó gắn với nền văn hoá, tôn giáo, chủ nghĩa nhân văn, triết học và những luật lệ của một xã hội về cách đối xử từ hệ thống này. Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, quy tắc nhằm điều chỉnh và đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai chúng được thực hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.
{ "split": 1, "title": "Đạo đức", "token_count": 484 }
602
Title: Đạo đức Đạo đức là một hiện tượng lịch sử và xét cho cùng, là sự phản ánh của các quan hệ xã hội. Có đạo đức của xã hội nguyên thủy, đạo đức của chế độ chủ nô, đạo đức phong kiến, đạo đức tư sản, đạo đức cộng sản. Lợi ích của giai cấp thống trị là duy trì và củng cố những quan hệ xã hội đang có; trái lại, giai cấp bị bóc lột tuỳ theo nhận thức về tính bất công của những quan hệ ấy mà đứng lên đấu tranh chống lại và đề ra quan niệm đạo đức riêng của mình. Trong xã hội có giai cấp, đạo đức có tính giai cấp. Đồng thời, đạo đức cũng có tính kế thừa nhất định. Các hình thái kinh tế - xã hội thay thế nhau, nhưng xã hội vẫn giữ lại những điều kiện sinh hoạt, những hình thức cộng đồng chung. Tính kế thừa của đạo đức phản ánh "những luật lệ đơn giản và cơ bản của bất kì cộng đồng người nào" (Lênin). Đó là những yêu cầu đạo đức liên quan đến những hình thức liên hệ đơn giản nhất giữa người với người. Mọi thời đại đều lên án cái ác, tính tàn bạo, tham lam, hèn nhát, phản bội... và biểu dương cái thiện, sự dũng cảm, chính trực, độ lượng, khiêm tốn... "không ai nghi ngờ được rằng nói chung đã có một sự tiến bộ về mặt đạo đức cũng như về tất cả các ngành tri thức khác của nhân loại" (Enghen). Quan hệ giữa người với người ngày càng mang tính nhân đạo cao hơn. Ngay trong xã hội nguyên thủy đã có những hình thức đơn giản của sự tương trợ và không còn tục ăn thịt người. Với sự xuất hiện của liên minh bộ lạc và nhà nước, tục báo thù của thị tộc dần dần mất đi. Xã hội chủ nô coi việc giết nô lệ là việc riêng của chủ nô, đến xã hội phong kiến, việc giết nông nô bị lên án. Đạo đức phong kiến bóp nghẹt cá nhân dưới uy quyền của tôn giáo và quý tộc; đạo đức tư sản giải phóng cá nhân, coi trọng nhân cách. "Nhưng chúng ta vẫn chưa vượt được khuôn khổ của đạo đức giai cấp. Một nền đạo đức thực sự có tính nhân đạo, đặt lên trên sự đối lập giai cấp và mọi hồi ức về sự đối lập ấy chỉ có thể có được khi nào xã hội đã tới một trình độ mà trong thực tiễn của đời sống, người ta không những thắng được mà còn quên đi sự đối lập giai cấp". Đó là trình độ của xã hội tương lai, xã hội cộng sản chủ nghĩa (Enghen).
{ "split": 2, "title": "Đạo đức", "token_count": 559 }
603
Title: Đạo đức Đạo đức theo Kinh Dịch. Đạo (道) theo quan niệm của người xưa là con đường, là năng lực phổ biến điều hành mọi sự mọi sự vận động và biến hóa không ngừng của vạn vật và sự việc quanh ta. Đạo trong Kinh Dịch đặt trên nền tảng thiên kinh địa nghĩa: trật tự xã hội phản ánh trật tự vũ trụ. Không có một đấng tối cao nào có thể tùy tiện ban phúc giáng họa mà chỉ còn các nguyên lý vô ngã Âm Dương, ngã 我 = tôi, vô ngã = không có cái tôi, mà theo ngôn ngữ hiện đại được hiểu là quy luật khách quan. Nói một cách khác theo ngôn ngữ của chúng ta ngày nay thì Đạo là quy luật xảy ra xung quanh ta không tùy thuộc vào ý nguyện cá nhân của bất cứ ai. Đức 德 là hiểu Đạo. Đức là mức độ tập trung của Đạo ở một con người. Nói theo ngôn từ ngày nay Đức là trình độ năng lực nắm vững và vận dụng quy luật. Trình độ cao bao nhiêu thì Đức dày bấy nhiêu. Thánh nhân là người có Đức. Theo cách hiểu ngày nay thánh nhân đơn giản chỉ là "người có trình độ" nắm vững được sự vận động khách quan của quy luật, kể cả quy luật tự nhiên lẫn quy luật xã hội. Một khái niệm khác về Đạo Đức là Đức Hạnh. quẻ Bát Thuần Khảm - Lời tượng viết: nước chảy không ngừng là hình tượng của quẻ tập Khảm. Người quân tử lấy việc rèn luyện năng lực thực hiện làm trọng. "Tượng Viết: Thủy tấn chí, tập khảm, quân tử dĩ thường đức hạnh, tập giáo sự". 象曰: 水洊至, 習坎, 君子以常德行, 習教事. Hành 行- Một âm là hạnh - đức hạnh. Như ở trên đã trình bày, năng lực là đức 德, khi thi hành gọi là hạnh 行. Chữ hạnh 行 này cùng một chữ với hành của hành động 行動. Vì thế cho nên: . Tương đối tính.
{ "split": 3, "title": "Đạo đức", "token_count": 438 }
604
Title: Đạo đức Đạo đức vừa có tính đa dạng và uyển chuyển, vừa có tính bất biến tương đối. Đạo đức là các khái niệm manh mún, do các mối quan hệ xa hội từ thời xa xưa tạo nên. Trong nhiều trường hợp, đạo đức bị phân ly thành nhiều dạng hành sự được gọi là tốt hoặc xấu so với một chủ quan. Đạo đức có thể biểu hiện các hành sự mâu thuẫn với chính nó, đạo đức đánh giá phương tiện phân ly với mục đích, vì vậy đạo đức chỉ là một cái ảo giác về ý nghĩa. Con người là không có tự ngã, là gồm những ham muốn, có những tư duy khác nhau trong từng thời điểm, là những bản năng và vô thức tập thể được ẩn dấu rất sâu khiến một sự ham muốn nào đó tạo nên một hành sự đạo đức được dạy để bồi đắp cho cái mặt nạ cái tôi (Atma). Để thấy được cái cải trang kín đáo ấy ta sē xem qua một ví dụ: Người đó định tâm không muốn lấy ví của người kia, nhưng lại cần một lời cảm ơn hay gì đó làm thỏa mãn cái tôi của anh ta là anh ta là một người có đạo đức, anh ta tự tâm đắc trong lòng là như vậy, và nếu có ai bảo anh ta vô đạo đức, anh ta sē nhớ lại hành động tốt của mình và ấm ức trong lòng, thực ra hành động trả ví trên là một hành vi chuộc lợi vô thức mang yếu tố tâm thần, những ham muốn được có cái tôi đạo đức bị ẩn đi, chỉ lộ ra hành động đạo đức không có lý do rõ ràng. anh ta trả lại ví do có nhiều con mắt người khác, hoặc sợ gặp rắc rối, hoặc đắn đo giữa ham muốn đạo đức(A), ham muốn tiền vì sợ người khác lấy miễn phí, sau đó anh ta chọn một phương án an toàn một cách vô thức.
{ "split": 4, "title": "Đạo đức", "token_count": 397 }
605
Title: Đạo đức Anh ta định tâm sē lấy trộm tiền, nếu anh ta trả lại tức là ham muốn A trên nhiều hơn ham muốn tiền bạc vì nhiều lý do như tiền ít chẳng hạn, lúc này quá trình tư duy tâm thần giống trường hợp A, nếu không trả bị phán xét là vô đạo đức.Nếu anh ta không lấy, cūng không trả lại, anh ta không ham muốn tiền, đạo đức cái tôi, anh ta không chăm chút cho cái tôi của mình nữa bởi nhiều lý do như chán trường, thù ghét xã hội, hoặc thậm chí là do lựa chọn có "ý thức" khi đã giác ngộ...v...v.Lúc này, cái đạo đức kia sē phán xét anh ta là vô đạo đức. 'Kết luận, đạo đức là một cách gọi các hành xử xã hội chỉ được tạo bởi các phản ứng vô thức, vô ngã'. Những nguyên tắc trong rèn luyện đạo đức. Đối với mỗi người đều nói nhiều mà làm ít, nói mà không làm, hơn nữa nói một đằng, làm một nẻo thì chỉ đem lại hậu quả phản tác dụng. Việc nêu gương thì không ở lĩnh vực nào mà vấn đề nêu gương lại được đặt ra như trong lĩnh vực đạo đức. Trong gia đình: Đó là tấm gương của bố mẹ đối với con cái, của anh chị đối với các em; trong nhà trường thì đó là tấm gương của thầy, cô giáo đối với học sinh; trong tổ chức, tập thể, Đảng, Nhà nước là tấm gương của những người đứng đầu, phụ trách, lãnh đạo, của cấp trên đối với cấp dưới; trong xã hội thì đó là tấm gương của người này đối với người khác. Một bài diễn văn hay không bằng một tấm gương sống. Trong cuộc sống hàng ngày, những hiện tượng tốt - xấu, đúng - sai, cái đạo đức và cái vô đạo đức vẫn còn đan xen nhau, đối chọi nhau, thông qua hành vi của mỗi một con người khác nhau. Thậm chí, những đan xen và đối chọi ấy còn diễn ra ngay trong bản thân mỗi một con người. Do đó việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức hoàn toàn là điều không đơn giản. Để xây và chống có hiệu quả phải tạo thành phong trào quần chúng rộng rãi.
{ "split": 5, "title": "Đạo đức", "token_count": 471 }
606
Title: Đạo đức Bởi mỗi người phải thường xuyên chăm lo tu dưỡng đạo đức hàng ngày, đó là công việc kiên trì, bền bỉ suốt đời. Trong thực tiễn, có người trong lúc đấu tranh thì hăng hái, trung thành, không sợ nguy hiểm, không sợ gian khổ, hy sinh, nhưng đến khi có ít quyền hạn thì đâm ra kiêu ngạo, xa xỉ, phạm vào tham ô, lãng phí, quan liêu, biến thành người có tội. Đối với mỗi con người việc rèn luyện đạo đức cách mạng phải được thực hiện trong hoạt động thực tiễn, trong đời tư cũng như trong đời công, sinh hoạt, học tập, lao động, chiến đấu; trong mọi mối quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, từ nhỏ đến lớn, từ gia đình đến nhà trường, đoàn thể, xã hội; từ quan hệ bạn bè đến đồng chí, anh em, cấp trên, cấp dưới, với Đảng, với nước, với dân và cả trong quan hệ quốc tế. Đạo đức giả. Ngược lại với Đạo đức là Đạo đức giả. Cùng với những thói ích kỷ, đố kị, xu nịnh, a dua, thói đạo đức giả là một thói xấu đang hoành hành mối quan hệ giữa con người và con người. Nó làm mất dần vẻ chân thực vốn có của đời sống xã hội. Nạn đạo đức giả sẽ làm suy yếu nền văn hóa của một đất nước. Dân gian đã có rất nhiều thành ngữ, ca dao… để vạch mặt kẻ đạo đức giả: Thói đạo đức giả có mặt ở khắp mọi nơi, mọi chốn, nhưng rất khó bị phát giác. Thói đạo đức giả luôn đi cùng với tâm lý cả tin. Ở đâu có sự cả tin thì ở đó có thói đạo đức giả. Đạo đức xã hội chủ nghĩa (chân chính) hướng con người tới tinh thần cao cả của tâm hồn, văn hóa. Bởi vậy, trong cuộc sống luôn đòi hỏi sự rèn luyện. Cảnh giác và tẩy trừ thói đạo đức giả là điều vô cùng cần thiết, trước hết là sự cảnh giác với chính bản thân mình. Một số quan điểm về đạo đức giả. Nghe xong Lý Thánh Tông rất phục. Đạo đức giả không đồng nghĩa với nói dối. Nói dối có nhiều mục đích khác nhau:
{ "split": 6, "title": "Đạo đức", "token_count": 482 }
607
Title: Đạo Cao Đài Đạo Cao Đài hay Cao Đài Giáo là một tôn giáo thờ Thượng đế được thành lập ở miền Nam Việt Nam vào năm 1926. Tên gọi Cao Đài theo nghĩa đen chỉ "một nơi cao", nghĩa bóng là nơi cao nhất ở đó Thượng đế ngự trị; cũng là danh xưng rút gọn của Thượng đế trong tôn giáo Cao Đài, vốn có danh xưng đầy đủ là Cao Đài Tiên Ông Đại Bồ Tát Ma Ha Tát. Một số tín đồ Cao Đài thường tự gọi tôn giáo của mình là Đạo Trời. Tín đồ Cao Đài tin rằng Thượng đế là Đấng sáng lập ra các tôn giáo và cả vũ trụ này. Tất cả giáo lý, hệ thống biểu tượng và tổ chức đều được "Đức Cao Đài" trực tiếp chỉ định. Và đạo Cao Đài chính là được Thượng đế trực tiếp khai sáng thông qua Cơ bút cho các tín đồ với nhiệm vụ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ (chữ Hán: 大道三期普度), có nghĩa là "Nền đạo lớn cứu khổ lần thứ Ba". Tuy được khai sinh chính thức vào năm 1926, có nguồn nói rằng đạo Cao Đài khởi nguồn vào đêm Giáng Sinh năm 1925. Cao Đài nhanh chóng phát triển về quy mô và số lượng tín đồ. Theo thông tin của Ban Tôn giáo Chính phủ, dẫn thống kê năm 2010 của các tổ chức Cao Đài thì có khoảng hơn 2,4 triệu tín đồ, còn theo Thống kê của Tổng cục thống kê Việt Nam cũng trong năm 2009 thì số người tự xem mình là tín đồ Cao Đài tại Việt Nam là 807.915 người, cũng có nguồn ghi hơn 5 triệu. Về mặt tổ chức đạo Cao Đài có trên 1 vạn chức sắc, gần 3 vạn chức việc với 958 tổ chức Họ đạo cơ sở được công nhận. Trên toàn quốc có 35/38 tỉnh thành đạo Cao Đài hoạt động với 65 Ban Đại diện, 1.290 cơ sở thờ tự (hàng năm có khoảng 4000 tín đồ mới nhập môn vào đạo Cao Đài). Ngoài ra, có khoảng 30.000 tín đồ nữa sống ở Hoa Kỳ, Châu Âu và Úc. Theo trang thông tin và truyền giáo Cao Đài hải ngoại, số tín đồ Cao Đài là khoảng 5 triệu
{ "split": 0, "title": "Đạo Cao Đài", "token_count": 455 }
608
Title: Đạo quán Linh Tiên Đạo quán Linh Tiên hay Chùa Linh Tiên quán, Chùa Linh Tiên: là công trình kiến trúc Đạo giáo được thành lập từ thời nhà Triệu nước Nam Việt. Tuy nhiên, kiến trúc tồn tại đến ngày nay là có từ thời Mạc. Đây là trung tâm tín ngưỡng hỗn dung của Đạo Phật và đạo Lão, ban đầu là am thất của nhà sư Phật giáo, sau chuyển thành đạo quán, rồi từ đạo quán lại chuyển thành chùa như hiện nay. Vị trí. Đạo quán ở thôn Cao Xá, xã Đức Thượng, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây cũ (nay thuộc thành phố Hà Nội). Lịch sử. Quán có từ rất lâu đời, có lẽ từ trước công nguyên. Tương truyền, lúc đầu đây là nơi tu hành của một nhà sư, thừa tướng Lữ Gia nhà Triệu qua đấy thấy tiên ngồi đánh cờ rồi bay lên trời bèn sai dựng quán. Đời Trần Minh Tông, con gái vua Trần là Thái Trưởng công chúa cầu tự linh nghiệm nên vua Trần cho trùng tu lớn, sau dân đắp tượng vua thờ ở tiền đường. Đời Mạc đạo giáo thần tiên thịnh hành, các vương tộc Mạc về quán tu hành nhiều, thậm chí Quán được xoay hướng từ Tây nam sang Đông bắc như hiện nay cũng từ đời này, người để lại dấu ấn trùng tu lớn nhất là Đà Quốc Công Mạc Ngọc Liễn và Vợ. Khi xoay lại hướng gác chuông vốn ở trước của chùa, nay lại thành ra sau lưng chùa nên chùa không giống kiểu "tiền gác chuông, hậu gác khánh " như các chùa quán thường thấy. Các giếng đào đan sa vốn trước sân cũ, sau khi quay hướng đã nằm ở dưới các bệ thờ như hiện nay. Thời Lê sơ, quán đã từng là nơi khắc ván in ra nhiều sách kinh. Kiến trúc. Quán Linh Tiên tọa lạc trên khu đất cao rộng trong làng, tổng thể công trình là sự hỗn hợp của kiến trúc quán Đạo với chùa Phật. Ngoài cùng là tam quan 3 gian 2 dĩ, 2 tầng, 8 mái với các đầu đao uốn cong. Tiếp theo là một con đường nhỏ lát gạch gọi là " Nhất chính đạo" dẫn đến tam quan phụ theo dạng 4 cột trụ. Qua sân hẹp là đến khu trung tâm của quán.
{ "split": 0, "title": "Đạo quán Linh Tiên", "token_count": 493 }
609
Title: Đạo quán Linh Tiên Đây là khu vực thờ chính với 3 nếp nhà hình chữ Công (工), bao gồm: quán Dưới, quán Trên và nhà thiêu hương. Các bộ phận kiến trúc ít trang trí, nhưng y môn và cửa võng được chạm trổ tỉ mỉ. Ở cuối đường trục là gác chuông 2 tầng 8 mái, bên phải là điện Mẫu 3 gian. Kiến trúc ở quán đơn giản nhưng hợp lại với vườn cây thì tạo thế sang trọng. Ngoài ra còn có các công trình gần đây như nhà Tổ, nhà Mẫu và một số di vật có giá trị khác như đôi nghê, nhiều cuốn thư, y môn, cửa võng, hương án, khánh, chuông đồng và tấm bia đá.
{ "split": 1, "title": "Đạo quán Linh Tiên", "token_count": 159 }
610
Title: Đảng Đầy tớ của Nhân dân Đảng Đầy tớ của Nhân dân (, SN) là một đảng chính trị tự do, thân châu Âu ở Ukraine. Đảng được thành lập vào cuối năm 2017 và được đăng ký chính thức vào ngày 31 tháng 3 năm 2018 trên cơ sở đã đăng ký trước đó. Đảng được đặt tên theo bộ phim truyền hình "Đầy tớ của Nhân dân" của Ukraine. Trong cuộc bầu cử quốc hội năm 2019, đảng này đã giành được 124 ghế trong danh sách đảng toàn quốc và 130 ghế khu vực bầu cử. Lịch sử. Thành lập. Về mặt pháp lý, đảng này là đảng kế thừa của Đảng Quyết định Thay đổi (Party of Decisive Change) () tồn tại từ tháng 4 năm 2016 và được thành lập bởi Eugene Yurdiga. Đảng được đổi tên vào tháng 12 năm 2017 sau loạt phim truyền hình ăn khách cùng tên của Ukraine, "Đầy tớ của Nhân dân" do Volodymyr Zelenskyy đóng vai chính và được thực hiện bởi công ty sản xuất truyền hình "Kvartal 95" của ông. Lãnh đạo đầu tiên của đảng được đổi tên/giám đốc điều hành của Kvartal 95 là Ivan Bakanov. Vào thời điểm Kvartal 95 thành lập đảng, họ tuyên bố điều quan trọng là phải làm như vậy để ngăn những người khác đánh cắp tên của bộ phim cùng tên vì "mục đích chính trị hoài nghi". Theo Zelenskyy, vào mùa hè năm 2017, "một số kẻ gian" gần như đã đăng ký một đảng gọi là "Đầy tớ của Nhân dân" và vì Kvartal 95 đã đăng ký đảng "Đầy tớ của Nhân dân" này nên cử tri sẽ không bị nhầm lẫn khi nghĩ rằng họ sẽ bỏ phiếu cho một đảng không liên quan đến bộ phim truyền hình cùng tên. Đầu năm 2018, Zelenskyy tuyên bố rằng đảng này "vẫn chưa phải là một dự án chính trị", và nói về tương lai của nó: "Hãy xem".
{ "split": 0, "title": "Đảng Đầy tớ của Nhân dân", "token_count": 424 }
611
Title: Đảng Đầy tớ của Nhân dân Vào tháng 12 năm 2017, 4% người Ukraine được thăm dò bởi Quỹ Sáng kiến ​​Dân chủ Ilko Kucheriv và Razumkov Centre tuyên bố họ sẵn sàng bỏ phiếu cho một đảng có tên là "Đầy tớ của Nhân dân" trong cuộc bầu cử quốc hội và vào tháng 5 năm 2018, con số này đã tăng lên 5% (mức tối thiểu cần thiết để vượt qua ngưỡng bầu cử của Ukraine). Khi "Chesno" cố gắng liên lạc với Zelenskyy và các đại diện của đảng vào tháng 9 năm 2018 để hỏi liệu đảng có tham gia bầu cử hay không, một phát ngôn viên của Kvartal 95 đã trả lời ""Rất tiếc, đại diện của đảng không thể bình luận về yêu cầu của bạn. Hiện không có thông tin nào có thể được bạn quan tâm." ("Unfortunately, party representatives are unable to comment on your request. There is currently no information that might be of interest to you.""). Dịch vụ báo chí của Kvartal 95 cũng không cung cấp cho "Chesno" hình ảnh của lãnh đạo đảng Bakanov. Các biển quảng bá đảng "Đầy tớ của Nhân dân" đã xuất hiện trên đường phố của Ukraine vào tháng 11 năm 2018. Zelenskyy sau đó đã thừa nhận rằng những biển quảng cáo này chỉ là quảng cáo hợp pháp cho mùa thứ ba của loạt phim truyền hình "Đầy tớ của Nhân dân" nhưng cũng là một phần của chiến dịch tranh cử của anh ấy để chiến dịch có thể "tiết kiệm được rất nhiều tiền". Hầu như tất cả các khoản tiền năm 2018 đã được nhận vào đêm trước bài phát biểu năm mới 2019 của Zelenskyy, trong đó anh ấy tuyên bố ứng cử vào cuộc bầu cử tổng thống Ukraine năm 2019.
{ "split": 1, "title": "Đảng Đầy tớ của Nhân dân", "token_count": 376 }
612
Title: Đảng Đồng tính Đảng Đồng tính (), có tên đầy đủ là "Partito Gay per i diritti LGBT+, Solidale Ambientalista e Liberale" ("Đảng Đồng tính vì quyền LGBT+, Đoàn kết, Bảo vệ Môi trường và Tự do"), là một nhóm chính trị của Ý, là nhóm đầu tiên đặc biệt nhằm bảo vệ quyền đa dạng tính dục. Lịch sử. Nguồn gốc của đảng bắt nguồn từ năm 2018, khi Fabrizio Marrazzo (nhà hoạt động LGBT, phát ngôn viên của Trung tâm Người đồng tính và cựu chủ tịch của Arcigay ở Rome) đăng ký thương hiệu "Partito Gay" vào ngày 30 tháng 8, trong đó bao gồm một biểu trưng chứa một thương hiệu có màu cờ LGBT và cụm từ "Châu Âu Ý" ở trên cùng. Vào thời điểm đó, Marrazzo chỉ ra rằng đảng đang trong giai đoạn chưa phát triển để có thể phát triển đảng ở mức độ lớn trong các cuộc bầu cử trong tương lai và ông hy vọng sẽ giành được từ 6% đến 15% số phiếu bầu. Đảng được giới thiệu công khai vào ngày 19 tháng 11 năm 2020, trong một hoạt động do Marrazzo lãnh đạo cùng với các nhà hoạt động LGBT Claudia Toscano và Vittorio Tarquini. Đảng xác định sự đoàn kết, chủ nghĩa môi trường và chủ nghĩa tự do giữa các trụ cột có chương trình của mình. Phần trình bày của đảng đã tạo ra sự chỉ trích từ bên trong cộng đồng LGBT, vì họ cho rằng các quyền công dân không thể được bảo vệ theo cách thức theo từng nhóm. Trong số các hành động của đảng trong những tháng đầu tiên hoạt động là cáo buộc cầu thủ bóng đá Zlatan Ibrahimovic là kỳ thị người đồng tính vì những bình luận được đưa ra tại Lễ hội San Remo lần thứ 71, nơi ông đã đùa cợt với ca sĩ Achille Lauro, và một yêu cầu rằng Giardini Pubblici Indro Montanelli của Milan sẽ đổi tên thành Raffaella Carrà để tưởng nhớ cái chết gần đây của bà và bác bỏ những bình luận phân biệt chủng tộc mà Montanelli đã đưa ra trong suốt cuộc đời của mình.
{ "split": 0, "title": "Đảng Đồng tính", "token_count": 451 }
613
Title: Đảng Đồng tính Đảng Đồng tính đã đưa ra các ứng cử viên cho cuộc bầu cử thành phố năm 2021, chủ yếu ở các thành phố Rome, Milan và Turin, nơi Fabrizio Marazzo, Mauro Festa và Davide Betti Balducci lần lượt được giới thiệu là ứng cử viên thị trưởng. Trong trường hợp của Turin, đảng này đã tố cáo hành vi kỳ thị đồng tính từ phía các quản lý chung cư nơi đặt trụ sở chính tại địa phương của nhóm do những khó khăn mà họ gặp phải trong việc trưng bày cờ LGBT và các biểu tượng của đảng, cũng như thực hiện các hoạt động vận động tranh cử.
{ "split": 1, "title": "Đảng Đồng tính", "token_count": 133 }
614
Title: Đảng Đoàn kết Quốc dân Đảng Đoàn kết Quốc dân (tiếng Anh: National Solidarity Party, viết tắt: NSP, , Hán-Việt: Quốc dân Đoàn kết Đảng) là một đảng chính trị ở Singapore. Đảng được thành lập vào năm 1987, và đã gia nhập Liên minh Dân chủ Singapore (SDA) năm 2001, sau đó rút khỏi liên minh vào năm 2007. Cho đến này, đảng này chưa có đảng viên nào thắng cử để có ghế trong nghị viện. Tuy nhiên, cựu tổng bí thư của Đảng, Tạ Cảnh Phong (chữ Hán: 謝鏡豐, latinh: Steve Chia) đã từng làm Non-Constituency Member of Parliament (NCMP) từ năm 2001 đến năm 2006. Mục tiêu và chính sách. Ý thức hệ chính trị:Đảng Đoàn kết Quốc gia (NSP) là một đảng trung tâm. Chúng tôi tin vào sự cạnh tranh công bằng, tỷ lệ thất nghiệp thấp và phân phối lại của cải. Tuyên ngôn sứ mệnh:NSP tồn tại để duy trì nền dân chủ, và cung cấp các ý tưởng mang tính xây dựng để mang lại lợi ích cho Hội. Đảng tích cực thúc đẩy việc thành lập một hệ thống chính trị đa đảng. Nó hình dung là một đảng chính trị đáng tin cậy và quan tâm. NSP là số ít các đảng chính trị bảo thủ duy nhất ở Singapore. Giá trị cốt lõi:
{ "split": 0, "title": "Đảng Đoàn kết Quốc dân", "token_count": 294 }
615
Title: Đảng Black Panther Đảng Black Panther (tên gốc: Black Panther Party, BPP, dịch nghĩa: Đảng Báo đen), ban đầu là Black Panther Party for Self-Defense, là một tổ chức chính trị xã hội cách mạng được thành lập bởi các sinh viên đại học theo tư tưởng Marxist Bobby Seale (Chủ tịch) và Huey Newton (Bộ trưởng Bộ Quốc phòng) vào tháng 10 năm 1966 tại Oakland, California. Đảng này hoạt động ở Hoa Kỳ từ năm 1966 đến năm 1982, với các chi nhánh ở nhiều thành phố lớn và các chi nhánh quốc tế ở Vương quốc Anh vào đầu những năm 1970, và ở Algeria từ 1969 đến 1972. Khi được thành lập vào ngày 15 tháng 10 năm 1966, Hoạt động cốt lõi của Đảng Black Panther là tuần tra công khai vũ trang ("copwatching") để theo dõi hành vi của các sĩ quan của Sở Cảnh sát Oakland và thách thức sự tàn bạo của cảnh sát trong thành phố. Năm 1969, một loạt các chương trình xã hội cộng đồng đã trở thành một hoạt động cốt lõi của đảng này. Đảng đã thiết lập Chương trình Bữa sáng Miễn phí cho Trẻ em để giải quyết vấn đề bất công trong thực phẩm và các phòng khám y tế cộng đồng để giáo dục và điều trị các bệnh bao gồm thiếu máu hồng cầu hình liềm, bệnh lao và sau đó là HIV / AIDS.
{ "split": 0, "title": "Đảng Black Panther", "token_count": 297 }
616
Title: Đảng Black Panther Các thành viên của Đảng Black Panther đã tham gia vào nhiều vụ đấu súng gây tử vong với cảnh sát. Newton tuyên bố: Malcolm, không thể hiểu được ở mức độ cuối cùng, được tổ chức cho quần chúng da đen... giải phóng khỏi xiềng xích của kẻ áp bức và vòng tay phản bội của những phát ngôn viên được chứng thực [Đen]. Chỉ với khẩu súng quần chúng da đen đã bị từ chối chiến thắng này. Nhưng họ đã học được từ Malcolm rằng với khẩu súng, họ có thể lấy lại giấc mơ của mình và biến chúng thành hiện thực. Huey Newton bị cáo buộc đã giết sĩ quan John Frey vào năm 1967 và Eldridge Cleaver (Bộ trưởng Thông tin) đã chỉ huy một cuộc phục kích vào năm 1968 của các sĩ quan cảnh sát ở Oakland, trong đó hai sĩ quan bị thương và Panther Bobby Hutton (Thủ quỹ) đã bị giết. Những người xâm nhập của FBI đã khiến cả nhóm phải chịu nhiều xung đột nội bộ, dẫn đến vụ giết Alex Rackley và Betty Van Patter. Năm 1967, Đạo luật Mulford được thông qua bởi cơ quan lập pháp và thống đốc bang California Ronald Reagan, thiết lập luật quản lý súng nghiêm ngặt, tước quyền sở hữu hợp pháp vũ khí từ các thành viên Black Panther và ngăn chặn mọi công dân, đen và trắng, mang súng công khai. Năm 1969, Cục trưởng Cục Điều tra Liên bang J. Edgar Hoover mô tả đảng này là "mối đe dọa lớn nhất đối với an ninh nội bộ quốc gia." Ông đã phát triển và giám sát một chương trình phản gián sâu rộng (COINTELPRO) về giám sát, xâm nhập, khai man, quấy rối cảnh sát và nhiều chiến thuật khác, được thiết kế để làm suy yếu sự lãnh đạo của Panther, buộc tội và ám sát các đảng viên, làm mất uy tín và tội phạm của đảng.. Chương trình này chịu trách nhiệm về vụ ám sát Fred Hampton, và bị buộc tội ám sát các thành viên Black Panther khác, bao gồm cả Mark Clark.
{ "split": 1, "title": "Đảng Black Panther", "token_count": 448 }
617
Title: Đảng Black Panther Sự khủng bố của chính phủ ban đầu đã góp phần vào sự phát triển của đảng, vì các vụ giết và bắt giữ Panthers đã tăng cường sự ủng hộ giữa những người Mỹ gốc Phi và phe chính trị rộng lớn, cả hai đều coi Panthers là một lực lượng mạnh mẽ chống lại sự phân biệt trên thực tế và dự thảo quân sự. Đảng này đã ghi danh nhiều thành viên nhất và có ảnh hưởng nhất ở Khu vực Vịnh Oakland-San Francisco, New York, Chicago, Los Angeles, Seattle và Philadelphia. Có nhiều chi nhánh của đảng hoạt động trong nhiều nhà tù, vào thời điểm ngày càng nhiều thanh niên Mỹ gốc Phi bị tống giam. Tư cách thành viên của Black Panther đạt đến đỉnh điểm vào năm 1970, với các văn phòng ở 68 thành phố và hàng ngàn thành viên, nhưng nó đã bắt đầu suy giảm trong thập kỷ tiếp theo. Sau khi các nhà lãnh đạo và các thành viên của nó bị báo chí chính thống phỉ báng, sự ủng hộ của công chúng đối với đảng đã suy yếu, và nhóm trở nên cô lập hơn. Cuộc chiến giữa các lãnh đạo của Đảng, phần lớn được thúc đẩy bởi hoạt động COINTELPRO của FBI, dẫn đến việc trục xuất và đào tẩu làm suy giảm tư cách thành viên. Sự ủng hộ phổ biến cho Đảng đã giảm thêm sau khi các báo cáo về các hoạt động tội phạm bị cáo buộc của nhóm, chẳng hạn như buôn bán ma túy và tống tiền các thương nhân ở Oakland. Đến năm 1972, hầu hết các hoạt động của Panther tập trung vào trụ sở quốc gia và một trường học ở Oakland, nơi đảng tiếp tục ảnh hưởng đến chính trị địa phương. Mặc dù chịu sự giám sát của cảnh sát liên tục, chi nhánh Chicago cũng vẫn hoạt động và duy trì các chương trình cộng đồng của họ cho đến năm 1974. Chi nhánh Seattle tồn tại lâu hơn hầu hết, với chương trình ăn sáng và phòng khám y tế vẫn tiếp tục ngay cả sau khi chi nhánh này tan rã vào năm 1977. Đảng tiếp tục suy giảm trong suốt những năm 1970 và đến năm 1980 chỉ có 27 thành viên.
{ "split": 2, "title": "Đảng Black Panther", "token_count": 452 }
618
Title: Đảng Black Panther Lịch sử của Đảng này đang gây tranh cãi. Các học giả đã mô tả Đảng Black Panther là tổ chức phong trào đen có ảnh hưởng nhất vào cuối những năm 1960 và "mối liên kết mạnh mẽ nhất giữa Cuộc đấu tranh giải phóng đen trong nước và các đối thủ toàn cầu của chủ nghĩa đế quốc Mỹ". Các nhà bình luận khác đã mô tả Đảng là tội phạm nhiều hơn chính trị, đặc trưng bởi "tư thế thách thức hơn là thực chất".
{ "split": 3, "title": "Đảng Black Panther", "token_count": 103 }
619
Title: Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên () hoặc KNRP, là một đảng dân tộc chủ nghĩa được hình thành bởi những người lưu vong ở Thượng Hải vào năm 1935 để chống lại sự chiếm đóng Hàn Quốc của Nhật Bản. Ban đầu đây là chính đảng dân tộc chủ nghĩa của Triều Tiên, nhưng khi Chiến tranh Trung-Nhật (1937–45) tiến triển, Đảng Quốc dân Triều Tiên đối thủ, sau này là Đảng Độc lập Hàn Quốc, đã giành được nhiều ảnh hưởng hơn với chính phủ Quốc dân Đảng ở Trùng Khánh và nắm quyền thống trị Chính phủ lâm thời Hàn Quốc. KNRP của Hoa Kỳ là một nhân tố quan trọng như một nguồn tài chính và một liên kết với chính phủ Hoa Kỳ. KNRP bị giải thể vào năm 1947. Bối cảnh và thành lập. Sau Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất năm 1894–95, ảnh hưởng của Nhật Bản tại Hàn Quốc đã tăng lên một cách ổn định. Nhật Bản sáp nhập hoàn toàn Hàn Quốc vào năm 1910. Chính phủ Lâm thời Hàn Quốc (KPG) được thành lập tại Thượng Hải vào ngày 10 tháng 4 năm 1920, với Syngman Rhee được chỉ định làm thủ tướng. KPG đã bị tách ra bởi những bất đồng giữa những người Cộng sản, những người dân chủ tự do và những người cực hữu. Sau khi người Nhật chiếm Mãn Châu Quốc vào năm 1931, chính phủ Trung Quốc đã hỗ trợ những người theo chủ nghĩa dân tộc Hàn Quốc. Liên đoàn Thống nhất Mặt trận Chống Nhật Bản được thành lập vào ngày 10 tháng 11 năm 1932, song những bất đồng vẫn tồn tại.
{ "split": 0, "title": "Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên", "token_count": 345 }
620
Title: Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên Trong nỗ lực hình thành một mặt trận thống nhất, Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên (KNRP) được thành lập tại Thượng Hải vào năm 1935 thông qua một nhóm các đảng dân tộc chủ nghĩa cánh tả của Triều Tiên. Các nhà sáng lập đảng bao gồm Kim Kyu-sik, Kim Won-bong và Jo So-ang. Nhóm sáng lập mạnh nhất là Uiyǒldan, và thủ lĩnh Kim Won-bong đã trở thành thủ lĩnh của đảng mới. Đảng có một mặt trận quân sự với mục tiêu chấm dứt sự thống trị của đế quốc Nhật Bản. Khi gia nhập KNRP, Đảng Cách mạng Triều Tiên có một đội quân nhỏ. với khoảng 400 vũ khí và 1.000 binh lính. Khoảng 200 binh sĩ của đảng đã ở lại Mãn Châu. Chương trình chính trị của KNRP đã biện minh cho việc trang bị vũ khí cho quần chúng cho cuộc kháng chiến vũ trang trong cơ quan "Cách mạng Quốc gia" của nó như sau,Mặt trận thống nhất quốc gia không thể bị kiểm soát bởi "chủ nghĩa" hoặc chương trình chính trị của bất kỳ giai cấp cụ thể nào. Nếu, trong những hoàn cảnh như hiện tại khi "chủ nghĩa" và chương trình chính trị đối nghịch nhau, chúng ta cố gắng kiểm soát tất cả mọi người bằng "chủ nghĩa" hoặc chương trình chính trị của một giai cấp cụ thể, chúng ta sẽ kết thúc với việc một giai cấp cụ thể thực hiện chế độ độc tài trên quốc gia hoặc với tất cả các thành phần của dân tộc trừ giai cấp cụ thể đó bị loại khỏi mặt trận thống nhất của phong trào dân tộc. Thời kỳ trước chiến tranh (1935–1937). Từ năm 1933 trở đi, chính phủ Quốc dân đảng Trung Quốc đã nhiều lần nhượng bộ các yêu cầu của Nhật Bản, bao gồm cả Thỏa thuận He-Umezu vào tháng 6 năm 1935 nhằm loại bỏ quân đội và quan chức chống đối. KNRP đã quyết định cử các đặc vụ được đào tạo tới Hàn Quốc, Bắc Trung Quốc và Mãn Châu để tạo ra sự nhầm lẫn thông qua việc ám sát các quan chức Nhật Bản và phá hủy các cơ sở quân sự. Mười lăm điệp viên đã được gửi đến Mãn Châu vào tháng 3 năm 1936, và cuối năm đó, bốn mươi hoặc năm mươi điệp viên khác đã được gửi đến Triều Tiên, Bắc Trung Quốc và Mãn Châu.
{ "split": 1, "title": "Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên", "token_count": 501 }
621
Title: Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên Đã có những căng thẳng giữa Kim Won-bong và Yi Chong-chon, người đứng đầu bộ phận quân sự KNRP. Kim Won-bong có nhiều ảnh hưởng hơn ở Nam Kinh, nhưng Yi Chong-chon có nhiều quyền lực hơn ở Mãn Châu.  Về mặt ý thức hệ, Yi Chong-chon gần với phái hữu Kim Koo hơn là với Kim Won-bong. Vào tháng 8 năm 1936, một âm mưu trái phép của Kim Won-bong nhằm sử dụng bom chống lại chính phủ Quốc dân đảng và người Nhật đã bị phát hiện. Những người ủng hộ Yi Chong-chon đã sử dụng vụ việc để cố gắng trục xuất Kim Won-bong khỏi KNRP. Vào tháng 10 đến tháng 11 năm 1935, những người theo Kim Koo và những người khác từ chối tham gia mặt trận thống nhất hoặc những người đã đào thoát khỏi đảng bắt đầu nhóm họp với tư cách là "Phiên họp tạm thời của Hội đồng lập pháp Chính phủ lâm thời", và thành lập một nội các bộ trưởng. Chính phủ Lâm thời Hàn Quốc (KPG) tấn công KNRP và thành lập một đảng mới, Đảng Quốc gia Hàn Quốc, với Kim Gu làm chủ tịch đảng. KPG ủng hộ cách tiếp cận ngoại giao trái ngược với hành động du kích và liên kết với Hoa Kỳ, trong khi KNRP liên kết với Liên Xô. Chính phủ Lâm thời và Đảng Quốc đại Triều Tiên có ít tín đồ và đạt được ít thành tựu trước năm 1937. Năm 1937, một cánh tả của KNRP tách ra để thành lập Mặt trận Quốc gia Hàn Quốc do Choe Chang-ik và những người khác đứng đầu. Chiến tranh Trung-Nhật (1937–1945).
{ "split": 2, "title": "Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên", "token_count": 362 }
622
Title: Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên Xung đột giữa Nhật Bản và Trung Quốc bắt đầu từ sự kiện Lư Câu Kiều vào ngày 7 tháng 7 năm 1937. Vào thời điểm này, hai đảng lưu vong chính của Triều Tiên là Đảng Độc lập cực hữu Hàn Quốc (Han-guk Dong-ripDang), hay KIP, được hỗ trợ bởi Kim Koo, Jo So-ang và Ji Cheong-cheon và Đảng Cánh tả Quốc gia Cách mạng Hàn Quốc (KNRP) do Kim Yak-san và Kim Kyu-sik lãnh đạo. Ngày 10 tháng 7 năm 1937, chính phủ Trung Quốc mời Kim Won-bang, Kim Koo và các nhà lãnh đạo Triều Tiên khác đến dự một hội nghị tại Lushan, nơi những người Triều Tiên chấp nhận một đề nghị số tiền lớn và đồng ý ủng hộ một mặt trận thống nhất chống Nhật Bản. Vào tháng 9, các nhà lãnh đạo Triều Tiên đã được gọi lại và yêu cầu điều động những người trẻ tuổi Triều Tiên làm nhiệm vụ tình báo. Vào ngày 1 tháng 12 năm 1937, 38 nam thanh niên Triều Tiên đã được ghi danh vào đơn vị huấn luyện đặc biệt của Học viện Quân sự Shengtze ở Nam Kinh. Phần lớn là từ KNRP. Chính phủ Trung Quốc rời Thượng Hải vào ngày 8 tháng 11 năm 1937 và Nam Kinh vào ngày 13 tháng 12 năm 1937. Hầu hết người dân Triều Tiên của cả hai đảng chính đều theo chính phủ rút lui. Trước đó, họ đã thành lập một liên đoàn. Vào tháng 5 năm 1938, có một nỗ lực bất thành nhằm ám sát Kim Koo. Quyền lực của những người theo chủ nghĩa dân tộc cánh hữu suy giảm sau vụ này cho đến năm 1940. KNRP đã thành lập Quân đoàn tình nguyện Hàn Quốc làm tổ chức quân sự của mình vào tháng 10 năm 1938, trên thực tế, lực lượng này do Hội đồng Quân sự Quốc gia Trung Quốc kiểm soát.
{ "split": 3, "title": "Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên", "token_count": 401 }
623
Title: Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên Vào tháng 5 năm 1939, hai nhà lãnh đạo Triều Tiên đã ban hành một "Thư ngỏ gửi các đồng chí và đồng bào", trong đó họ thú nhận rằng họ đã sai lầm khi không đoàn kết trong quá khứ và kêu gọi tất cả người dân Triều Tiên đoàn kết. Họ chủ trương hợp nhất tất cả các tổ chức hiện có thành một tổ chức thống nhất mới. Tuy nhiên, những người theo phe trái và phải của họ đã chống lại sự thống nhất.  KIP thành lập Quân đội Khôi phục Triều Tiên (KRA) vào tháng 9 năm 1939, mà Kim Ku muốn giữ lại như một đơn vị độc lập, mà không được chính phủ Trung Quốc chấp thuận trước. Chính phủ Trung Quốc muốn kết hợp KIP và KNRP lại với nhau. Khi điều này tỏ ra khó khăn, từ năm 1941 trở đi, họ đã ủng hộ KIP của Kim Koo. Vào mùa hè năm 1941, một số thành viên của KNRP và chi nhánh quân sự của nó, Quân đoàn tình nguyện Hàn Quốc, đã chuyển đến khu vực Đảng Cộng sản Trung Quốc ở Tây Bắc Trung Quốc. Mặc dù chính phủ Quốc dân đảng Trung Quốc vẫn không coi KNRP là một tổ chức cấp tiến, nhưng họ bắt đầu ủng hộ nhóm của Kim Ku. Vào những năm 1940, KNRP, với các thành viên nói chung là những người lưu vong trẻ hơn và tiến bộ hơn, đã thách thức quyền lực của Chính phủ Lâm thời Hàn Quốc (KPG) ở Trùng Khánh. Có nguồn tin cho rằng Kim Koo đã "chấp nhận các thỏa thuận từ chính phủ Trung Quốc nhằm hạn chế phong trào cách mạng Triều Tiên để đổi lấy một khoản trợ cấp hàng tháng." KNRP nhận được sự hỗ trợ từ Trung Quốc để thành lập Quân đội Khôi phục Triều Tiên, có 3.600 quân vào năm 1943. Đội quân này được tổ chức ở các khu vực hậu phương, nhưng tham gia vào các hoạt động tuyên truyền, tình báo và du kích ở một mức độ hạn chế.
{ "split": 4, "title": "Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên", "token_count": 424 }
624
Title: Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên Vào tháng 10 năm 1942, hai trong số những người cánh tả được kết nạp vào Hội đồng quốc gia của Chính phủ lâm thời ở Trùng Khánh là Kim Kyu-sik và Chang Kon-sang. Những người cánh tả bất hợp tác và việc sửa đổi hiến pháp bị trì hoãn cho đến tháng 4 năm 1944. Trong cuộc bầu cử diễn ra sau Đảng Độc lập Hàn Quốc đã giành được tám ghế trong hội đồng, KNRP đã giành được bốn ghế, và một ghế thuộc về Liên đoàn Giải phóng Nhân dân Triều Tiên và một người theo chủ nghĩa vô chính phủ. Kim Koo vẫn giữ chức chủ tịch, Kim Kyu-sik là phó chủ tịch và Kim Won-bong được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Quân sự. Hậu chiến (1945-1947). Sau khi Nhật Bản bị đánh bại, Mỹ và Liên Xô đã đồng ý về việc phân chia tạm thời Triều Tiên với vĩ tuyến 38 làm ranh giới phân chia cho đến khi một chính phủ thống nhất của Triều Tiên có thể được thành lập. Kim Kyu-sik đã gặp Kim Nhật Thành của Triều Tiên và kêu gọi ông ủng hộ một Triều Tiên thống nhất, độc lập. Tại một hội nghị ở Mátxcơva vào tháng 12 năm 1945 tại, Hàn Quốc đã đồng ý đặt Triều Tiên dưới chế độ ủy thác lên đến 5 năm, một thỏa thuận bị người dân Triều Tiên thuộc mọi khuynh hướng chính trị phản đối mạnh mẽ. Syngman Rhee nổi lên như một nhà lãnh đạo ôn hòa và bảo thủ ở miền nam, trong khi Kim Nhật Thành được người Nga ở miền bắc ủng hộ. KNRP bị giải thể vào năm 1947. Hoa Kỳ. Một nhóm sinh viên Hàn Quốc ở Nam California đã bắt đầu nhóm họp tại Friday Forum ngay trước khi chiến tranh Trung-Nhật bùng nổ để thảo luận về tình hình. Họ đi đến kết luận rằng tương lai của Hàn Quốc nằm ở khối Cộng sản, không phải với Mỹ và các nước tư bản phương Tây. Cuối cùng, họ trở thành chi nhánh Bắc Mỹ của KNRP, quyên tiền để hỗ trợ các nhà cách mạng Hàn Quốc ở Trung Quốc và khuyến khích các thành viên tình nguyện cho Quân đội Khôi phục Triều Tiên.
{ "split": 5, "title": "Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên", "token_count": 469 }
625
Title: Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên Tại Mỹ, Hiệp hội Quốc gia Hàn Quốc (KNA) và hầu hết những người nhập cư Triều Tiên được thành lập đã ủng hộ Đảng Độc lập cực hữu của Triều Tiên. KNRP và Liên đoàn Nhân dân Trung-Triều, được thành lập ở Hawaii vào đầu những năm 1930, đại diện cho thiểu số cánh tả nhỏ là người Mỹ gốc Hàn. Những người ủng hộ nước này đã tham gia gây quỹ để giúp đỡ các nỗ lực quân sự ở Trung Quốc và tổ chức các cuộc biểu tình phản đối Nhật Bản. Soon Hyun (1879–1968) thành lập và trở thành chủ tịch của chi nhánh ở Hawaii của KNRP. Năm 1940, ông làm việc chặt chẽ với Kim Kyu-sik và Kim Koo ở Trùng Khánh. Năm 1946, sau khi Hàn Quốc được giải phóng khỏi Nhật Bản và đặt dưới sự quản lý của chính phủ quân sự Mỹ, Soon Hyun bị từ chối cho phép quay trở lại Hàn Quốc, có lẽ vì vị trí của ông trong đảng. Giáo sĩ Giám lý Lee Kyungsun đứng đầu Hiệp hội Viện trợ Trung Quốc, Hiệp hội Viện trợ Quân đoàn Tình nguyện Hàn Quốc ở Trung Quốc và chi nhánh Mỹ (Los Angeles) của KNRP, những tổ chức ủng hộ hành động vũ trang. Sau đó, ông gia nhập Đảng Cộng sản Hoa Kỳ, và năm 1949 trở về Bắc Triều Tiên. Kilsoo Haan của Liên đoàn Nhân dân Trung-Triều Hawaii đã cố gắng liên kết mình với KNRP trên đất liền, nhưng họ không coi trọng ông. Tiến sĩ Syngman Rhee, người đã tuyên bố đại diện cho KPG, sẽ không hợp tác với Kilsoo Haan. Các cơ quan tình báo Mỹ nghi ngờ động cơ và quyền hạn của Kilsoo Haan, và không chắc liệu có ai trong số những người lưu vong có thể thành lập một chính phủ khả thi ở Hàn Quốc sau khi Nhật Bản bị đánh bại hay không.
{ "split": 6, "title": "Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên", "token_count": 405 }
626
Title: Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên Vào mùa xuân năm 1941, Ủy ban Hàn Quốc thống nhất tại Mỹ (UKC) được thành lập để thống nhất tất cả các nhóm người Hàn Quốc ở Hoa Kỳ và Hawaii. Nhiệm vụ của UKC là hỗ trợ KPG ở Trung Quốc và Syngman Rhee, giám đốc Ủy ban Hàn Quốc của KPG ở Washington, DC. UKC hiểu rằng vì người Hàn Quốc ở Mỹ được phân loại là công dân Nhật Bản nên tình trạng của họ sẽ không chắc chắn khi Mỹ tham gia. cuộc chiến chống Nhật. Rõ ràng rằng tổ chức này "tự nguyện được thúc đẩy bởi lòng yêu nước và hơn nữa là các nỗ lực chiến tranh chống lại Nhật Bản" và sẽ hỗ trợ Liên Hợp Quốc trong việc khôi phục nền độc lập của Hàn Quốc. UKC bao gồm các Hiệp hội Quốc gia Hàn Quốc ở Bắc Mỹ và Hawaii và Trụ sở Trung ương của Tongjihoe của Hawaii với Liên đoàn Nhân dân Trung-Hàn nhỏ hơn ở Hawaii, Đảng Độc lập Hàn Quốc, KNRP của Los Angeles, Hội Phụ nữ Yêu nước Hàn Quốc ở Los Angeles, Phụ nữ Hàn Quốc Hội Cứu trợ Hawaii và Liên đoàn Độc lập Hawaii của Hàn Quốc. Các nhóm thành viên vẫn còn nguyên vẹn và tiếp tục các chương trình nội bộ của họ, nhưng UKC sẽ quản lý tất cả các hoạt động chính trị và ngoại giao của phong trào độc lập Triều Tiên. KNRP cung cấp quỹ cho Hiệp hội Cơ đốc giáo Hàn Quốc, tổ chức này đã gửi các gói chăm sóc cho những người Mỹ gốc Hàn đã gia nhập quân đội, cũng như Nhà thờ Giám lý Hàn Quốc ở Los Angeles (KMCLA). KNRP của Mỹ bắt đầu xuất bản một tờ báo hàng tuần bằng tiếng Anh và tiếng Hàn vào ngày 6 tháng 10 năm 1943.  "Độc lập của Hàn Quốc" được sản xuất tại Los Angeles trong khuôn viên trên Đại lộ Tây Jefferson. Diamond Kimm là tổng giám đốc. Kilsoo Haan đã đóng góp các bài báo cho tờ báo phản ánh quan điểm cánh tả và Cơ đốc giáo của ông. Tổ chức này hoạt động vì nền độc lập của Hàn Quốc trong Chiến tranh Thái Bình Dương, và thường xuất bản các bài xã luận ủng hộ nỗ lực của Mỹ trong cuộc đấu tranh chống Nhật Bản. Sau khi chiến tranh kết thúc vào tháng 8 năm 1945, tờ báo bắt đầu đăng các bài xã luận phản đối chính phủ quân sự Mỹ ở Hàn Quốc.
{ "split": 7, "title": "Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên", "token_count": 508 }
627
Title: Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên Cục Điều tra Liên bang (FBI) và Dịch vụ Di trú và Nhập tịch đặt dưới sự giám sát. FBI, Cơ quan Nhập cư và Nhập tịch và Ủy ban Hoạt động Người Mỹ không thuộc Hạ viện bắt đầu quấy rối các nhà lãnh đạo Friday Forum, trục xuất hoặc bỏ tù họ. Người lãnh đạo Friday Forum cuối cùng rời đi Triều Tiên vào năm 1957 và phong trào tan rã.
{ "split": 8, "title": "Đảng Cách mạng Quốc gia Triều Tiên", "token_count": 93 }
628
Title: Đảng Cải cách Hoa Kỳ Đảng Cải Cách Hoa Kỳ là một đảng phái chính trị tại Mỹ được thành lập năm 1955 bởi Ross Perot. Trụ sở hiện đặt tại Bohemia New York. Đây là một Đảng phái không nổi tại Mỹ với số lượng đảng viên là khoảng hơn 18.000 đảng viên tại Mỹ. Sự thành lập. Perot, người đã nhận được 18,9% phiếu phổ thông như là một ứng cử viên độc lập trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1992 và muốn tham gia vào cuộc bầu cử Tổng thống năm 1996, cho rằng người Mỹ đã không đồng ý với chính trị là tham nhũng và không thể giải quyết các vấn đề quan trọng. Perot tuyên bố đại diện cho một thay thế khả thi cho Đảng Cộng hòa và Dân chủ, và kết quả là thành lập Đảng Cải cách. Perot giành được 8,4% phiếu phổ thông vào năm 1996. Mặc dù ông không đến gần để giành chức Tổng thống Hoa Kỳ nhưng không có ứng cử viên thứ ba hoặc độc lập nào từ đó giành được số phiếu bầu cao như vậy. Đảng đã đề cử một số ứng cử viên đáng chú ý trong những năm qua, như ông Perot, Pat Buchanan, và Ralph Nader, và cũng được tính trong số các thành viên của mình như Donald Trump, người sau này trở thành Tổng thống thứ 45 của Hoa Kỳ dưới một Vé của đảng Cộng hòa. Chiến thắng quan trọng nhất của nó đến khi Jesse Ventura được bầu làm Thống đốc bang Minnesota vào năm 1998, mặc dù ông rời đảng ngay trước nhiệm kỳ của mình. Vào khoảng năm 2000, các cuộc đấu đá nội bộ và vụ xì căng đan của đảng đã dẫn đến sự sụt giảm mạnh mẽ của đảng. Bắt đầu với sự xuất hiện nghèo nàn của Buchanan trong cuộc bầu cử năm 2000, không ứng cử viên nào của đảng Cải cách đã có thể đạt được ít nhất 1% phiếu bầu. Các phong trào.
{ "split": 0, "title": "Đảng Cải cách Hoa Kỳ", "token_count": 397 }
629
Title: Đảng Cải cách Hoa Kỳ Đảng đã phát triển từ những nỗ lực của Ross Perot trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1992, nơi mà hoạt động như một người độc lập - ông trở thành ứng cử viên đảng không phải là đảng lớn đầu tiên kể từ năm 1912 để được coi là đủ khả năng để giành chức Tổng thống. Perot đã tạo ra sự bùng nổ bằng cách tập trung vào các vấn đề tài chính như thâm hụt ngân sách liên bang và nợ quốc gia; các vấn đề cải cách của chính phủ như giới hạn về thời hạn, cải cách tài chính chiến dịch và cải cách vận động; và các vấn đề thương mại. Phần lớn những điều sau đây của anh ta được dựa trên niềm tin anh ta đang giải quyết các vấn đề quan trọng bị bỏ qua bởi hai điểm chính. Một cuộc thăm dò của Gallup cho thấy Perot với một sự lãnh đạo mỏng, nhưng vào ngày 19 tháng 7, ông ta đã ngừng chạy đua, cáo buộc các điệp viên Cộng hòa đang đe dọa phá hoại đám cưới của con gái mình. Ông đã bị Newsweek buộc tội là "người bỏ học" trong một bài báo trên bìa trang công khai. Sau khi bắt đầu chiến dịch của mình vào ngày 1 tháng 10, Perot đã bị chú ý bởi tên "quitter" và các cáo buộc khác liên quan đến nhân vật của anh. Vào Ngày Bầu cử, nhiều cử tri đã bị nhầm lẫn về việc liệu Perot có thực sự là ứng cử viên hay không. Ông đã nhận được khoảng 18.9% phiếu bầu phổ thông, mức độ phổ biến kỷ lục không được nhìn thấy trong một ứng cử viên độc lập kể từ khi cựu Tổng thống Theodore Rốevelt chạy vào "Bull Moose" Đảng Progressive vào năm 1912. Ông tiếp tục tham gia chính trị sau cuộc bầu cử, chuyển tổ chức vận động (United We Stand America) thành một nhóm vận động hành lang. Một trong những mục tiêu chính của ông là thất bại của Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ trong thời kỳ này. Bầu cử 1992.
{ "split": 1, "title": "Đảng Cải cách Hoa Kỳ", "token_count": 436 }
630
Title: Đảng Cải cách Hoa Kỳ Ban đầu, khi mùa bầu cử năm 1996 đến, Perot đã không tham gia cuộc thi để đề cử cho đảng Cải cách Đảng, kêu gọi người khác thử vé. Người duy nhất tuyên bố ý định đó là Dick Lamm, cựu Thống đốc Colorado. Sau khi Ủy ban Bầu cử Liên bang cho biết chỉ có Perot chứ không phải Lamm sẽ có thể đảm bảo các quỹ hợp nhất của liên bang - vì chiến dịch năm 1992 của ông như là một độc lập-Perot bước vào cuộc đua. Một số cảm thấy thất vọng vì Perot thay đổi ý định của mình, bởi vì theo quan điểm của họ, Perot đã làm lu mờ cuộc chạy đua của Lamm cho sự đề cử của đảng. Điều này được tạo ra từ khi bắt đầu một mảnh vỡ trong phong trào, khi nó được cho là những vấn đề nhất định trong quy trình chính - chẳng hạn như nhiều người ủng hộ Lamm không nhận được lá phiếu, và một số cử tri chính nhận được nhiều lá phiếu - là việc của Perot. Đảng Cải cách tuyên bố những vấn đề này bắt nguồn từ quá trình kiến ​​nghị đưa Đảng Cải cách vào cuộc bỏ phiếu ở tất cả các tiểu bang vì đảng này tuyên bố họ sử dụng tên và địa chỉ của người ký đơn làm cơ sở nhận được lá phiếu. Các lá phiếu chính được gửi bằng thư tới cử tri được chỉ định. Cuối cùng, Perot được đề cử và ông đã chọn nhà kinh tế học Pat Choate làm ứng cử viên phó tổng thống của mình [4]. Loại trừ khỏi các cuộc tranh luận.
{ "split": 2, "title": "Đảng Cải cách Hoa Kỳ", "token_count": 333 }
631
Title: Đảng Cải cách Hoa Kỳ Từ năm 1992 đến năm 1996, Ủy ban về Các Cuộc tranh luận Tổng thống đã thay đổi các quy tắc của nó về cách ứng viên có thể hội đủ điều kiện để tham gia vào cuộc tranh luận tổng thống. Vì Perot đã làm rất tốt trong các cuộc tranh luận, đó là một động lực quyết định cho chiến dịch này khi Ủy ban phán quyết rằng ông không thể tham gia trên cơ sở các tiêu chí mơ hồ - chẳng hạn như một ứng cử viên cần phải được xác nhận bởi " số lượng đáng kể các tổ chức tin tức lớn ", với" đáng kể "là một số do Ủy ban quyết định dựa trên từng trường hợp cụ thể. Perot không thể đủ tiêu chuẩn cho cuộc tranh luận năm 1992 theo những quy tắc này, và có thể cho thấy nhiều vị tổng thống nổi tiếng khác của Mỹ cũng đã bị loại khỏi cuộc tranh luận hiện đại của Ủy ban về Các cuộc tranh luận của Tổng thống [4]. Mặc dù hoạt động pháp lý của nhóm Perot và 80% người Mỹ ủng hộ sự tham gia của ông trong các cuộc tranh luận, Ủy ban đã từ chối nhúc nhích và Perot đã giảm điểm của mình thông qua một loạt các quảng cáo "nửa giờ". Cuối cùng, Perot và Choate đã giành được 8% phiếu.
{ "split": 3, "title": "Đảng Cải cách Hoa Kỳ", "token_count": 270 }
632
Title: Đảng Cộng sản Estonia Đảng Cộng sản Estonia (tiếng Estonia: Eestimaa Kommunistlik Partei, tiếng Nga: Коммунистическая партия Эстонии, EKP) là một đảng chính trị ở Estonia. EKP được thành lập ngày 5 tháng 11 năm 1920 khi Ủy ban Trung ương phòng Estonia của các bộ phận Đảng Cộng sản Nga (Bolshevik) đã được tách ra từ đảng mẹ của EKP. Trong nửa đầu của năm 1920 với hy vọng một cuộc cách mạng thế giới ngay lập tức vẫn được đảng này nung nấu và những người cộng sản Estonia cộng sản đã hy vọng riêng phục hồi lại quyền lực của họ. Cuộc khủng hoảng kinh tế và xã hội rộng rãi cho rất nhiều hỗ trợ cho rằng loại của hy vọng. Hoạt động của đảng này đã không chỉ để hỗ trợ chương trình nghị sự, nhưng cũng sẵn sàng tham gia vào các hành động bất hợp pháp, chẳng hạn như tổ chức căn hộ bí ẩn, vận chuyển vũ khí và các tài liệu tuyên truyền cộng sản, che giấu hoạt động bí mật và thu thập thông tin cho cách mạng. Kết quả trong một tình huống xung đột thường trực với các chính phủ. Do được định hướng không phải đến các mục tiêu hợp pháp, đảng EKP không bao giờ cố gắng để hợp pháp hóa tại Cộng hòa tiếng Estonia, cũng như không từ bỏ nhu cầu cho các cuộc nổi dậy vũ trang và tham gia Estonia vào Liên Xô. Mặc dù EKP đã giảm xuống thấp hơn từ phổ biến của họ năm 1917, nó vẫn có hỗ trợ đáng chú ý chủ yếu là giữa các giai cấp vô sản công nghiệp, nhưng đôi khi cũng trong số những người nông dân không có đất, những người thất nghiệp, giáo viên và học sinh. Đặc biệt là vào những năm 1920, đảng đã có vị trí mạnh mẽ trong phong trào công đoàn. Trong cuộc bầu cử quốc hội EKP tổ chức trước đã luôn luôn nhiều hơn 5% số phiếu bầu. Tuy nhiên, sau âm mưu đảo chính thất bại bởi những người cộng sản Estonia vào ngày 01 tháng 12 năm 1924, đảng bị mất này hỗ trợ và thành viên giảm xuống còn khoảng 7-20 người và vẫn còn thấp cho đến khi năm 1940. Theo hồ sơ riêng của ECP, có chỉ có 150 đảng viên tại thời điểm sự chiếm đóng của Liên Xô vào tháng 7 năm 1940.
{ "split": 0, "title": "Đảng Cộng sản Estonia", "token_count": 477 }
633
Title: Đảng Cộng sản Thái Lan Đảng Cộng sản Thái Lan (Tiếng Thái: พรรคคอมมิวนิสต์แห่งประเทศไทย) hay còn gọi là đảng CPT, tiền thân là "Đảng Cộng sản Xiêm" là một trong những chính đảng lớn đã từng tồn tại trong Lịch sử Thái Lan. Thành lập vào 1 tháng 10 năm 1942 và phát triển mạnh trong những năm của Chiến tranh Lạnh. Đảng Cộng sản Thái Lan từng là đảng cộng sản mạnh thứ nhì Đông Nam Á sau Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau sự kiện Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, đảng này và các phe cánh tả đã dần tan rã mà suy vong hoàn toàn hoặc suy yếu và không hề còn tồn tại từ đầu những năm 1990. Lịch sử. Năm 1929, Hồ Chí Minh thừa lệnh Quốc tế Cộng sản thực hiện hợp nhất hai tổ chức cộng sản của người Hoa và người Việt tại Thái Lan thành Đảng Cộng sản Xiêm. Đảng này hoạt động bí mật với chủ trương lật đổ hoàng gia Thái bằng bạo lực. Đảng phát triển nhanh chóng và lôi kéo được thành phần dân nghèo nhưng bị chính quyền khủng bố và đàn áp gắt gao. Để đối phó, lãnh đạo đảng cộng sản Xiêm quyết định đào tạo một thế hệ lãnh đạo mới rồi thành lập Đảng Cộng sản Thái Lan vào ngày 1/12/1942. Năm 1948, Đảng Cộng sản Thái Lan có khoảng 3.000 đảng viên và được sự ủng hộ lớn của nông dân và dân nghèo. Đảng Cộng sản Thái Lan theo chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Mao Trạch Đông. Đảng Cộng sản Xiêm được Quốc tế Cộng sản tài trợ, sau này Đảng Cộng sản Thái Lan được cộng sản Trung Quốc và Việt Nam viện trợ bằng tiền và vũ khí, thông qua các đảng cộng sản từ các nước Campuchia, Lào, Malaysia... Năm 1960, Đảng Cộng sản Thái Lan tham dự đại hội toàn quốc lần hai của Đảng Cộng sản Việt Nam và tham gia cuộc họp Quốc tế của các đảng cộng sản và công nhân quốc tế tại Moskva. Tại hội nghị này, khi xảy ra mâu thuẫn giữa Liên Xô và Trung Quốc thì Đảng Cộng sản Thái Lan đã ngả theo Trung Quốc. Thời điểm này, số lượng đảng viên và quần chúng ủng hộ của Đảng Cộng sản Thái Lan tương đối lớn. Các tổ chức của đảng này đã có mặt ở hầu hết các tỉnh thuộc miền Bắc, Đông Bắc và miền Nam Thái Lan, kể cả thủ đô Bangkok.
{ "split": 0, "title": "Đảng Cộng sản Thái Lan", "token_count": 506 }
634
Title: Đảng Cộng sản Thái Lan Năm 1965, Quân đội Giải phóng Nhân dân Thái Lan do Đảng Cộng sản Thái Lan được thành lập. Đấu tranh vũ trang trở thành phương cách đấu tranh chính thức với sự yểm trợ của các nước cộng sản trong khu vực. Năm 1969 đảng này thành lập Mặt trận Yêu nước Thái Lan. Năm 1977, đảng Cộng sản Thái Lan đã thành lập Liên minh các Tổ chức Đấu tranh cho Dân chủ và Tự do của Thái Lan với Quân đội Giải phóng Nhân dân Thái Lan là nòng cốt. Đây là giai đoạn mạnh nhất của Đảng Cộng sản Thái Lan. Họ được sự ủng hộ của rất đông dân chúng và học sinh sinh viên nhất là sau hai vụ bạo động của sinh viên ở thủ đô Bangkok bị chính quyền Thái Lan đàn áp đẫm máu vào các ngày 14/10/1976 và 6/10/1979. Ước tính số đảng viên cộng sản và du kích của đảng Cộng sản Thái Lan gần một vạn người và khoảng một triệu người ủng hộ. Một nửa các thành phố Thái Lan có tổ chức đảng. Năm 1979, Việt Nam đưa quân sang Campuchia rồi xung đột với Thái Lan dẫn đến chính quyền cộng sản Lào cấm Đảng Cộng sản Thái Lan sử dụng lãnh thổ của mình làm căn cứ kháng chiến. Quan hệ ngoại giao, thương mại giữa Thái Lan - Trung Quốc được tái lập. Năm 1980 chính phủ Thái Lan thông qua nghị định số 66/2521 ân xá cho các thành viên Đảng Cộng sản Thái Lan về chiêu hồi. Tháng 4/1981 lãnh đạo cộng sản Thái Lan đề nghị được đàm phán hòa bình với chính quyền và chấp nhận giải giáp trước khi bắt đầu đàm phán. Tháng 10/1981, tướng Chawalit Yongchaiyud tuyên bố cuộc chiến chống các lực lượng cộng sản Thái Lan đã kết thúc. Năm 1982, Thủ tướng Prem Tinsulanonda ban hành nghị định 65/2525 tiếp tục ân xá cho các du kích cộng sản Thái Lan còn lại kèm theo các chính sách ưu đãi như cấp đất, xây nhà và hỗ trợ trong việc ổn định đời sống. Điều đó đã khiến lực lượng của đảng Cộng sản Thái Lan suy sụp nhanh chóng. Trong thời gian này hai lãnh đạo cao cấp của Đảng Cộng sản Thái Lan bị quân đội chính phủ bắt giữ khiến tổ chức Đảng Cộng sản Thái Lan chính thức tan rã.
{ "split": 1, "title": "Đảng Cộng sản Thái Lan", "token_count": 483 }
635
Title: Đảng Khu vực Đảng Khu vực (tiếng Ukraine: Партія регіонів; tiếng Nga: Партия регионов) là một đảng chính trị trung hữu và thân Nga của Ukraine được thành lập vào cuối năm 1997, sau đó phát triển thành đảng lớn nhất của Ukraine từ năm 2006 đến 2014. Kể từ cuộc cách mạng Ukraine tháng 2 năm 2014, Đảng Khu vực đã không tham gia cuộc bầu cử và hầu hết các đảng viên đã rời khỏi đảng để tiếp tục sự nghiệp của họ trong các đảng khác. Các cựu đảng viên nổi tiếng nhất là cựu Thủ tướng Mykola Azarov và cựu Tổng thống Ukraine Viktor Yanukovych; cả hai đã trốn sang Nga vào tháng 2 năm 2014. Đảng này được thành lập vào ngày 26 tháng 10 năm 1997, ngay trước cuộc bầu cử quốc hội Ukraine năm 1998, dưới tên gọi "Đảng hồi sinh khu vực của Ukraine" và do Volodymyr Rybak lãnh đạo. Trong suốt sự tồn tại của mình, đảng đã bao gồm các nhóm chính trị khác nhau với các triển vọng tư tưởng khác nhau. Đảng tổ chức lại vào năm 2001 khi nó hợp nhất với một số đảng khác. Theo lãnh đạo của đảng năm 2002, từ khi thành lập đảng đến cuối năm 2001, số lượng thành viên đã tăng vọt từ 30.000 đến 500.000. Đảng tuyên bố bảo vệ ý thức hệ và bảo vệ quyền của người dân tộc Nga và người nói tiếng Nga ở Ukraine. Ban đầu, nó ủng hộ tổng thống Leonid Kuchma và gia nhập liên minh thân chính phủ Liên hiệp Ukraine trong cuộc bầu cử quốc hội vào ngày 30 tháng 3 năm 2002. Cơ sở bầu cử và tài chính của đảng luôn được đặt chủ yếu ở phía đông và đông nam Ukraine, nơi có sự hỗ trợ bầu cử phổ biến rộng rãi. Ở tỉnh Donetsk phía đông Ukraine, đảng tuyên bố năm 2010 có hơn 700.000 thành viên. Đảng được ủng hộ chủ yếu bởi những người trung niên trên 45 tuổi. Vào năm 2010, ứng viên của đảng là ông Viktor Yanukovych đã trúng cử Tổng thống Ukraine. Đảng đã giành được 185 ghế trong quốc hội Ukraine trong cuộc bầu cử quốc hội Ukraine năm 2012. Vào ngày 12 tháng 12 năm 2012, nó đã thành lập một nhóm nghị sĩ gồm 210 đại biểu.
{ "split": 0, "title": "Đảng Khu vực", "token_count": 459 }
636
Title: Đảng Khu vực Trong cuộc cách mạng Ukraine năm 2014 vào ngày 20 tháng 2 năm 2014, một số đảng viên đã kêu gọi giải thể Ukraine và sáp nhập vào Liên bang Nga. Oleksandr Yefremov, lãnh đạo phe nghị viện Ukraine ủng hộ đầy đủ các hành động được đề xuất này, và Vladimir Konstantinov, chủ tịch Hội đồng tối cao Cộng hòa tự trị Crimea đã tới Luhansk để ủng hộ những hành động quyết định này. Vào ngày 23 tháng 2 năm 2014, Đảng Khu vực đã lên án và tách ra khỏi Victor Yanukovych vì tham nhũng, "ra những mệnh lệnh độc tài và tàn bạo", trốn thoát và hèn nhát. Những tháng tiếp theo, hơn 120 nghị sĩ rời khỏi phe phái nghị viện của đảng. Đảng Khu vực không tham gia cuộc bầu cử quốc hội năm 2014. Trong những tháng tiếp theo, phần lớn các đảng viên tiếp tục sự nghiệp chính trị của họ ở các đảng khác như "Khối Đối lập", Đảng "Tự cứu" hoặc Đảng "Vùng đất của chúng ta". Lịch sử. Đảng Hồi sinh khu vực của Ukraine. Đại hội thành lập Đảng Hồi sinh khu vực của Ukraine được tổ chức vào ngày 26 tháng 10 năm 1997 tại Kiev. Nhà lãnh đạo đầu tiên của đảng là thị trưởng của Donetsk, Volodymyr Rybak. Vào ngày 6 tháng 11 năm 1997, Đảng Hồi sinh Khu vực Ukraine đã được đăng ký tại Bộ Tư pháp Ukraine. Vào ngày 27 tháng 11 năm 1997, đã diễn ra Đại hội Đảng lần thứ nhất, thông qua danh sách và nền tảng bầu cử cho các cuộc bầu cử tiếp theo. Vào ngày 13 tháng 1 năm 1998, một phe phái nghị viện đã được thành lập tại quốc hội Ukraine, Đảng Hồi sinh khu vực của Ukraine. Trong cuộc bầu cử quốc hội năm 1998, Đảng Hồi sinh khu vực của Ukraine đã giành được 0,90% số phiếu. Một đại diện của đảng đã được bầu vào Quốc hội Ukraine bằng cách giành được một cử tri tại cuộc bầu cử thường kỳ. Đảng này nằm trong top 10 đảng đứng đầu ở Chernivtsi và Donetsk. Volodymyr Rybak là người chiến thắng khu vực bầu cử số 45 ở tỉnh Donetsk.
{ "split": 1, "title": "Đảng Khu vực", "token_count": 469 }
637
Title: Đảng Khu vực Trong Đại hội Đảng lần thứ 2 diễn ra trong hai giai đoạn vào mùa xuân năm 1999, người ta đã quyết định ủng hộ ứng cử viên tổng thống Leonid Kuchma cho cuộc bầu cử tổng thống tiếp theo. Vào mùa hè năm 1999, đảng này đã tham gia vào khối bầu cử "Sự lựa chọn của chúng tôi - Leonid Kuchma", bao gồm 23 đảng và được lãnh đạo bởi Yevhen Kushnaryov, người tán thành Tổng thống đương nhiệm Leonid Kuchma trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1999. Sự ra đời của Đảng Khu vực. Vào ngày 17 tháng 11 năm 2000, Đại hội Đảng bất thường lần thứ 3 đã thông qua việc sáp nhập năm đảng chính trị, "Vì đất nước Ukraine tươi đẹp", "Đảng hưu trí toàn Ukraine", "Đảng Lao động", "Đảng đoàn kết Ukraine" và Đảng Hồi sinh Khu vực của Ukraine, thành một tổ chức mới mang tên "Đảng Hồi sinh khu vực và Đoàn kết Lao động Ukraine". Các đồng lãnh đạo của khối chính trị mới là Valentyn Landyk, Petro Poroshenko và Volodymyr Rybak. Ngoài ra, trước khi sáp nhập, "Đảng đoàn kết Ukraine" đã bị bỏ rơi hoàn toàn bởi chính gốc của nó, "Đảng nông dân Ukraine". Vào ngày 21 tháng 2 năm 2001, Bộ Tư pháp đã đăng ký "Đảng Hồi sinh khu vực và Đoàn kết Lao động Ukraine". Vào ngày 3 tháng 3 năm 2001, tại Đại hội Đảng lần thứ 3, đảng đổi tên thành Đảng Khu vực. Tại đại hội, ông Mykola Azarov, lúc đó là chủ tịch của Cơ quan Thuế Nhà nước Ukraine, đã được bầu làm lãnh đạo đảng, nhưng sớm từ chức vào tháng 12 năm 2001, được thay thế bởi phó chủ tịch đảng và lúc đó là Phó Thủ tướng Volodymyr Semynozhenko. Trong một cuộc phỏng vấn với tờ báo "Den" vào ngày 6 tháng 3 năm 2001, Azarov nói rằng ông đã đồng ý trở thành chủ tịch trong một thời gian ngắn "cho đến khi đảng này đề cử một ứng cử viên cho chức Tổng thống Ukraine năm 2004". Vào tháng 12 năm 2001, thành viên của Đảng Khu vực Ihor Yushchko được bổ nhiệm làm Bộ trưởng Bộ Tài chính của Ukraine. Vào ngày 21 tháng 3 năm 2001, Bộ Tư pháp đã đăng ký lại đảng theo số 939 với ngày đăng ký cũ hơn.
{ "split": 2, "title": "Đảng Khu vực", "token_count": 509 }
638
Title: Đảng Khu vực Vào ngày 23 tháng 5 năm 2001, Đảng Khu vực đã ký một thỏa thuận hợp tác và hợp tác với Đảng Lao động Ukraine, và vào ngày 7 tháng 6 năm 2001, với Đảng Nông nghiệp Ukraine. "Các khu vực của Ukraine" là cánh nghị viện của Đảng Khu vực; nó được tạo ra vào cuối tháng 3 năm 2001 sau khi một số đại biểu đào thoát khỏi phe ban đầu của họ. Các nhà phê bình cho rằng các đại biểu đã bị "dụ dỗ" khỏi các phe phái khác bởi áp lực và các nhà phân tích tuyên bố hầu hết trong số họ không liên quan gì đến đảng mới. Chín trong số mười bảy thành viên của cánh này có nguồn gốc chính trị và kinh doanh tại khu vực Donetsk. Vào tháng 7 năm 2002, đảng này có một phe gồm 24 người (một người đã rời khỏi phe này sau đó). Trong cuộc bầu cử quốc hội Ukraine, Đảng Khu vực là thành viên của khối bầu cử "Ukraine Đoàn kết". Sau đó, nó được dẫn dắt bởi Volodymyr Semynozhenko. Từ ngày 21 tháng 11 năm 2002 đến ngày 7 tháng 12 năm 2004, Viktor Yanukovych là Thủ tướng Ukraine. Tại một đại hội được tổ chức vào ngày 19 tháng 4 năm 2003, Viktor Yanukovych đã được bầu làm lãnh đạo đảng, kế nhiệm Volodymyr Semynozhenko. Lúc đó Đảng Khu vực đang có 20 ghế trong quốc hội Ukraine. Thời điểm bùng nổ bầu cử. Đảng đã chuyển tư tưởng chính trị sang cánh tả và theo đuổi chủ nghĩa dân túy trước cuộc bầu cử tổng thống Ukraine năm 2004 và kết quả là Yanukovych đã giành chiến thắng trong một phần lớn của cử tri đảng Cộng sản ở miền đông Ukraine. Đảng tuyên bố hỗ trợ để biến tiếng Nga thành ngôn ngữ chính thức thứ hai tại Ukraine, chính sách đối ngoại thân Nga và tăng chi tiêu xã hội. Đảng cũng ủng hộ hệ tư tưởng khu vực và nhiều thành viên ủng hộ việc biến Ukraine thành một liên bang.
{ "split": 3, "title": "Đảng Khu vực", "token_count": 429 }
639
Title: Đảng Khu vực Đảng Khu vực trở thành phe đối lập sau khi ứng cử viên của họ, Viktor Yanukovych, thua cuộc bầu cử tổng thống năm 2004. Nhà lãnh đạo đảng lần đầu tiên tuyên bố chiến thắng bầu cử, nhưng những cáo buộc mạnh mẽ về gian lận bầu cử đã gây ra một loạt các sự kiện được biết đến là Cách mạng Cam. Trong cuộc điều hành lại cuộc bầu cử tổng thống theo lệnh của Tòa án tối cao của đất nước, Viktor Yanukovych đã thua cuộc bầu cử trước Viktor Yushchenko. Đảng Khu vực tuyên bố mình là nạn nhân của một chiến dịch đàn áp chính trị do chính phủ mới tổ chức, cũng bởi vì Borys Kolesnykov, người đứng đầu chi nhánh Đảng Khu vực và của Hội đồng Khu vực Donetsk, đã bị bắt vào tháng 4 năm 2005 và bị buộc tội "tống tiền hình sự". Đảng Khu vực tuyên bố đây là một hành động đàn áp chính trị, trong khi chính quyền tin rằng Kolesnykov có liên quan đến tội phạm có tổ chức và việc bắt giữ ông là một vấn đề hình sự. Hội đồng Châu Âu gọi cuộc điều tra là "tuân thủ đầy đủ các tiêu chuẩn châu Âu". Kolesnykov sau đó đã được xóa các cáo buộc và được thả ra khỏi nhà tù trước khi xét xử. Đảng đã ký thỏa thuận hợp tác vào năm 2005 với đảng "Nước Nga thống nhất" của Nga. Nhà tư vấn người Mỹ Paul J. Manafort đã cố vấn cho đảng và Yanukovych từ năm 2005. Kết quả bầu cử nghị viện năm 2006. Trong cuộc bầu cử quốc hội ngày 26 tháng 3 năm 2006, đảng đã giành được 32,14% phiếu bầu quốc gia và 186 trên 450 ghế trong Nghị viện (Verkhovna Rada), đồng thời trở thành khối chính trị lớn nhất trong Nghị viện. Vào ngày 6 tháng 7, Đảng Xã hội Dân chủ Ukraine đã rời "Khối Cam" gồm Đảng "Ukraine của chúng ta" và "Khối Yulia Tymoshenko" vì những thất bại trong việc thỏa thuận để tạo ra một khối chính trị khác. Vào ngày 10 tháng 7 năm 2006, đại đa số các nghị sĩ đã lập ra "Liên minh chống khủng hoảng", do Đảng Khu vực. Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản thành lập, đã đề cử Viktor Yanukovych vào vị trí thủ tướng.
{ "split": 4, "title": "Đảng Khu vực", "token_count": 495 }
640
Title: Đảng Khu vực "Liên minh chống khủng hoảng" vẫn tiếp tục duy trì cho tới cuộc bầu cử nghị viện bất thường được tổ chức vào tháng 9/2007. Trong cuộc bầu cử Nghị viện nước Cộng hòa Krym, Đảng Khu vực là một phần của khối bầu cử "Vì Yanukovych!" Vào ngày 19 tháng 1 năm 2007, Yevhen Kushnaryov, một đảng viên đã chết ở Izium vì bị cướp cò súng trong lúc đi săn. Vào giữa năm 2007, các đảng "Cộng hòa Ukraine" và đảng "Lao động Ukraine" sáp nhập vào Đảng Khu vực.
{ "split": 5, "title": "Đảng Khu vực", "token_count": 130 }
641
Title: Đảng Liên hiệp Dân tộc Đảng Liên hiệp dân tộc (tiếng Phần Lan: Kansallinen Kokoomus rp, Kok; tiếng Thụy Điển:.. Samlingspartiet rp, SAML) là một đảng chính trị theo đường lối tự do bảo thủ ở Phần Lan được thành lập vào năm 1918. Đảng Liên hiệp dân tộc là một trong ba đảng lớn nhất ở Phần Lan, cùng với Người Phần Lan thực sự và Đảng Dân chủ xã hội. Nền tảng chính trị của đảng này dựa trên "tự do cá nhân và trách nhiệm, bình đẳng, dân chủ phương Tây và hệ thống kinh tế, nguyên tắc nhân đạo và chăm sóc." và là một thành viên của Đảng Nhân dân châu Âu (EPP). Đảng này đã nhận được khoảng 20% phiếu bầu ​​trong cuộc bầu cử quốc hội vào những năm 1990 và những năm 2000. Đảng này giành 50 trong số 200 ghế trong cuộc bầu cử quốc hội năm 2007 và đã đạt được một chỗ ngồi bổ sung khi Merikukka Forsius tách khỏi Đảng Xanh vào tháng 2 năm 2008. Năm 2008 cuộc bầu cử thành phố, Đảng Liên minh Quốc gia đã vượt qua Trung tâm của Đảng và trở thành đảng phổ biến nhất. Đường lối và Lý tưởng. Đảng Liên hiệp dân tộc muốn xây dựng một xã hội mà lựa chọn riêng, hy vọng và nhu cầu thiết của từng người thiết lập đường lối phát triển. Đảng bảo vệ "quyền tự do cá nhân và thúc đẩy các cơ hội của người dân để có những lựa chọn, nhưng không bỏ qua trách nhiệm của mọi người đối với cuộc sống riêng, của đồng bào và môi trường. Hệ tư tưởng của đảng là kết hợp. tự do dân chủ, trách nhiệm và bình đẳng". của bên các giá trị cơ bản được giáo dục, khoan dung, thỏa mãn và chăm sóc. Đảng này có một số hướng chính trị. Trong vấn đề quốc tế, đảng đã xem Liên minh châu Âu trong nhiều mặt tích cực hơn so với bất kỳ đảng nào khác . Đảng cũng hỗ trợ cho tìm kiếm các thành viên trong Tổ chức Hiệp ước Bắc Đại Tây Dương. Đảng này muốn xây dựng "Liên minh châu Âu mạnh mẽ hơn về kinh tế và chính trị, đảng này dự tính là Liên minh châu Âu là một nhân tốhiệu quả hơn và có vai trò nổi bật hơn trong nền chính trị thế giới".
{ "split": 0, "title": "Đảng Liên hiệp Dân tộc", "token_count": 485 }
642
Title: Đảng Liên hiệp Dân tộc Các cuộc thăm dò đến thời điểm năm 2008 cho thấy đảng này được xem tích cực nhất bởi nhiều người Phần Lan. Ngày càng nhiều gia nhập đảngnayf còn hai đảng lớn khác thì giảm sút số đảng viên. Trong số ba đảng lớn ở Phần Lan, Đảng Liên hiệp dân tộc có tỷ lệ nữ cao nhất. Và là đảng được ưa thích nhất đối với thế hệ trẻ. Tổ chức. Mọi người có thể tham gia tổ chức thành viên khác nhau trong đảng. Liên hiệp Sinh viên của Đảng Liên hiệp quốc gia là liên minh chính trị lớn nhất của phong trào sinh viên ở Phần Lan. Liên đoàn Phụ nữ của đảng ("Kokoomuksen Naisten Liitto", hay viết tắt "Kokoomusnaiset") tập hợp phụ nữ với nhau và tập trung vào việc cải thiện bình đẳng giới ở Phần Lan và trên thế giới. Tổ chức này tin rằng "phụ nữ và nam giới phải có các cơ hội và quyền như nhau trong cuộc sống, lớn lên, nhận được giáo dục, tham gia, làm việc và chăm sóc". Nhiều người nhập cư đã tham gia vào những người nhập cư quốc gia (Phần Lan: Kansalliset Maahanmuuttajat, Kamut)., một nhóm người nhập cư do Thổ Nhĩ Kỳ-sinh Hulya Kytö từ Turku. Lịch sử. Đảng này được thành lập ngày 09 tháng mười 12 năm 1918, sau cuộc nội chiến Phần Lan, bởi đa số của Đảng Phần Lan và thiểu số của Đảng Phần Lan trẻ ủng hộ chế độ quân chủ Đảng Trẻ.
{ "split": 1, "title": "Đảng Liên hiệp Dân tộc", "token_count": 323 }
643
Title: Đảng Liên hiệp Dân tộc (Ngày trước đó những người cộng hòa của cả hai đảng đã thành lập Đảng Tiến bộ dân tộc.) Các cuộc họp sáng lập tuyên bố: "Một liên minh quốc gia là cần thiết thông qua các đường lối cũ của đảng đã bị mất ý nghĩa và đã từ lâu có các công dân suy nghĩ như nhau chia rẽ. Nhiệm vụ lớn này của liên minh phải làm việc để tăng cường sức mạnh dân tộc để trì xã hội. Trật tự xã hội pháp luật phải được tôn trọng nghiêm ngặt và không được có thỏa hiệp với cách mạng. Nhưng cải cách có tính xây dựng được xác định đồng thời phải được theo đuổi. Đảng đã tìm cách thực hiện điều này bằng cách ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến và, nếu không thì các quyền lực chính quyền mạnh mẽ trong khuôn khổ cộng hòa, và bằng cách thực hiện một số cải cách xã hội và kinh tế, chẳng hạn như giáo dục bắt buộc, chăm sóc sức khỏe phổ quát, và thu nhập tiến bộ và thuế tài sản.
{ "split": 2, "title": "Đảng Liên hiệp Dân tộc", "token_count": 219 }
644
Title: Đảng Phát xít quốc gia Đảng Quốc gia Phát xít (tiếng Ý: Partito Nazionale Fascista; PNF) là một đảng chính trị Ý, được Quốc trưởng Benito Mussolini sáng lập, là biểu hiện chính trị của chủ nghĩa phát xít (trước đây đại diện bởi các nhóm được với tên gọi Fasci). Đảng này cai trị Italia trong giai đoạn 1922-1943 theo một hệ thống độc tài toàn trị. Hiện nay, đây là đảng duy nhất bị cấm theo Hiến pháp Italia: "Đảng Phát xít đã bị giải tán phải bị cấm tổ chức lại, dưới bất kỳ hình thức nào" ("điều khoản tạm thời và cuối cùng", Chương XII).
{ "split": 0, "title": "Đảng Phát xít quốc gia", "token_count": 145 }
645
Title: Đảng Tân tiến Shinshinto (tiếng Nhật: 新進党, "Tân tiến đảng") là một cựu chính đảng Nhật Bản. Đây là một đảng được tạo ra do việc sáp nhập nhiều đảng nhỏ và có tư tưởng đa dạng, có đảng viên gồm những người theo xã hội và những người tân tự do cũng như bảo thủ. Hiện nay đảng này không còn hoạt động nữa. Đảng này đã được thành lập năm 1994 bởi cựu thủ tướng Nhật Kaifu Toshiki và ngay lập tức trở thành một trong những thành viên của liên minh chống Đảng Dân chủ Nhật Bản đang quyền do Hosokawa Morihiro lãnh đạo. Đảng này đã trợ giúp chính phủ do Tân đảng Nhật Bản lãnh đạo và Đảng Tân sinh trong việc kiểm soát chính phủ cho đến khi chính phủ này bị sụp đổ năm 1996. Năm 1995, cựu lãnh đạo liên minh Hata Tsutomu đã bị Ozawa Ichirō loại bỏ và lãnh đạo đảng này cho đến khi giải thể. Đảng này đã bị giải thể năm 1998 và các đảng viên đảng này dạt vào các đảng nhỏ khác, bao gồm Đảng Tự do, Câu lạc bộ Cải tổ, Đảng Hòa bình mới và Tân đảng Hữu ái. Các đảng phái này cuối cùng đã được nhập vào Đảng Dân chủ Nhật Bản, một đảng thiên tả.
{ "split": 0, "title": "Đảng Tân tiến", "token_count": 272 }
646
Title: Đảng Xã hội chủ nghĩa Hoa Kỳ Đảng Xã hội chủ nghĩa Hoa Kỳ () (SPUSA), thường được gọi tắt Socialist Party USA, là một đảng phái chính trị theo hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa ở Hoa Kỳ. Nó được thành lập năm 1973, là hậu thân của Đảng Xã hội chủ nghĩa Mỹ, mà trước đó 1 năm đã đổi tên thành Người Dân chủ Xã hội Hoa Kỳ. Lịch sử. Đảng được thành lập vào năm 1973 sau khi những người theo Max Shachtman lên nắm quyền Đảng Xã hội chủ nghĩa Mỹ và đổi tên nó thành Người Dân chủ Xã hội chủ nghĩa (SDUSA). Một nhóm riêng biệt, tự gọi là Ủy ban Tổ chức Xã hội chủ nghĩa Dân chủ (sau này là Người Xã hội chủ nghĩa Dân chủ Mỹ [DSA]), cũng tách ra vào năm 1973 và cũng tích cực hoạt động chính trị. Cả ba tổ chức đều cho mình là những người thừa kế thực sự của Eugene Debs và Norman Thomas. DSA và SDUSA tham gia vào Quốc tế Xã hội chủ nghĩa.
{ "split": 0, "title": "Đảng Xã hội chủ nghĩa Hoa Kỳ", "token_count": 217 }
647
Title: Đảng phái chính trị Đảng phái chính trị, thường hay được gọi là chính đảng hay đơn giản là đảng (Tiếng Anh: "party"), là tổ chức chính trị xã hội của những người có chính kiến giống nhau hoặc những người có cùng quan điểm chính trị, và những người ứng cử cho các cuộc bầu cử, trong nỗ lực để họ được bầu và do đó thực hiện chương trình nghị sự của đảng.. Ở bên trong chính thể dân chủ đại nghị, chính đảng tranh đoạt nắm giữ chính quyền thông thường lấy hình thức tham gia bầu cử làm phương pháp và hành động nhằm đoạt lợi ích về phía mình, và lại có lúc kết thành liên minh chính trị, lúc ắt phải cần thì liên hợp nắm giữ chính quyền. Chính đảng có mục tiêu chính trị và ý thức cụ thể, có chủ trương của bản thân mỗi chính đảng nhắm vào vấn đề quốc gia và xã hội, chế định chính cương phô bày cảnh nguyện. Xã hội thừa nhận nó có sẵn quyền lực hợp pháp để mà tổ chức và mở rộng chủ trương của nó, nó cũng tích cực tiến hành can dự vào trong sinh hoạt chính trị, để cho lấy được hoặc che chở giữ gìn chính quyền, hoặc ảnh hưởng việc sử dụng thật thi quyền lực chính trị cho nên phát huy tác dụng của bản thân nó. Mặc dù có một số điểm chung quốc tế trong cách các đảng chính trị được công nhận và trong cách họ hoạt động, thường có nhiều sự khác biệt, và một số khác biệt là đáng kể. Hầu hết các đảng chính trị có cốt lõi ý thức hệ, nhưng một số thì không, và nhiều đảng đại diện cho ý thức hệ rất khác với ý thức hệ của họ tại thời điểm đảng được thành lập. Nhiều quốc gia, như Đức và Ấn Độ, có một số đảng chính trị quan trọng và một số quốc gia có hệ thống độc đảng, như Trung Quốc và Cuba. Hoa Kỳ trên thực tế là một hệ thống hai đảng nhưng có nhiều đảng nhỏ hơn cũng tham gia. Phát triển mang tính lịch sử.
{ "split": 0, "title": "Đảng phái chính trị", "token_count": 421 }
648
Title: Đảng phái chính trị Ý tưởng về việc mọi người thành lập các nhóm lớn hoặc phe phái để ủng hộ cho lợi ích chung của họ đã có từ thời cổ xưa. Plato đề cập đến các phe phái chính trị của Athens cổ điển ở "Cộng hòa", và Aristotle thảo luận về xu hướng của các loại chính phủ khác nhau để tạo ra các phe phái trong "Chính trị". Một số tranh chấp cổ xưa cũng là phe phái, giống như các cuộc bạo loạn Nika giữa hai phe đua xe ngựa tại Hippodrome of Constantinople. Tuy nhiên, các đảng chính trị hiện đại được coi là đã xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ 18 hoặc đầu thế kỷ 19, xuất hiện đầu tiên ở châu Âu và Hoa Kỳ. Điều khác biệt giữa các đảng chính trị với các phe phái và các nhóm lợi ích là các đảng chính trị sử dụng một nhãn rõ ràng để xác định các thành viên của họ có chung các mục tiêu bầu cử và lập pháp. Sự chuyển đổi từ phe phái lỏng lẻo thành các đảng chính trị hiện đại có tổ chức được coi là lần đầu tiên xảy ra ở Vương quốc Anh hoặc Hoa Kỳ, với Đảng Bảo thủ của Vương quốc Anh và Đảng Dân chủ Hoa Kỳ thường được gọi là "đảng chính trị liên tục lâu đời nhất thế giới" ". Sự xuất hiện Đảng ở Anh.
{ "split": 1, "title": "Đảng phái chính trị", "token_count": 286 }
649
Title: Đảng phái chính trị Hệ thống đảng xuất hiện ở nước Anh thời kỳ đầu hiện đại được coi là một trong những thế giới đầu tiên, với nguồn gốc từ các phe phái xuất hiện từ Cuộc khủng hoảng loại trừ và Cách mạng Vinh quang cuối thế kỷ 17. Phe Whig ban đầu tự tổ chức xung quanh ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến Tin lành trái ngược với sự cai trị tuyệt đối, trong khi phe Tory bảo thủ (ban đầu là phe Hoàng gia hoặc Cavalier của Nội chiến Anh) ủng hộ chế độ quân chủ mạnh mẽ. Hai nhóm này có cấu trúc tranh chấp trong chính trị của Vương quốc Anh trong suốt thế kỷ 18. Trong nhiều thế kỷ tiếp theo, các phe phái lỏng lẻo này bắt đầu áp dụng các khuynh hướng chính trị và hệ tư tưởng mạch lạc hơn: các tư tưởng chính trị tự do của John Locke và khái niệm về các quyền phổ quát được các nhà lý thuyết như Algernon Sidney và sau này là John Stuart Mill có ảnh hưởng lớn. trong khi các Tory cuối cùng đã được xác định với các nhà triết học bảo thủ như Edmund Burke. Thời kỳ giữa sự ra đời của chủ nghĩa bè phái, xung quanh Cách mạng Vinh quang và sự gia nhập của George III năm 1760 được đặc trưng bởi quyền lực tối cao của Whig, trong đó Whigs vẫn là khối quyền lực nhất và luôn luôn bảo vệ chế độ quân chủ lập hiến với giới hạn nghiêm ngặt về quyền lực của quân chủ. sự gia nhập của một vị vua Công giáo, và tin vào việc mở rộng lòng khoan dung đối với những người theo đạo Tin lành và bất đồng chính kiến. Mặc dù phe Tory đã mất chức trong nửa thế kỷ, nhưng phần lớn họ vẫn là một phe đối lập thống nhất với Whigs.
{ "split": 2, "title": "Đảng phái chính trị", "token_count": 382 }
650
Title: Đảng phái chính trị Khi họ mất quyền lực, giới lãnh đạo Whig cũ đã giải thể thành một thập kỷ hỗn loạn phe phái với các phe Grenvillite, Bedfordite, Rockinghamite và Chathamite khác nhau liên tiếp nắm quyền, và tất cả đều tự coi mình là "Whigs". Các đảng chính trị đặc biệt đầu tiên xuất hiện từ sự hỗn loạn này. Bữa tiệc đầu tiên như vậy là Rockingham Whigs dưới sự lãnh đạo của Charles Watson-Wentworth và sự hướng dẫn trí tuệ của nhà triết học chính trị Edmund Burke. Burke đã đưa ra một triết lý mô tả khuôn khổ cơ bản của đảng chính trị là "một cơ thể đàn ông đoàn kết để thúc đẩy bởi nỗ lực chung của họ vì lợi ích quốc gia, theo một số nguyên tắc cụ thể mà tất cả họ đều đồng ý". Trái ngược với sự bất ổn của các phe phái trước đây, vốn thường bị ràng buộc với một nhà lãnh đạo cụ thể và có thể tan rã nếu bị loại khỏi quyền lực, đảng này tập trung vào một tập hợp các nguyên tắc cốt lõi và không nắm quyền như một phe đối lập thống nhất với chính phủ. Một liên minh bao gồm Whigs Rockingham, do Bá tước Shelburne lãnh đạo, nắm quyền vào năm 1782, chỉ sụp đổ sau cái chết của Rockingham. Chính phủ mới, do chính trị gia cấp tiến Charles James Fox lãnh đạo trong liên minh với Lord North, đã sớm bị hạ bệ và được thay thế bởi William Pitt the Younger vào năm 1783. Bây giờ, một hệ thống hai đảng chính hiệu bắt đầu xuất hiện, với việc Pitt lãnh đạo Tories mới chống lại một đảng "Whig" được tái lập do Fox lãnh đạo. Đảng Bảo thủ hiện đại đã được tạo ra từ những Học thuyết Pittite này. Năm 1859 dưới thời Lord Palmerston, Whigs, chịu ảnh hưởng nặng nề từ những ý tưởng tự do cổ điển của Adam Smith, đã tham gia cùng với những người theo phía Tory thương mại tự do của Robert Peel và các Xạ thủ độc lập để thành lập Đảng Tự do. Sự xuất hiện Đảng ở Hoa Kỳ.
{ "split": 3, "title": "Đảng phái chính trị", "token_count": 476 }
651
Title: Đảng phái chính trị Mặc dù các nhà soạn thảo của Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 đã không lường trước được rằng các tranh chấp chính trị của Mỹ sẽ được tổ chức chủ yếu xung quanh các đảng chính trị, những tranh cãi chính trị vào đầu những năm 1790 về phạm vi quyền lực của chính phủ liên bang đã chứng kiến sự xuất hiện của hai đảng chính trị: Đảng Liên bang và Đảng Cộng hòa Dân chủ, được Alexander Hamilton và Thomas Jefferson, lãnh đạo. Tuy nhiên, một sự đồng thuận đạt được về những vấn đề này đã chấm dứt chính trị đảng năm 1816 trong gần một thập kỷ, một giai đoạn thường được gọi là Kỷ nguyên của cảm giác tốt. Sự chia rẽ của Đảng Cộng hòa Dân chủ sau cuộc bầu cử tổng thống năm 1824 gây tranh cãi đã dẫn đến sự tái xuất hiện của các đảng chính trị. Hai đảng lớn sẽ thống trị bối cảnh chính trị trong một phần tư thế kỷ tiếp theo: Đảng Dân chủ, do Andrew Jackson, và Đảng Whig, do Henry Clay thành lập từ Đảng Cộng hòa Quốc gia và từ các nhóm Anti-Jackson khác. Khi Đảng Whig tan rã vào giữa những năm 1850, vị trí là một đảng chính trị lớn của Hoa Kỳ đã được Đảng Cộng hòa lấp đầy. Lan rộng ra toàn cầu. Một ứng cử viên khác cho hệ thống đảng hiện đại đầu tiên xuất hiện là Thụy Điển. Trong suốt nửa sau của thế kỷ 19, mô hình chính trị của đảng đã được thông qua trên khắp châu Âu. Tại Đức, Pháp, Áo và các nơi khác, các cuộc cách mạng năm 1848 đã làm dấy lên làn sóng tình cảm tự do và sự hình thành của các cơ quan đại diện và các đảng chính trị. Cuối thế kỷ chứng kiến sự hình thành của các đảng xã hội chủ nghĩa lớn ở châu Âu, một số phù hợp với triết lý của Karl Marx, một số khác thích nghi với nền dân chủ xã hội thông qua việc sử dụng các phương pháp cải cách và dần dần.
{ "split": 4, "title": "Đảng phái chính trị", "token_count": 422 }
652
Title: Đảng phái chính trị Đồng thời, Đảng Liên minh Nội quy, vận động cho Luật gia đình cho Ireland trong Quốc hội Anh, đã được thay đổi về cơ bản bởi nhà lãnh đạo chính trị Ailen Charles Stewart Parnell vào những năm 1880. Năm 1882, ông đổi tên thành đảng của ông để các đảng quốc hội Ái Nhĩ Lan và tạo ra một tổ chức tốt cơ sở cơ cấu, giới thiệu thành viên để thay thế "quảng cáo hoc" nhóm không chính thức. Ông đã tạo ra một quy trình tuyển chọn mới để đảm bảo lựa chọn chuyên nghiệp các ứng cử viên của đảng cam kết đảm nhận vị trí của họ, và vào năm 1884, ông đã áp đặt một "cam kết của đảng", buộc các nghị sĩ phải bỏ phiếu trong một quốc hội trong mọi trường hợp. Việc tạo ra một đảng roi da nghiêm ngặt và cơ cấu đảng chính thức là duy nhất vào thời điểm đó, trước đó chỉ có Đảng Dân chủ Xã hội Đức (1875), mặc dù sau đó đã bị Otto von Bismarck đàn áp từ năm 1878 đến 1890. Cơ cấu và kiểm soát hiệu quả của các bên này trái ngược với các quy tắc lỏng lẻo và tính không chính thức linh hoạt được tìm thấy trong các đảng chính của Anh, và đại diện cho sự phát triển của các hình thức tổ chức đảng mới, tạo thành một "mô hình" trong thế kỷ 20. Nguồn gốc của các đảng chính trị. Các đảng chính trị là một đặc điểm gần như phổ biến của các nước hiện đại. Gần như tất cả các quốc gia dân chủ đều có các đảng chính trị mạnh, và nhiều nhà khoa học chính trị coi các quốc gia có ít hơn hai đảng nhất thiết phải độc đoán. Tuy nhiên, những nguồn này cho phép một quốc gia có nhiều đảng cạnh tranh không nhất thiết là dân chủ, và chính trị của nhiều quốc gia chuyên chế được tổ chức xung quanh một đảng chính trị thống trị. Có nhiều cách giải thích về cách thức và lý do tại sao các đảng chính trị là một phần quan trọng của các quốc gia hiện đại. Sự phân chia xã hội.
{ "split": 5, "title": "Đảng phái chính trị", "token_count": 433 }
653
Title: Đảng phái chính trị Một trong những giải thích cốt lõi cho lý do tại sao các đảng chính trị tồn tại là chúng phát sinh từ sự chia rẽ hiện hữu giữa mọi người. Dựa trên công trình của Harold Hotelling về tổng hợp các ưu tiên và lý thuyết lựa chọn xã hội của Duncan Black, Anthony Downs đã chỉ ra cách phân phối ưu tiên cơ bản trong một cuộc bầu cử có thể tạo ra kết quả thường xuyên trong tổng hợp, như định lý cử tri trung bình. Mô hình trừu tượng này cho thấy các đảng có thể phát sinh từ các biến thể trong một cuộc bầu cử và có thể tự điều chỉnh theo các mô hình trong cuộc bầu cử. Tuy nhiên, Downs cho rằng một số phân phối sở thích tồn tại, thay vì gán bất kỳ ý nghĩa nào cho phân phối đó. Seymour Martin Lipset và Stein Rokkan đã đưa ra ý tưởng về sự khác biệt trong một cuộc bầu cử cụ thể hơn bằng cách lập luận rằng một số hệ thống đảng lớn của thập niên 1960 là kết quả của sự phân tách xã hội đã tồn tại trong những năm 1920. Họ xác định bốn sự phân tách lâu dài ở các quốc gia mà họ kiểm tra: một sự phân tách Trung tâm về ngoại vi liên quan đến tôn giáo và ngôn ngữ, một sự phân tách của Giáo hội Nhà nước tập trung vào kiểm soát giáo dục đại chúng, một sự phân chia Công nghiệp Đất đai về tự do công nghiệp và chính sách nông nghiệp, và Chủ sở hữu- Sự phân tách công nhân bao gồm một cuộc xung đột giữa chủ nghĩa dân tộc và chủ nghĩa quốc tế. Các tác giả sau đó đã mở rộng hoặc sửa đổi các phân tách này, đặc biệt là khi kiểm tra các đảng ở các nơi khác trên thế giới.
{ "split": 6, "title": "Đảng phái chính trị", "token_count": 373 }
654
Title: Đảng phái chính trị Lập luận rằng các đảng phái được tạo ra bởi sự phân tách xã hội đã thu hút một số lời chỉ trích. Một số tác giả đã thách thức lý thuyết trên cơ sở thực nghiệm, hoặc không tìm thấy bằng chứng nào cho tuyên bố rằng các đảng xuất hiện từ các phân tách hiện tại hoặc cho rằng tuyên bố này không thể kiểm chứng bằng thực nghiệm. Những người khác lưu ý rằng trong khi sự phân tách xã hội có thể khiến các đảng chính trị tồn tại, điều này che khuất tác động ngược lại: rằng các đảng chính trị cũng gây ra những thay đổi trong các phân tách xã hội tiềm ẩn. Một sự phản đối nữa là, nếu lời giải thích cho việc các đảng đến từ nơi mà họ xuất hiện từ các sự phân tách xã hội hiện có, thì lý thuyết đã không xác định được nguyên nhân gây ra các đảng trừ khi nó cũng giải thích sự phân tách xã hội đến từ đâu; một phản ứng trước sự phản đối này, dọc theo dòng lý thuyết hiếu chiến của Charles Tilly về xây dựng nhà nước, là sự phân tách xã hội được hình thành bởi các xung đột lịch sử. Ưu đãi cá nhân và nhóm. Một lời giải thích khác cho lý do tại sao các đảng phái có mặt khắp nơi trên thế giới là việc thành lập các đảng cung cấp các khuyến khích tương thích cho các ứng cử viên và nhà lập pháp. Một lời giải thích cho sự tồn tại của các đảng, do John Aldrich tiên tiến, là sự tồn tại của các đảng chính trị có nghĩa là một ứng cử viên trong một khu vực bầu cử có động cơ để hỗ trợ một ứng cử viên ở một quận khác, khi hai ứng cử viên đó có cùng tư tưởng.
{ "split": 7, "title": "Đảng phái chính trị", "token_count": 367 }
655
Title: Đảng phái chính trị Một lý do mà khuyến khích này tồn tại là các đảng phái có thể giải quyết các thách thức lập pháp nhất định mà một cơ quan lập pháp của các thành viên không liên kết có thể phải đối mặt. Gary W. Cox và Mathew D. McCubbins cho rằng sự phát triển của nhiều tổ chức có thể được giải thích bằng sức mạnh của họ để hạn chế các khuyến khích của các cá nhân; một tổ chức quyền lực có thể cấm các cá nhân hành động theo cách gây hại cho cộng đồng. Điều này cho thấy các đảng chính trị có thể là cơ chế để ngăn chặn các ứng cử viên có ý thức hệ tương tự hành động gây bất lợi cho nhau. Một lợi thế cụ thể mà các ứng cử viên có thể có được từ việc giúp đỡ các ứng cử viên tương tự ở các quận khác là sự tồn tại của một bộ máy đảng có thể giúp các liên minh cử tri đồng ý về các lựa chọn chính sách lý tưởng, nói chung là không thể. Điều này có thể đúng ngay cả trong bối cảnh nơi nó chỉ có lợi một chút khi là một phần của một bữa tiệc; các mô hình về cách các cá nhân phối hợp tham gia một nhóm hoặc tham gia vào một sự kiện cho thấy ngay cả một ưu tiên yếu là một phần của nhóm có thể kích thích sự tham gia của đông đảo mọi người. Đảng như là giải pháp xã hội heuristic.
{ "split": 8, "title": "Đảng phái chính trị", "token_count": 294 }
656
Title: Đảng phái chính trị Các đảng phái có thể là cần thiết cho nhiều cá nhân tham gia chính trị, bởi vì họ cung cấp một giải pháp heuristic đơn giản hóa ồ ạt cho phép mọi người đưa ra lựa chọn sáng suốt với chi phí nhận thức thấp hơn nhiều. Nếu không có các đảng chính trị, các đại cử tri sẽ phải đánh giá từng ứng cử viên trong mỗi cuộc bầu cử mà họ đủ điều kiện để bỏ phiếu. Thay vào đó, các đảng cho phép cử tri đưa ra phán xét về một vài nhóm thay vì số lượng cá nhân lớn hơn nhiều. Angus Campbell, Philip Converse, Warren Miller và Donald E. Stokes đã lập luận trong The American Voter rằng sự đồng nhất với một đảng chính trị là một yếu tố quyết định quan trọng đến việc một cá nhân sẽ bỏ phiếu hay không. Bởi vì việc thông báo về nền tảng của một vài bên dễ dàng hơn nhiều so với vị trí cá nhân của nhiều ứng cử viên, các bên giảm gánh nặng nhận thức cho mọi người để bỏ phiếu thông báo. Tuy nhiên, bằng chứng cho thấy rằng trong nhiều thập kỷ qua, sức mạnh của nhận dạng đảng đã yếu đi, vì vậy đây có thể là một chức năng ít quan trọng hơn cho các bên để cung cấp so với trước đây. Cấu trúc.
{ "split": 9, "title": "Đảng phái chính trị", "token_count": 272 }
657
Title: Đảng phái chính trị Một đảng chính trị thường được lãnh đạo bởi một lãnh đạo đảng (thành viên quyền lực nhất và người phát ngôn đại diện cho đảng), một bí thư đảng (người duy trì công việc hàng ngày và hồ sơ của các cuộc họp đảng), thủ quỹ của đảng (người chịu trách nhiệm về phí thành viên) và chủ trì đảng (người hình thành chiến lược tuyển dụng và giữ chân đảng viên, đồng thời chủ trì các cuộc họp của đảng). Hầu hết các vị trí trên cũng là thành viên của đảng điều hành, tổ chức hàng đầu đưa ra chính sách cho toàn đảng ở cấp quốc gia. Cấu trúc này được phân cấp nhiều hơn ở Hoa Kỳ vì sự phân chia quyền lực, chủ nghĩa liên bang và sự đa dạng của lợi ích kinh tế và giáo phái tôn giáo. Ngay cả các đảng của nhà nước được phân cấp như quận và các ủy ban địa phương khác phần lớn độc lập với ủy ban trung ương nhà nước. Nhà lãnh đạo đảng quốc gia ở Mỹ sẽ là tổng thống, nếu đảng này nắm giữ chức vụ đó, hoặc một thành viên nổi bật của Quốc hội đối lập (mặc dù một thống đốc nhà nước lớn có thể khao khát vai trò đó). Chính thức, mỗi đảng có một chủ tịch cho ủy ban quốc gia là người phát ngôn, nhà tổ chức và nhà gây quỹ nổi tiếng, nhưng không có tư cách của các người nắm giữ các vị trí chính trị nổi tiếng. Trong các nền dân chủ nghị viện, trên cơ sở thường xuyên, định kỳ, các hội nghị đảng được tổ chức để bầu các lãnh đạo của đảng, mặc dù các cuộc bầu cử lãnh đạo nhanh chóng có thể được gọi nếu đủ thành viên lựa chọn như vậy. Các hội nghị của đảng cũng được tổ chức để khẳng định giá trị đảng cho các thành viên trong năm tới. Các đảng phái Mỹ cũng gặp gỡ thường xuyên và, một lần nữa, phụ thuộc nhiều hơn vào các nhà lãnh đạo chính trị được bầu. Tùy thuộc vào cấu trúc nhân khẩu học của các thành viên đảng, các đảng viên thành lập các đảng ủy địa phương hoặc khu vực để giúp các ứng cử viên tranh cử vào các văn phòng địa phương hoặc khu vực trong chính phủ. Các chi bộ đảng địa phương phản ánh các vị trí lãnh đạo ở cấp quốc gia.
{ "split": 10, "title": "Đảng phái chính trị", "token_count": 478 }
658
Title: Đảng phái chính trị Cũng là thông lệ cho các đảng viên chính trị hình thành lực lượng hỗ trợ cho các đảng viên hiện tại hoặc tương lai, hầu hết trong số đó thuộc hai loại sau: Các lực lượng này là hữu ích cho việc tiếp cận đảng, đào tạo và việc làm. Nhiều chính trị gia trẻ đầy tham vọng tìm kiếm những vai trò và công việc này như bước đệm cho sự nghiệp chính trị của họ trong các cơ quan lập pháp hoặc hành pháp. Cơ cấu nội bộ của các đảng chính trị phải mang tính dân chủ ở một số nước. Tại Đức, Điều 21 1 Satz 3 GG thiết lập một cơ chế chỉ huy dân chủ trong một đảng phái. Các đảng nghị viện. Khi đảng được đại diện bởi các thành viên ở Hạ viện hoặc Thượng viện, nhà lãnh đạo đảng đồng thời làm lãnh đạo của nhóm nghị sĩ của đại diện đảng đó; tùy thuộc vào một số lượng tối thiểu của ghế tổ chức, Các đảng dựa trên Hệ thống Westminster thường cho phép các nhà lãnh đạo để tạo đội ngũ frontbench của các thành viên thành viên cao cấp của tập đoàn quốc hội để phục vụ như các nhà phê bình của các khía cạnh của chính sách của chính phủ. Khi một bên trở thành đảng lớn nhất không thuộc Chính phủ, nhóm quốc hội của đảng hình thành phe đối lập chính thức, với công phe đối lập thành viên trong nhóm frontbench thường hình thành chính thức đối lập nội các bóng. Khi một đảng đạt đủ số ghế trong một cuộc bầu cử để chiếm đa số, mặt trận của đảng sẽ trở thành Nội các của các bộ trưởng chính phủ. Họ đều là thành viên được bầu. Có những thành viên tham gia đảng mà không được thăng chức. Kinh phí. Nhiều hoạt động của các đảng phái chính trị liên quan đến việc mua lại và phân bổ ngân quỹ để đạt được các mục tiêu chính trị. Nguồn tài trợ liên quan có thể rất đáng kể, với các cuộc bầu cử đương đại ở các nền dân chủ lớn thường tiêu tốn hàng tỉ hoặc thậm chí hàng chục tỉ đô la. Phần lớn chi phí này được chi trả bởi các ứng cử viên và đảng phái chính trị, nên những tổ chức này thường phát triển các tổ chức gây quỹ cực kì phức tạp. Bởi vì trả tiền để tham gia các cuộc tranh cử bầu cử là một hoạt động dân chủ tập trung như vậy, tài trợ của các đảng chính trị là một đặc điểm quan trọng của nền chính trị của một quốc gia.
{ "split": 11, "title": "Đảng phái chính trị", "token_count": 509 }
659
Title: Đảo Alcatraz Đảo Alcatraz ((), đôi khi gọi đơn giản là Alcatraz hay Núi Đá) là đảo nằm trong vịnh San Francisco, ngoài khơi từ địa hạt San Francisco, tiểu bang California, Hoa Kỳ. Hòn đảo nhỏ được phát triển với các tiện nghi cho một hải đăng, một pháo đài quân sự, một nhà tù quân sự (1868), và một nhà tù liên bang từ năm 1934 đến năm 1963. Nhà tù Alcatraz cũng là nơi xảy ra vụ vượt ngục tai tiếng nhất trong lịch sử nước Mỹ, đó là cuộc đào tẩu của ba tên tù nhân mà cầm đầu là Frank Lee Morris mà sau này là cảm hứng cho một bộ phim của tài tử Clint Eastwood Vượt ngục Alcatraz (Escape from Alcatraz) công chiếu năm 1979. Năm 1972, hòn đảo này trở thành một khu vực giải trí quốc gia, là nơi du lịch. Ngày nay, hòn đảo này là một phần của khu giải trí quốc gia Cổng Vàng. Du khách có thể đi phà từ bến 33, gần Bến Ngư Phủ.
{ "split": 0, "title": "Đảo Alcatraz", "token_count": 243 }
660
Title: Đảo Bahrain Đảo Bahrain ( "Jazīrah al-Baḥrayn"), còn được gọi là Đảo al-Awal trước đây là Bahrein, là hòn đảo lớn nhất trong quần đảo của Bahrain, chiếm phần lớn diện tích của nước này và phần lớn dân số. Địa lý tự nhiên. Hầu hết các hòn đảo của Bahrain nằm ở vùng nước phía tây vịnh Ba Tư, giữa quần đảo này và bờ phía tây (bờ biển Ả Rập Xê Út) là một vịnh biển tương đối nông được gọi là vịnh Bahrain. Phần đáy biển liền kề với Bahrain là đá và phần phía bắc của đảo chủ yếu được bao phủ bởi những rạn san hô rộng lớn. Cảnh quan tự nhiên của đảo là sa mạc khô cằn có địa hình thấp. Địa hình nhiều ngọn đồi thấp, vách đá lởm chởm và khe núi nông. Địa chất nhiều đá vô xen lẫn cát mặn, vì vậy thực vật chủ yếu là cây gai và chà. Có một dải đất màu mỡ dài 5 km (3,1 miles) dọc bờ biển phía bắc nơi chà là, hạnh nhân, sung và lựu có thể phát triển. Chính giữa đảo là núi Khói cao 134 m (440 ft), điểm cao nhất trên đảo. Hầu hết các giếng dầu của nước này nằm gần khu vực của núi Khói. Điều kiện khí hậu của khu vực này là khô cằn. Nhiệt độ trung bình hàng năm trong khu vực là 28 °C. Tháng nóng nhất là tháng 8, khi nhiệt độ trung bình là 38 °C và lạnh nhất là tháng 1, 18 °C. Lượng mưa trung bình hàng năm là 144 mm. Tháng nhiều mưa nhất là tháng 11, với lượng mưa trung bình 38 mm, và tháng khô nhất là tháng 10, với lượng mưa 1 mm. Trên đảo không có bất kỳ một con sông nào. Địa lý kinh tế - xã hội. Manama, thủ đô của vương quốc Bahrain, nằm ở mũi phía đông bắc của hòn đảo Bahrain. Cảng chính Mina Salman cũng nằm trên đảo cũng như các cơ sở lọc dầu chính và các trung tâm thương mại. Hòn đảo được chia thành 3 tỉnh. Giao thông vận tải.
{ "split": 0, "title": "Đảo Bahrain", "token_count": 484 }
661
Title: Đảo Bahrain Đường và cầu nối Bahrain với các đảo lân cận và đất liền Ả Rập Xê Út. Đường lâu đời nhất được xây dựng vào năm 1929, nối Bahrain với Al Muharraq, hòn đảo lớn thứ ba. Có ba đường nối đảo Muharraq với Manama trên đảo Bahrain: Tại bờ đông của nó - Sitrah là nhà ga xuất khẩu dầu, được liên kết với Bahrain bởi một cây cầu mở rộng kênh hẹp ngăn cách hai hòn đảo. Ở bờ biển phía tây, một đường đến đảo Umm al Nasan, tiếp tục đến thị trấn Al Khubar qua đường cao tốc King Fahd.
{ "split": 1, "title": "Đảo Bahrain", "token_count": 135 }
662
Title: Đảo Bananal Đảo Bananal (, ) là một đảo lớn được tạo thành do sông Araguaia tách làm đôi, thuộc tây nam Tocantins, Brasil. Hòn đảo được hình thành ở phần phân nhánh rất bằng phẳng của sông Araguaia. Bananal là cù lao sông lớn nhất thế giới, với chiều dài 350 km (217 mi) và chiều rộng là 55 km (34 mi). Tổng diện tích của đảo là 19.162,25 km² (7.400 mi²), gấp hai lần Liban hay Jamaica. Môi trường và bảo vệ văn hóa. Đảo Bananal là một khu bảo tồn thiên nhiên và văn hóa. Phù hợp với điều 28 trong Điều lệ của Luật Indien (Artigo 28 do Estatuto do Indío-lei) Số. 6001 ban hành vào ngày 19 tháng 12 năm 1973, một khu vực có diện tích 5.577,26 km² được bảo vệ với vị thế Vườn quốc gia Araguaia và 13.584,99 km² là khu vực bảo tồn văn hóa của dân bản địa. Một phần ba phía bắc của đào, được công nhận là vườn quốc gia, là một địa điểm phổ biến với hoạt động du lịch sinh thái. Hai phần ba phía nam của đảo là lãnh thổ dân bản địa. Cư dân. Mặcd dù những người Brasil không có nguồn gốc bản địa đã từng sống trên đảo trong quá khứ song hiện nay chỉ có cư dân bản địa sông trên đảo. Có ít nhất 4 bộ lạc sinh sống trên đảo Bananal: Javaés, Karajá, Ava-Canoeiro, và Tuxá. Có 16 "aldeias" hay làng trên đảo: Barra do Rio, Barreira Branca, Boa Esperança, Boto Velho, Cachoeirinha, Fontoura, JK, Kanoanã, Kaxiwe, Macaúba, Santa Isabel, São João, Txoude, Txuiri, Wari-Wari, Watau.
{ "split": 0, "title": "Đảo Bananal", "token_count": 419 }
663
Title: Đảo Bananal Không có cây cầu nào nối hòn đảo với bang Tocantins ở phía đông hay Mato Grosso ở phía tây. Trong suốt năm, phương tiện duy nhất để đến đảo là thuyền. Tuy nhiên, trong một vài tuần vào mùa khô (tháng 6- tháng 8) sông khá nông và có thể đi ô tô sang đảo. Đường làng đủ rộng để ô tô hay máy kéo có thể đi lại mặc dù phương tiện vận chuyền chính là ngựa, xe đạp hay đi bộ. Đô thị. Từ bắc đến nam, hòn đảo tạo thành phần phía tây của đô thị Pium, Lagoa da Confusão, và Formoso do Araguaia, tại Tây Nam Tocantins.
{ "split": 1, "title": "Đảo Bananal", "token_count": 150 }
664
Title: Đảo Coronation Đảo Coronation là đảo lớn nhất trong quần đảo Nam Orkney, dài 25 hải lý (46 km) và rộng 3-8 hải lý (5,6-14,8 km). Hòn đảo trải dài theo hướng đông-tây, bề mặt chủ yếu là băng bao phủ và bao gồm nhiều vịnh, sông băng và những núi, cao nhất lên tới 1.265 mét (4.150 ft). Lịch sử. Hòn đảo được phát hiện vào tháng 12 năm 1821, trong chuyến hải trình chung giữa thuyền trưởng Nathaniel Palmer, một thợ săn hải cẩu người Mỹ, và thuyền trưởng George Powell, một thợ săn hải cẩu người Anh. Powell đẵ đặt tên hòn đảo là "Coronation" có nghĩa là đăng quang, nhằm kỷ niệm sự kiện đăng quang của vua George IV của Anh, người đã trở thành vua của Vương quốc Anh vào năm 1820.
{ "split": 0, "title": "Đảo Coronation", "token_count": 201 }
665
Title: Đảo Ellesmere Đảo Ellesmere (Inuit: "Umingmak Nuna", nghĩa là "vùng đất của bò xạ") là một phần của vùng Qikiqtaaluk thuộc lãnh thổ Nunavut của Canada. Nằm trong quần đảo Bắc Cực thuộc Canada, đảo được coi là một phần của quần đảo Nữ hoàng Elizabeth, với mũi Columbia là điểm đất liền cực bắc của Canada. Đảo có diện tích và tổng chiều dài của đảo là , khiến cho đảo trở thành đảo lớn thứ mười trên thế giới và đảo lớn thứ ba của Canada. Hệ thống núi Arctic Cordillera chiếm phần lớn lãnh thổ đảo Ellesmere, khiến nó trở thành đảo nhiều núi nhất tại quần đảo Bắc Cực thuộc Canada. Liễu Bắc Cực là loài cây gỗ duy nhất mọc trên đảo Ellesmere. Địa lý. Đảo Ellesmere bị tách khỏi Greenland bởi eo biển Nares, khỏi đảo Axel Heiberg bởi eo biển Eureka và eo biển Nansen, và khỏi đảo Devon bởi eo biển Jones và eo biển Cardigan. Điểm cực bắc của Canada, Mũi Columbia, có tọa độ 83°6′41″B, 69°57′30″ T.
{ "split": 0, "title": "Đảo Ellesmere", "token_count": 261 }
666
Title: Đảo Liancourt Đảo Liancourt là tên gọi quốc tế của một nhóm đảo nhỏ nằm giữa Hàn Quốc và Nhật Bản, cách đảo Honshu của Nhật Bản và phía đông nam của bán đảo Triều Tiên khoảng 220 km. Liancourt đang ở trong trạng thái tranh chấp lãnh thổ giữa Nhật Bản và Hàn Quốc. Hiện nay, Hàn Quốc là quốc gia đang duy trì sự kiểm soát trên thực tế đối với toàn bộ nhóm đảo này. Hàn Quốc gọi nhóm đảo là Dokdo hay Tokdo () có nghĩa là "Hòn đảo đơn độc" trong khi Nhật Bản gọi đảo Liancourt là Takeshima (tiếng Nhật: , Hán-Việt: Trúc Đảo), nghĩa là "Đảo Trúc". Hàn Quốc kiểm soát và tuyên bố chủ quyền của mình với nhóm các đảo này kể từ tháng 7 năm 1954. Địa danh. Tên quốc tế của đảo Liancourt được lấy từ "Le Liancourt", tên một ngư thuyền săn cá voi của Pháp suýt đắm ở vùng đá ngầm của nhóm đảo này vào năm 1849. Trong tiếng Anh và theo một số bản đồ cũ còn ghi tên là "Hornet Rocks" (1855) cho nhóm đảo này trong khi thư tịch hải hành của Nga đặt tên Manala và Olivutsa cho đảo Liancourt. Địa danh của đảo bằng tiếng Hàn và tiếng Nhật cũng liên tục bị thay đổi theo thời gian, chứng tỏ còn nhiều tính bất nhất gây thêm sự rắc rối lịch sử về chủ quyền của nhóm đảo này. Địa hình. Nhóm đảo Liancourt bao gồm 90 đảo nhỏ, trong đó 37 mỏm đất không bị ngập. Số còn lại chỉ là đá ngầm. Trong số 37 đảo thì chỉ có hai hòn đảo cư trú được: đảo Tây và đảo Đông; 35 hòn đảo kia chỉ là mỏm đá. Tổng diện tích cua cả vùng đảo này chỉ khoảng 0,18745 km² với điểm cao nhất đo được 169 m (554,5 ft) trên đảo Tây.
{ "split": 0, "title": "Đảo Liancourt", "token_count": 429 }
667
Title: Đảo Liancourt Seodo (tiếng Hàn: 서도/西島 "Tây đảo") hay Ojima (tiếng Nhật: 男島 "Nam đảo") và Dongdo (tiếng Hàn: 동도/東島 "Đông đảo") hay Mejima (tiếng Nhật: 女島 "Nữ đảo"), cách nhau khoảng 150 m. Đảo Tây lớn hơn, với diện tích khoảng 88.640 mét vuông (22 mẫu Anh); đảo Đông chỉ 73.300 mét vuông (18 mẫu Anh). Đảo Tây là một đỉnh núi thấp với nhiều hang động dọc theo bờ biển. Bên đảo Đông có nơi bờ biển là vách đá dựng đứng cao khoảng 10 tới 20 m; có 2 hang lớn thông ra biển và một hố trũng. Theo khảo cứu của địa chất học thì nhóm đảo này hình thành khoảng 4,5 triệu năm trước do núi lửa hình thành trong Đại Tân sinh rồi sau đó bị xói mòn. Vì Liancourt nằm án ngữ biển Nhật Bản nên có vai trò vị trí chiến lược cực kỳ quan trọng đối với cả hai phía Nhật Bản và Hàn Quốc. Ngoài ra khu vực Liancourt là một nguồn ngư sản dồi dào và có tiềm năng lưu trữ lượng lớn khí đốt sâu trong lòng đất. Vị trí. Đảo Liancourt nằm ở tọa độ khoảng 131°52´ kinh đông và 37°14´ vĩ bắc. Đảo Tây nằm ở tọa độ khoảng còn đảo Đông nằm tại tọa độ . Đảo Liancourt cách Hàn Quốc khoảng 217 km (135 dặm Anh) và cách Nhật Bản khoảng 212 km (131 dặm Anh). Khoảng cách, cao độ và các điều kiện thời tiết ảnh hưởng tới hình dạng đảo khi hiện, khi khuất. Địa thể của Hàn Quốc gần Liancourt nhất là đảo Ulleung-do, cách khoảng 87 km (54 dặm Anh). Vào những ngày khí trời trong sáng người đứng trên Ulleung có thể thấy được Liancourt. Đối với Nhật Bản thì quần đảo Oki là địa thể gần nhất lui về hướng đông nam, cách Liancourt 157 km (98 dặm Anh). Với khoảng cách đó người đứng ở Oki không thể trông thấy Liancourt bất kể khí trời và thời tiết. Dân cư.
{ "split": 1, "title": "Đảo Liancourt", "token_count": 478 }
668
Title: Đảo Liancourt Hai công dân Hàn Quốc, cặp vợ chồng dân chài là hai cư dân duy nhất trên Liancourt. Ngoài ra là một đội cảnh sát cùng viên chức chính quyền và nhân viên hải đăng người Hàn Quốc luân phiên nhau làm việc để đảm bảo chủ quyền trên đảo. Tranh chấp chủ quyền. Từ cuối thế kỷ 20 Liancourt trở thành một điểm nóng trong các cuộc tranh chấp chủ quyền giữa Nhật Bản, Hàn Quốc và cả Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Hàn Quốc lập nhóm đảo này thành xã Dokdo-ri thuộc huyện Ulleung, tỉnh Gyeongsang Bắc. Nhật Bản thì khẳng định đảo này thuộc thôn Okinoshima, huyện Oki, tỉnh Shimane. Bộ Quốc phòng Hàn Quốc cho biết cuộc tập trận bảo vệ quần đảo Dokdo là hoạt động huấn luyện định kỳ, được tiến hành lần đầu tiên vào năm 1986 và kể từ năm 2003 tiến hành diễn tập mỗi năm 2 lần nhằm ngăn chặn một cuộc xâm lược của các lực lượng bên ngoài. Khí hậu. Do vị trí và diện tích quá bé nhỏ khí hậu đảo Liancourt hoàn toàn phụ thuộc vào thời khí của biển Nhật Bản đôi khi rất khắc nghiệt. Có lúc khi gió tây bắc thổi mạnh, thường là vào mùa đông, tàu thuyền không thể cập bến vào đảo được. Nói chung khí hậu đảo ẩm ướt và không quá lạnh, chịu tác động mạnh của nguồn hải lưu nước ấm. Lượng mưa cao quanh năm (trung bình khoảng 1.324 mm), thỉnh thoảng có tuyết rơi, nhưng thường có sương mù. Vào mùa hè gió chủ yếu thổi từ hướng nam. Nhiệt độ nước biển quanh đảo lạnh nhất vào mùa xuân, khoảng 10 °C. Vào tháng 8 nhiệt độ nước biển có thể lên tới 25 °C. Sinh thái.
{ "split": 2, "title": "Đảo Liancourt", "token_count": 388 }
669
Title: Đảo Liancourt Liancourt chủ yếu cấu tạo bởi đá bazan do núi lửa bồi lên. Trên lớp đá nền là một lớp đất mỏng, trên cùng rêu mọc phủ. Khoảng 80 loài thực vật, trên 22 loài chim và 37 loài côn trùng có mặt trên đảo; ngoài ra là một số sinh vật biển. Vì diện tích nhỏ, Liancourt không có nguồn ngọt đáng kể nào. Khe nước dù khi có chảy, con người cũng không dùng được vì nhiễm chất thải phân chim. Một công ty Hàn Quốc đã cho xây nhà máy lọc nước biển để cung cấp nước ngọt cho đảo. Vào đầu thập niên 1970 người Hàn có cho trồng thêm cây cối, hoa cỏ trên đảo, tăng cường thảm thực vật vì Liancourt là đảo trọc.. Tuy nhiên theo thư tịch xưa thì Liancourt thuở trước có cây xanh; sau bị con người đốn chặt hết. Cây cối theo luật quốc tế là một yếu tố để xếp một mỏm đất ngoài biển vào hạng hải đảo tự nhiên, thay vì là một rạn san hô hay đá ngầm. Dân cư và kinh tế. Tới thời điểm năm 2009, có hai người dân Hàn Quốc sống thường xuyên trên đảo là Kim Sung-do (김성도) và Kim Shin-yeol (김신열), với nghề nghiệp là đánh bắt cá. Ngoài ra, 37 cảnh sát Hàn Quốc (독도경비대/獨島警備隊) cũng tạm trú tại đây để làm nhiệm vụ bảo vệ. Bên cạnh đó còn có 3 viên chức của Bộ Hải dương và Ngư nghiệp Hàn Quốc và 3 nhân viên giữ tháp hải đăng sống luân phiên trên đảo. Trong quá khứ, một số ngư dân cũng tạm trú trên đảo.
{ "split": 3, "title": "Đảo Liancourt", "token_count": 372 }
670
Title: Đảo Liancourt Trong nhiều năm, du lịch của dân thường tới đảo phải được chính quyền Hàn Quốc cho phép do nhóm đảo này là khu bảo tồn tự nhiên. Các tàu chở du khách với tổng cộng 1.597 người đã được phép cho người lên đảo vào năm 2004. Kể từ giữa tháng 3 năm 2005, nhiều du khách hơn đã được phép lên đảo, tới 70 người mỗi lần. Một phà chạy tới đảo mỗi ngày và có hàng chờ khá dài. Chỉ 60% những người đi phà là có thể lên đảo, phần còn lại chỉ là khách đi vòng quanh đảo. Trên đường tới đảo Liancourt, trên phà người ta cho khách xem tranh biếm họa Hàn Quốc về một con Robot khổng lồ bảo vệ các đảo khỏi bàn tay người Nhật. Vào thời điểm năm 2009, các công ty du lịch thu từ mỗi du khách 350.000 Won (khoảng 250 USD). Tranh chấp quốc tế. Đảo Liancourt bị Hàn Quốc và Nhật Bản tranh chấp, mặc dù hiện nay Hàn Quốc đang quản lý. Các tranh chấp giữa hai quốc gia đã kéo dài hàng trăm năm cùng nhiều chứng cứ đã được cả hai bên đưa ra và tranh cãi. Xây dựng. Dưới sự quản lý của Hàn Quốc, đảo Liancourt đã trải qua một cuộc xây dựng lớn. Hiện tại, trên đảo có một tháp hải đăng, một đường đậu cho máy bay trực thăng, một cột cờ lớn nhìn thấy từ trên không và một hòm thư, một cầu thang lên xuống và một đồn cảnh sát. Năm 2007, hai nhà máy khử mặn đã được xây xong, có thể sản xuất 28 tấn nước sạch mỗi ngày. Cả hai công ty điện thoại lớn của Hàn Quốc đều có các tháp viễn thông trên các đảo nhỏ. Vai trò trong quan hệ Nhật-Hàn. Đảo Liancourt là điểm tranh chấp căng thẳng, bên cạnh các tranh chấp Nhật–Hàn khác. Bộ Ngoại giao Nhật Bản cho rằng lập trường của mình là "không thay đổi". Khi quận Shimane của Nhật Bản thông báo "Ngày Takeshima" năm 2005, người Hàn Quốc đã phản ứng bằng các cuộc biểu tình và phản đối trong khắp cả nước. Năm 2006, 5 "Dokdo Riders" Hàn Quốc đã thực hiện một chuyến du hành thế giới để gây chú ý trên bình diện quốc tế về tranh chấp này. Sự kiện bên lề.
{ "split": 4, "title": "Đảo Liancourt", "token_count": 490 }
671
Title: Đảo Liancourt Ngày 21/01/2022, Văn phòng Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in đã gửi hộp quà, trong đó có rượu truyền thống và nhiều món quà khác, tới Đại sứ Nhật Bản Koichi Aiboshi và các đại sứ nước ngoài khác tại Seoul để chúc mừng Tết Nguyên đán. Tuy nhiên, phía Nhật Bản cho biết hộp bên ngoài của món quà này có hình minh họa giống với nhóm đảo Dokdo (theo cách gọi của Hàn Quốc)/Takeshima (theo cách gọi của Nhật Bản) ở biển Nhật Bản. Ngoài trả lại hộp quà, Đại sứ quán Nhật Bản còn gửi tuyên bố phản đối tới Hàn Quốc. Phía Hàn Quốc đã giải thích rằng, hộp bên ngoài của món quà có in hình mặt trời mọc, được cho là đại diện cho cam kết vượt qua đại dịch COVID-19 của Hàn Quốc và bắt đầu một năm mới. Nhóm đảo Dokdo/Takeshima là nơi mọi người có thể ngắm bình minh đầu tiên ở Hàn Quốc.
{ "split": 5, "title": "Đảo Liancourt", "token_count": 213 }
672
Title: Đảo Likoma Đảo Likoma là đảo lớn hơn trong hai hòn đảo có người ở trong hồ Malawi, đảo nhỏ hơn là đảo Chizumulu gần đó và hai đảo tạo thành huyện Likoma. Cả hai hòn đảo chỉ cách Mozambique vài km và hoàn toàn bao quanh bởi các vùng nước của lãnh thổ Mozambique, nhưng thuộc về Malawi. Hai đảo này là hai vùng đất nằm bên ngoài Malawi. Điều này là vì hòn đảo đã bị thuộc địa hóa bởi các nhà truyền giáo Anh giáo lan rộng về phía đông từ Malawi, chứ không phải bởi người Bồ Đào Nha thuộc địa hóa Mozambique. Có thể đến đảo Chizumulu bằng tàu hơi nước từ cảng của vịnh Nkhata trên đất liền của Malawi. Tàu hơi MV Ilala hàng tuần qua hồ Malawi dừng lại ở Chizumulu. Các thuyền nhỏ hơn bao gồm cả các "dhow" qua eo biển giữa Likoma và Chizumulu. Hòn đảo này có diện tích 18 km ², và nằm ở phần phía đông bắc của hồ Malawi, 7 km về phía bắc-tây của Cobue, Mozambique). Thành phố gần nhất trên bờ biển Malawi là Chintheche. Likoma không có con đường lát đá và có rất ít xe cơ giới. Điện được cung cấp bởi một máy phát điện thường được tắt lúc 10 giờ tối. Có một mạng điện thoại trên đảo, mặc dù điện thoại là khá hiếm. Các khách sạn và các tổ chức có sử dụng Internet truy cập vào mạng thông qua kết nối vô tuyến (radio). Likoma có một đường băng mặt nhựa đường và đón bằng máy bay. Nyassa Air Taxi có máy bay nhỏ bay giữa Lilongwe và Likoma trên một dịch vụ đưa đón thường xuyên từ $ 280 / $ 490 cho một chuyến đi khứ hồi.
{ "split": 0, "title": "Đảo Likoma", "token_count": 391 }
673
Title: Đảo Little Barrier Đảo Little Barrier, hay Hauturu trong tiếng Māori (tên chính thức của người Māori là Te Hauturu-o-Toi), nằm ngoài khơi bờ biển phía đông bắc của Đảo Bắc của New Zealand. Nằm 80 km (50 dặm) về phía bắc Auckland, hòn đảo được phân tách từ đất liền về phía tây bởi Kênh Jellicoe và từ Đảo Great Barrier lớn hơn về phía đông bởi eo biển Cradock. Hai hòn đảo được đặt tên khéo léo che chở Vịnh Hauraki khỏi nhiều cơn bão của Thái Bình Dương. Người Māori định cư ở đảo này vào khoảng giữa năm 1350 và 1650, hòn đảo đã bị chiếm đóng bởi những người đó cho đến khi chính phủ New Zealand tuyên bố hòn đảo là khu bảo tồn động vật hoang dã vào năm 1897. Kể từ khi hòn đảo này nằm dưới sự kiểm soát của chính phủ, nó chỉ bị giới hạn vài kiểm lâm viên sống trên đảo. Trong ngôn ngữ của người Maori, tên của tên đảo có nghĩa là "nơi nghỉ ngơi của những cơn gió kéo dài". Cùng với người hàng xóm lớn hơn Great Barrier, nó được đặt tên tiếng Anh bởi Thuyền trưởng James Cook vào năm 1769.
{ "split": 0, "title": "Đảo Little Barrier", "token_count": 281 }
674
Title: Đảo Miên Hoa Đảo Miên Hoa (, Hán Việt: Miên Hoa tự) là một hòn đảo nhỏ ở phía bắc đảo Đài Loan. Đảo thuộc địa giới hành chính của khu Trung Chính của thành phố Cơ Long và được tạo thành từ hoạt động của núi lửa. Đảo là điểm cực đông mà chính quyền Trung Hoa Dân Quốc tại Đài Loan kiểm soát, vào thời Nhật Bản cai trị Đài Loan, đảo là một khu khai thác phốt-phát. Đảo Miên Hoa cách Cơ Long 42 km về phía đông bắc, hải trình ước tính mất 2 giờ. Chiều dài đông-tây của đảo ước tính là 300 mét, chiều dài bắc-nam ước tính đạt 400 mét. Diện tích đảo Miên Hoa là 0,12 km², điểm cao nhất đạt 64 mét trên mực nước biển. Do đảo Miên Hoa và đảo Bành Giai có vị trí gần nhau và hình dáng cũng giống nhau nên nhiều ngư dân thường nhầm lẫn đảo Miên Hoa với đảo Bành Giai.
{ "split": 0, "title": "Đảo Miên Hoa", "token_count": 226 }
675
Title: Đảo Minoo Đảo Minoo là một hòn đảo của Iran nằm trong vịnh Ba Tư. Đảo này thuộc tỉnh Khuzestan ở miền tây nam Iran và gần thành phố Abadan. Nó nằm ở tỉnh Khuzestan, ở phía tây của đất nước, 700 km về phía nam của thủ đô Tehran. Trong khu vực này là khí hậu sa mạc nóng. Nhiệt độ trung bình hàng năm trong khu vực là 27 °C. Tháng nóng nhất là tháng bảy, khi nhiệt độ trung bình là 36 °C, và lạnh nhất là tháng 1, với  °C.. Lượng mưa trung bình hàng năm là 220 mm. Tháng ẩm ướt nhất là tháng mười một, với trung bình 68 mm lượng mưa và khô nhất là 1 mm vào tháng 6.
{ "split": 0, "title": "Đảo Minoo", "token_count": 165 }
676
Title: Đảo Phi Phi Quần đảo Phi Phi (, (phát âm là 'Pee Pee') là một nhóm đảo ở Thái Lan nằm giữa đảo lớn Phuket và eo biển Malacca của Thái Lan. Quần đảo này là một phần hành chính của tỉnh Krabi. Ko Phi Phi Don (; ) ("ko" 'đảo') là hòn đảo lớn nhất và đông dân nhất trong quần đảo, mặc dù các bãi biển của hòn đảo lớn thứ hai, Ko Phi Phi Le (; ) cũng có nhiều khách ghé thăm. Phần còn lại của các đảo trong nhóm, bao gồm Bida Nok, Bida Nai và Bamboo Island (Ko Mai Phai), không có nhiều hơn các tảng đá vôi lớn nhô ra biển. Các đảo có thể đến được bằng tàu cao tốc hoặc thuyền đuôi dài thường xuyên nhất từ thị trấn Krabi hoặc từ các bến tàu ở tỉnh Phuket. Phi Phi Don ban đầu là dân cư của ngư dân Hồi giáo vào cuối những năm 1940, và sau đó trở thành một đồn điền trồng dừa. Dân số Thái cư trú tại Phi Phi Don vẫn hơn 80% theo đạo Hồi. Tuy nhiên, dân số hiện tại - nếu tính cả những lao động ngắn hạn - theo đạo Phật nhiều hơn là theo đạo Hồi. Dân số cư trú từ 2.000 đến 3.000 người (2013). Quần đảo này trở nên nổi tiếng trên toàn thế giới khi Ko Phi Phi Le được sử dụng làm địa điểm để quay bộ phim "The Beach" của Anh - Mỹ năm 2000. Điều này đã kéo theo nhiều chỉ trích, với tuyên bố rằng công ty điện ảnh đã làm hỏng môi trường của hòn đảo - các nhà sản xuất được cho là đã san ủi các khu vực bãi biển và trồng cây cọ để khiến đảo giống với mô tả trong sách hơn, một cáo buộc về các nhà làm phim. Sự gia tăng du lịch là do bộ phim được phát hành, dẫn đến nạn suy thoái môi trường gia tăng. Phi Phi Le là nơi có "Hang động Viking", nơi có ngành công nghiệp thu hoạch yến sào đang phát triển mạnh. Ko Phi Phi đã bị tàn phá bởi trận sóng thần ở Ấn Độ Dương vào tháng 12 năm 2004, khi gần như toàn bộ cơ sở hạ tầng của hòn đảo bị phá hủy. Lịch sử.
{ "split": 0, "title": "Đảo Phi Phi", "token_count": 492 }
677
Title: Đảo Phi Phi Từ những khám phá khảo cổ, người ta tin rằng khu vực này là một trong những cộng đồng lâu đời nhất ở Thái Lan, có từ thời tiền sử. Người ta tin rằng tỉnh này có thể lấy tên từ "Krabi", có nghĩa là 'thanh kiếm'. Điều này có thể xuất phát từ một truyền thuyết rằng một thanh kiếm cổ đã được khai quật trước khi thành lập thành phố. Tên "Phi Phi" (phát âm là "phi-phi") bắt nguồn từ tiếng Mã Lai. Tên ban đầu của quần đảo là "Pulau Api-Api" ('hòn đảo rực lửa'). Tên gọi này đề cập đến "Pokok Api-Api", hoặc "cây rực lửa" (rừng mắm ổi xám) được tìm thấy trên các hòn đảo. Đảo nằm ở 7.6782 ° N, 98.7657 ° E. Địa lý. Có sáu hòn đảo trong quần đảo được gọi là Phi Phi. Nhóm đảo này nằm cách về phía nam đảo Phuket và là một phần thuộc Hat Nopparat Thara-Ko Phi Phi National Park. Vườn quốc gia có diện tích 242.437 rai (38.790 ha). là nơi có vô số san hô và sinh vật biển. Có những dãy núi đá vôi với những vách đá, hang động, bãi cát dài trắng mịn. Phi Phi Don và Phi Phi Le là những hòn đảo lớn nhất và nổi tiếng nhất. Phi Phi Don có diện tích : chiều dài và chiều rộng. Phi Phi Le có . Tổng cộng, quần đảo chiếm giữ Hành chính. Có hai ngôi làng hành chính tại Ko Phi Phi dưới sự quản lý của huyện Ao Nang, huyện Mueang Krabi, tỉnh Krabi. Có chín khu định cư dưới hai ngôi làng này. Các ngôi làng này là: Khí hậu. Công viên quốc gia Hat Noppharat Thara - Mu Ko Phi Phi chịu ảnh hưởng của gió mùa nhiệt đới. Có hai mùa: mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 12 và mùa nóng từ tháng 1 đến tháng 4. Nhiệt độ trung bình dao động trong khoảng . Lượng mưa trung bình mỗi năm là khoảng , với tháng ẩm ướt nhất là tháng bảy và tháng hai khô hạn nhất. Giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Đường sá.
{ "split": 1, "title": "Đảo Phi Phi", "token_count": 500 }
678
Title: Đảo Phi Phi Kể từ khi Ko Phi Phi được tái xây dựng sau trận sóng thần năm 2004, những tuyến đường trải nhựa hiện bao phủ phần lớn Vịnh Ton Sai và Vịnh Loh Dalum. Tất cả các con đường chỉ dành cho người đi bộ với xe đẩy được sử dụng để vận chuyển hàng hóa và túi xách. Các phương tiện cơ giới được phép duy nhất được dành cho các dịch vụ khẩn cấp. Đi xe đạp là hình thức giao thông phổ biến nhất ở Ton Sai. Hàng không. Các sân bay gần nhất là tại Krabi, Trang và Phuket. Cả ba đều có kết nối đường bộ và thuyền trực tiếp. Phà. Thường xuyên có các chuyến phà đến Ko Phi Phi từ Phuket, Ko Lanta và thị trấn Krabi bắt đầu lúc 08:30. Các chuyến thuyền cuối ngày từ Krabi và Phuket khởi hành lúc 14:30. Trong "mùa xanh" (tháng 6-tháng 10), du lịch đến và đi từ Ko Lanta chỉ qua thị trấn Krabi. Có một bến tàu nước sâu hiện đại lớn của chính phủ trên Vịnh Tonsai, Làng Phi Phi Don, được hoàn thành vào cuối năm 2009. Nó đi bằng các chuyến phà chính từ Phuket, Krabi và Ko Lanta. Du khách đến đảo Phi Phi phải trả 20 baht khi đến bến tàu. Thuyền lặn, thuyền đuôi dài và thuyền tiếp tế có điểm trả khách riêng dọc theo cầu tàu, giúp cầu tàu hoạt động hiệu quả vào mùa cao điểm. Du lịch. Quần đảo có những bãi biển và làn nước trong vắt, và môi trường tự nhiên được bảo vệ trong tình trạng là công viên quốc gia. Du lịch trên các hòn đảo bùng nổ kể từ khi bộ phim "The Beach được" phát hành. Vịnh Maya của Phi Phi Le đã đóng cửa với khách du lịch từ tháng 6 năm 2018 cho đến khi hệ sinh thái phục hồi, nhưng ít nhất phải một năm. Y khoa. Có một bệnh viện nhỏ trên đảo Phi Phi để cấp cứu. Với mục đích chính là ổn định các ca khẩn cấp và sơ tán đến bệnh viện Phuket. Khách sạn này nằm giữa Khách sạn Phi Phi Cabana và Tháp Ton Sai, cách bến tàu chính khoảng 5–7 phút đi bộ. Sóng thần năm 2004.
{ "split": 2, "title": "Đảo Phi Phi", "token_count": 482 }
679
Title: Đảo Phi Phi Ngày 26 tháng 12 năm 2004, phần lớn nơi sinh sống của Phi Phi Don đã bị thảm họa sóng thần ở Ấn Độ Dương tàn phá. Ngôi làng chính của hòn đảo, Ton Sai (Banyan Tree, ), được xây dựng trên một eo đất cát nằm giữa hai rặng núi đá vôi dài và cao của hòn đảo. Hai bên Ton Sai là những vịnh hình bán nguyệt với những bãi biển trải dài. Eo đất này cao hơn mực nước biển . Ngay sau 10 giờ ngày 26 tháng 12, nước từ cả hai vịnh rút đi. Khi sóng thần ập đến, vào lúc 10:37, nó đã xảy ra từ cả hai vịnh và gặp nhau ở giữa eo đất. Sóng đổ vào Vịnh Ton Sai . Sóng đổ vào Vịnh Loh Dalum . Sức mạnh của đợt sóng lớn hơn từ Vịnh Loh Dalum đã đẩy sóng thần và cũng phá vỡ các khu vực trũng thấp trong núi đá vôi, đi từ Vịnh Laa Naa đến Vịnh Bakhao, và tại Laem Thong (Làng Sea Gypsy), nơi 11 người chết. Ngoài những vụ tàn phá này, phía đông của hòn đảo chỉ trải qua lũ lụt và dòng chảy mạnh. Một đài tưởng niệm sóng thần được xây dựng để tưởng niệm người đã khuất nhưng sau đó đã bị dỡ bỏ để xây khách sạn mới vào năm 2015. Vào thời điểm xảy ra sóng thần, hòn đảo ước tính có khoảng 10.000 người sinh sống, bao gồm cả khách du lịch. Tái thiết sau sóng thần. Sau trận sóng thần, khoảng 70% các tòa nhà trên đảo đã bị phá hủy. Đến cuối tháng 7 năm 2005, ước tính có khoảng 850 thi thể đã được vớt lên và khoảng 1.200 người vẫn mất tích. Tổng số người tử vong khó có thể được biết. Các hướng dẫn viên du lịch địa phương trích dẫn con số 4.000. Trong số cư dân Phi Phi Don, 104 trẻ em còn sống đã mất cả cha lẫn mẹ. Trước hậu quả của sóng thần, người dân cư trú được chuyển đến trại tị nạn tại Nong Kok, tỉnh Krabi.
{ "split": 3, "title": "Đảo Phi Phi", "token_count": 456 }
680
Title: Đảo Phi Phi Vào ngày 6 tháng 1 năm 2005, một cựu cư dân Hà Lan của Phi Phi, Emiel Kok, đã thành lập một tổ chức tự nguyện, "Help International Phi Phi" ("HI Phi Phi"). HI Phi Phi đã tuyển dụng 68 nhân viên Thái Lan từ trại tị nạn, cũng như các tình nguyện viên du lịch ba lô tạm thời (trong đó hơn 3.500 người đã đề nghị hỗ trợ), và trở lại đảo để thực hiện công việc dọn dẹp và tái dựng. Ngày 18 tháng 2 năm 2005, một tổ chức thứ hai, trại lặn Phi Phi, được thành lập để dọn dẹp đống đổ nát khỏi vịnh biển và rạn san hô, hầu hết trong số đó là ở Vịnh Ton Sai. Đến cuối tháng 7 năm 2005, 23.000 tấn đổ nát đã được chuyển khỏi hòn đảo, trong đó 7.000 tấn đã được dọn sạch bằng tay. "Chúng tôi cố gắng và làm càng nhiều càng tốt bằng tay", Kok nói, "bằng cách đó chúng tôi có thể tìm kiếm hộ chiếu và giấy tờ tùy thân." Phần lớn các tòa nhà được nhóm tìm kiếm của chính phủ cho là phù hợp để sửa chữa đã được phục hồi, và 300 cơ sở kinh doanh đã được khôi phục. HI Phi Phi đã được đề cử cho giải thưởng Anh hùng Châu Á của "Tạp chí Time." Tính đến ngày 6 tháng 12 năm 2005, gần 1.500 phòng khách sạn đã mở cửa và hệ thống cảnh báo sớm sóng thần đã được chính phủ Thái Lan lắp đặt với sự giúp đỡ của các tình nguyện viên. Tác động của du lịch đại chúng.
{ "split": 4, "title": "Đảo Phi Phi", "token_count": 341 }
681
Title: Đảo Phi Phi Kể từ sau trận sóng thần, Phi Phi đã bị đe dọa nhiều hơn từ hoạt động du lịch ồ ạt. Tiến sĩ Thon Thamrongnawasawat, một nhà hoạt động môi trường và là thành viên của Hội đồng Cải cách Quốc gia Thái Lan, đang vận động để giới hạn số lượng khách du lịch Phi Phi trước khi cảnh quan tự nhiên bị phá hủy hoàn toàn. Với việc miền nam Thái Lan thu hút thêm hàng nghìn khách du lịch mỗi ngày, Tiến sĩ Thon đưa ra quan điểm rằng hệ sinh thái đang bị đe dọa và đang nhanh chóng biến mất. Khi miền nam Thái Lan thu hút thêm hàng nghìn khách du lịch mỗi ngày, Tiến sĩ Thon đưa ra quan điểm rằng hệ sinh thái đang bị đe dọa và đang nhanh chóng biến mất. Tiến sĩ Thon, giảng viên sinh vật biển tại Đại học Kasetsart và là một nhà văn môi trường nổi tiếng cho biết: "Về mặt kinh tế, một số người có thể làm giàu, nhưng sự ích kỷ của họ sẽ phải trả giá đắt cho Thái Lan.
{ "split": 5, "title": "Đảo Phi Phi", "token_count": 229 }
682
Title: Đảo Phi Phi Hơn một nghìn khách du lịch đến Phi Phi mỗi ngày. Con số này không bao gồm những người đến bằng tàu cao tốc hoặc du thuyền thuê. Phi Phi sinh ra chất thải rắn mỗi ngày, tăng lên vào mùa cao điểm và hầu hết lượng chất thải này rời đảo Phi Phi ra đại dương - không được xử lý; Trên thực tế, Đảo Phi Phi thải ra 83% nước thải chưa qua xử lý. Tất cả khách du lịch đến đảo phải trả một khoản phí 20 baht tại Bến tàu Ton Sai để hỗ trợ "giữ cho Ko Phi Phi sạch sẽ". "Chúng tôi thu tới 20.000 baht mỗi ngày từ khách du lịch tại bến tàu. Số tiền này sau đó được dùng để trả cho một công ty tư nhân vận chuyển rác từ đảo vào đất liền ở Krabi để xử lý ", ông Pankum Kittithonkun, "Chủ tịch Tổ chức Hành chính Ao Nang (OrBorTor"), cho biết. Thuyền lấy khoảng 25 tấn rác từ đảo hàng ngày, nếu thời tiết cho phép. "Ao Nang OrBorTor" trả 600.000 baht mỗi tháng cho dịch vụ. Vào mùa cao điểm, một "chiếc thuyền Ao Nang OrBorTor" được sử dụng để giúp vận chuyển rác thải. Làm trầm trọng thêm vấn đề chất thải của Phi Phi là nước thải. "Chúng tôi không có nhà máy quản lý nước thải ở đó. Hy vọng duy nhất của chúng tôi là các khách sạn, nhà hàng và các doanh nghiệp khác hành động có trách nhiệm - nhưng tôi không có niềm tin vào họ, "ông Pankum nói. "Tất nhiên họ phải tự xử lý nước thải trước khi xả ra biển, nhưng rất có thể họ chỉ bật thiết bị lên trước khi các sĩ quan đến kiểm tra." Ông Pankum nói, vấn đề cơ bản là ngân sách được phân bổ cho Ao Nang và Phi Phi dựa trên dân số đăng ký của nó, chứ không phải dựa trên số lượng người mà nó tổ chức hàng năm. Vào tháng 6 năm 2018, Bãi biển Maya, nổi tiếng qua bộ phim "The Beach" năm 2000 của Leonardo DiCaprio, đã bị đóng cửa vô thời hạn để phục hồi. Bãi biển từng đón tới 5.000 lượt khách du lịch và 200 chiếc thuyền mỗi ngày.
{ "split": 6, "title": "Đảo Phi Phi", "token_count": 485 }
683
Title: Đảo Słodowa Đảo Słodowa (Đảo Malt) là một hòn đảo nhỏ trên sông Oder trong Khu phố cổ Wrocław. Đảo Słodowa từng được gọi là Bielarska Przingnia cho đến năm 1945. Ban đầu cái tên đến từ vải lanh tẩy trắng cho Dòng Saint Clare. Hòn đảo thuộc sở hữu của Hội Thánh Claire từ thời Trung cổ cho đến đầu thế kỷ 18, khi nó trở thành tài sản của thành phố. Vào thế kỷ 18, đảo Słodowa được kết nối với quần đảo Młyńska và Bielarska bằng cây cầu sắt. Vào nửa sau của thế kỷ 19, người ta bắt đầu xây dựng những ngôi nhà ở trên đó bằng hệ thống thoát nước, điện thoại và mạng lưới điện. Năm 1945, quân đội Đức đã lắp đặt pháo binh dã chiến ở đó, khiến nó trở thành mục tiêu để bắn phá thường xuyên trong Thế chiến II. Trong cuộc bao vây Wrocław vào cuối Thế chiến II, gần như tất cả các tòa nhà của hòn đảo đã bị phá hủy. Chỉ còn lại một số tòa nhà, bao gồm cả các nhà máy St. Clare có từ thế kỷ mười ba. Các nhà máy St. Clare đã bị nổ tung bởi những kẻ phá hoại vào năm 1975. Quyết định của thị trưởng Wrocław, Marian Czubiński, đã phá hủy chúng 30 năm sau Thế chiến II đã gặp phải sự chỉ trích và phản đối rộng rãi của người dân văn hóa, kiến trúc sư và nhà quy hoạch đô thị. Trong gần một phần tư thế kỷ sau khi các nhà máy bị phá hủy, khu vực này gần như không được phát triển hoàn toàn, chỉ còn một ngôi nhà trên đảo. Đảo Słodowa cũng là tên của con đường nối liền hòn đảo, qua đảo Mill với phố St. Jadwiga. Đó là lý do tại sao Khách sạn Tumski sử dụng địa chỉ: Słodowa Island 10 mặc dù thực tế là nó nằm trên Đảo Mill.
{ "split": 0, "title": "Đảo Słodowa", "token_count": 423 }
684
Title: Đảo Słodowa Đảo Słodowa và đảo Piaskowa lân cận (Đảo cát) tổ chức nhiều sự kiện văn hóa, bao gồm rất nhiều buổi hòa nhạc trong mùa hè. Những người được công nhận nhất là những sinh viên như là một phần của Ngày sinh viên vào tháng Năm mỗi năm. Vào năm 2008, hòn đảo là một trong những địa điểm của triển lãm nghệ thuật đường phố quốc tế "Nghệ sĩ bên ngoài / Ra khỏi Sth", trong đó nghệ sĩ người Ý Blu đã tạo ra một bức tranh tường có tên là "Tượng nô lệ".
{ "split": 1, "title": "Đảo Słodowa", "token_count": 129 }
685
Title: Đảo Stewart Đảo Stewart / Rakiura là hòn đảo lớn thứ ba của New Zealand. Nó nằm ở khu vực ngoài khơi, cách đảo Nam khoảng 30 km (19 dặm) về phía nam, ngăn cách bởi eo biển Foveaux. Dân số thường trú tại đảo là 381 người (điều tra dân số năm 2013) hầu hết trong số đó sống tại khu dân cư Oban. Lịch sử. Tên gốc Maori của hòn đảo là "Te Punga o Te Waka a Maui", hòn đảo Stewart / Rakiura là trung tâm của những câu chuyện thần thoại của người Maori. Dịch ra nghĩa là "Đá báo hiệu của xuồng độc mộc Maui", đề cập một phần đến hòn đảo trong truyền thuyết về người anh hùng Maui và thủy thủ đoàn. Rakiura là cái tên thường được biết đến và sử dụng bởi những người Maori. Nó thường được dịch là "bầu trời phát sáng", có thể là một tham chiếu đến cảnh hoàng hôn hay cho hiện tượng nam cực quang trên đảo. Thuyền trưởng James Cook và thủy thủ đoàn của ông là những người châu Âu đầu tiên nhìn thấy hòn đảo này vào năm 1770, nhưng Cook nghĩ rằng nó là một phần của đảo Nam nên đặt tên cho nó là mũi Nam. Hòn đảo được đặt theo tên tiếng Anh của William W. Stewart, sĩ quan đầu tiên trên tàu Pegasus đi từ cảng Jackson (Sydney), Úc vào năm 1809 trên chuyến tham hiểm săn hải cẩu. Stewart cùng con tàu đã lọt vào bến cảng đông nam mà ngày nay là địa danh mang tên của con tàu (Port Pegasus), và ông đã xác định các điểm phía bắc của đảo, chứng minh rằng nó là một hòn đảo. Ông đã thực hiện ba chuyến thăm khác tới đảo từ những năm 1820 đến 1840.
{ "split": 0, "title": "Đảo Stewart", "token_count": 397 }
686
Title: Đảo Stewart Năm 1841, hòn đảo này được thành lập như là một trong ba tỉnh của New Zealand, và được đặt tên là New Leinster. Tuy nhiên, nó chỉ tồn tại trên giấy và bị bãi bỏ chỉ sau 5 năm, và với việc thông qua Hiến pháp New Zealand 1846, nó đã trở thành một phần của New Munster, bao gồm cả đảo Nam và một diện tích của khu vực đảo Bắc. Khi New Munster đã bị bãi bỏ vào năm 1853, Stewart đã trở thành một phần của tỉnh Otago cho đến năm 1861 khi tỉnh Southland tách ra từ Otago. Năm 1876 các tỉnh đã được bãi bỏ hoàn toàn. Hầu hết khoảng thời gian trong thế kỷ XX, "Đảo Stewart" là tên chính thức, và sử dụng phổ biến bởi hầu hết người New Zealand. Tên chính thức được thay đổi là đảo Stewart / Rakiura bởi Đạo luật được công bố năm 1998, là một trong nhiều thay đổi như vậy dưới hiệp ước Ngāi Tahu. Địa lý. Đảo Stewart có diện tích 1.680 km vuông (650 sq mi). Đây là hòn đảo đồi núi và có khí hậu ẩm ướt. Phía bắc bị chi phối bởi các thung lũng và đầm lầy sông nước ngọt. Đỉnh cao nhất là núi Anglem cao 979 mét (3.212 ft)), gần bờ biển phía bắc. Đây là một trong một vành các dãy núi bao quanh thung lũng nước ngọt. Nửa phía nam là một loạt các đỉnh núi nhấp nhô tăng dần lên từ thung lũng của sông Rakeahua chạy về phía nam, con sông đổ ra Paterson Inlet. Điểm cực nam của dãy núi này là núi Allen cao 750 mét (2.460 ft). Ở phía đông nam của hòn đảo có địa hình thấp hơn một chút, và được thoát nước bởi các thung lũng sông Toitoi, Lords và sông Heron. Mũi Tây Nam trên hòn đảo này là điểm cực nam của các hòn đảo chính tại New Zealand.
{ "split": 1, "title": "Đảo Stewart", "token_count": 451 }
687
Title: Đảo Stewart Vịnh Mason ở phía tây là khu vực đáng chú ý với một bãi biển cát dài trên một hòn đảo mà địa hình gồ ghề là chủ yếu như đảo Stewart. Một gợi ý là vịnh được hình thành bởi dư chấn của một vụ va chạm thiên thạch trong biển Tasman. Ba hòn đảo nhỏ và nhiều đảo lớn hơn nằm xung quanh bờ biển. Đáng chú ý trong số này là Đảo Ruapuke nằm trong eo biển Foveaux và cách Oban 32 km (20 dặm) về phía đông bắc; Đảo Codfish, gần bờ biển phía tây bắc; và Đảo Big South Cape, ngoài khơi mũi phía tây nam. Nhóm đảo Titi / Muttonbird nằm giữa đảo Stewart / Rakiura và đảo Ruapuke, xung quanh đảo Big South Cape, và ngoài khơi bờ biển phía đông nam. Hòn đảo hấp dẫn khác bao gồm đảo Bench, Native, và Đảo Ulva, tất cả gần cửa biển Paterson Inlet; và đảo Pearl, Anchorage, và Noble gần Port Pegasus ở phía tây nam. Hơn nữa, ngoài khơi trên đại dương là Quần đảo Snares, là một nhóm các đảo nhỏ và đảo núi lửa, không được kết nối với đảo Stewart. Khí hậu của đảo Stewart tương đối là dễ chịu với mức nhiệt vừa phải. Tuy nhiên, một hướng dẫn du lịch đề cập đến các trận mưa lớn thường xuyên khiến cho việc du lịch tới đây phải mang theo giày dép và quần áo không thấm nước là bắt buộc, và hướng dẫn viên khác còn nói thêm rằng, lượng mưa tại Oban có thể đạt từ 1.600 đến 1.800 mm (63–71 in) mỗi năm. Do có vị trí ở vĩ độ cao nên đây cũng là một địa điểm tốt để quan sát cực quang (nam cực quang). Khu định cư. Thị trấn và là khu dân cư duy nhất trên hòn đảo là Oban, trên vịnh Halfmoon.
{ "split": 2, "title": "Đảo Stewart", "token_count": 427 }
688
Title: Đảo Stewart Một khu định cư trước đó là tại Port Pegasus khi nơi đay từng có một số cửa hàng và bưu điện, nằm trên bờ biển phía nam của hòn đảo này. Pegasus bây giờ là khu vực không có người ở, và chỉ được truy cập bằng thuyền hay thông qua các hòn đảo khác. Một địa điểm định cư cũ trước đây khác là tại Port William. Để đến được đây, người ta phải đi bộ bốn giờ đồng hồ xung quanh bờ biển phía bắc từ Oban, nơi những người nhập cư từ các khu định cư của quần đảo Shetland đầu thập niên 1870. Điều này đã không thành công, và những người định cư còn lại chỉ ở khu vực này trong vòng 1-2 năm, hầu hết họ đi làm công việc chế biến gỗ ở những nơi khác trên đảo. Từ năm 1988, đảo Stewart / Rakiura đã được cung cấp điện bằng máy phát điện diesel; trước đây người dân sử dụng máy phát điện riêng. Tuy nhiên, người dân sẽ phải trả tiền điện cao gấp 3 lần so với tại đảo Nam (0,52 đola NZ/kWh vào năm 2008). Hội đồng Quận Southland đã hợp tác với công ty năng lượng nhà nước Meridian Energy để phát triển các nguồn năng lượng tái tạo cho hòn đảo này, và các thí nghiệm với quang điện và điện gió đang được tiến hành. Kinh tế và thông tin liên lạc. Đánh bắt cá là ngành kinh tế quan trọng nhất của đảo Stewart / Rakiura. Ngoài ra, du lịch tại đây đã dần trở thành nguồn thu nhập chính của đảo. Một số ngành khác gồm có nông nghiệp và lâm nghiệp. Hệ thống tuyến đường chính trên đảo chủ yếu chạy qua Oban, còn ở vùng ngoại ô khác là những con đường trải sỏi đá. Hãng hàng không Southern Air mở đường bay giữa Creek Aerodrome Ryan và sân bay Invercargill và máy bay cũng có thể hạ cánh trên bãi cát ở vịnh Mason, Doughboy, và bãi biển Tây Ruggedy. Dịch vụ phà và xà lan chở khách thường xuyên chạy tuyến giữa Bluff (tại Đảo Nam) và Oban.
{ "split": 3, "title": "Đảo Stewart", "token_count": 451 }
689
Title: Đảo Stewart Oban có đầy đủ dịch vụ về điện thoại và băng thông rộng (ADSL), nhưng vùng phủ sóng điện thoại di động được giới hạn bởi nhà mạng XT / 3G và tất cả các dịch vụ dựa trên một kết nối đường truyền tại Bluff, nên tốc độ đường truyền mạng còn hạn chế. Stewart có thể bắt được tín hiệu được hầu hết các chương trình phát sóng của đài phát thanh AM và FM tại khu vực Nam California. Dịch vụ truyền hình có sẵn thông qua truyền hình vệ tinh sử dụng Sky hay Freeview. Dịch vụ truyền hình mặt đất tương tự có thể nhận được trên đảo Stewart từ máy phát truyền hình Hedgehope được đặt vào 28 tháng 4 năm 2013.
{ "split": 4, "title": "Đảo Stewart", "token_count": 148 }
690
Title: Đảo Thị Tứ Đảo Thị Tứ là một đảo san hô thuộc cụm Thị Tứ của quần đảo Trường Sa. Đảo này xếp thứ hai trong quần đảo về mặt diện tích. Đảo Thị Tứ là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan, Philippines và Trung Quốc. Hiện Philippines đang kiểm soát đảo này. Tổng quát. <mapframe latitude="11.052692" longitude="114.283637" zoom="16" text="Bản đồ đảo Thị Tứ" width="583" height="377" align="center" /> Lịch sử. Ngày 21 tháng 12 năm 1933, thống đốc Nam Kỳ Jean-Félix Krautheimer ký Nghị định số 4702-CP sáp nhập một số đảo chính và các đảo phụ thuộc trong quần đảo Trường Sa vào địa phận tỉnh Bà Rịa, trong đó có đảo Thị Tứ. Đầu thập niên 1960, các tàu hải quân của Việt Nam Cộng hòa thường ghé thăm đảo Thị Tứ, cụ thể năm 1961 là tàu HQ-02 Vạn Kiếp và HQ-06 Vân Đồn còn năm 1963 là ba tàu gồm HQ-404 Hương Giang, HQ-01 Chi Lăng và HQ-09 Kì Hòa (dựng bia trên đảo Thị Tứ vào ngày 22 tháng 5). Vào thời kỳ 1970-1971, Philippines cho quân bí mật chiếm đóng một số đảo thuộc Trường Sa, trong đó có đảo Thị Tứ. Ngày 5/3/2019, giới chức Philippines cho biết các tàu cá Trung Quốc ép ngư dân Philippines rời khỏi những bãi cạn nằm trong lãnh hải của đảo Thị Tứ. Dân cư. Năm 2002, chính quyền Philippines đưa dân ra đảo trong khuôn khổ một chương trình tái định cư. Hiện nay, đảo Thị Tứ là nơi duy nhất có dân cư sinh sống trong số các thực thể thuộc Trường Sa do Philippines kiểm soát. Dân Philippines trên đảo nuôi lợn, dê, gà và trồng trọt trong khu vực được giao. Ban ngày dân chúng sử dụng điện từ máy phát điện của chính quyền, về đêm thì chuyển sang dùng nguồn điện mặt trời trữ được trong ngày. Hiện có hai chuyến bay thương mại hàng tuần. Mỗi tháng một lần, tàu của hải quân Philippines chở lương thực và thực phẩm đến đây. Cơ sở hạ tầng.
{ "split": 0, "title": "Đảo Thị Tứ", "token_count": 493 }
691
Title: Đảo Thị Tứ Trên đảo Thị Tứ có một đường băng dài 1.260 m được xây dựng vào năm 1975 với khả năng tiếp nhận các máy bay lớn nhưng đã xuống cấp. Ngoài ra, nơi đây còn có căn cứ hải quân, bến tàu, trung tâm y tế, trường học và một tháp thông tin di động. Phát triển kinh tế. Trong thập niên 1990, du thuyền từ Cebu đã đưa các vị khách Nhật Bản ra khu vực Trường Sa để tham quan những bãi biển và rạn san hô tươi đẹp. Ngày 3 tháng 4 năm 2012, Philippines tuyên bố kế hoạch phát triển đảo Thị Tứ bằng cách sửa chữa lại đường băng trên đảo và biến nơi đây thành một khu du lịch. Tuy nhiên, trước mắt Philippines sẽ xây dựng một bến tàu mới tại đảo Thị Tứ vào nửa sau năm 2012 để giúp ngư dân địa phương vận chuyển hàng hóa thuận tiện hơn.
{ "split": 1, "title": "Đảo Thị Tứ", "token_count": 189 }
692
Title: Đảo Whitsunday Đảo Whitsunday là hòn đảo lớn nhất trong quần đảo Whitsunday nằm ngoài khơi bờ biển Trung Queensland, Úc. Tại đây có bãi biển Whitehaven được CNN.com đánh giá là bãi biển sinh thái thân thiện hàng đầu thế giới vào tháng 7 năm 2010. Không nên nhầm lẫn hòn đảo này với đảo Pinaki thuộc quần đảo Tuamotu cũng được Samuel Wallis đặt tên là "Đảo Whitsunday" vào năm 1767. Hòn đảo này hiện không có người ở nhưng trong quá khứ nó đã từng là nơi định cư của người Ngaro. Khu trại đầu tiên trong số các khu trại trên đảo được thành lập bởi Eugene Fitzalan vào năm 1861 nhằm khai thác những cây thông lớn phục vụ cho xây dựng các tòa nhà ở đất liền. Địa lý. Có thể đến đảo bằng thuyền từ các cảng du lịch trên đại lục như Airlie và Shute. Nó chứa nhiều điểm đến phổ biến cho cả du khách vào ban ngày và thủy thủ đoàn vào ban đêm, bao gồm bãi cát trắng tuyệt đẹp của bãi biển Whitehaven và vịnh nhỏ Hill, nơi neo đậu an toàn của cảng Cid và đường thủy được che chắn của vịnh nhỏ Gulnare. Trên đảo cũng có sáu khu cắm trại cho khách qua đêm. Được đặt tên bởi thuyền trưởng James Cook vào đầu tháng 6 năm 1770, hòn đảo có diện tích . Xung quanh các vịnh ở phía bắc của đảo là những thảm cỏ biển hỗ trợ môi trường sống cho nhiều loại sinh vật biển. Chuột túi Wallaby thông thường được nhìn thấy nhiều trên đảo. Vùng biển ở đây ấm áp, trong vắt, nông, giàu dinh dưỡng và chảy nhanh do dòng thủy triều lớn khiến chúng rất phù hợp cho sự phát triển của các rạn san hô viền bờ.
{ "split": 0, "title": "Đảo Whitsunday", "token_count": 394 }
693
Title: Đảo của dân ngụ cư Đảo của dân ngụ cư là một phim điện ảnh chính kịch tâm lý tình cảm Việt Nam năm 2017 do Hồng Ánh đạo diễn và Nguyễn Quang Lập viết kịch bản, chuyển thể từ truyện ngắn cùng tên năm 1992 của nhà văn Đỗ Phước Tiến. Phim có sự tham gia diễn xuất của Phạm Hồng Phước, Ngọc Thanh Tâm, Nhan Phúc Vinh, NSƯT Ngọc Hiệp, Hoàng Phúc, Hoàng Nhân, NSƯT Hữu Châu, Phi Phụng và Lê Hiền Hạnh. Nội dung phim xoay quanh các mối quan hệ của các nhân vật sống chung trong một nhà hàng mang tên "Đêm trắng", với mỗi nhân vật đều mang một ám ảnh nội tâm riêng. "Đảo của dân ngụ cư" là phim điện ảnh đầu tiên Hồng Ánh giữ vai trò đạo diễn, và đây cũng là lần đầu tiên nam ca sĩ Phạm Hồng Phước tham gia đóng phim. Dự án phim đã được Hồng Ánh ấp ủ trong hơn 10 năm mới chính thức được lên kế hoạch thực hiện. Phim được quay tại Huế và Hội An, Việt Nam. "Đảo của dân ngụ cư" ra mắt vào ngày 24 tháng 5 năm 2017 tại sự kiện Tuần lễ phim Việt Nam tại Madrid, Tây Ban Nha, và được công chiếu tại Việt Nam vào ngày 9 tháng 6 năm 2017 bởi công ty BHD. Phim đã nhận được tám đề cử tại Liên hoan phim quốc tế ASEAN 2017, và giành chiến thắng tại ba hạng mục: Phim hay nhất, Nam diễn viên chính xuất sắc nhất và Đạo diễn hình ảnh (DOP) xuất sắc nhất. Nội dung. Phước (Phạm Hồng Phước) là một gã lang thang. Cậu quyết định tạm dừng chuyến hành trình của mình tại một nhà hàng chuyên bán lẩu dê tên là "Đêm trắng". Từ lúc nhận được cái nhìn soi mói của Xiếm Hoa (Ngọc Hiệp) và bước vào bên trong cánh cổng luôn đóng kín vào ban ngày của "Đêm trắng", cậu không ngờ cuộc đời mình sẽ thay đổi mãi mãi. 
{ "split": 0, "title": "Đảo của dân ngụ cư", "token_count": 436 }
694
Title: Đảo của dân ngụ cư Ông chủ của "Đêm trắng" (Hoàng Phúc) là một người ít nói, độc tài và trông khá đáng sợ. Ông có một cô con gái tên Chu (Ngọc Thanh Tâm). Vì bị liệt ở chân nên Chu chính là nỗi ô nhục mà ông chủ luôn giấu kín trên căn gác mà không ai được bén mảng đến. Cũng tại nhà hàng này, Phước kết bạn với Miên (Nhan Phúc Vinh), gã thanh niên người Khmer hoang dã và phóng khoáng, người sẽ tạo ra một bước ngoặt lớn trong cuộc đời cậu. Trong đám người làm còn có ông Ahmed (Hoàng Nhân), một người theo đạo Hồi luôn lặng lẽ như dòng thời gian lúc nào cũng ì ạch trong căn nhà cổ. Cuộc đời của Phước và tất cả những con người tại nơi đó bắt đầu dịch chuyển từ lúc cậu xuất hiện, chầm chậm, âm ỉ nhưng cũng đầy cảm giác nhục dục và đê mê. Diễn viên. NSƯT Hữu Châu, Phi Phụng và Lê Hiền Hạnh cũng tham gia vào phim với các vai diễn khách mời. Sản xuất. Vào những năm giữa thập niên 2000, diễn viên Hồng Ánh đọc được kịch bản "Đảo của dân ngụ cư," cô rất thích và mong muốn thực hiện bộ phim này trong vai trò nhà sản xuất và tham gia vào một vai diễn. Dự án phim đã được Hồng Ánh cô ấp ủ thực hiện trong hơn 10 năm, tuy nhiên do một vài vấn đề, tới năm 2016 bộ phim mới chính thức được lên kế hoạch thực hiện. Đây là phim điện ảnh đầu tiên Hồng Ánh giữ vai trò đạo diễn, và cũng là lần đầu tiên nam ca sĩ Phạm Hồng Phước tham gia đóng phim. Phim được quay tại Huế và Hội An, Việt Nam. Trong buổi ra mắt phim tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam, diễn viên Phạm Hồng Phước cho biết phân cảnh quan hệ tình dục của anh trong phim được quay trong một căn phòng chật chội, nóng bức ở phố cổ Hội An. Anh còn tiết lộ thêm, "Phước phải thực hiện cảnh giường chiếu với không chỉ một mà đến hai người phụ nữ đó là Ngọc Thanh Tâm và một nữ diễn viên đóng thế nữa." Phát hành.
{ "split": 1, "title": "Đảo của dân ngụ cư", "token_count": 479 }
695
Title: Đảo của dân ngụ cư "Đảo của dân ngụ cư" được giới thiệu tới công chúng lần đầu tiên vào ngày 4 tháng 11 năm 2016 trong Liên hoan phim quốc tế Hà Nội 2016. Đây cũng là phim điện ảnh đại diện duy nhất của Việt Nam được giới thiệu tại Liên hoan phim quốc tế ASEAN 2017 diễn ra từ ngày 4 tháng 5 đến 6 tháng 5 năm 2017 tại Malaysia. Tác phẩm là một trong bốn phim điện ảnh Việt Nam được giới thiệu vào ngày 20 tháng 5 năm 2017 tại sự kiện "Đêm Việt Nam" nằm trong khuôn khổ Liên hoan phim Cannes 2017, cùng với "Người vợ ba", "Culi không bao giờ khóc" và "Vị". Chiều ngày 24 tháng 5 năm 2017, phim được công chiếu lần đầu tiên với phụ đề tiếng Tây Ban Nha tại sự kiện Tuần lễ phim Việt Nam tại Madrid, Tây Ban Nha cùng với ba phim điện ảnh "Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh", "Quyên" và "Cuộc đời của Yến," và đã cháy vé trong suất chiếu tối ngày 25 tháng 5 của sự kiện này. Phim có hai buổi họp báo ra mắt khán giả Việt Nam, một buổi tại Hà Nội vào ngày 5 tháng 6 năm 2017, và một buổi tại Thành phố Hồ Chí Minh vào ngày 7 tháng 6 năm 2017. "Đảo của dân ngụ cư" do công ty BHD giữ bản quyền phát hành. Phim được dán nhãn C18 và ban đầu được sự định công chiếu tại Việt Nam vào tháng 8 năm 2017. Sau đó phim được đẩy sớm ngày phát hành lên hai tháng, và được công chiếu chính thức vào ngày 9 tháng 6 năm 2017 dưới định dạng 2D tiêu chuẩn kèm phụ đề tiếng Anh. Đánh giá chuyên môn. "Đảo của dân ngụ cư" đã nhận được nhiều ý kiến trái chiều từ giới phê bình điện ảnh, đề cao diễn xuất của các diễn viên, phong cách đạo diễn cũng như tông nền của bộ phim, nhưng đồng thời cũng chỉ trích lối mòn trong việc lựa chọn nội dung của Hồng Ánh.
{ "split": 2, "title": "Đảo của dân ngụ cư", "token_count": 431 }
696
Title: Đảo của dân ngụ cư Cây bút Phúc Du từ "Trí thức trẻ" đã gọi bộ phim là một ""cuốn phim về những bí bách của cả một xã hội thu nhỏ trong một căn nhà", đồng thời bình luận, "Bí bách, uẩn ức và lệ thuộc chính là những tính từ để miêu tả cuộc sống của những con người trên hòn đảo của dân ngụ cư, như những chú dê chờ đến ngày bị cắt cổ." Lê Na từ "Thanh niên Online" thì viết rằng phim "thu hút người xem bằng những khuôn hình đầy ám ảnh, lúc thì dữ dội bạo liệt, khi thì trầm lắng miên man"," và gọi "cảnh nóng' đầy nghệ thuật là điểm nhấn cho bộ phim." Nguyễn Tuấn từ trang "Tuổi trẻ Online" lại cho rằng "Đảo của dân ngụ cư" là một tác phẩm điện ảnh quá nặng đối với một sản phẩm đầu tay, kéo theo nhiều chi tiết thừa thãi: "Đảo của dân ngụ cư" có cốt liệu rất dày, chính vì vậy, kịch bản của Nguyễn Quang Lập, hay chính bản thân Hồng Ánh đã khá bối rối trong cách chọn điểm nhìn. Việc đó vô hình trung làm bộ phim bị rời rạc và thiếu nhất quán." Nhà phê bình Lê Hồng Lâm từ trang "Zing.vn" lại so sánh phim với các tác phẩm trước mà Hồng Ánh tham gia diễn xuất, khi các nhân vật chính trong những bộ phim này đều coi "tình dục là sự cứu rỗi", đồng thời anh cũng chỉ trích "Đảo của dân ngụ cư" chỉ là ""cái mối nối dài những nhân vật 'nàng thơ' bị nhốt của Hồng Ánh trong hơn một thập kỷ trước."" Giải thưởng và đề cử. Tại Liên hoan phim (LPH) quốc tế Á Âu lần thứ 13, được tổ chức từ ngày 22 đến ngày 28 tháng 7 năm 2017 tại thành phố Nursultan, Kazakhstan, "Đảo của dân ngụ cư" đã giành giải đặc biệt của Ban giám khảo sau khi lọt vào vòng tranh giải gồm 12 bộ phim.
{ "split": 3, "title": "Đảo của dân ngụ cư", "token_count": 461 }
697
Title: Đảo của dân ngụ cư Tại LHP Quốc tế Cairo (CIFF 2017) lần thứ 39, được tổ chức từ ngày 21 đến ngày 30 tháng 11 năm 2017 tại Cairo, Ai Cập, "Đảo của dân ngụ cư" được lựa chọn vào vòng tranh giải. Tại LHP Quốc tế Warsaw (WFF 2017), diễn ra từ ngày 13 tới ngày 22 tháng 10 năm 2017 tại Ba Lan, "Đảo của dân ngụ cư" được lựa chọn trình chiếu chính thức "Đảo của dân ngụ cư" cũng được lựa chọn dự thi tại LHP Đông Á tại Luân Đôn (London East Asia Film Festival – LEAFF 2017). "Đảo của dân ngụ cư" được lựa chọn tham dự và trình chiếu chính thức LHP quốc tế Brisbane tai Brisbarne, Queensland, Úc từ ngày 17 tháng 8 đến ngày 3 tháng 9 năm 2017. Tại LHP châu Á - Thái Bình Dương lần thứ 58 diễn ra tại Đài Bắc, Đài Loan ngày 1 tháng 9 tháng 2018, "Đảo của dân ngụ cư" đã giành chiến thắng kép với giải Best Story - Câu chuyện sáng tạo nhất và Ngọc Thanh Tâm - diễn viên nữ chính của bộ phim được vinh danh tại hạng mục Special Jury Award - Giải Đặc biệt của Ban giám khảo dành cho diễn viên triển vọng. Tại Palermo, Ý, "Đảo của dân ngụ cư" đoạt giải thưởng lớn Efebo d'Oro, Giải thưởng quốc tế của Ý dành cho tác phẩm điện ảnh chuyển thể từ tác phẩm văn học xuất sắc nhất.
{ "split": 4, "title": "Đảo của dân ngụ cư", "token_count": 334 }
698
Title: Đảo chính Thái Lan 2006 Đảo chính Thái Lan năm 2006 là một cuộc đảo chính xảy ra vào thứ 3, ngày 19 tháng 9 năm 2006, khi Quân đội Hoàng gia Thái Lan thực hiện một cuộc đảo chính lật đổ chính phủ của thủ tướng Thaksin Shinawatra. Đây là cuộc đảo chính đầu tiên trong 15 năm, tiếp theo sau cuộc một cuộc khủng hoảng chính trị kéo dài một năm liên quan tới Thaksin và các phe phái đối lập xảy ra chưa đầy một tháng trước cuộc bầu cử quốc hội toàn quốc được chuẩn bị tiến hành. Phe quân sự đảo chính đã hủy bỏ cuộc bầu cử theo dự tính này và đồng thời cũng tạm treo hiến pháp, giải tán Quốc hội, cấm các hoạt động phản đối và chính trị, đàn áp và kiểm duyệt các phương tiện truyền thông, tuyên bố thiết quân luật, và bắt bớ các thành viên nội các. Những người cầm quyền mới, do tướng Sonthi Boonyaratglin lãnh đạo đã tổ chức một Hội đồng Cải tổ Dân chủ (CDR), đã ban hành một bản tuyên bố vào ngày 21 tháng 9 tuyến bố lý do họ giành lấy quyền lực và đưa ra một cam kết và để phục hồi chính quyền dân chủ trong vòng một năm. Tuy nhiên, CDR cũng tuyên bố rằng sau các cuộc bầu cử và việc thành lập một chính quyền dân chủ, Hội đồng sẽ được chuyển thành một Hội đồng An ninh Quốc gia lâu dài mà vai trò của nó trong chính trường Thái Lan đã không được giải thích. Sau đó Hội đồng đã soạn thảo một hiến chương tạm thời và đã chỉ định tướng về hưu Surayud Chulanont làm thủ tướng. Thiết quân luật đã được dỡ bỏ trong 41/76 tỉnh vào ngày 26 tháng 1 năm 2007 nhưng vẫn còn hiệu lực tại 35 tỉnh. Diễn biến. Các tin đồn và các âm mưu trước đó.
{ "split": 0, "title": "Đảo chính Thái Lan 2006", "token_count": 388 }
699
Title: Đảo chính Thái Lan 2006 Việc lên kế hoạch cho cuộc chính biến này đã bắt đầu khoảng tháng 2 năm 2006. Các lời đồn đại về tình hình bất ổn của các lực lượng vũ trang và khả năng âm mưu đảo chính đã mở ra vài tháng trước khi nó dẫn đến cuộc đảo chính. Tháng 5 năm 2006, tướng Sonthi Boonyaratglin đã phát đi các lời đảm bảo rằng quân đội sẽ không đoạt quyền. Vào ngày 20 tháng 7 năm 2006, khoảng 100 sĩ quan quân đội cấp trung mà người ta cho là ủng hộ đương kim thủ tướng Thaksin đã bị ban chỉ huy cấp cao bổ nhiệm lại, làm tăng đồn đại rằng quân đội đã chia rẽ giữa những người ủng hộ và chống thủ tướng. Vào tháng 7 năm 2006, Tư lệnh Quân khu 3 Saprang Kalayanamitr trả lời phỏng vấn đã cho rằng chính trị Thái Lan đã nằm dưới chuẩn mực và sự lãnh đạo của quốc vương là yếu. Ông cũng cho rằng Thái Lan đang có một nền dân chủ giả. Công chúng đã bắt đầu cảnh giác với mỗi tin đồn mới. Ngày 15 tháng 7 năm 2006, một nhà hoạt động dân chủ, Tavivoot Chulavachana, đã đăng tải một thư ngõ trên một trang web chính trị phổ biến, trích dẫn các nguồn tin quân sự, cho rằng quân đội và Sondhi Limthongkul đang âm mưu một cuộc chính biến lật đổ đương kim thủ tướng Thaksin, và sau đó trả lại quyền lực cho nhân dân – sau một giai đoạn thanh lọc quốc gia. Tháng 8 năm 2006, có các báo cáo về việc di chuyển xe tăng gần thủ đô Bangkok, nhưng quân đội cho rằng đây là huấn luyện theo lịch trình. Đầu tháng 9, cảnh sát Thái Lan đã bắt giữ năm sĩ quan quân đội, tất cả đều là thành viên của ban chỉ huy chống nổi loạn, sau khi chặn đứng một trong những viên sĩ quan trong một xe hơi có bom được cho là nhằm vào tư dinh thủ tướng. Ba người tình nghi đã được thả sau cuộc đảo chính. Tháng 12 năm 2006, cựu lãnh đạo Hội đồng Anh ninh Quốc gia Prasong Soonsiri tuyên bố rằng ông và năm nhân vật quân sự cao cấp trước đó đã lên kế hoạch một cuộc đảo chính đầu tháng 7. Ông tuyên bố rằng Sonthi là một trong những nhân vật này, nhưng Surayud và Prem thì không tham gia vào thời điểm đó. Ngày thứ nhất (Thứ 3).
{ "split": 1, "title": "Đảo chính Thái Lan 2006", "token_count": 498 }