id
int64
2
19.8M
revid
stringlengths
1
8
url
stringlengths
37
44
title
stringlengths
1
250
text
stringlengths
2
259k
19,821,481
11
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821481
Sáng kiến Lá chắn Bầu trời châu Âu
Sáng kiến Lá chắn Bầu trời châu Âu (tiếng Anh: European Sky Shield Initiative, viết tắt: ESSI) là dự án xây dựng một hệ thống phòng không tích hợp trên mặt đất của châu Âu, bao gồm khả năng chống tên lửa đạn đạo. Tính đến tháng 7 năm 2023, có 19 quốc gia châu Âu tham gia sáng kiến. Bối cảnh. Sáng kiến ​​này ban đầu được Thủ tướng Đức Olaf Scholz đề xuất vào tháng 8 năm 2022. Đề xuất này được đưa ra trong giai đoạn Nga tấn công cơ sở hạ tầng Ukraina 2022–2023, và trong bối cảnh gia tăng lo ngại về khả năng hạn chế của châu Âu trong việc phòng thủ trước các mối đe dọa như hệ thống tên lửa đạn đạo 9K720 Iskander của Nga được triển khai ở Kaliningrad. Tháng 10 năm 2022, 15 quốc gia châu Âu (Bỉ, Bulgaria, Cộng hòa Séc, Estonia, Phần Lan, Đức, Hungary, Latvia, Litva, Hà Lan, Na Uy, Slovakia, Slovenia, România và Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland) ký tuyên bố tham gia sáng kiến ​​do Đức dẫn đầu. Dự án này liên quan đến việc mua sắm chung các hệ thống phòng không. Tất cả các quốc gia sáng lập đều là thành viên của NATO (với Phần Lan sẽ gia nhập tổ chức vào năm 2023), và sáng kiến ​​này cũng nhằm tăng cường Hệ thống Phòng không Tích hợp NATO. Tháng 2 năm 2023, Đan Mạch và Thụy Điển tham gia dự án. Tháng 7 năm 2023, các quốc gia trung lập Áo và Thụy Sĩ ký tuyên bố tham gia sáng kiến. Điều này đặt ra câu hỏi về tương lai và tính thực tiễn trong chính sách trung lập của họ. Trong khi đó, Pháp đã công kích sáng kiến, cho rằng các bên tham gia phụ thuộc quá nhiều vào các kế hoạch của Đức về thiết bị và công nghệ vốn được sản xuất bên ngoài châu Âu. Có ý kiến ​​cho rằng chính phủ Pháp không hài lòng với việc hệ thống SAMP-T của Pháp-Ý bị loại khỏi ESSI. Tháng 6 năm 2023, Pháp đưa ra đề xuất thay thế và kêu gọi các quốc gia khác xem xét các giải pháp thay thế. Kể từ tháng 7 năm 2023, một số quốc gia lớn ở châu Âu, cụ thể là Pháp, Ba Lan, Ý và Tây Ban Nha chưa quyết định tham gia ESSI. Khả năng. ESSI sẽ sử dụng hệ thống phòng thủ nhiều lớp, với các hệ thống dự tính gồm: Tháng 12 năm 2022, Thủ tướng Đức bày tỏ hy vọng rằng hệ thống này sẽ được phát triển trong năm năm tới. Tháng 6 năm 2023, Quốc hội Liên bang Đức đồng ý cấp gần 4 tỷ euro cho việc mua lại hệ thống tên lửa chống tên lửa đạn đạo Arrow 3 từ Israel.
19,821,482
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821482
Thấu kính mỏng
Trong quang học, thấu kính mỏng là thấu kính có độ dày (khoảng cách dọc theo trục quang học giữa hai bề mặt của thấu kính) không đáng kể so với bán kính cong của các bề mặt thấu kính. Thấu kính có độ dày không đáng kể đôi khi được gọi là "thấu kính dày". Phép tính xấp xỉ thấu kính mỏng bỏ qua các hiệu ứng quang học do độ dày của thấu kính và đơn giản hóa các phép tính dò tia . Nó thường được kết hợp với phép tính ước lượng trục trong các kỹ thuật như phân tích ma trận truyền tia . Tiêu cự. Tiêu cự "f" của một thấu kính trong không khí được cho bởi phương trình thấu kính: trong đó "n" là chiết suất của vật liệu thấu kính và "R" 1 và "R" 2 là bán kính cong của hai bề mặt. Đối với một thấu kính mỏng, "d" nhỏ hơn nhiều so với một trong các bán kính cong ( "R" 1 hoặc "R" 2 ). Trong những điều kiện này, số hạng cuối cùng của phương trình thấu kính trở nên không đáng kể và tiêu cự của một thấu kính mỏng trong không khí có thể xấp xỉ bằng Ở đây, "R"1 là dương nếu như bề mặt đầu tiên là bề mặt lồi và âm nếu như bề mặt là lõm. Các dấu được đảo ngược cho bề mặt phía sau của kính: "R"2 là dương nếu bề mặt là lõm và âm nếu bề mặt là lồi. Đây là một quy ước dấu tùy ý; một số tác giả chọn quy ước dấu khác nhau cho bán kính, điều này làm thay đổi phương trình tiêu cự. Đạo hàm sử dụng định luật Snell. Xem xét một thấu kính mỏng có bán kính bề mặt thứ nhất là formula_3 và một mặt phẳng phía sau, làm bằng vật liệu có chiết suất formula_4 . Áp dụng định luật Snell, ánh sáng đi vào bề mặt thứ nhất bị khúc xạ theo formula_5, theo đó, formula_6 là góc tới trên giao diện và formula_7 là góc khúc xạ. Đối với bề mặt thứ hai, formula_8, theo đó formula_9 là góc tới và formula_10 là góc khúc xạ. Đối với góc nhỏ, formula_11 . Hình học của bài toán sau đó cho ta thấy: formula_12 Nếu tia tới song song với trục chính và khoảng cách từ trục chính tới tia tới là formula_13, ta có formula_14 Thay thế vào biểu thức trên, ta nhận được formula_15 Tia này đi qua trục quang học ở khoảng cách formula_16, được cho bởi formula_17 Kết hợp hai biểu thức ta được formula_18. Thêm vào đó, có thể chỉ ra rằng nếu như hai thấu kính có bán kính như vậy, formula_19 Và formula_20 được đặt gần nhau, độ dài tiêu cự có thể được cộng lại để tạo ra công thức thấu kính mỏng: formula_21 Tạo ảnh. Một số tia tuân thủ theo các quy tắc đơn giản khi đi qua một thấu kính mỏng, trong phương pháp xấp xỉ tia cận trục: Nếu có ba tia như vậy được vạch ra từ cùng một điểm trên một vật thể nằm phía trước thấu kính (chẳng hạn như đỉnh), giao điểm của chúng sẽ đánh dấu vị trí của điểm tương ứng trên ảnh của vật. Bằng cách lần theo đường đi của các tia này, mối quan hệ giữa khoảng cách đối tượng "s" và khoảng cách hình ảnh "s′" có thể được chỉ ra là: hay còn được gọi là phương trình thấu kính mỏng. Quang vật lý. Trong quang học sóng vô hướng, một thấu kính là một bộ phận gây dịch chuyển pha của mặt sóng. Về mặt toán học, có thể hiểu điều này như việc nhân mặt sóng với hàm sau:
19,821,493
889492
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821493
Namiki
Namiki là một thương hiệu chuyên sản xuất bút viết của Nhật Bản, đặc biệt là bút máy, thuộc sở hữu của công ty Pilot Corporation. Namiki chủ yếu nổi tiếng với các thiết kế thủ công "maki-e" (nghề thủ công sơn mài Nhật Bản với nhiều loại hình nghệ thuật và trang trí) trên bề mặt lớp sơn mài làm từ urushi. "Namiki" là họ của Ryosuke Namiki, người sáng lập Pilot Corporation, được đặt tên là "Công ty Sản xuất Namiki" cho đến năm 1938 khi nó trở thành "Công ty TNHH Pilot Pen". Thương hiệu Namiki trở nên nổi tiếng vào đầu thế kỷ 20 khi Dunhill bán tại thị trường phương Tây bút Maki-e do Pilot sản xuất dưới thương hiệu "Dunhill-Namiki". Sự hợp tác này vẫn tiếp tục cho đến ngày nay (thỉnh thoảng Namiki tạo ra một Phiên bản Giới hạn cho Dunhill) mặc dù Namiki luôn thuộc sở hữu của Pilot. Lịch sử. Hầu hết các bút máy đều được làm bằng ebonit, vật liệu kết hợp giữa lưu huỳnh và cao su. Tuy nhiên, ebonit đổi màu và mất đi độ sáng bóng theo thời gian. Nhận thức được điều này, Namiki Co. Ltd. ("Pilot Corporation") bắt đầu thử các phương pháp và vật liệu khác nhau để khắc phục vấn đề. Sau một số nỗ lực, họ phát hiện ra rằng lớp phủ sơn mài có thể chịu được sự xuống cấp và làm cho bút bền hơn. Họ cũng thử sơn các thiết kế trên thân bút máy, sử dụng kỹ thuật "maki-e", Quá trình này sau đó đã được cấp bằng sáng chế cho Pilot. Năm 1925, thương hiệu Namiki được tung ra thị trường, với các nghệ sĩ sơn mài Shisui Rokkaku và Gonroku Matsuda được mời làm bút máy. Ryosuke Namiki và Masao Wada (người sáng lập Pilot Co. năm 1918) đã đi quảng bá bút "maki-e" của họ tại các nước phương Tây. Năm 1926, văn phòng thí điểm được mở tại London, Anh, và 4 năm sau, hợp đồng được ký kết với Alfred Dunhill Ltd. để thương mại hóa bút Namiki tại các thành phố lớn của Châu Âu và Hoa Kỳ dưới thương hiệu "Dunhill-Namiki Sản xuất tại Nhật Bản". Thương hiệu này sau đó mở rộng sang New York, Thượng Hải và Singapore. Các mẫu mã. Bút máy Namiki và bút máy Pilot không dùng một lần sử dụng chung hộp tiếp mực converter độc quyền của Pilot/Namiki, với các loại mực nhiều màu. Converter mực của cả loại pít-tông và loại bóp cũng có sẵn cho phép tiếp mực bút máy Namiki và Pilot từ lọ mực. Lọ mực Namiki thiết kế cong có một ống mực bên trong, giữ cho ngòi ổn định trong quá trình châm mực và cũng cho phép lấy gần hết những giọt mực cuối cùng từ lọ vào bút. Kể từ tháng 11 năm 2019, các bộ sưu tập được Namiki thương mại hóa bao gồm "Emperor" (Hoàng đế), bộ sưu tập nổi tiếng nhất của thương hiệu Namiki. Tất cả các mô hình đều có lớp nền Urushi với nghệ thuật Maki-e được vẽ trên lớp nền. Có bảy mẫu trong bộ sưu tập này, Cá vàng (金魚), Rồng (龍), Cú (梟), Kỳ lân (麒麟), Cá chép thác nước (鯉の滝登り) và Châu báu (宝). Các bộ sưu tập khác là Yukari, Yukari Royale, Chinkin, Nippon Art, Urushi và Limited Edition.
19,821,496
873587
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821496
Roméo Lavia
Roméo Lavia (sinh ngày 6 tháng 1 năm 2004) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Bỉ thi đấu ở vị trí tiền vệ phòng ngự cho câu lạc bộ Premier League Chelsea và đội tuyển bóng đá quốc gia Bỉ.
19,821,497
70583868
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821497
Robert Sánchez
Robert Lynch Sánchez (sinh ngày 18 tháng 11 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Tây Ban Nha chơi ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Chelsea tại Premier League và đội tuyển bóng đá quốc gia Tây Ban Nha .
19,821,498
922434
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821498
Bờ cong nhỏ dạ dày
Dạ dày gồm tâm vị, đáy vị, thân vị, hang vị, môn vị với hình dạng chữ J. Trong đó phần thân vị là phần ở giữa phình ra to nhất của dạ dày. Do cấu trúc dạ dày hình chữ J mà phần thân vị sẽ có 2 bờ cong gồm: Bờ cong nhỏ cũng là một phần nối giữa tâm vị và môn vị, nó đi xuống dưới như một phần tiếp theo của bờ phải dạ dày thực quản, sau đó quay sang phải, đi qua đốt sống thắt lưng đầu tiên và kết thúc ở môn vị. Bờ cong nhỏ còn gắn vào 2 lớp của dây chằng gan dạ dày, giữa 2 lớp này là hệ thống mạch máu giúp cấp máu nuôi dưỡng dạ dày. Nguyên nhân bờ cong nhỏ hay bị viêm loét. Thức ăn từ thực quản khi đi xuống dạ dày có xu hướng tiếp xúc với bờ cong nhỏ nhiều hơn so với bờ cong lớn. Khi tiếp xúc với thức ăn, dạ dày kích hoạt khả năng co bóp và tiết acid để tiêu hóa, bờ cong nhỏ là vị trí sẽ hoạt động liên tục nhiều nhất lại có áp lực từ thức ăn nhiều tạo điều kiện hình thành các vết loét, viêm nhiễm. Cũng chính vì lý do này mà bở cong nhỏ dạ dày khi bị tổn thương thường lâu lành và dễ tiến triển nặng. Bên cạnh cơ chế hoạt động thì các nguyên nhân khác tác động gây tổn thương cho bờ cong nhỏ dạ dày gồm: Triệu chứng bệnh. Bờ cong nhỏ dạ dày bị viêm loét có thể có các triệu chứng như đau bụng vùng thượng vị, buồn nôn và nôn, đầy hơi, chán ăn và ợ nóng. Trường hợp nặng hơn có thể nôn ra máu, đi tiêu phân đen. Ngoài ra nếu không được điều trị, viêm loét bờ cong nhỏ dạ dày có thể gây thủng dạ dày, xuất huyết dạ dày, hẹp môn vị hoặc ung thư dạ dày. Chẩn đoán. Để chẩn đoán kết hợp chẩn đoán lâm sàng dựa vào triệu chứng kết hợp cùng các phương pháp cận lâm sàng như: Điều trị. Sử dụng thuốc để điều trị triệu chứng, nguyên nhân đồng thời kết hợp với lối sống sinh hoạt Các loại thuốc có thể được chỉ định như: thuốc kháng sinh diệt vi khuẩn H.pylori, thuốc ức chế bơm Proton, thuốc kháng thụ thể histamin H2, thuốc trung hòa acid, thuốc bảo vệ niêm mạc dạ ày. Thay đổi lối sống: ăn đúng giờ, ngủ đủ giấc; chia nhỏ bữa ăn; tránh ăn quá no hoặc quá đói; hạn chế thực phẩm gây kích ứng như đồ cay, rượu bia...
19,821,502
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821502
Ramy Bensebaini
Amir Selmane Ramy Bensebaïni (; sinh ngày 16 tháng 4 năm 1995) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Algérie thi đấu ở vị trí hậu vệ trái hoặc trung vệ cho câu lạc bộ Borussia Dortmund tại Bundesliga và đội tuyển bóng đá quốc gia Algérie .
19,821,503
538169
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821503
Julian Ryerson
Julian Ryerson (sinh ngày 17 tháng 11 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Na Uy , chơi ở vị trí hậu vệ phải cho câu lạc bộ Bundesliga Borussia Dortmund và Đội tuyển bóng đá quốc gia Na Uy .
19,821,504
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821504
Guglielmo Vicario
Guglielmo Vicario (sinh ngày 7 tháng 10 năm 1996) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Ý thi đấu ở vị trí thủ môn cho câu lạc bộ Tottenham Hotspur tại Premier League.
19,821,505
15735
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821505
Tijjani Reijnders
Tijjani Reijnders (sinh ngày 29 tháng 7 năm 1998) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Hà Lan thi đấu ở vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ AC Milan tại Serie A.
19,821,506
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821506
Fodé Ballo-Touré
Fodé Ballo-Touré (sinh ngày 3 tháng 1 năm 1997) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người Sénégal gốc Pháp chơi ở vị trí hậu vệ trái cho câu lạc bộ Serie A AC Milan. Anh thi đấu cho đội tuyển bóng đá quốc gia Senegal..
19,821,507
70594785
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821507
Otávio Edmilson da Silva Monteiro
Otávio Edmilson da Silva Monteiro (sinh ngày 9 tháng 2 năm 1995), thường được gọi là Otávio hoặc Otaviho , là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp thi đấu ở vị trí tiền vệ tấn công hoặc tiền vệ chạy cánh cho câu lạc bộ Al Nassr tại giải Saudi Pro League và Đội tuyển bóng đá quốc gia Bồ Đào Nha . Anh ấy đã đến Internacional , trước khi ký hợp đồng với câu lạc bộ Bồ Đào Nha Primeira Liga với Porto vào năm 2014 với tư cách là cầu thủ tự do. Anh ấy ngay lập tức được gửi đến Vitória de Guimarães theo hợp đồng cho mượn hai năm , trước khi trở lại vào năm 2016. Sau khi trở lại, anh ấy trở thành người bắt đầu và giành được ba danh hiệu Primeira Liga , hai Taça de Portugal và hai Supertaças Cândido de Oliveira , khi là một phần của đội đã giành được hai cú đúp quốc nội vào năm 2020 và 2022, có hơn 200 lần ra sân chính thức cho họ. Sinh ra và lớn lên ở Brazil, Otávio đã đại diện cho quê hương của mình thi đấu quốc tế ở cấp độ vào năm 2014, nhưng đã chuyển sang thi đấu ở cấp độ quốc tế chuyên nghiệp cho , và ra mắt quốc tế vào năm 2021.
19,821,513
912896
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821513
Thể thao điện tử tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 - Giải đấu Liên Minh Huyền Thoại
Thể thao điện tử Liên Minh Huyền Thoại tại Đại hội Thể thao châu Á 2022 sẽ là một nội dung thi đấu tranh huy chương, được tranh tài từ ngày 25 tháng 09 năm 2023 đến ngày 02 tháng 10 năm 2023. Đây là lần thứ 2 Liên Minh Huyền Thoại là một nội dung thi đấu tranh huy chương trong một Sự kiện thể thao đa môn, lần đầu tiên là tại Đại hội Thể thao Đông Nam Á 2021 được tổ chức ở Hà Nội, Việt Nam. Tại kì Đại hội Thể thao châu Á 2018 diễn ra tại Indonesia, Thể thao điện tử và Liên Minh Huyền Thoại là nội dung biểu diễn. Vòng bảng. 13 đội tuyển sẽ được chia thành 4 bảng. Bảng A có 4 đội, trong khi bảng B, C và D mỗi bảng có 3 đội. 2 đội có thành tích tốt nhất của 4 bảng sẽ giành quyền vào vòng loại trực tiếp.
19,821,520
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821520
Hügelsheim
Hügelsheim ( Low Alemannic : "Heilze" hoặc "Helse" ) là một thị xã nằm phía tây nước Đức, bên bờ sông Rhine giáp với Alsace, Pháp.
19,821,521
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821521
Concerto cho Piano và tứ tấu đàn dây (Busoni)
Concerto cho Piano và tứ tấu đàn dây cung Rê thứ, Op . 17, BV 80 là một sáng tác của Ferruccio Busoni viết năm 1878 khi ông mới 12 tuổi. Tên ban đầu là "Concerto per piano-forte con accompagnamento di quartetto ad arco", Op. 17. Được sáng tác cho tứ tấu đàn dây, nhưng đàn piano cũng có thể được đệm với một dàn nhạc dây. Tác phẩm đã được xuất bản dưới tiêu đề Concerto cho Piano và Dàn nhạc dây vào năm 1987. Bối cảnh sáng tác. Busoni được xem là một thần đồng. Những kiến thức âm nhạc mà lần đầu ông được tiếp xúc đều được dạy hầu hết bởi cha mình, một nghệ sĩ dương cầm và còn là một nhà soạn nhạc. Sau khi học ở Viên trong 2 năm tại Nhạc viện Vienna, Busoni chuyển đến Graz năm 10 tuổi vì lý do sức khỏe vào tháng 10 năm 1877. Nhà soạn nhạc Wilhelm Kienzl nhớ lại rằng Busoni đã có khả năng ứng tác ở một trình độ trưởng thành: "Ngồi bên cây đàn piano, cậu bé được truyền cảm hứng đến mức nghiêm túc nhất và hoàn toàn say mê với nhiệm vụ của mình". Kienzl đề xuất Busoni học với Wilhelm Mayer. Một số tác phẩm đầu tiên của Busoni đã được xuất bản vào lúc đó, bao gồm hai bản phổ nhạc của Ave Maria và các tác phẩm piano. Bản tổng phổ và các phân phổ hiện được lưu trữ bởi Staatsbibliothek Preussischer Kulturbesitz ở Berlin như một phần thuộc "Nachlass" (tài sản) của Busoni. Cấu trúc. Cấu trúc của tác phẩm bao gồm chương. Vì vậy, tác phẩm có sự tương đồng nhiều hơn với một bản tứ tấu đàn dây cổ điển hơn là một bản concerto dành cho piano thường chỉ có ba chương: Thời lượng tác phẩm bao gồm khoảng 20 phút. Tác phẩm đã ít cho thấy báo trước về đặc điểm sáng tác sau này khi trưởng thành của Busoni, nhưng lúc này ông vẫn đang theo đuổi những hình mẫu của Mozart. Người đánh giá bản thu âm đầu tiên nhấn mạnh rằng phần đầu tiên của piano thể hiện "sắc thái được cá nhân hóa" và "chương Adagio có một sự nghiêm túc bất ngờ nhưng cũng có một sự gần gũi và tế nhị trong sáng. Chương scherzo trữ tình gợi nhớ đến Schubert, và chương cuối khá "thông thường" là màn thể hiện kỹ thuật sáng tác, bao gồm cả sự tương phản nhuần nhuyễn giữa piano và dàn dây. Xuất bản và thu âm. Bản concerto được xuất bản bởi Breitkopf & Härtel, Wiesbaden, vào năm 1987, do Larry Sitsky hiệu đính. Ông khuyến nghị dựa trên các đánh dấu của tutti và divisi, nên sử dụng dàn nhạc dây có đàn contrebass tăng cường bè trầm cho đàn cello, đây là một thông lệ phổ biến vào thời điểm sáng tác. Bản nhạc được thu âm lần đầu tiên vào năm 1999 bởi Carlo Grante và nhóm I Pomeriggi Musicali, do Marco Zuccarini làm chỉ huy.
19,821,524
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821524
Iffezheim
Iffezheim là một thị xã thuộc huyện Rastatt bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm gần sông Rhine.
19,821,527
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821527
Loffenau
Loffenau là một thị xã nằm ở huyện Rastatt, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
19,821,529
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821529
Muggensturm
Muggensturm là một thị xã nằm ở huyện Rastatt, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
19,821,532
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821532
Ötigheim
Ötigheim (Alemannic thấp: "Etje") là một thị xã nằm ở huyện Rastatt, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
19,821,533
518426
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821533
Ferruccio Busoni
Ferruccio Busoni (1 tháng 4 năm 1866 – 27 tháng 7 năm 1924) là một nhà soạn nhạc, nghệ sĩ piano, nhạc trưởng, người biên soạn, nhà văn và là giáo viên người Ý. Sự nghiệp và danh tiếng quốc tế của Busoni đã khiến ông có được nhiều sự hợp tác chặt chẽ với những nhạc sĩ, nghệ sĩ và nhân vật văn học hàng đầu trong thời đại của mình. Ông đồng thời còn là một giảng viên đàn phím và giảng viên sáng tác âm nhạc được ưa thích.
19,821,538
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821538
Rheinmünster
Rheinmünster là một thị xã nằm ở huyện Rastatt, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
19,821,540
328188
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821540
Hà Văn Mạo
Hà Văn Mạo (1928-2016) là một giáo sư đầu ngành y quân đội trong lĩnh vực tiêu hóa. Ông được tặng danh hiệu Thầy thuốc Nhân dân vào năm 2001. Tiểu sử. Hà Văn Mạo sinh ngày 01 tháng 1 năm 1928, trong một gia đình dòng dõi Nho học ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Thân phụ ông là cụ Hà Văn Đại, đỗ phó bảng, làm quan nổi tiếng thanh liêm. Mẹ ông, cụ Nguyến Thị Khuê, là cháu nội tiến sĩ Nguyễn Xuân Ôn, thủ lĩnh Cần vương ở Nghệ An.. Năm 1936, khi cha nhận chức tri phủ ở huyện Sơn Tịnh, tỉnh Quảng Ngãi, Hà Văn Mạo theo cha vào học lớp 1 đến hết lớp 3 ở trường Quốc học Huế. Năm 1946, 19 tuổi, Hà Văn Mạo đỗ Tú tài toàn phần cả hai bằng Triết học và Toán học rồi học năm thứ nhất Đại học Y khoa Hà Nội. Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Hà Văn Mạo trở vào Quân khu 4 công tác. Tại đây, anh vừa là cán bộ quân y, vừa dạy học văn hóa cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân, lại vừa dự học và đỗ đầu khóa thứ nhất lớp Toán học đại cương do Bộ Giáo dục mở tại Nam Đàn, Nghệ An, được giáo sư Nguyễn Thúc Hào trực tiếp giảng dạy. Năm 1948, ông trở về trường Đại học Y khoa Việt Bắc tiếp tục con đường học và nghiên cứu khoa học. dưới sự dạy dỗ, hướng dẫn của các giáo sư Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ... Cũng trong thời gian đó ông tham gia vào đội phẫu thuật của Giáo sư Tôn Thất Tùng trong các chiến dịch: Trung du, Đường 18, Hòa Bình, Biên giới... Đầu năm 1952, theo điều động của Cục Quân y, ông cùng một số đồng đội bí mật vào vùng địch hậu Tả ngạn nhận công tác. Lúc này ông là Trưởng ban Quân y kiêm Phó phòng Hậu cần Quân khu, cùng với các bác sĩ, y sĩ... vừa làm nhiệm vụ cứu chữa, vừa lo cất giấu thương bệnh binh, bảo vệ an toàn cho các thầy thuốc và anh em thương binh. Năm 1954 Hà Văn Mạo được bầu là chiến sĩ thỉ đua, được đi dự Đại hội chiến sĩ thi đua Quân khu Tả ngạn. Năm 1955 anh tốt nghiệp Đại học Y khoa với điểm xuất sắc về công trình nghiên cứu chữa bệnh hội chứng buốt thần kỉnh. Giáo sư Hồ Đắc Di đã đặc biệt khen ngợi về công trình này của ông. Sau hòa bình lập lại, Hà Văn Mạo trở về Bệnh viện Trung ương Quân dội 108, giữ chức chủ nhiêm khoa Tĩêu hóa (A3), tiếp tục theo đuổi những ý tưởng nghiên cứu khoa học. Nhiều công trình nghiên cứu của ông về tiêu hóa, huyết học, ung thư tiêu hóa, ung thư huyết học đã được hoàn thành trong thời kỳ này. Ông cũng là người đầu tiên thực hiện ở miền Bắc các kỹ thuật nội soi thực qụản, dạ dày và trực tràng bằng ống soi nửa cứng, chọc sinh thiết gan bằng kim Menghini tạo điều kiện cho việc đi sâu vào nghiên cứu các bệnh về gan. Từ 1965, theo yêu cầu của Quân đội, Hà Văn Mạo đổi tên thành Hà Việt cấp tốc lên đường vào chiến trường Quân khu 5. Ông cùng đồng đội vượt qua khó khăn gian khổ thiếu thốn, từng bước xây dựng một bệnh xá từ chỗ có 5 giường bệnh trở thành Viện Quân y 17, bệnh viện đa khoa tuyến cuối của Quân khu 5. Đầu 1974, sau 9 năm ở chiến trường, ông được lệnh trở ra Hà Nội và được sang Cộng hòa dân chủ Đức tu nghiệp, thực tập sinh. Cuối 1976, về nước, ông trở lại cương vị chủ nhiệm khoa tiêu hóa (A3) Bệnh viện Trung ương Quân đội 108, trờ thành chuyên viên đầu ngành tiêu hóa quân đội kiêm giảng viên tại Học viện Quân y Bộ Quốc phòng. Các công trình về phát hiện ung thư dạ dày sớm, phương pháp chụp mật qua da, phương pháp chụp mật tụy ngược dòng... đã lần lượt hoàn thành vầ được ứng dụng vào thực tiễn. Tiếp đó hàng loạt các công trình nghiên cứu của ông lại lần lượt hoàn thành. Công trình “Phòng chống bệnh ung thư gan nguyên phát” là một đề tài ám ảnh đeo đuổi ông suối cả cuộc đời. Thời kỳ này ông bảo vệ thành công luận án tiến sĩ, với đề tài “Góp phần nghiên cứu bệnh ung thư biểu mô tế bào gan: đặc điểm lâm sàng, giá trị một số phương pháp chẩn đoán và thăm dò tác dụng phòng chống của biệt dược Gacavit”. Ông đã cùng vói Giáo sư Đinh Ngọc Lâm nghiên cứu và hoàn thành các đề tài nghiên cứu và sản xuất thử nghiệm thuốc Gacavit, một loại dược phẩm có nguồn gốc từ một dược liệu thảo mộc trong nước được dừng cho bênh nhân để khắc phục các tác hại của chất độc điôxin đối vói tế bào và sinh vật bị nhiễm độc, hạn chế những tế bào đó phát triển thành ung thư gan ở những bênh nhân có nguy cơ cao. Dược phẩm Gacavit đã được Cục Quản lý dược, Bộ Y tế cấp giấy phép sản xuất và cho lưu hành trên thị trường toàn quốc và được Cục Sáng chế, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường cấp Bằng độc quyền giải pháp hữu ích ngày 24/8/1990. Bên cạnh hàng chục đề tài cấp Bộ và cấp Nhà nước được nghiệm thu và đảnh gỉá cao ông còn có các đề tài hợp tác quốc tế. Nhiều công trình nghiên cứu của ông cũng đã được báo cáo tại các hội nghị Tiêu hóa: châu Á Thái Bình Dương, châu Âu, Nhật Bản. Ông đã cho công bố gần 70 bài báo bằng tiếng Việt và bằng tiếng nước ngoài, xuất bản 8 cuốn sách, và tham gia viết bài trong cuốn “Bách khoa thư Y học”, tập 3.. Ngoài chức vụ Chủ nhiệm khoa Tiêu hóa Viện 108 và chuyên viên đầu ngành Tiêu hóa quân đội, ông kiêm giảng viên Học viện Quân y. Tại đây ông đã góp phần đào tạo đội ngũ những thầy thuốc trong quân đội, đã hướng dẫn khoa học chính cho 6 nghiên cứu sinh bảo vệ thành công luận án tiến sĩ. Ông được Nhà nước phong tặng Phó Giáo sư Y học (1984) rồi Giáo sư Y học (1991), danh hiệu Thầy thuốc ưu tú (1995) và Thầy thuốc nhân dân (2001). Ông là một trong số ít các nhà khoa học Việt Nam trở thành thành viên Viện Hàn lâm khoa học New York (1998). Ông đã từng làm cố vấn khoa học cho các Hội nghị Tiêu hóa quốc tế tại Philippin (1996), Thái Lan (1998), Ôtxtraylia (2001)... Sau khi nghỉ hưu, ông vẫn hoạt động có hiệu quả để phục vụ bệnh nhân và xây dựng ngành, lãnh đạo trung tâm nghiên cứu phòng chống ung thư và làm giảng viên kiêm chức ở Học viện Quân y. Ông từng là Phó Chủ tịch Hội Tiêu hóa Việt Nam, Chủ tịch Hội Gan Mật Việt Nam, uỷ viên các Uỷ ban chuyên khoa của Hội tiêu hóa thế giới OMGE, uỷ viên chấp hành Hội Gan Mật Đông Nam Á. Ông đã được mời giảng bài và thuyết trình khoa học tại nhiều trường đại học trên thế giới. Ông mất tháng 8 năm 2016, thọ 88 tuổi..
19,821,547
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821547
Bộ ngàm tháo lắp nhanh
Bộ ngàm tháo lắp nhanh là một cơ cấu để gắn bánh xe vào xe đạp. Nó bao gồm một thanh ren ở một đầu và một bộ cam lắp ráp bằng cần đòn bẩy hoạt động ở đầu kia. Thanh ren được chèn vào trục rỗng của bánh xe, một đai ốc đặc biệt được vặn vào, và cần đòn bẩy đóng lại để siết chặt bộ cam và gắn chặt, cố định bánh xe vào càng phuộc. Những loại bánh xe được trang bị cơ chế mở nhanh này có thể được tháo ra khỏi khung xe đạp và thay thế mà không cần dùng đến công cụ bằng cách mở và đóng cần cam, do đó nhanh hơn so với bánh xe có trục và đai ốc cứng. Tuy nhiên, điều bất tiện ở chỗ là ngàm bánh xe mở nhanh có thể khiến cho bánh xe dễ bị mất trộm hơn và cần chú ý cẩn thận để đảm bảo cơ chế được siết chặt đúng cách. Các cơ chế tháo lắp tương tự cũng được sử dụng để vận hành ngàm trục yên xe đạp, gập thân xe đạp gấp và xe tay ga. Lịch sử. Cơ chế được phát minh năm 1927 bởi Tullio Campagnolo, một tay đua xe đạp người Ý. Ông cảm thấy bực bội khi cố gắng chuyển số trong một cuộc đua. Lúc đó, chỉ có một bánh răng ở mỗi phía của bộ trục sau, vì vậy việc thay đổi số đòi hỏi phải dừng xe lại, tháo bánh sau, lật ngang nó ra để bánh răng đối diện được nối với xích, và cuối cùng là lắp lại bánh. Thời tiết trở lạnh và đôi tay ông tê cứng, ông không thể siết các đai vặn cánh cố định bánh xe. Ông đã có một vị trí rất tốt trong cuộc đua trước khi thay bộ số, nhưng lại mất đi nhiều thời gian quý báu. Điều này đã thúc đẩy ông phát triển cơ chế mở nhanh. Một phát minh khác của Campagnolo cũng sử dụng cơ chế mở nhanh là Cambio Corsa, một hệ thống hộp số thay đổi đa mức bao gồm một cần mở nhanh bánh xe sau và một bộ phận tích hợp cơ học đặt cần bẩy gần yên xe đạp, kết hợp với một càng phuộc là phiên bản nguyên thủy của bộ chuyển đĩa sau derailleur (không có bánh đưa xích để lấy dây xích lỏng), đồng thời có một cần điều khiển gần yên xe đạp. Sáng kiến này cho phép người đạp thay số nhanh chóng trong quá trình di chuyển bằng cách mở trục, dời bánh xe sau một chút về phía trước bằng cách giãn căng xích, kích hoạt càng kẹp để chuyển sang đĩa bánh lớn hơn và siết chặt cơ chế ngàm mở nhanh lại; hoặc thả trục, sử dụng càng kẹp để chuyển sang đĩa bánh nhỏ hơn, dời bánh xe một chút về phía sau bằng cách phanh và siết chặt cơ chế ngàm mở nhanh lại. Cơ chế ngàm mở nhanh, cùng với các đổi mới khác và tiêu chuẩn sản xuất cao, đã giúp Campagnolo trở thành nhà sản xuất linh kiện xe đạp đường trường và xe đạp đường đua hàng đầu. Sử dụng. Ngàm mở nhanh có xu hướng không được sử dụng trên một số loại xe đạp, chẳng hạn như xe đạp tiện ích (chỉ có một tốc độ hoặc bánh đề) hoặc xe đạp đường đua, một phần vì truyền thống và một phần vì ít cần tháo lắp bánh xe nhanh mà không cần sử dụng dụng cụ. Cơ chế ngàm mở nhanh thỉnh thoảng cũng không được khuyến khích sử dụng cùng với phanh đĩa bởi sự cần thiết phải gắn vào trục bánh để chịu đựng được lực phanh. Các loại ngàm có xuất xứ từ Pháp khác biệt về luồng, bởi nó cùng với các thông số của xe đạp Pháp từng dựa trên Hệ đo Mét. Mặc dù các thông số hiện đại cho xe đạp được đưa ra theo đơn vị mét, chúng lại dựa vào Hệ thống Thông thường Hoa Kỳ (United States Customary System), vốn có nguồn gốc từ đơn vị của Anh, ví dụ, 28,6 mi-li-mét ≈ 1 1/8 inch. Trong những năm qua, các cơ chế ngàm mở nhanh được người lái thông thường sử dụng làm thiết bị nhả bánh chính. Theo Sheldon Brown (thợ sửa xe đạp), các nhà sản xuất thường trang bị đầu càng phuộc bằng các tính năng phần cứng bổ sung nhằm giữ chặt bánh xe ngay cả khi nó không được lắp đúng cách. Phương pháp này được phát triển để giải quyết khả năng hạn chế của một số người dùng có thể tháo bánh xe nhưng không lắp lại được đúng cách. Các tính năng phần cứng này được gọi là "lawyer lips" hoặc "lawyer tabs" vì các nhà sản xuất đã triển khai chúng để tránh kiện tụng tốn kém. Các hệ thống kẹp chặt thứ cấp này phía trước và hệ thống thả rời chiều dọc ở phía sau, mặc dù khiến cho giá sản xuất rẻ hơn nhưng lại kém an toàn hơn so với hệ thống ngàm truyền thống. Ngoài ra, sự ra đời của phanh đĩa đã làm tăng khả năng hỏng hóc của trục trước và ngàm, do phanh đĩa tác động lực đẩy có xu hướng kéo trục xe ra khỏi càng phuộc. Ngàm mở nhanh thường được lắp ở cạnh bên trái của xe đạp, tuy nhiên cũng có một số lại ưa lắp bên phải nếu như phanh đĩa nằm bên trái. Xe đạp leo núi thường hướng cần bẩy ra phía sau, nhằm giảm thiểu khả năng bị mở không mong muốn. Các biến thể. Bộ trục khoá có sẵn không có tay cầm hoặc có tay cầm đặc biệt có thể tháo rời để ngăn chặn hành vi trộm cắp bánh xe.
19,821,564
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821564
Pilot (công ty)
là một công ty bút viết trụ sở tại Tokyo, Nhật Bản. Công ty sản xuất các loại dụng cụ viết, văn phòng phẩm và trang sức, nhưng được biết đến nhiều nhất thông qua sản phẩm bút viết của họ. Đây là công ty sản xuất bút lớn nhất tại Nhật Bản, với sự cạnh tranh toàn cầu từ các công ty bút viết khác như Pentel Co., Mitsubishi Pencil Co. (Uni-ball) và Paper Mate của Hoa Kỳ. Pilot có nhiều công ty con trên toàn thế giới, bao gồm Philippines, Vương quốc Anh, Indonesia, Malaysia, Ấn Độ, Brazil, Nam Phi, Đức và Pháp . Hầu hết bút Pilot được sản xuất tại Nhật Bản, Pháp và Mỹ. Namiki, bút máy của Pilot với thiết kế sơn mài maki-e, được sản xuất tại nhà máy Hiratsuka. Lịch sử. Năm 1915, Ryōsuke Namiki (並木良輔), một giáo sư từ Học viện Hàng hải Tokyo ở Nhật Bản, từ bỏ công việc của mình để thành lập một nhà máy nhỏ gần Tokyo để sản xuất ngòi bút vàng. Năm 1916, Namiki mở rộng dòng sản phẩm của mình và trở thành một nhà sản xuất dụng cụ viết hoàn chỉnh. "Công ty Bút Pilot" được thành lập bởi Ryosuke Namiki cùng với Masao Wada (和田正雄) vào năm 1918 dưới tên gọi "Công ty Sản xuất Namiki". Năm 1926, họ thành lập các văn phòng ở nước ngoài tại Malaysia, Singapore, Boston, London và Thượng Hải. Năm 1938, tên của công ty được thay đổi thành "Công ty Bút Pilot, Ltd". Nó lại đổi tên vào năm 1950 thành "Công ty Mực Pilot, Ltd". Năm 1954, một chi nhánh được mở ở Brazil. Từ năm 1972 đến năm 1999, các công ty con khác nhau đã được thành lập để bao phủ các ngành khác nhau, và tên chung cho chúng là "Tập đoàn Pilot Corporation". Gần đây hơn, Pilot đã bắt đầu dòng sản phẩm BeGreen - bút và bút chì được làm chủ yếu từ chất liệu tái chế . Năm 1995 và 1996, họ đã tham gia cuộc đua với một chiếc Ferrari F40 LM tại giải đua 24 Giờ Le Mans. Đội đua tham gia cuộc đua với F40 LM ban đầu được đặt tên là "Pilot-Aldix Racing", nhưng sau đó được đổi tên thành "Pilot Pen Racing" và "Pilot Racing". Họ đã chiến thắng tại giải 4 Giờ Anderstorp và về vị trí thứ 12 tại Le Mans. Năm 2018, Pilot đã kỷ niệm 100 năm thành lập của công ty bằng việc tung ra nhiều trang đặc biệt trên trang web và bút viết phiên bản đặc biệt. Năm 2023, Pilot đã chấm dứt mối quan hệ đối tác 40 năm với công ty dụng cụ viết Luxor Writing Instruments ở Ấn Độ, và dự định tiến vào thị trường Ấn Độ một cách độc lập. Sản phẩm. Bút máy. Năm 1963, Pilot Corporation giới thiệu "Capless". Không giống như những chiếc bút máy khác cùng thời, Pilot Capless có ngòi có thể thu vào hoàn toàn. "Capless" sau đó được giới thiệu lại với tên gọi "Vanishing Point" vào năm 1972. Vào năm 2012, công ty đã phát hành "Metropolitan" (được gọi là "Cocoon" tại Nhật Bản), một loại bút máy phổ thông dành cho người mới bắt đầu. "Varsity" là bút máy dùng một lần rồi bỏ, được nạp sẵn mực, trong khi "Prera" là bút bỏ túi nhỏ hơn. Các sản phẩm khác bao gồm Pilot "Falcon", có ngòi vàng bán linh hoạt; "Kakuno", loại bút máy dành cho trẻ em mới bắt đầu tập viết, thường được bán với màu sắc vui nhộn và có khuôn mặt cười trên ngòi bút. Một số loại bút cao cấp hơn của Pilot có tên là "Custom" hoặc "Custom Heritage" và một số có hai hoặc ba chữ số. Các mẫu "Custom" có hình điếu xì gà, trong khi các mẫu "Custom Heritage" có đầu trên và dưới phẳng. Con số này dựa trên năm giới thiệu (từ khi thành lập công ty— "Custom 74" được giới thiệu vào năm 1992) cho các mẫu có hai chữ số, trong khi chữ số thứ ba trên các mẫu có ba chữ số thể hiện giá niêm yết khi nhân với 10.000 Yên ("Custom 823" được giới thiệu vào năm 2000 có giá 30.000 Yên tại thời điểm giới thiệu). Bút từ chai nhựa tái chế. Pilot Corporation đã công bố một số thực tế môi trường về sẩn phẩm bút của mình năm 2015. Sản phẩm thân thiện môi trường nhất là Bottle-2-Pen (B2P), được làm từ 90,4% thành phần tái chế. Nhựa PET từ chai lọ được sử dụng nhiều, do đó nó thỉnh thoảng còn được gọi là 'PetPen' hoặc 'PetBall'. Khác. Thương hiệu cũng sản xuất và thương mại hóa nhiều loại sản phẩm dưới tên riêng của mình và các thương hiệu khác, chẳng hạn như "FriXion" (bút gel mực xóa được, bút tô sáng highlight và tem), "Acroball" (bút bi mực hybrid); "pintor"; "B2P" và "Begreen" (cả hai đều là sản phẩm có thành phần tái chế). Các thương hiệu phụ bao gồm "Better", "Rex-Grip", "Super Grip G" (bút bi gốc dầu); "Precise", "Hi-Tecpoint" (bóng lăn); "Hi-Tec-C", "G-2", "Juice" (hoặc "Pop'lol" ) (bút gel); và "Coleto" (hệ thống nhiều bút có thể tùy chỉnh); Dòng "Mogulair", "Doctor Grip", "Super Grip", "Fure Fure" (2020) (bút chì cơ); "Automac" (bút chì cơ được trang bị chức năng tự động); Dòng "S" series: "S3", "S5", "S10", "S20", "S30" (bút chì nháp). Bảng sau đây bao gồm các sản phẩm bút Pilot tại Châu Á, Châu Âu, Bắc và Nam Mỹ, vào tháng mười hai năm 2019:
19,821,582
894948
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821582
Bầu cử tổng thống Hoa Kỳ 1876
Cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ năm 1876 là cuộc bầu cử tổng thống bốn năm một lần lần thứ 23, được tổ chức vào Thứ Ba, ngày 7 tháng 11 năm 1876, trong đó ứng cử viên Đảng Cộng hòa Rutherford B. Hayes đánh bại ứng cử viên Đảng Dân chủ Samuel J. Tilden. Đây là một trong những cuộc bầu cử tổng thống gây tranh cãi nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Để giải quyết các vấn đề quanh cuộc bầu cử, hàng loạt các cuộc đàm phán giữa Đảng Cộng hòa và Đảng Dân chủ đã diễn ra mà cuối cũng dẫn đến Thỏa hiệp 1877. Vào ngày 2 tháng 3 năm 1877, việc kiểm phiếu đại cử tri diễn ra tại Phiên họp chung của Quốc hội đã chứng thực Hayes đắc cử Tổng thống. Đây là cuộc bầu cử tổng thống thứ 2 trong số 5 cuộc bầu cử tổng thống Hoa Kỳ mà người chiến thắng không giành được đa số phiếu phổ thông trên toàn quốc (lần đầu tiên kể từ năm 1824). Sau khi Tổng thống Hoa Kỳ đương nhiệm Ulysses S. Grant từ chối tranh cử nhiệm kỳ thứ ba mặc dù trước đó được cho là sẽ làm vậy, Dân biểu Hoa Kỳ James G. Blaine đã trở thành ứng cử viên hàng đầu cho đề cử của Đảng Cộng hòa. Tuy nhiên, Blaine đã không thể giành được đa số phiếu ủng hộ tại Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa năm 1876, thay vào đó, Đại hội quyết định Thống đốc Hayes từ Ohio là một ứng cử viên thỏa hiệp. Đại hội toàn quốc Đảng Dân chủ năm 1876 đã đề cử Thống đốc Tilden từ New York sau 2 lần bỏ phiếu. Kết quả của cuộc bầu cử gây tranh cãi đến tận ngày nay. Mặc dù việc Tilden vượt qua Hayes về số phiếu phổ thông là không thể bàn cãi nhưng vẫn có nhiều cáo buộc về gian lận bầu cử, bạo lực bầu cử và việc tước quyền bầu cử của các cử tri Da đen chủ yếu ủng hộ Đảng Cộng hòa. Sau lần kiểm phiếu đầu tiên, Tilden giành được 184 phiếu đại cử tri so với 165 của Hayes, với 20 phiếu bầu từ 4 bang chưa được công bố. Tại Florida, Louisiana và Nam Carolina, cả 2 đảng đều tuyên bố ứng cử viên của họ đã giành chiến thắng. Ở Oregon, một đại cử tri đã bị thay thế vì đã từng là "quan chức được bầu hoặc được bổ nhiệm." Câu hỏi ai nên được trở thành đại cử tri là nguồn gốc của nhiều tranh cãi liên miên trong thời gian dài. Một thỏa hiệp bí mật không chính thức đã được đưa ra để giải quyết các vấn đề về bầu cử: Thỏa hiệp 1877. Theo thỏa hiệp, Đảng Dân chủ nhường 20 phiếu đại cử tri chưa được công bố do tranh cãi cho Hayes, dẫn đến chiến thắng với tỷ lệ 185–184; đổi lại, Đảng Cộng hòa buộc phải đồng ý rút quân đội liên bang khỏi miền Nam, chấm dứt Kỷ nguyên Tái thiết. Cho đến nay, đây vẫn là cuộc bầu cử có tỷ lệ cử tri đi bầu cao nhất trong lịch sử Hoa Kỳ, ở mức 82,6%. 50,9% số phiếu phổ thông ủng hộ Tilden là tỷ lệ phiếu phổ thông lớn nhất mà một ứng cử viên thua cuộc nhận được và chỉ số "nhiệt tình" của cử tri dành cho ông (bằng tỷ lệ cử tri đi bầu nhân với tỷ lệ phiếu bầu) cao hơn bất kỳ ứng cử viên tổng thống khác trong lịch sử Hoa Kỳ. Tilden cũng là người cuối cùng giành được đa số quá bán phiếu phổ thông cho đến William McKinley vào năm 1896. Đến nay, đây là cuộc bầu cử tổng thống cuối cùng mà cả 2 ứng cử viên từ 2 đảng lớn đều là thống đốc một bang. Đề cử. Đề cử của Đảng Cộng hòa. Vào năm 1875, nhiều người cho rằng Tổng thống đương nhiệm Ulysses S. Grant có kế hoạch tranh cử nhiệm kỳ tổng thống thứ ba bất chấp tình hình kinh tế thảm hại cùng vô số bê bối chính trị đã xảy ra kể từ khi ông nhậm chức vào năm 1869 cũng như một truyền thống lâu đời do George Washington thiết lập rằng Tổng thống không phục vụ quá 2 nhiệm kỳ. Những người thân cận với Grant đã khuyên ông ra tranh cử nhiệm kỳ thứ ba và ông suýt nữa đã làm vậy, nhưng vào ngày 15 tháng 12 năm 1875, Hạ viện, với số phiếu ủng hộ áp đảo 233 so với 18 phiếu phản đối, đã thông qua một nghị quyết để ủng hộ truyền thống 2 nhiệm kỳ với lý do là để ngăn chặn chế độ độc tài. Cuối năm đó, Grant rút lui và không tham gia tranh cử trong cuộc bầu cử năm 1876. Thay vào đó, ông cố gắng thuyết phục Ngoại trưởng Hamilton Fish ra tranh cử tổng thống, nhưng Fish, người đã 67 tuổi, từ chối vì cho rằng mình đã quá già để đảm nhận chức vụ đó. Tuy nhiên, Grant vẫn gửi một lá thư đến Đại hội để bày tỏ sự ủng hộ của mình với Fish, nhưng bức thư đã bị thất lạc và không bao giờ được công khai trước Đại hội. Fish sau đó nhấn mạnh rằng ông sẽ không tranh cử tổng thống ngay cả khi Đại hội đề cử ông. Tại thời điểm Đại hội toàn quốc Đảng Cộng hòa nhóm họp tại Cincinnati, Ohio vào ngày 14 tháng 6 năm 1876, James G. Blaine dường như chắc chắn sẽ trở thành ứng cử viên Tổng thống của đảng. Trong lần bỏ phiếu đầu tiên, Blaine chỉ thiếu 100 phiếu để giành được đề cử. Tuy nhiên, ông bắt đầu gặp nhiều rào cản sau lần bỏ phiếu thứ 2, vì nhiều đảng viên Cộng hòa lo sợ rằng Blaine không thể thắng trong cuộc tổng tuyển cử. Các đại biểu chống Blaine đã không thể đề cử một ứng cử viên cho đến khi số phiếu bầu của Blaine chiếm 41% tổng số phiếu trong lần bỏ phiếu thứ 6. Lo sợ Blaine giành được đề cử, thượng tầng Đảng Cộng hòa đã bí mật chọn Thống đốc của Ohio Rutherford B. Hayes, người đã dần xây dựng được nền tảng ủng hộ vững chắc trong suốt đại hội cho đến khi ông về nhì trong lần bỏ phiếu thứ 6. Trong lần bỏ phiếu thứ 7, Hayes được đề cử làm Tổng thống với 384 phiếu bầu, so với 351 cho Blaine và 21 cho Benjamin Bristow. Dân biểu New York William A. Wheeler được đề cử làm Phó Tổng thống với cách biệt lớn hơn nhiều (366–89) so với đối thủ chính của ông, Frederick Theodore Frelinghuysen, người sau này là thành viên của Ủy hội Bầu cử, cơ quan đã trao chiến thắng cho Hayes. Đề cử của Đảng Dân chủ. Các ứng cử viên của Đảng Dân chủ: Việc Đảng Dân chủ không đề cử một liên danh trong cuộc bầu cử tổng thống trước đó mà thay vào đó ủng hộ ứng cử viên của Đảng Cộng hòa Tự do Horace Greeley đã dẫn đến nhiều cuộc tranh luận về khả năng tồn tại của đảng. Mọi nghi ngờ về tương lai của đảng đã bị dập tắt sau khi Đảng Cộng hòa Tự do sụp đổ sau cuộc bầu cử đó, cùng với những chiến thắng đáng kể của Đảng Dân chủ trong cuộc bầu cử giữa kỳ năm 1874 khi lần đầu tiên họ nắm quyền kiểm soát Hạ viện sau 16 năm. Đại hội toàn quốc của Đảng Dân chủ được tổ chức tại St. Louis, Missouri, vào tháng 6 năm 1876, đây là đại hội chính trị đầu tiên của một đảng lớn được tổ chức ở phía tây sông Mississippi. 5000 người chen chúc trong một khán phòng ở St. Louis với hy vọng Đảng Dân chủ sẽ lần đầu giành chiến thắng trong một cuộc bầu cử tổng thống sau 20 năm. Cương lĩnh của đảng ủng hộ cải cách ngay lập tức và sâu rộng để đối phó với những vụ bê bối trong chính quyền Grant. Tilden đã giành được hơn 400 phiếu bầu trong lần bỏ phiếu đầu tiên và được đề cử tổng thống với tỷ số áp đảo trong lần thứ 2. Tilden đã đánh bại Thomas A. Hendricks, Winfield Scott Hancock, William Allen, Thomas F. Bayard và Joel Parker để được đề cử Tổng thống. Tilden đã vượt qua sự chống đối rất lớn từ "Honest John" Kelly, lãnh đạo của Tammany Hall tại New York, để giành được đề cử Tổng thống. Thomas A. Hendricks được đề cử làm Phó Tổng thống vì ông là người duy nhất ứng cử vị trí đó. Cương lĩnh của Đảng Dân chủ cam kết thay thế chính quyền tham nhũng của Grant bằng một chính quyền trung thực, hiệu quả và chấm dứt bạo lực tại miền Nam. Nó cũng cam kết bảo vệ quyền trở về quê hương của các công dân Hoa Kỳ nhập tịch cũng như hạn chế nhập cư người châu Á, cải cách thuế quan và phản đối việc cấp đất để xây dựng đường sắt. Người ta tuyên bố rằng Tilden nhận được sự ủng hộ nhiệt tình hơn bất kỳ nhà lãnh đạo đảng nào kể từ Andrew Jackson. Nguồn: "Official proceedings of the National Democratic convention, held in St. Louis, Mo., June 27th, 28th and 29th, 1876". (3 tháng 9, 2012). Nguồn: "Official proceedings of the National Democratic convention, held in St. Louis, Mo., June 27th, 28th and 29th, 1876". (3 tháng 9, 2012). Nguồn: "Official proceedings of the National Democratic convention, held in St. Louis, Mo., June 27th, 28th and 29th, 1876" (3 tháng 9, 2012). Đề cử của Đảng Đồng bạc xanh. Ứng cử viên của Dẩng Đồng bạc xanh: Đảng Đồng bạc xanh được thành lập bởi những nhóm lợi ích nông nghiệp ở Indianapolis, Indiana, vào năm 1874 để kêu gọi chính phủ liên bang thổi phồng nền kinh tế thông qua việc phát hành hàng loạt tiền giấy được gọi là "đồng bạc xanh". Đại hội toàn quốc đầu tiên của nó được tổ chức tại Indianapolis vào mùa xuân năm 1876. Peter Cooper được đề cử làm Tổng thống với 352 phiếu bầu so với 119 từ 3 ứng cử viên khác. Đại hội đã đề cử Thượng nghị sĩ Đảng Chống độc quyền Newton Booth từ California làm Phó Tổng thống. Sau khi Booth từ chối ra tranh cử, ủy ban toàn quốc của đảng đã chọn Samuel Fenton Cary thay thế ông. Đề cử của Đảng Cấm rượu. Đảng Cấm rượu, trong đại hội toàn quốc ở Cleveland, đã đề cử Green Clay Smith làm ứng cử viên Tổng thống và Gideon T. Stewart làm ứng cử viên Phó Tổng thống. Đề cử của Đảng Quốc gia Hoa Kỳ. Đảng chính trị nhỏ này đã sử dụng nhiều tên khác nhau tại mỗi bang khác nhau. Nó là sự tiếp nối của Đảng Chống Hội Tam điểm và trong đại hội năm 1872 đã đề cử Charles Francis Adams, Sr. làm Tổng thống. Khi Adams từ chối tranh cử, đảng này đã không tham gia cuộc bầu cử năm 1872. Đại hội được tổ chức từ ngày 8 đến ngày 10 tháng 6 năm 1875 tại Hội trường Tự do, Pittsburgh, Pennsylvania. BT Roberts của New York làm Chủ tịch và Jonathan Blanchard làm diễn giả chính. Cương lĩnh của đảng đã ủng hộ các Tu chính án trong thời Tái thiết, trọng tài quốc tế, đọc thánh thư trong các trường công lập, thanh toán bằng tiền giấy, công lý cho người Mỹ bản địa, bãi bỏ Đại cử tri đoàn và cấm bán đồ uống có cồn. Nó tuyên bố ngày đầu tuần là ngày nghỉ ngơi của Hoa Kỳ. Cương lĩnh phản đối các hội kín và độc quyền. Đại hội đã xem xét 3 ứng cử viên Tổng thống tiềm năng: Charles F. Adams, Jonathan Blanchard và James B. Walker. Khi Blanchard từ chối tranh cử, Walker được nhất trí đề cử làm Tổng thống. Đại hội sau đó đã nhất trí đề cử Donald Kirkpatrick từ New York làm Phó Tổng thống. Tổng tuyển cử. Chiến dịch. Tilden, người đã truy tố nhiều chính trị gia tại New York và tống giam ông trùm chính trị William M. Tweed, đã tranh cử với tư cách là một ứng cử viên ủng hộ cải cách trong bối cảnh chính quyền Grant tham nhũng tràn lan. Cả 2 đảng đều ủng hộ cải cách các dịch vụ dân sự. Cả hai bên đều tiến hành các chiến dịch tranh cử chống lại nhau một cách kịch liệt, Đảng Dân chủ thì nhắm vào nạn tham nhũng tràn lan còn Đảng Cộng hòa nhắm vào các vấn đề Nội chiến, một chiến thuật đã bị các đảng viên Dân chủ chế giễu. Các đảng viên Cộng hòa còn hô khẩu hiệu "Không phải mọi đảng viên Đảng Dân chủ đều là kẻ nổi loạn, nhưng mọi kẻ nổi loạn đều là đảng viên Đảng Dân chủ." Hayes gần như là một nhân vật ít tiếng tăm bên ngoài Ohio, quê hương của ông, nơi ông đã phục vụ 2 nhiệm kỳ tại Hạ viện Hoa Kỳ và sau đó là 2 nhiệm kỳ với tư cách là Thống đốc bang. Henry Adams mô tả Hayes là "một kẻ vô danh hạng 3 mà điểm cộng duy nhất là hắn không làm ai ghét mình." Hayes đã từng phục vụ trong Nội chiến với tư cách là đại tá của Trung đoàn 23 Ohio và bị thương nhiều lần, điều này khiến ông được nhiều cựu chiến binh ủng hộ. Sau đó, ông được phong hàm thiếu tướng. Điểm quan trọng nhất ở ông là đến từ Ohio, một bang dao động rất quan trọng. Ngược lại, nhà báo John D. Defrees mô tả Tilden là "một người đàn ông độc thân rất tốt bụng, nghiêm nghị, nhỏ bé, khô héo, bồn chồn, nặng khoảng 120 pound, người không bao giờ có động lực trong cuộc đời cũng như không có bất kỳ tình cảm nào dành cho phụ nữ." Chiến lược của Đảng Dân chủ nhằm giành chiến thắng ở các bang miền Nam phụ thuộc rất nhiều vào các nhóm bán quân sự như Sơ mi đỏ và Liên đoàn Trắng. Tái sử dụng chiến lược trong Kế hoạch Mississippi, các nhóm này đã tích cực đàn áp cử tri của Đảng Cộng hòa, kể cả người da đen hay da trắng bằng cách làm gián đoạn các cuộc họp và mít tinh, thậm chí sử dụng bạo lực và đe dọa. Họ tự coi mình là "lực lượng quân sự" của Đảng Dân chủ. Thời điểm ấy một ứng cử viên ra mặt tranh cử chức vụ Tổng thống bị coi là "quá tham vọng" và không phụ hợp nên cả Tilden và Hayes đều không tích cực tham gia chiến dịch tranh cử và giao nhiệm vụ đó cho những người đại diện của họ. Colorado. Colorado được kết nạp vào Liên bang với tư cách là tiểu bang thứ 38 vào ngày 1 tháng 8 năm 1876; đây là cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên mà bang tham gia. Không có đủ thời gian và tiền bạc để tổ chức một cuộc bầu cử tổng thống ở bang mới do đó cơ quan lập pháp bang Colorado đã tự chọn 3 đại cử tri đoàn của bang. Đảng Cộng hòa chiếm đa số mong manh trong cơ quan lập pháp bang sau cuộc bầu cử gây tranh cãi gay gắt vào ngày 3 tháng 10 năm 1876. Nhiều ghế trong cuộc bầu cử đó chỉ được quyết định bởi vài trăm phiếu bầu. Vào ngày 7 tháng 11 năm 1876, trong một cuộc bỏ phiếu với 50 ủng hộ và 24 phản đối, cơ quan lập pháp bang đã chọn Otto Mears, William Hadley và Herman Beckurts làm đại cử tri của bang bầu Tổng thống. Cả 3 đại cử tri bang đều bỏ phiếu cho Hayes. Đây là cuộc bầu cử cuối cùng mà bất kỳ tiểu bang nào chọn đại cử tri thông qua cơ quan lập pháp của bang, thay vì thông qua phổ thông đầu phiếu. Tranh chấp và Thỏa hiệp 1877. Florida (với 4 phiếu đại cử tri), Louisiana (với 8) và Nam Carolina (với 7) đã báo cáo Tilden đang trên đà giành chiến thắng, nhưng các cuộc bầu cử ở các bang này tràn ngập gian lận bầu cử và đe dọa bạo lực đối với cử tri Đảng Cộng hòa. Trường hợp cực đoan nhất là ở Nam Carolina, nơi có đến 101% tổng số cử tri của bang đi bầu, và ước tính có khoảng 150 đảng viên Đảng Cộng hòa là người da đen đã bị sát hại. Một trong những điểm gây tranh cãi xoay quanh việc thiết kế các lá phiếu bầu. Vào thời điểm đó, các đảng sẽ tự in phiếu bầu để cử tri bỏ phiếu. Để hỗ trợ những cử tri mù chữ, các đảng sẽ in các biểu tượng của đảng mình lên đó, và trong cuộc bầu cử này, nhiều lá phiếu bầu của Đảng Dân chủ lại in biểu tượng của Đảng Cộng hòa, Tổng thống nổi tiếng Abraham Lincoln lên đó, khiến nhiều người mù chữ ủng hộ Đảng Cộng hòa nhầm lẫn và bỏ phiếu cho Đảng Dân chủ. Các ủy ban bầu cử bang do Đảng Cộng hòa thống trị sau đó đã bác bỏ đủ phiếu bầu của Đảng Dân chủ để trao tất cả phiếu đại cử tri của họ cho Hayes. Theo luật, các đại cử tri được bầu cần có chứng thực từ một quan chức cấp tiểu bang, nhưng tại Nam Carolina, những đại cử tri cam kết bầu Tilden lại không nhận chứng thực từ bất kỳ quan chức nào và tự tuyên bố rằng họ được chọn qua phổ thông đầu phiếu dù những tuyên bố đó đã bị hội đồng bầu cử bang bác bỏ. Trong khi đó, tại Oregon, tư cách thành viên của một đại cử tri đã bị tranh cãi dữ dội. Kết quả trên toàn tiểu bang rõ ràng nghiêng về Hayes, nhưng thống đốc Đảng Dân chủ của bang, La Fayette Grover, tuyên bố rằng một trong những đại cử tri được bầu của đảng Cộng hòa, cựu Giám đốc Bưu cục John Watts, không đủ tư cách theo Điều II, Mục 1 Hiến pháp Hoa Kỳ vì ông đã từng là một "quan chức được bầu hoặc được bổ nhiệm." Grover đã thay thế một đại cử tri Đảng Dân chủ vào vị trí của Watts. Hai đại cử tri Đảng Cộng hòa đã không chấp nhận hành động của Grover và tuyên bố cả 3 phiếu bầu ủng hộ Hayes. Tuy nhiên, đại cử tri đảng Dân chủ, C. A. Cronin, tuyên bố 1 phiếu bầu cho Tilden và 2 phiếu bầu cho Hayes. Việc này dấy lên tranh cãi vì sau này, cách biệt phiếu đại cử tri của 2 ứng cử viên chỉ là 1 phiếu. Sau cùng, cả 3 phiếu bầu của Oregon đều được trao cho Hayes. Đảng Dân chủ tuyên bố có gian lận, thậm chí còn có đe dọa rằng Hayes sẽ không bao giờ được nhậm chức. Tại Columbus, Ohio, một phát súng đã được bắn vào nơi ở của Hayes khi ông đang ngồi ăn tối. Sau đó, Grant đã lặng lẽ củng cố lực lượng quân sự trong và xung quanh Washington D.C. nhằm kiểm soát các cuộc biểu tình. Hiến pháp quy định rằng "Chủ tịch Thượng viện [Phó Tổng thống], trước sự chứng kiến của Thượng viện và Hạ viện, sẽ mở tất cả các giấy chứng nhận [bầu cử], và các phiếu bầu sau đó sẽ được kiểm." Đảng Cộng hòa cho rằng quyền kiểm phiếu thuộc về Chủ tịch Thượng viện, với Hạ viện và Thượng viện chỉ là khán giả. Đảng Dân chủ phản đối tuyên bố đó, vì cho rằng Chủ tịch Tạm quyền của Thượng viện, Đảng viên Cộng hòa Thomas W. Ferry có thể kiểm phiếu cả các bang đang tranh chấp cho Hayes. Đảng Dân chủ nhấn mạnh rằng Quốc hội nên tiếp tục thông lệ đã tuân theo từ năm 1865: không phiếu bầu nào bị phản đối sẽ được tính trừ khi có sự nhất trí của cả hai viện. Tuy nhiên, vì Đảng Dân chủ đang nắm Hạ viện nên chắc chắn họ sẽ bác bỏ tất cả phiếu các bang đang tranh chấp và Tilden, khi ấy, sẽ đắc cử. Đối mặt với một cuộc khủng hoảng hiến pháp chưa từng có, Quốc hội đã thông qua luật vào ngày 29 tháng 1 năm 1877 để thành lập Ủy hội Bầu cử gồm 15 thành viên để giải quyết các vấn đề quanh cuộc bầu cử. 5 thành viên được chọn từ mỗi viện của Quốc hội cùng 5 thành viên của Tòa án Tối cao Hoa Kỳ, với William M. Evarts là cố vấn cho Đảng Cộng hòa. Đảng chiếm đa số trong mỗi viện chỉ định 3 thành viên và đảng thiểu số có 2 thành viên. Vì đảng Cộng hòa kiểm soát Thượng viện và đảng Dân chủ kiểm soát Hạ viện, điều đó mang lại 5 thành viên cho đảng Dân chủ và 5 thành viên cho đảng Cộng hòa trong Ủy hội. Trong số các thẩm phán của Tòa án Tối cao, 2 người ủng hộ Đảng Cộng hòa và 2 người ủng hộ Đảng Dân chủ được chọn, người thứ 5 được chọn bởi 4 người này. Ban đầu, các thẩm phán đã chọn Thẩm phán trung lập David Davis. Theo một nhà sử học mô tả, "Không ai, có lẽ kể cả chính Davis, biết ông ấy thích ứng cử viên tổng thống nào hơn." Tuy nhiên, ngay thời điểm Dự luật Ủy hội Bầu cử được Quốc hội thông qua, Cơ quan Lập pháp Illinois đã bầu Davis vào Thượng viện và các đảng viên Đảng Dân chủ trong Cơ quan Lập pháp tin rằng họ đã mua được sự ủng hộ của Davis bằng cách bỏ phiếu cho ông ta và ông sẽ sớm từ bỏ chức Thượng nghị sĩ và vẫn làm Thẩm phán. Tuy nhiên, họ đã tính toán sai, khi Davis nhanh chóng xin phép rời khỏi Ủy hội và từ chức Thẩm phán để trở thành Thượng nghị sĩ. Vì tất cả các Thẩm phán còn lại đều ủng hộ Đảng Cộng hòa, nên họ đã chọn Thẩm phán Joseph P. Bradley, người được coi là thành viên công bằng nhất của tòa án. Thời gian không còn nhiều, ngày nhậm chức ngày càng gần, nên Ủy hội đã nhóm họp vào ngày 31 tháng 1. Mỗi tiểu bang đang tranh chấp (Florida, Louisiana, Oregon và Nam Carolina) lần lượt được Quốc hội đệ trình lên ủy hội. Mỗi đảng đều chọn những cố vấn nổi tiếng cho riêng mình để thuyết phục các thành viên ủy hội ủng hộ đảng mình. Trước tiên, ủy hội quyết định không đề cập đến các kết quả không tranh chấp từ đầu. Bradley sau đó, cùng với 7 thành viên khác ủng hộ Đảng Cộng hòa, bỏ phiếu với 8 ủng hộ Hayes và 7 ủng hộ Tilden, trao tất cả 20 phiếu đại cử tri tranh chấp (4 ở Florida, 8 ở Louisiana, 7 ở Nam Carolina và 1 ở Oregon) cho Hayes, mang lại cho Hayes chiến thắng với tỷ lệ 185–184 trong phiếu đại cử tri. Ủy hội giải tán vào ngày 2 tháng 3. Hayes tuyên thệ nhậm chức một cách riêng tư vào ngày hôm sau và vào ngày 5 tháng 3 năm 1877, Hayes nhậm chức công khai mà không gặp bất kỳ trở ngại nào. Thỏa hiệp 1877 có thể là một lý do để Đảng Dân chủ chấp nhận kết quả của Ủy hội Bầu cử. Trong các cuộc họp bí mật căng thẳng, giới thượng tầng của Đảng Dân chủ đã miễn cưỡng đồng ý chấp nhận Hayes làm Tổng thống để đổi lấy việc quân đội liên bang rút quân khỏi hai bang miền Nam cuối cùng vẫn còn bị chiếm đóng: Nam Carolina và Louisiana, chấm dứt Tái thiết. Đổi lại, giới thượng tầng Đảng Cộng hòa đã đồng ý trợ cấp cho nhiều công trình mà Đảng Dân chủ ủng hộ, bao gồm cả trợ cấp liên bang cho một tuyến đường sắt xuyên lục địa đi qua miền Nam. Mặc dù một số lời hứa đã không được thực hiện, đặc biệt là về vấn đề đường sắt, nhưng đó là quá đủ để chấm dứt cuộc khủng hoảng. Việc ủy hội trao Nam Carolina cho Hayes làm ông giành chiến thắng ở đây với cách biệt chỉ 889 phiếu bầu, cách biệt phiếu phổ thông sít sao thứ hai ở một bang mang tính quyết định cho cuộc bầu cử trong lịch sử Hoa Kỳ, sau cuộc bầu cử năm 2000, được quyết định bởi 537 phiếu bầu ở Florida. Tuy nhiên, năm 2000, cách biệt trong phiếu Đại cử tri mà George W. Bush thắng là 5 phiếu bầu, khác với 1 trong trường hợp của Hayes. Sau thất bại của mình, Tilden nói, "Tôi có thể lui về cuộc sống cá nhân với ý thức rằng tôi đã nhận được sự tín nhiệm từ hậu thế vì đã được bầu vào vị trí cao nhất [Tổng thống] bởi nhân dân [đề cập đến việc Tilden thắng phiếu phổ thông], mà không cần quan tâm hay có bất kỳ trách nhiệm nào với chức vụ ấy [đề cập đến việc Tilden thua phiếu Đại cử tri, nên chưa bao giờ trở thành Tổng thống]." Quốc hội cuối cùng sẽ ban hành Đạo luật Kiểm phiếu Đại cử tri vào năm 1887 để bổ sung các quy tắc chi tiết hơn cho việc kiểm phiếu đại cử tri, đặc biệt là trong trường hợp các đại cử tri một bang bầu cho nhiều người. Kết quả. Theo phán quyết của ủy hội, trong số 2.249 quận, Tilden thắng 1.301 (57,9%) và Hayes chỉ thắng 947 (42,1%). Một quận (<0,1%) ở Nevada chia đều giữa Tilden và Hayes. Liên danh của Đảng Đồng bạc xanh không có tác động lớn đến kết quả của cuộc bầu cử do chỉ thu hút dưới 1% số phiếu phổ thông, dù vậy, Cooper là ứng cử viên tổng thống của đảng thứ ba có kết quả tốt nhất kể từ John Bell vào năm 1860. Cuộc bầu cử năm 1876 là cuộc bầu cử cuối cùng được tổ chức trước khi Kỷ nguyên Tái thiết, nhằm bảo vệ quyền của người Mỹ gốc Phi thường ủng hộ Đảng Cộng hòa ở miền Nam, chấm dứt. Không một bang nô lệ nào trước Nội chiến được thắng bởi một đảng viên Cộng hòa cho đến năm 1896, khi William McKinley thắng Delaware, Maryland, West Virginia và Kentucky. Không có ứng cử viên tổng thống nào của Đảng Cộng hòa cho đến Warren G. Harding vào năm 1920 sẽ thắng bất kỳ bang nào đã từng ly khai và gia nhập Liên minh miền Nam. Năm đó, Harding thắng Tennessee, nơi chưa từng bị quân đội liên bang chiếm đóng và đã được "tái thiết" hoàn toàn trước cuộc bầu cử tổng thống đầu tiên trong Kỷ nguyên Tái thiết (1868). Không có bang miền Nam nào từng trải qua thời gian dài bị quân đội liên bang chiếm đóng được thắng bởi một đảng viên Cộng hòa cho đến Herbert Hoover vào năm 1928, khi ông thắng Texas, Florida, North Carolina và Virginia, và do đó, đây là cuộc bầu cử cuối cùng mà ứng cử viên đảng Cộng hòa giành được Louisiana cho đến năm 1956, khi Dwight D. Eisenhower giành chiến thắng tại đây, và cũng là lần cuối cùng ứng cử viên Đảng Cộng hòa giành được Nam Carolina cho đến năm 1964, khi Barry Goldwater giành được. Lần tiếp theo hai bang đó bỏ phiếu chống Đảng Dân chủ là lần họ ủng hộ ứng cử viên của "Dixiecrat " Strom Thurmond vào năm 1948. Mặc dù năm 1876 đánh dấu cuộc bầu cử hai đảng cạnh tranh cuối cùng ở miền Nam trước khi Đảng Dân chủ thống trị nơi đây cho đến năm 1948 và là lần cạnh tranh tại các bang vùng biên cuối cho đến năm 1896, ngoài ra, đây cũng là cuộc bầu cử tổng thống cuối cùng (tính đến năm 2020) mà Đảng Dân chủ giành chiến thắng tại các quận ủng hộ Liên bang thời Nội chiến sau: Quận Mitchell, Bắc Carolina; Quận Wayne, Tennessee; Quận Henderson, Tennessee và Quận Lewis, Kentucky. Hayes cũng là tổng thống duy nhất của Đảng Cộng hòa từng đắc cử mà không thắng được Indiana, và là người đầu tiên giành chiến thắng mà không thắng New York và Connecticut. Kết quả theo bang. Nguồn: Dữ liệu từ , "Presidential ballots, 1836–1892" (Johns Hopkins University Press, 1955) pp 247–57. Bang sít sao. Các bang có cách biệt chiến thắng dưới 1% (7 phiếu đại cử tri) Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 1% và 5% (164 phiếu đại cử tri): Các bang có cách biệt chiến thắng giữa 5% và 10% (33 phiếu đại cử tri): Liên kết ngoài. Thời kỳ tái thiết
19,821,584
832640
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821584
Giáo phận Uijeongbu
Giáo phận Uijeongbu (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Hàn Quốc. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Seoul. Địa giới. Địa giới giáo phận bao gồm các thành phố Goyang, Guri, Namyangju, Dongducheon, Yangju, Uijeongbu, Paju, và huyện Yeoncheon thuộc tỉnh Gyeonggi ở Hàn Quốc. Nhà thờ chính tòa của giáo phận là Nhà thờ chính tòa Trái Tim Cực Sạch Đức Mẹ ở thành phố Uijeongbu, cũng là nơi đặt tòa giám mục của giáo phận. Giáo phận được chia thành 81 giáo xứ. Lịch sử. Giáo phận được thành lập vào ngày 24/6/2004 theo tông sắc "Animarum saluti" của Giáo hoàng Gioan Phaolô II, trên phần lãnh thổ tách ra từ Tổng giáo phận Seoul. Giám mục quản nhiệm. Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ. Thống kê. Đến năm 2020, giáo phận có 315.620 giáo dân trên dân số tổng cộng 3.110.370, chiếm 10,1%.
19,821,586
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821586
Giáo phận Daejeon
Giáo phận Daejeon (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma ở Hàn Quốc. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Seoul. Lãnh đạo đương nhiệm của giáo phận là Giám mục Augustinô Kim Jong-soo. Địa giới. Địa giới giáo phận bao gồm đô thị Daejeon và tỉnh Chungcheong Nam ở Hàn Quốc. Nhà thờ chính tòa của giáo phận là Nhà thờ chính tòa Thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu ở thành phố Uijeongbu, cũng là nơi đặt tòa giám mục của giáo phận. Giáo phận được chia thành 143 giáo xứ. Lịch sử. Hạt Đại diện Tông tòa Daejeon được thành lập vào ngày 23/6/1958 theo tông sắc "Sacro suadente" của Giáo hoàng Piô XII, trên phần lãnh thổ tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Seoul (hiện là Tổng giáo phận Seoul). Vào ngày 10/3/1962 Hạt Đại diện Tông tòa được nâng cấp thành một giáo phận theo tông sắc "Fertile Evangelii semen" của Giáo hoàng Gioan XXIII. Nel 2014 Giáo hoàng Phanxicô đã đến thăm giáo phận khi tham dự Ngày hội Giới trẻ Á châu lần thứ VI. Giám mục quản nhiệm. Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ. Thống kê. Đến năm 2021, giáo phận có 335.972 giáo dân trên dân số tổng cộng 3.934.539, chiếm 8,5%.
19,821,597
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821597
Amanda Lee
Amanda Lee (sinh ) là một nữ phi công thuộc Hải quân Hoa Kỳ. Cô được tuyển chọn vào tháng 6 năm 2022 khi là nữ phi công đầu tiên trong phi đội biểu diễn máy bay tiêm kích Blue Angels. Lee ra mắt lần đầu với tư cách là phi công thử nghiệm cánh trái trên chiếc máy bay phản lực số ba vào ngày 11 tháng 3 năm 2023, tại El Centro, California. Cô dùng tín hiệu gọi là "Stalin". Đầu đời. Lee sinh ra tại Mounds View, Minnesota, cô tốt nghiệp trường trung học Irondale ở Minnesota năm 2004. Cô chơi nhiều môn thể thao khi còn học trung học như: khúc côn cầu trên băng, bóng đá và bơi lội. Cô theo học tại Đại học Minnesota Duluth và tuyển vào Hải quân Hoa Kỳ. Năm 2007, cô tốt nghiệp tại Đội quân Huấn luyện Tân binh, Great Lakes, Illinois. Năm 2013, cô tốt nghiệp Đại học Old Dominion với tấm bằng cử nhân hóa sinh. Sự nghiệp. Sau khi tuyển vào Hải quân Hoa Kỳ, Lee là kỹ thuật viên điện tử hàng không. Năm 2013, cô trở thành sĩ quan và được đào tạo thành phi công hải quân tại Trạm Hàng không Hải quân Pensacola ở Florida. Năm 2016, cô trở thành phi công hải quân. Sau đó cô được chỉ định đến tàu sân bay USS "Harry S. Truman" để hỗ trợ Chiến dịch Quyết tâm Vốn có. Trong thời gian huấn luyện cô thực hiện thành công 225 lần hạ cánh xuống tàu sân bay và 1.400 giờ bay. Cô được trao bốn Huy chương Thành tích Hải quân cùng các phần thưởng cá nhân và đơn vị khác. Blue Angels. Vào tháng 7 năm 2022, Lee trở thành nữ phi công biểu diễn đầu tiên gia nhập Blue Angels. Vào tháng 9 năm 2022, cô được chọn là "Đấu sĩ" của Phi đội Tiêm kích (VFA) 106, căn cứ tại Trạm Hàng không Hải quân Oceana ở Virginia. Cô điều khiển chiếc máy bay F/A-18E và F/A-18F Super Hornet. Lee biểu diễn lần đầu khi là phi công thử nghiệm cánh trái với Blue Angels diễn ra vào ngày 11 tháng 3 năm 2023, tại El Centro, California. Cô biểu diễn trước sự chứng kiến của khoảng 100.000 khán giả tại Triển lãm hàng không MCAS Beaufort vào ngày 22 và 23 tháng 5 năm 2023. Lee được cổ vũ tại buổi biểu diễn trong cả hai ngày khi bước vào buồng lái trong chiếc máy bay số ba của cô.
19,821,598
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821598
Backnang
Backnang (;) là một thị trấn nằm trong bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Stuttgart khoảng về phía đông bắc.
19,821,600
588246
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821600
Dendrochirus barberi
Dendrochirus barberi là một loài cá biển thuộc chi "Dendrochirus" trong họ Cá mù làn. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1900. Từ nguyên. Từ định danh "barberi" được đặt theo tên của thuyền trưởng Barber, người đã tìm thấy mẫu định danh của loài cá này trong chuyến đi từ Honolulu đến Cape Horn. Phân bố và môi trường sống. "D. barberi" là loài đặc hữu của quần đảo Hawaii và đảo Johnston. Loài này thường sống dưới các mỏm đá trong đầm phá và rạn san hô, được tìm thấy ở độ sâu đến ít nhất là 134 m. Mô tả. Chiều dài cơ thể lớn nhất được ghi nhận ở "D. barberi" là 16,5 cm. Loài này có màu nâu cam hoặc nâu lục, nhiều vạch sọc đen. Các vây nhiều chấm cam. So về kiểu hình thì "D. barberi" gần giống nhất với "Dendrochirus tuamotuensis", một loài đặc hữu của Tuamotu. "D. barberi" được xếp vào phức hợp loài "Dendrochirus brachypterus", với số lượng vảy cá trên hàng ngang thường là 51, nhiều hơn hẳn so với 39–49 ở các loài còn lại trong phức hợp. Số gai ở vây lưng: 13; Số tia vây ở vây lưng: 8–10; Số gai ở vây hậu môn: 3; Số tia vây ở vây hậu môn: 5; Số tia vây ngực: thường là 18. Sinh thái. "D. barberi" ẩn mình trong các kẽ đá và hang hốc vào ban ngày. Giá trị. "D. barberi" xuất hiện trong ngành buôn bán cá cảnh.
19,821,601
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821601
Fellbach
Fellbach () là thị trấn lớn thứ hai của huyện Rems-Murr-Kreis, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
19,821,602
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821602
Kernen im Remstal
<templatestyles src="Module:Infobox/styles.css"></templatestyles> Kernen im Remstal là một thị xã nằm ở huyện Rems-Murr, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
19,821,604
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821604
Schorndorf
Schorndorf là một thị trấn thuộc huyện Rems-Murr-Kreis, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Stuttgart khoảng 26 km về phía đông.
19,821,605
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821605
Waiblingen
Waiblingen (; Swabia: "Woeblinge") là thị trấn lớn nhất và là thủ phủ của huyện Stuttgart. Nơi đây nằm ở trung tâm của vùng Stuttgart, tây nam nước Đức.
19,821,606
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821606
Welzheim
Welzheim là một thị trấn thuộc huyện Rems-Murr, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Stuttgart 35 km về phía đông và cách Schwäbisch Gmünd 15 km về phía tây bắc.
19,821,607
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821607
Winnenden
Winnenden (tiếng Swabia: "Wẽnnede") là một thị trấn nhỏ nằm ở huyện Rems-Murr, thuộc bang Baden-Württemberg, tây nam nước Đức.
19,821,608
11
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821608
Concerto cho 2 cello (Vivaldi)
Concerto cho hai cello cung sol thứ, RV 531 là một tác phẩm của nhà soạn nhạc Antonio Vivaldi. Đây là một bản concerto cho hai đàn cello, dàn nhạc dây và bè trầm liên tục trong ba chương, được cho là sáng tác vào những năm 1720. Đây là bản concerto duy nhất của Vivaldi dành cho hai đàn cello, và chúng bắt đầu một cách khác thường với phần dẫn nhập của riêng các nhạc cụ độc tấu. Bối cảnh sáng tác. Vivaldi đã sử dụng cello như một nhạc cụ độc tấu trong một số sáng tác, đây là một xu hướng mới trong thời kỳ của ông. Nhà soạn nhạc đã sáng tác 27 bản concerto cho cello, dàn nhạc dây và bè trầm liên tục. Trong số các concerto dành cho cello này, RV 531 là bản duy nhất dành cho hai cello. Vivaldi đã có thể đã sáng tác bản concerto vào những năm 1720 ở Venezia. Một bản thảo âm nhạc đã được tìm thấy trong Bộ sưu tập Renzo Giordano tại Thư viện Quốc gia ở Torino, nơi lưu giữ nhiều bộ sưu tập cá nhân của Vivaldi. Cấu trúc. Bản concerto có cấu trúc gồm 3 chương: Chương đầu tiên không bắt đầu với dàn nhạc đánh phần ritornello thông thường, mà chỉ với hai nghệ sĩ độc tấu lao vào đánh và mô phỏng nét nhạc của nhau một cách nhanh chóng với những đoạn nhạc ngắn trổ kỹ thuật của các nghệ sĩ độc tấu. Cả hai nghệ sĩ độc tấu đều bình đẳng, lần đầu đối đáp nhau mà không có bè nào cao hơn. Karl Heller nhấn mạnh rằng "âm vực tối của hai nhạc cụ có tông trầm hoàn toàn phù hợp với biểu cảm nghiêm túc, không có chút phô trương kỹ thuật điêu luyện nào". Ông nói thêm rằng:Trong chương 2 được Vivaldi đề nhịp điệu là Adagio, hai nghệ sĩ độc tấu và nghệ sĩ cello đệm liên tục tạo thành một bộ ba, để có âm thanh dải trầm thậm chí còn vang rộng hơn. Chương cuối cùng Allegro bắt đầu với "sự đảo phách khác thường lôi cuốn" trong dàn nhạc, trước khi các nghệ sĩ độc tấu tham gia "màn nhào lộn theo nhạc". Chương này chứa một phần fugal bắt đầu bởi cello độc tấu số hai. Nhà âm nhạc học Michael Talbot đã nhấn mạnh đến "nội dung cảm xúc mãnh liệt" của bản concerto được thể hiện ngay từ đầu và cho thấy được "một nỗi buồn gần như mang tính chất tự truyện" trong chương chậm. Ông nhận định phần cuối "điên cuồng" có nhịp điệu và âm sắc giống nhau và tóm tắt lại ""đây là một bản concerto nổi bật trong số hàng trăm bản mà Vivaldi đã viết"." Thu âm. Mã Hữu Hữu và Jonathan Manson đã thu âm bản concerto vào tháng 11 năm 2003.
19,821,609
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821609
Spiegelberg
Spiegelberg là một thị xã nằm ở huyện Rems-Murr, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
19,821,610
739642
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821610
Ty Barnett
Ty Kimoni Barnett (sinh ngày 19 tháng 7 năm 2005) là một cầu thủ bóng đá người Anh hiện đang thi đấu cho câu lạc bộ Wolverhampton Wanderers. Sự nghiệp. Ngày 15 tháng 8 năm 2023, Barnett gia hạn hợp đồng với Wolves đến mùa hè năm 2026.
19,821,611
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821611
Weissach im Tal
Weissach im Tal là một thị xã ("Gemeinde") nằm ở huyện Rems-Murr-Kreis, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
19,821,613
845234
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821613
Ga Sungui
Ga Sungui (Tiếng Hàn: 숭의역, Hanja: 崇義驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Suin–Bundang, nằm ở Sungui-dong, Michuhol-gu, Incheon. Ban đầu nó được khai trương vào năm 1937 và bị bãi bỏ vào năm 1973, và tại thời điểm bị bãi bỏ, tên là Ga Namincheon (남인천역). Tên ga phụ của Ga Sungui là Bệnh viện Đại học Inha và gần đó có bệnh viện trực thuộc Trường Y Đại học Inha.
19,821,614
721305
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821614
Sameer Zuberi (bác sĩ)
Sameer Zuberi là một bác sĩ tại Bệnh viện Hoàng gia cho Trẻ em bị Bệnh ở Glasgow, Scotland, và là Chủ tịch danh dự về Thần kinh Nhi khoa (Trường Y, Nha khoa & Điều dưỡng) tại Đại học Glasgow. Ông cũng là biên tập viên của tạp chí học thuật xuất bản nửa tháng một lần "European Journal of Paediatric Neurology" và từng là chủ tịch của Hội Thần kinh Nhi khoa châu Âu. Ông đã nhận được Giải thưởng Đại sứ vì bệnh động kinh của Liên đoàn Quốc tế Chống Động kinh.
19,821,615
721305
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821615
Yevhen Zubeyko
Yevhen Anatoliyovych Zubeyko (; sinh ngày 30 tháng 9 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá người Ukraina thi đấu ở vị trí hậu vệ phải cho câu lạc bộ bóng đá Đức Eintracht Emseloh.
19,821,618
721305
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821618
Túc tý thập nhất mạch cứu kinh
Túc tý thập nhất mạch cứu kinh (), tên tiếng Anh là Cauterization Canon of the Eleven Vessels of the Foot and Forearm, là một văn bản y học cổ của Trung Quốc được khai quật vào năm 1973 từ một ngôi mộ ở khu lăng mộ Mã Vương Đôi được niêm phong vào năm 168 trước Công nguyên, dưới thời nhà Hán. Văn bản này được chép tay lại bằng triện thư vào khoảng năm 215 trước Công nguyên, dưới triều đại nhà Tần, trên cùng một tấm giấy từ vải lụa với một văn bản y học khác có tên là "Ngũ thập nhị bệnh phương". "Túc tý thập nhất mạch cứu kinh" mô tả đường đi của 11 mạch bên trong cơ thể và giải thích cách thực hiện biện pháp đốt để điều trị các bệnh liên quan đến mỗi mạch.
19,821,621
845234
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821621
Ga đại học Inha
Ga Đại học Inha (Tiếng Hàn: 인하대역, Hanja: 仁荷大驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Suin–Bundang, nằm ở Yonghyeon-dong, Michuhol-gu, Incheon. Ban đầu có tên là Ga Yonghyeon (용현역), đây là một sân ga tạm thời bắt đầu hoạt động vào năm 1965 và đóng cửa vào năm 1973. Vào tháng 8 năm 1969, tuyến đường sắt giữa Ga Songdo và Ga Yonghyeon bị hỏng do mưa lớn.
19,821,622
889492
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821622
Quận Trung Tâm (Địa hạt Qom)
Quận Trung Tâm của Địa hạt Qom () thuộc tỉnh Qom, Iran. Thành phố thủ phủ là Qom. Tại cuộc Thống kê Quốc gia năm 2006, dân số được thống kê là 988,462 người trong 248,913 hộ gia đình. Cuộc khảo sát thống kê tiếp theo vào năm 2011 thống kê được 1,102,921 người trong 306,395 hộ gia đình. Tại cuộc khảo sát mới nhất vào năm 2016, quận này có 1,235,485 người cư trú trong 365,662 hộ gia đình.
19,821,628
686003
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821628
Azmin Azram Abdul Aziz
Azmin Azram Abdul Aziz (sinh ngày 1 tháng 4 năm 1976) là một cựu cầu thủ bóng đá người Malaysia hiện đang là huấn luyện viên thủ môn của câu lạc bộ Công an Hà Nội tại Giải bóng đá Vô địch Quốc gia Việt Nam. Ông đã từng đại diện cho 4 đội bóng của bang và một câu lạc bộ trong sự nghiệp của mình. Bên cạnh đó, ông cũng đại diện cho đội tuyển Malaysia từ năm 1998 đến năm 2004. Sự nghiệp thi đấu. Trẻ. Azmin bắt đầu sự nghiệp tại đội trẻ của câu lạc bộ Kuala Lumpur FA. Quốc tế. Năm 2002, Azmin gọi được triệu tập lên đội tuyển Malaysia, chuẩn bị cho trận đấu giao hữu quốc tế với đội bóng đã từng năm lần vô địch World Cup, Brasil. Ông được lựa chọn trong đội hình xuất phát, đối đầu với các ngôi sao của Brasil, như Ronaldo và Ronaldinho. Ông được dẫn dắt bởi cựu thủ môn Malaysia, Abdul Rashid Hassan và Lim Chuan Chin. Dưới sự dẫn dắt của bộ đôi này, Azmin đã trở thành sự lựa chọn số 1 trong khung gỗ của Malaysia từ năm 2002 đến năm 2004 trước khi vị trí của anh được nhường lại cho Mohd Syamsuri Mustafa. Giải nghệ. Ở tuổi 30, ông đã quyết định giải nghệ sau khi dính chấn thương đầu gối. Sự nghiệp huấn luyện viên. Kể từ đó, ông trở thành huấn luyện viên thủ môn và tuyển trạch viên tài năng tại Hội đồng thể thao quốc gia của Malaysia. Danh hiệu. Kuala Lumpur Selangor Pahang Malaysia
19,821,637
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821637
Crespéou
Crespéou () là một món bánh mặn có nguồn gốc xuất xứ từ vùng Provence. Chúng được làm từ trứng ốp lết, kết hợp với các loại thảo mộc và rau xếp thành từng lớp. Món ăn này có thể ăn nguội, đôi khi ăn kèm với cà chua. Về phần công thức, dường như nó có nguồn gốc từ Avignon và Haut-Vaucluse (Piolenc và Orange), đã trở nên phổ biến khắp quận Venaissin, vùng Provence và vùng nông thôn xung quanh Nice. Xuất xứ. Tên gọi của món ăn bắt nguồn từ "crespèu", một dạng của từ tiếng Pháp "crêpe" trong tiếng Occitan. Tương tự như fougasse, "crespèu" ở Occitania có nhiều biến thể. Món ăn này còn được gọi là "trouchia" hay "omelette à la moissonneuse". Cái tên thứ hai gợi ý rằng nó có nguồn gốc là một món ăn được chế biến theo truyền thống cho công việc đồng áng và đặc biệt cho mùa thu hoạch. Hương vị và màu sắc. Món ăn thường được nướng và úp mặt. Nó bao gồm tối thiểu ba hoặc bốn lớp trứng tráng có màu sắc khác nhau, thường được cho bởi cà chua đỏ, cà rốt màu cam, rau bina xanh hoặc củ cải và ô liu đen. Ớt, với sự đa dạng về màu sắc của chúng cũng cho phép tạo ra bánh crespéou nhiều màu. Một số chế phẩm sử dụng xúc xích hoặc cá thái lát để có lớp màu be. Ở Nice, luôn có món trứng tráng làm từ sườn củ cải. Có thể dùng các loại rau khác như bí xanh, cà tím, hành tây hoặc húng quế. Việc kết hợp món ăn với rượu. Theo truyền thống, bánh crespéou không nhất thiết phải đi kèm với rượu. Tuy nhiên, với hương vị cực kỳ dễ nhận biết của món ăn, nó có thể kết hợp với rượu vang hồng được chứng nhận có nguồn gốc (AOC) từ Côtes du Roussillon hoặc Coteaux d'Aix-en-Provence.
19,821,642
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821642
Cộng hòa Nhân dân Nội Mông
Cộng hòa Nhân dân Nội Mông là một cựu quốc gia ở Nội Mông được thành lập ngay sau Chiến tranh thế giới thứ hai. Nhà nước này tồn tại từ ngày 9 tháng 9 năm 1945 đến ngày 6 tháng 11 năm 1945.
19,821,648
5797
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821648
Lý Trinh (nhà Minh)
Lý Trinh (chữ Hán: 李贞, 1303 – 1378) là ngoại thích nhà Minh trong lịch sử Trung Quốc. Ông là anh rể của Minh Thái Tổ và là phò mã đầu tiên của nhà Minh. Cuộc đời. Nhà họ Lý định cư 4 đời ở huyện Hu Dị, phủ Tứ Châu, hành tỉnh Giang Tô , về sau chuyển đến Đông Hương thuộc Lâm Hoài . Trinh lấy con gái thứ của người Hào Châu là Chu Thế Trân làm vợ. Cuối đời Nguyên loạn lạc, Trinh thấy người trong làng mở rộng ruộng vườn, gom góp tài sản, thì than rằng: “Giờ là khi nào, mà còn muốn làm phú ông vậy?” Trinh quyên góp gia sản, mổ bò lợn, bày rượu thịt, hẹn với đồng hương sẽ tương trợ lẫn nhau. Chưa được bao lâu, loạn binh xâm phạm, Trinh thấy Hoài Đông còn trong tay triều đình, bèn đưa cả nhà lánh đến đấy. Sau khi vợ mất (1351), Trinh bèn đưa con trai Lý Văn Trung đi tìm em vợ là Chu Nguyên Chương. Hai cha con di chuyển trong chiến loạn, màn trời chiếu đất, mấy lần suýt chết, đêm ngày cầu khấn. Tháng 12 ÂL năm 1353, hai người gặp Chu Nguyên Chương ở Trừ Dương, được đối đãi trọng hậu. Khi Văn Trung coi giữ Nghiêm Châu (1358), Trinh cũng rời phủ Ứng Thiên đến đấy. Văn Trung nhiều lần đem quân chinh chiến, đều ủy quyền quân vụ cho Trinh. Năm 1365, quân đội của Trương Sĩ Thành từ Ô Thạch Sơn xâm phạm Nghiêm Châu và Chư Kỵ, trải qua 2 tháng không lui, khiến lòng người chẳng yên. Trinh lại nắm quân vụ, để Văn Trung đi dẹp. Sau 6 ngày, Văn Trung thắng lợi trở về, Nghiêm Châu lại yên. Năm 1366, Chu Nguyên Chương phát động chiến dịch bình định Trương Sĩ Thành, hạ lệnh cho Văn Trung tham gia tấn công Hàng Châu. Văn Trung đem tất cả quân thủy bộ cùng tiến, chiếm được Đồng Lư, đưa tù binh về Nghiêm. Tù binh thấy Nghiêm Châu không còn tinh binh, mưu tính nổi dậy để bỏ trốn. Trinh bèn thết đãi bọn họ, chuốc say rồi trói lại, gởi về Ứng Thiên. Chu Nguyên Chương khen ngợi, cho Trinh nhận lễ nghi như tử tước. Bình xong lưỡng Chiết, Văn Trung được trấn thủ Hàng Châu, Trinh lại đến ở cùng con trai. Năm 1368, Chu Nguyên Chương lên ngôi, là Minh Thái Tổ, phong Trinh làm Ân thân hầu. Năm 1370, đế ban cho Trinh trạch đệ ở phía tây cầu Huyền Tân, cửa Tây Hoa, Nam Kinh. Trinh rời Hàng Châu về Nam Kinh, được gia làm Đặc tiến Vinh lộc đại phu, Phò mã đô úy, Hữu Trụ quốc, Tào quốc công. Trinh đã lớn tuổi, được nhận sắc miễn vào chầu, vái lạy không xưng tên. Đế thường đến thăm nhà, còn ở lại ăn cơm tối. Thái tử và các vương cũng thường thăm viếng dượng. Năm 1378, Trinh phát bệnh, không nói được nữa. Đế nghe tin cả sợ, lập tức đến thăm, cầm tay Trinh hỏi rằng: “Còn nhận ra trẫm không?” Trinh ngước nhìn mà khóc, đế cũng chảy nước mắt không ngừng. Một lúc sau, đế quay về cung, liên tục sai sứ giả hỏi han. Trinh mất, hưởng thọ 76 tuổi. Đế thương tiếc, nghỉ chầu 3 ngày, đích thân đến viếng, truy phong Lũng Tây vương, đặt thụy là Cung Hiến. Tháng 12 ÂL, Trinh được đưa về chôn cất ở huyện Hu Dị, bên cạnh mộ vợ, chi phí tang sự đều được chu cấp. Ngày đưa tang, đế tiễn đến cửa tây, trèo lên lầu thành để trông theo. Tính cách. Trinh tính hiếu thuận, khiêm nhường và cẩn thận. Cha mất sớm, mẹ tính nghiêm khắc, hễ trái ý thì lập tức trách mắng. Gặp lúc mẹ nổi giận ném thức ăn xuống đất, Trinh nhặt lên để ăn như thường, càng tỏ ra cung kính hơn. Trinh có 4 em trai, đòi chia tài sản ra ở riêng, ông sợ mẹ không vui nên không đồng ý. Về sau Trinh quý hiển, họ hàng có ai lưu lạc bên ngoài, Trinh đều xin mẹ thu nhận kẻ ấy. Bình sanh Trinh ăn mặc tiết kiệm, thức ăn chỉ vừa đủ, áo rách thì vá lại, luôn nói: “Giàu sang quên nghèo hèn, quân tử không làm vậy.” Vật dụng được ngự ban, Trinh không hề tùy tiện dùng đến. Lý Văn Trung có công lớn, Trinh không lấy làm kiêu ngạo. Khi Văn Trung ở nhà, Trinh không khoe khoang; khi anh ta chinh chiến, ông không buồn phiền. Gia đình ngày càng thịnh vượng, Trinh lấy làm lo lắng, thường xuyên răn đe con cháu. Gia đình. Nhờ công lao của Lý Văn Trung, 3 đời tiền nhân của Trinh được truy tặng quan tước: Vợ đầu là Hiếu Thân Tào quốc trưởng công chúa Chu Phật Nữ, vợ kế là Trần thị, được truy phong Thục Đức phu nhân. Chu Phật Nữ sanh ra 2 con trai, con trai cả mất sớm, con trai nhỏ là Lý Văn Trung, sử cũ có truyện.
19,821,663
880080
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821663
Abdullah Al-Zubi
Abdullah Fayiz Al-Zubi (; sinh ngày 8 tháng 10 năm 1989) là một cầu thủ bóng đá Jordan hiện thi đấu ở vị trí thủ môn cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Jordan. Sự nghiệp quốc tế. Al-Zubi lần đầu tiên gia nhập đội tuyển quốc gia Jordan tại Đại hội thể thao Toàn Ả Rập 2011 nhưng đã không ra sân trong trận đấu nào. Anh ra sân trong màu áo đội tuyển quốc gia vào ngày 10 tháng 12 năm 2012, trong trận đấu gặp Iraq thuộc khuôn khổ Giải vô địch WAFF 2012, trận đấu mà đội của anh để thua 1-0.
19,821,665
721305
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821665
Assad al Zubi
Assad al Zubi () (sinh năm 1956) là một tướng lĩnh của Quân đội Syria Tự do người Sunni, đã đào thoát khỏi Quân đội Syria để gia nhập Quân đội Syria Tự do. Ông theo học tại Học viện Không quân Syria năm 1974, tốt nghiệp năm 1977 với cấp bậc trung úy và sau đó được thăng lên thành thiếu tướng. Ông cũng từng làm cố vấn quân sự ở Yemen trong hơn hai năm. Ông hiện đang giữ chức vụ lãnh đạo trong Mặt trận phía Nam. Trước khi đào ngũ, ông phục vụ trong Lực lượng Không quân Ả Rập Syria và là người đứng đầu nhánh không quân của Học viện Quân sự Tối cao Syria. Vào tháng 1 năm 2016, al-Zubi được bổ nhiệm làm Trưởng đoàn phái đoàn đối lập tham dự hội nghị Geneva lần thứ 3 về tương lai của Syria.
19,821,671
880080
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821671
Musa Al-Zubi
Musa Khaled Ismail Al-Zubi (; sinh ngày 11 tháng 2 năm 1993) là một cầu thủ bóng đá người Jordan thi đấu ở vị trí hậu vệ trái cho câu lạc bộ Jordan Al-Salt.
19,821,675
725478
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821675
Cobalt(II) stearat
Cobalt(II) stearat là một hợp chất hữu cơ của cobalt và acid stearic với công thức hóa học Co(C17H35COO)2. Hợp chất này được xếp vào loại xà phòng kim loại, tức là dẫn xuất kim loại của một acid béo. Điều chế. Phản ứng trao đổi của natri stearat và cobalt(II) chloride sẽ tạo ra cobalt(II) stearat. Tính chất vật lý. Cobalt(II) stearat tạo thành chất rắn màu tím, dưới dạng tinh thể. Hợp chất không tan trong nước. Ứng dụng. Cobalt(II) stearat là chất kết dính tốt cho cao su. Hợp chất này thích hợp để sử dụng trong cao su tự nhiên, cisdene, styren-butadien. Các hợp chất của chúng dễ dàng liên kết với dây thép mạ đồng, kẽm hoặc các tấm kim loại, thép trần khác nhau, để liên kết với các lớp mạ đồng thau khác nhau về độ dày.
19,821,677
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821677
Mark Wiens
Mark Wiens (sinh ngày 26 tháng 2 năm 1986) là một blogger, vlogger, YouTuber người Mỹ, người dẫn chương trình truyền hình và chủ của nhà hàng có trụ sở tại Băng Cốc, Thái Lan. Đời tư. Wiens sinh ra ở Phoenix, Arizona trong một gia đình theo đạo Cơ đốc. Anh là người gốc Đức và Trung Quốc. Anh đã sống cùng gia đình ở Pháp, Cộng hòa Dân chủ Congo, và Nairobi, Kenya. Anh theo học tại trường Đại học Arizona State, tốt nghiệp năm 2008 với bằng Cử nhân Nghiên cứu Toàn cầu. Sau khi tốt nghiệp, Wiens đi du lịch khắp Nam Mỹ và trở thành giáo viên dạy tiếng Anh ở vùng núi Patagonia. Trong khi dạy tiếng Anh ở Thái Lan, Wiens đã gặp vợ của mình, Ying, và sau đó họ có một người con trai sinh năm 2016. Sự nghiệp. Wiens được nhiều người coi là một trong những vlogger ẩm thực nổi tiếng trên thế giới. Wiens đã xem Anthony Bourdain khi còn là một học sinh và gọi ông là người tiên phong. Năm 2009, Wiens sáng lập ra trang web Migrationology.com, trang web cá nhân của anh về ẩm thực. Vào năm 2012, anh đã xuất bản một cuốn sách điện tử, với tiêu đề "Eating Thai Food Guide", và bỏ việc để bắt đầu viết blog và làm video YouTube toàn thời gian. Các video vlog du lịch của Wiens ghi lại các chuyến thăm của anh tới hàng chục quốc gia. Anh đã được tờ New York Magazine, CNN và Andrew Zimmern giới thiệu như là một chuyên gia về ẩm thực Thái Lan. Năm 2019, Wiens, cùng với blogger ẩm thực người Thái Lan, Khun Tan, nhà thiết kế và diễn viên Khun Pongthep, Gigg (Đầu bếp và Quán quân Iron Chef Thái Lan) mở một nhà hàng có tên là เผ็ดมาร์ค (Phed Mark), đặt trụ sở ở Băng Cốc, chuyên về món phat kaphrao. Năm 2020, Wiens phối hợp với công ty du lịch Bangkokvanguards có trụ sở tại Băng Cốc, ra mắt "The Ultimate Bangkok Food Tour". Năm 2022, Wiens đã được công bố là người dẫn chương trình "Food Affair with Mark Wiens" trên kênh HBO châu Á. Series chương trình đã được thực hiện với sự hợp tác của Tổng cục Du lịch Singapore, tập trung vào nền ẩm thực Singapore.
19,821,681
333700
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821681
Lâu đài Dover
Lâu đài Dover (tiếng Anh: "Dover Castle") là một lâu đài thời trung cổ ở Dover, Kent, Vương quốc Anh và được xếp hạng I. Nó được xây dựng vào thế kỷ XI, và được mô tả là "Chìa khóa của nước Anh" ("Key to England") do ý nghĩa phòng thủ của nó trong suốt lịch sử. Một số tác giả cho rằng đây là lâu đài lớn nhất ở Anh, danh hiệu này cũng được Lâu đài Windsor tuyên bố. Lịch sử. Thời kỳ đồ sắt. Địa điểm này có thể đã được phòng thủ bằng các công trình đào đắp vào Thời đại đồ sắt hoặc sớm hơn, trước khi người La Mã xâm lược vào năm 43 sau Công nguyên. Điều này được gợi ý dựa trên mô hình bất thường của các công trình đào đắp dường như không phù hợp hoàn hảo cho lâu đài thời trung cổ. Các cuộc khai quật đã cung cấp bằng chứng về các công sự của Thời đại đồ sắt trong khuôn viên của lâu đài, nhưng không chắc liệu điều này có liên quan đến pháo đài trên đồi hay không. Thời La Mã. Địa điểm này cũng có một trong hai ngọn hải đăng La Mã (hay pharoses) của Dover, một trong ba ngọn hải đăng thời La Mã còn sót lại trên thế giới, và là công trình kiến trúc La Mã đứng cao nhất và hoàn thiện nhất ở Anh. Nó cũng được cho là tòa nhà lâu đời nhất của Anh. Được xây dựng vào đầu thế kỷ thứ II, tòa tháp 5 tầng 8 mặt được làm từ các lớp tufa, đá vụn Kentish và gạch đỏ. Ngọn hải đăng của lâu đài vẫn tồn tại sau khi được chuyển đổi thành tháp chuông vào thời Saxon (c. 1000), có thêm một lớp trên mới (c. 1430) và được cải tạo một phần vào năm 1913–1915. Phần còn lại ít ỏi của ngọn hải đăng La Mã khác, được gọi là Bredenstone hoặc Devil's Drop of Mortar, nằm ở Western Heights, đối diện thị trấn Dover. Ngọn hải đăng La Mã tại Boulogne-sur-Mer bên kia eo biển Manche đã tồn tại qua nhiều thế kỷ và lẽ ra ánh sáng của nó phải được nhìn thấy từ Dover. Nó được xây dựng vào khoảng năm 39 sau Công nguyên theo lệnh của Hoàng đế Caligula, có thể là để chuẩn bị cho một cuộc xâm lược nước Anh. Suetonius đề cập đến việc Caligula "dựng một ngọn hải đăng cao, không khác gì ngọn hải đăng ở Pharos, trong đó ngọn lửa được duy trì suốt đêm để dẫn đường cho tàu bè". Được gọi là Tour d'Ordre, sự xói mòn bờ biển đã dẫn đến việc nó đổ xuống biển vào năm 1644. Các bản khắc về chiều cao của nó có thể cho thấy ngọn hải đăng La Mã Dover từng trông như thế nào.
19,821,683
725478
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821683
Samari(II) chloride
Samari(II) chloride (công thức hóa học: SmCl2) là một hợp chất vô cơ, được sử dụng làm tác nhân tạo gốc trong phản ứng xen kẽ qua trung gian keton. Điều chế. Khử samari(III) chloride bằng samari kim loại trong chân không ở nhiệt độ 800 °C đến 900 °C, hoặc với khí hydro ở 350 °C sẽ tạo ra samari(II) chloride: Samari(II) chloride cũng có thể được điều chế bằng cách khử samari(III) chloride với kim loại liti/naphtalen trong THF: Một phản ứng tương tự có thể thực hiện với muối natri. Cấu trúc. Samari(II) chloride có cấu trúc giống PbCl2 (cotunnit).
19,821,685
832640
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821685
Giáo phận Chuncheon
Giáo phận Chuncheon (; ) là một giáo phận của Giáo hội Latinh trực thuộc Giáo hội Công giáo Rôma tại Triều Tiên. Giáo phận là một giáo phận trực thuộc Tổng giáo phận Seoul, với tòa giám mục đặt tại tỉnh Gangwon, Hàn Quốc. Địa giới. Địa giới giáo phận bao gồm: Nhà thờ chính tòa của giáo phận là Nhà thờ chính tòa Thánh Tâm ở thành phố Chuncheon, cũng là nơi đặt tòa giám mục của giáo phận. Giáo phận được chia thành 62 giáo xứ. Lịch sử. Hạt Phủ doãn Tông tòa Shunsen được thành lập vào ngày 25/4/1939 theo tông sắc "Ad fidei propagationem" của Giáo hoàng Piô XI, trên phần lãnh thổ tách ra từ Hạt Đại diện Tông tòa Seoul (hiện là Tổng giáo phận Seoul). Vào ngày 16/7/1950 Hạt Phủ doãn Tông tòa đã đổi tên thành Hạt Phủ doãn Tông tòa Ch'unch'on. Vào ngày 20/9/1955 Hạt Phủ doãn Tông tòa được nâng cấp thành một Hạt Đại diện Tông tòa theo tông sắc "Etsi sancta Ecclesia" của Giáo hoàng Piô XII. Vào ngày 10/3/1962 Hạt Đại diện Tông tòa được nâng cấp thành một giáo phận theo tông sắc "Fertile Evangelii semen" của Giáo hoàng Gioan XXIII. Vào ngày 22/3/1965 một phần lãnh thổ của giáo phận được tách ra để thành lập Giáo phận Wonju. Từ năm 2005 các đời Giám mục chính tòa Giáo phận Ch'unch'on đã giữ chức Giám quản Tông tòa Giáo phận Hàm Hưng nằm trên lãnh thổ Bắc Triều Tiên. Vào ngày 9/6/2021 giáo phận đã đổi tên thành như hiện tại. Lãnh đạo qua từng thời kì. Các giai đoạn trống tòa không quá 2 năm hay không rõ ràng bị loại bỏ.
19,821,689
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821689
Pfullingen
Pfullingen (tiếng Swabia: "Pfullenga") là một thị trấn thuộc huyện Reutlingen, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Reutlingen 3 km về phía đông nam.
19,821,690
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821690
Engstingen
Engstingen là một thị xã thuộc vùng hành chính Tübingen ("Regierungsbezirk"), ở bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Reutlingen khoảng phía nam.
19,821,691
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821691
Eningen unter Achalm
Eningen (tên đầy đủ Eningen unter Achalm; tiếng Swabia: "Ẽnenga ondr dr Achl") là một thị xã thuộc huyện Reutlingen, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm dưới chân dãy núi Swabia Alps và gần các đô thị lớn Reutlingen và Stuttgart.
19,821,694
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821694
Gomadingen
Gomadingen là một thị xã nằm ở huyện Reutlingen, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
19,821,697
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821697
Riederich
Riederich là một thị xã thuộc huyện Reutlingen, bang Baden-Württemberg của Đức. Có dân số 4300 người, nơi đây nằm cách Stuttgart khoảng 30 km.
19,821,699
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821699
Hohenstein (Reutlingen)
Hohenstein là một thị xã nằm ở huyện Reutlingen, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
19,821,700
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821700
Römerstein
Römerstein là một thị xã nằm ở bang Baden-Württemberg, Đức.
19,821,701
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821701
Sonnenbühl
Sonnenbühl là một thị xã nằm ở huyện Reutlingen, thuộc bang Baden-Württemberg, Đức.
19,821,703
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821703
St. Johann (Reutlingen)
St. Johann là một thị xã thuộc huyện Reutlingen, bang Baden-Württemberg của Đức. Phần lớn diện tích (44,2%) địa phương này nằm trong Khu dự trữ Sinh quyển Swabian Alb của UNESCO.
19,821,704
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821704
Walddorfhäslach
Walddorfhäslach là một thị xã nằm ở huyện Reutlingen, thuộc bang Baden-Württemberg của Đức.
19,821,706
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821706
Wannweil
Wannweil là một thị xã thuộc huyện Reutlingen, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm giữa các đô thị Reutlingen và Tübingen, cách Reutlingen 5 km về phía tây bắc.
19,821,707
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821707
Zwiefalten
Zwiefalten là một thị xã nằm ở huyện Reutlingen, bang Baden-Württemberg, Đức.
19,821,708
780814
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821708
Trochtelfingen
Trochtelfingen là một thị trấn thuộc huyện Reutlingen, bang Baden-Württemberg, Đức. Nơi đây nằm cách Reutlingen 20 km về phía nam.
19,821,709
439465
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821709
Romeo and Juliet (phim 1968)
Romeo and Juliet () là một bộ phim điện ảnh cổ trang công chiếu năm 1968 dựa trên vở kịch cùng tên của William Shakespeare. Do Franco Zeffirelli làm đạo diễn kiêm đồng tác giả kịch bản, phim có sự tham gia diễn xuất của Leonard Whiting trong vai Romeo và Olivia Hussey trong vai Juliet. Laurence Olivier là người dẫn chuyện phần mở đầu và phần kết của bộ phim, đồng thời lồng tiếng cho Antonio Pierfederici, người thủ vai Lord Montague nhưng không được đề tên trên màn ảnh. Phim còn có sự tham gia của Milo O'Shea, Michael York, John McEnery, Bruce Robinson và Robert Stephens. Không chỉ là bộ phim điện ảnh chuyển thể từ vở kịch của Shakespeare thành công nhất về mặt tài chính lúc phim ra mắt, tác phẩm còn được thanh thiếu niên yêu thích một phần vì đây là bộ phim đầu tiên sử dụng các diễn viên gần tuổi các nhân vật trong nguyên tác kịch. Một số nhà phê bình cũng vô cùng tán dương bộ phim. Bộ phim đã giành giải Oscar cho Quay phim xuất sắc nhất (Pasqualino De Santis) và Thiết kế phục trang xuất sắc nhất (Danilo Donati); phim còn nhận được đề cử cho Đạo diễn xuất sắc nhất và Phim xuất sắc nhất (tính đến nay là phim gần nhất về vở kịch của Shakespeare được đề cử Phim xuất sắc nhất). Cả Whiting lẫn Hussey đều thắng giải Quả cầu vàng cho Diễn viên mới triển vọng nhất. Nội dung. Một buổi sáng mùa hè nọ ở Verona, mối thù truyền kiếp giữa gia tộc Montague và Capulet đã làm bùng phát một cuộc ẩu đả trên đường phố. Cuộc ẩu đả bị can thiệp bởi Vương chủ, ông cảnh báo cả hai gia tộc rằng bất kỳ hành vi bạo lực nào trong tương lai giữa họ sẽ phải chịu hậu quả thảm khốc. Đêm nọ, hai thiếu niên từ hai gia tộc - Romeo và Juliet - gặp nhau tại một vũ hội đeo mặt nạ Capulet và đem lòng yêu nhau. Sau đó, Romeo tình cờ bước vào khu vườn hẻo lánh dưới ban công phòng ngủ của Juliet và hai người trao nhau những lời thề nguyện say đắm. Họ bí mật kết hôn vào ngày hôm sau bởi cha giải tội, Friar Laurence (người được Romeo xem như cha mình) với sự hỗ trợ từ bà vú của Juliet. Buổi chiều nọ, Tybalt (anh họ của Juliet) tức giận vì Romeo tham dự vũ hội của gia tộc mình, lên tiếng lăng mạ anh và thách thức anh một trận đánh. Giờ đây Romeo coi Tybalt như thành viên gia đình và từ chối chiến đấu với anh ta, làm cho người bạn thân nhất của Romeo là Mercutio thay thế chiến đấu với Tybalt. Bất chấp những nỗ lực ngăn chiến cuộc đấu của Romeo, Tybalt đã đâm trọng thương Mercutio, rồi anh này nguyền rủa cả gia tộc Montague và Capulet trước khi chết. Tức giận trước cái chết của bạn mình, Romeo trả thù bằng cách chiến đấu với Tybalt và kết liễu anh ta. Sau đó Romeo bị Vương chủ trừng phạt bằng cách trục xuất khỏi Verona, với lời đe dọa sẽ lấy mạng nếu anh tái xuất. Rồi Romeo bí mật dành đêm tân hôn của mình với Juliet, cặp đôi hoàn thành việc kết hôn và Romeo bỏ trốn. Cha mẹ của Juliet do không biết về cuộc hôn nhân bí mật của con gái họ nê đã sắp xếp cho Juliet kết hôn với Bá tước Paris giàu có. Juliet cầu xin cha mẹ hoãn cuộc hôn nhân, nhưng họ từ chối và đe dọa sẽ từ mặt cô. Juliet tìm kiếm Friar Laurence để được giúp đỡ, hy vọng thoát khỏi cuộc hôn nhân sắp đặt của mình với Paris và chung thủy với Romeo. Theo chỉ thị của Friar Laurence, cô làm hòa với cha mẹ mình và đồng ý làm theo mong muốn của họ. Vào đêm trước lễ cưới, Juliet uống một lọ thuốc do Friar Laurence chuẩn bị nhằm để cô giả chết trong 42 giờ. Friar Laurence định thông báo cho Romeo về trò lừa để Romeo có thể gặp Juliet sau khi cô được chôn cất và trốn thoát cùng cổ khi Juliet tỉnh dậy, vì vậy anh cử Friar John đưa cho Romeo một lá thư mô tả kế hoạch. Tuy nhiên, khi Balthasar (người hầu của Romeo) nhìn thấy Juliet được chôn cất và tưởng cô đã chết, anh ta đến nói với Romeo và đến gặp cậu chủ trước khi Friar John tới. Quá tuyệt vọng, Romeo đến mộ Juliet và uống thuốc độc tự vẫn. Ngay sau đó, Friar Laurence đến khi Juliet tỉnh dậy. Bất chấp những nỗ lực thuyết phục cô chạy trốn khỏi hầm mộ, Juliet không chịu rời Romeo, và khi Friar bỏ trốn, cô đã tự sát bằng cách lấy con dao găm của anh đâm vào ngực mình. Sau đó, hai gia tộc đã kết thúc mối thù của họ, tham dự đám tang chung của Romeo và Juliet và bị Vương chủ lên án. Sản xuất. Tuyển vai. Paul McCartney cho biết anh đã được Franco Zeffirelli cân nhắc cho vai Romeo. Mặc dù Zeffirelli không nhắc đến nó trong cuốn tự truyện của mình, nhưng McCartney lại cung cấp chi tiết về chuyện này (kể cả cuộc gặp gỡ với Olivia Hussey và thư trao đổi điện tín với cô) trong cuốn tự truyện mà anh đồng chắp bút. Tháng 4 năm 2020, McCartney nhắc đến những cuộc thảo luận của anh với Zeffirelli trên "The Howard Stern Show". Zeffirelli tham gia vào cuộc tìm kiếm các diễn viên tuổi thiếu niên vô danh trên toàn cầu để thủ vai cặp tình nhân. Anjelica Huston có ý định tranh vai Juliet, nhưng cha cô là đạo diễn John Huston đã rút tên cô khỏi các ứng viên khi ông quyết định mời cô đóng trong bộ phim "A Walk with Love and Death" của ông. Leonard Whiting 16 tuổi và Hussey 15 tuổi lúc được tuyển vai, nhưng đã lần lượt sang 17 tuổi và 16 tuổi khi bộ phim bấm máy mùa hè năm 1967. Zeffirelli đã chuyển thể vở kịch theo hướng phát huy điểm mạnh và che giấu điểm yếu của họ: chẳng hạn như các bài phát biểu dài được cắt bớt và ông nhấn mạnh vào các cảnh quay phản ứng. Laurence Olivier tình cờ tham gia vào quá trình sản xuất bộ phim. Ông ở Roma để ghi hình phim "The Shoes of the Fisherman" và đến thăm trường quay đang ghi hình của "Romeo and Juliet". Ông hỏi Zeffirelli liệu mình có thể làm được gì không, và ông nhận được Đoạn mở đầu, sau đó được giao lồng tiếng cho Lãnh chúa Montague cũng như các vai phụ khác. Ghi hình. Sau khi các diễn viên đọc kịch bản vào cuối tháng 5, các buổi diễn tập và ghi hình bắt đầu vào cuối tháng 6 năm 1967 tại Tuscania, Ý, sau đó chuyển đến Pienza, Gubbio và Artena, trước khi hoàn thành tại xưởng phim Cinecittà ở Roma. Cảnh ban công nổi tiếng của Romeo và Juliet được quay ở Artena vào tháng 9 năm 1967. Phim lấy bối cảnh nước Ý thời Phục hưng thế kỷ 14. Dựng phim. Trong khâu hậu kỳ, một số cảnh bị cắt hoặc lược bớt. Hồi 5, Cảnh 3, trong đó Romeo chiến đấu và cuối cùng lấy mạng Paris ngoài hầm mộ của Juliet đã được ghi hình nhưng bị xóa khỏi bản phim cuối cùng. Theo Leonard Whiting và Roberto Bisacco, Zeffirelli cắt cảnh này vì ông thấy nó làm cho Romeo bớt gây thiện cảm một cách không cần thiết. Một cảnh khác, cảnh Romeo và Benvolio tìm hiểu về vũ hội Capulet bằng cách chặn một lời mời đã được ghi hình nhưng bị xóa bỏ; tuy nhiên, những tấm ảnh tĩnh quảng bá vẫn tồn tại. Kinh phí cuối cùng của bộ phim là 850.000 đô la Mỹ (tương đương đô la Mỹ vào năm ). Phát hành và đón nhận. Ngày 4 tháng 3 năm 1968, "Romeo and Juliet" có buổi trình chiếu ra mắt trong Royal Film Performance và được phát hành toàn quốc tại Vương quốc Anh vào ngày hôm sau. Phim được phát hành vào ngày 8 tháng 10 năm 1968 tại Hoa Kỳ và vào ngày 19 tháng 10 tại Ý. Tác phẩm thu về 14,5 triệu đô la Mỹ từ thị trường phòng vé Bắc Mỹ trong năm 1969 (tương đương 83,4 triệu đô la Mỹ vào ). Phim được tái phát hành vào năm 1973 và thu được 1,7 triệu đô la Mỹ (tương đương 1,7 triệu đô la Mỹ vào năm ). Rotten Tomatoes chấm bộ phim số điểm "Tươi" là 95% dựa trên 41 bài phê bình, đạt điểm trung bình là 8/10, kèm theo sự nhất trí tích cực: "Diễn xuất ổn và hình ảnh bắt mắt đã làm cho "Romeo and Juliet" của Zeffirelli thành một bản chuyển thể điện ảnh chủ chốt từ vở kịch [của Shakespeare]." Roger Ebert của "Chicago Sun-Times" thì viết: "Tôi tin rằng "Romeo and Juliet" của Franco Zeffirelli là bộ phim thú vị nhất về Shakespeare từng được thực hiện." Nhạc phim. Hai đĩa nhạc nền của bộ phim do Nino Rota sáng tác đã được thực hiện. Bài nhạc hiệu "Love Theme from Romeo and Juliet " của bộ phim cực kỳ ăn khách, đáng chú ý là trong "Our Tune", một phân đoạn trong chương trình phát hành của Simon Bates. Ngoài ra, nhiều bản khác nhau của nhạc phẩm đã được thu âm và phát hành, kể cả một bản rất thành công do Henry Mancini trình bày tại Hoa Kỳ vào tháng 6 năm 1969. Kiện tụng. Bất chấp từng lên tiếng bảo vệ cảnh khỏa thân của bộ phim và khẳng định rằng nó được thực hiện một cách "có thẩm mỹ" và "cần thiết cho bộ phim", vào ngày 30 tháng 12 năm 2022, Hussey cùng với Whiting đã đệ đơn kiện Paramount Pictures tại Tòa án Cấp cao Quận Los Angeles đòi bồi thường 500 triệu đô la Mỹ, cáo buộc lạm dụng tình dục, quấy rối tình dục và lừa đảo, đồng thời cho phép Zeffirelli ghi hình khỏa thân của họ mà họ không hề hay biết. Đơn kiện cáo buộc rằng các diễn viên cảm thấy điều này khiến họ phải chịu tổn thương và đau khổ về mặt tinh thần trong nhiều thập kỷ sau thành công của bộ phim, và làm cho sự nghiệp của họ không phản ánh được thành công ấy. Con trai của Zeffirelli đã phản ứng gay gắt lại vụ kiện, gọi việc Hussey và Whiting đệ đơn kiện "55 năm sau khi ghi hình phim" là "đáng hổ thẹn" và rằng họ mắc nợ toàn bộ sự nghiệp của mình nhờ thành công của bộ phim. Sau đó vụ kiện bị Thẩm phán Alison Mackenzie của Tòa án Thượng thẩm Los Angeles bác bỏ vào ngày 25 tháng 5 năm 2023; cô tuyên bố rằng vụ việc không đáp ứng các yêu cầu để đình chỉ thời hiệu với hành vi lạm dụng tình dục trẻ em. Mackenzie còn phê phán bên nguyên đơn vì đã "lựa chọn" các đạo luật đã áp dụng cho vụ kiện của họ. Hussey và Whiting được cho là lên kế hoạch kháng cáo phán quyết, cũng như đệ đơn kiện riêng dựa trên "bản phát hành DVD gần đây của bộ phim trên Criterion không chịu ảnh hưởng bởi thời hiệu." Chú thích. Đọc thêm
19,821,710
787108
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821710
Cô gái mở đường
"Cô gái mở đường" (tựa tiếng Anh: The Girls who Opened the Road) là một ca khúc thuộc thể loại nhạc đỏ sáng tác năm 1966 của nhạc sĩ Xuân Giao. Bài hát gợi nhớ đến những nữ chiến sĩ thanh niên xung phong trong công cuộc khai phá mặt đường tại dãy Trường Sơn trong chiến tranh Việt Nam. Hoàn cảnh sáng tác. "Cô gái mở đường" được viết vào năm 1966 sau khi Xuân Giao đã trải qua một thời gian hành quân trên đường Trường Sơn. Ca khúc nằm trong phong trào "Tiếng hát át tiếng bom" của nhiều địa phương tại Việt Nam khởi xướng. Nội dung của ca khúc dựa trên hình ảnh những cô gái Ngã ba Đồng Lộc nói riêng và những nữ thanh niên xung phong nói chung thực hiện nhiệm cho quân đội Việt Nam hành quân qua dãy Trường Sơn. Về mặt nội dung, "Cô gái mở đường" nói lên "phẩm chất anh hùng", "bình dị" của những nữ thanh niên xung phong người Việt Nam khi đang ở trên chiến trường ngày ngày đối mặt với cái chết nguy hiểm cận kề. Thông qua lời bài hát, các cô gái này có nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng, bảo vệ các cung đường vận tải chiến lược, bắc cầu, rà phá bom mìn, tải đạn, tải lương, tải thương. Cấu trúc. "Cô gái mở đường" được chia thành hình thức 3 đoạn đơn A-B-C với đoạn A gồm 2 câu ngắt ở bậc 7 của giọng Mi thứ để bắt đầu vào âm chủ ở đoạn B. Đoạn B cũng gồm 2 câu nhạc nhưng dừng ở âm chủ. Đoạn C gồm 2 câu nhạc nhưng âm hình tiết tấu tăng cường nhiều luyến láy và câu 2 được mở rộng thêm một tiết nhạc và chuyển về một coda nhỏ kết thúc toàn bài với nốt sol cao trào trước khi trở về âm chủ. Đón nhận và di sản. "Cô gái mở đường" thường xuyên được biểu diễn trong những ngày lễ và chương trình sự kiện tưởng niệm những nữ thanh niên xung phong hy sinh trong cuộc chiến tranh Việt Nam như một sự "ca ngợi công lao" của họ. Theo đó, bài hát còn trở thành "tinh thần" của một giai đoạn, một vùng đất của Việt Nam. Sự việc có liên quan. Trong một chương trình phát sóng tối ngày 6 tháng 11 năm 2021, nữ ca sĩ Han Sara bị khán giả chỉ trích khi trình diễn ca khúc "Cô gái mở đường", cô sử dụng một số đoạn trong bài hát nhạc sĩ Xuân Giao và phối lại trên nền nhạc EDM. Cô còn thay đổi cả phần lời và thêm rap cùng với trang phục trình diễn bị cho là phong cách "nhạy cảm, sexy". Ngay sau đó, Han Sara cùng ê kíp chương trình đã lên tiếng xin lỗi và cho biết sẽ tháo gỡ tất cả dữ liệu của tiết mục. Trước đó, phần trình diễn của Han Sara khi phát sóng trên VTV đã bị cắt bỏ một số phần. Tuy vậy, phần trình diễn của ca sĩ Hậu Hoàng trên nền nhạc hip hop lại được khen ngợi.
19,821,733
894948
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821733
Jigsaw (phần mềm tống tiền)
Jigsaw là một phần mềm mã độc tống tiền xuất hiện vào năm 2016. Ban đầu phần mềm có tên "BitcoinBlackmailer", nhưng sau đó nó đã được gọi là "Jigsaw" do có hình ảnh của nhân vật Billy the Puppet từ loạt phim "Saw". Phần mềm này sẽ mã hóa các tệp máy tính và dần dần xóa chúng, yêu cầu nạn nhân phải trả một số tiền chuộc để giải mã các tệp và dừng xóa. Lịch sử. Jigsaw được thiết kế vào tháng 4 năm 2016 và phát hành một tuần sau khi ra đời. Phần mềm được thiết kế để phát tán qua các tệp đính kèm độc hại trong email spam. Jigsaw sẽ được kích hoạt nếu người dùng tải xuống chương trình chứa phần mềm độc hại. Sau khi mã hóa tất cả các tệp người dùng và bản ghi khởi động chính (Master Boot Record), một cửa sổ với hình nhân vật Billy The Puppet sẽ bật lên kèm dòng chữ tống tiền theo phong cách của nhân vật Jigsaw. Nội dung của thông điệp yêu cầu người dùng phải chuyển một số tiền Bitcoin nhất định để đổi lấy việc giải mã các tập tin. Nếu tiền chuộc không được thanh toán trong vòng một giờ, một tệp sẽ bị xóa. Điều này tiếp tục tái diễn trong mỗi giờ tiếp theo nếu không trả tiền chuộc, với số lượng tệp bị xóa tăng theo cấp số nhân từ vài trăm đến hàng nghìn tệp cho đến khi tất cả bị xóa sau 72 giờ. Bất kỳ nỗ lực nào để khởi động lại máy tính hoặc ngăn cản quá trình sẽ dẫn đến việc 1.000 tệp bị xóa. Một phiên bản nâng cấp hơn cũng đe dọa nạn nhân bằng việc tung thông tin cá nhân của họ lên Internet. Jigsaw khi kích hoạt thường trông giống như tệp Firefox hoặc Dropbox trong trình quản lý tác vụ. Vì Jigsaw lưu trữ khóa giải mã tĩnh trong tệp nhị phân, chúng có thể được trích xuất từ tệp nhị phân bằng trình chỉnh sửa hex hoặc trình dịch ngược .NET để xóa mã hóa mà không phải trả tiền chuộc. Tiếp nhận. Nói về phần mềm này, trang "The Register" nhận định: "Việc sử dụng các hình ảnh và nội dung trong phim kinh dị để gây ra sự khốn khổ cho nạn nhân đã tiến đến một mức độ mới". Vào năm 2017, Jigsaw được liệt kê vào trong số 60 mã độc tống tiền sử dụng các thủ thuật lẩn tránh phần mềm diệt virus trong khi khởi động.
19,821,755
769406
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821755
Chuyện nghề của Thủy
Chuyện nghề của Thủy là một cuốn tự truyện của đạo diễn Trần Văn Thủy và Lê Thanh Dũng, xuất bản lần đầu vào năm 2013 bởi Nhà xuất bản Hội nhà văn và Công ty sách Phương Nam. Tại thời điểm ra mắt, tác phẩm đã trở thành cuốn sách bán chạy cũng như nhận về nhiều phản hồi tích cực từ độc giả. Bản chuyển ngữ tiếng Anh của sách sau đó đã ra mắt tại Mỹ vào năm 2016. Nội dung. Cuốn sách gồm 29 chương, là lời thuật lại của Trần Văn Thủy về quãng đời làm phim của ông, từ ấn tượng ban đầu với phim ảnh thuở nhỏ đến những ngày hoạt động gian khó trong chiến tranh để làm phim tài liệu; những khó khăn và ngăn trở bởi chính quyền trong quá trình làm hai bộ phim tài liệu nổi tiếng "Hà Nội trong mắt ai" – "Chuyện tử tế" và những dự án phim ảnh quốc tế của ông; các buổi hội thảo lớn về tác phẩm của đạo diễn và sự công nhận dành cho Trần Văn Thủy. Một số chương còn lại được viết bởi Lê Thanh Dũng – người ghi chép lại các câu chuyện của Trần Văn Thủy thành sách – tâm sự về cuộc đời bạn mình. Phát triển. Từ tháng 9 năm 2011 đến tháng 2 năm 2012, hai học giả người Mỹ Michael Ronov và Dean Wilson đã sang Việt Nam để phỏng vấn Trần Văn Thủy trong nửa năm và viết thành một luận văn dài với tựa đề "Tran Van Thuy's "Story of Kindness": Spirituality and Political Discourse". Sau khi được bạn thân là Tiến sĩ khoa học Lê Thanh Dũng gợi ý viết một cuốn tự truyện về mình, Trần Văn Thủy đã tận dụng các cuộn băng ghi âm từ cuộc phỏng vấn trước đó để tập hợp lại thông tin thành nội dung hoàn chỉnh, cùng với Lê Thanh Dũng suốt 10 tháng. Ngoài những thông tin đã kể với hai nhà nghiên cứu, một số thông tin chưa nêu cũng được bổ sung vào sách. Trần Văn Thủy kể lại cho Lê Thanh Dũng để bạn tự viết theo cảm nhận cá nhân, nhưng đa phần vẫn là đạo diễn tự chấp bút vì là "người trong cuộc". Ngoài vai trò sắp xếp nội dung và đảm trách một số chương trong truyện, Lê Thanh Dũng cũng đánh máy những trang viết chữ của Trần Văn Thủy lên máy tính. Theo lời của Trần Văn Thủy, ông viết cuốn sách này như một sự "tri ân nhưng bậc cao niên, đồng nghiệp, khán giả, bằng hữu trong và ngoài nước – những người đã tin cậy, nâng đỡ và khích lệ tôi trong suốt cuộc đời làm nghề". Xuất bản. Bản thảo đầu tiên của sách rất dài, nhưng sau đó Trần Văn Thủy đã cân nhắc loại bỏ 50% nội dung ban đầu, như những đoạn nói về ký ức với Trần Độ, để người đọc dễ tiếp cận hơn. Bản thảo cuối cùng dừng lại ở con số 474 trang. Trần Văn Thủy và Lê Thanh Dũng đã cân nhắc những cái tên cho cuốn tự truyện, sau cùng thống nhất đặt là "Chuyện nghề của Thủy". Trong quá trình in ấn sách, Trần Văn Thủy được Công ty sách Phương Nam hỗ trợ rất nhiều ở phương diện xuất bản và quảng bá sách. Dù lo sợ tác phẩm sẽ không được phép xuất bản và có thể bị cắt gọt nhưng đến cuối cùng bản thảo của ông vẫn được giữ nguyên từ đầu đến cuối. Cuốn sách đã chính thức phát hành vào ngày 20 tháng 5 năm 2013. Cái tên Lê Thanh Dũng trong truyện được đặt lên trên Trần Văn Thủy ở mục tác giả, mà theo đạo diễn là vì nếu "không có anh Lê Thanh Dũng thì không có cuốn sách này". Nhiều buổi ra mắt "Chuyện nghề của Thủy" sau đó đã được lên kế hoạch tổ chức trên khắp Việt Nam, đi qua lần lượt 5 tỉnh, thành phố lớn lần lượt gồm Thành phố Hồ Chí Minh, Nha Trang, Đà Nẵng, Huế, Hà Nội. Các buổi ra mắt này đều diễn ra trong tháng 6 và đã thu hút rất đông khán giả – chủ yếu là những người lớn tuổi – có mặt để bày tỏ sự ủng hộ đối với Trần Văn Thủy. Một số chương trong truyện cũng được trích dẫn để giới thiệu trên báo "Tuổi Trẻ". Tiếp nhận. Cuốn sách đã nhận được nhiều phản hồi tích cực từ cả người đọc lẫn giới phê bình. Tác phẩm ngay khi ra đời đã lập tức trở thành sách bán chạy tuy chỉ mới in 1000 bản đầu tiên và trước đó nhà phát hành có tính đến nguy cơ bị lỗ. Cuốn sách được ghi nhận đã "để lại dấu ấn" trong người đọc và vẫn được tái bản đều đặn tới công chúng, tính đến năm 2015 đã lập kỷ lục tái bản tổng cộng 7 lần. Nhà văn Võ Thị Hảo nhìn nhận sự thành công của cuốn sách cho thấy "độc giả vẫn khao khát sự thật, và rõ ràng, sự tử tế vẫn đánh thức được lương tri". Theo tờ "Phụ nữ thủ đô", sức hấp dẫn lớn nhất của cuốn tự truyện mà hiếm có tác phẩm cùng thể loại nào đạt được là nhờ kết cấu của truyện cũng như những câu chuyện ít biết trong sự nghiệp làm phim của Trần Văn Thủy. Báo "Sài Gòn Giải Phóng" thì chỉ ra rằng những phản ứng của tác giả và sự chiêm nghiệm về khó khăn là các yếu tố góp phần tạo nên sức hút cho tự truyện. Trong năm 2013, "Chuyện nghề của Thủy" đã được trao giải "Phát hiện mới" tại giải Sách hay tổ chức bởi Viện Giáo Dục IRED. Sách sau đó được mua bản quyền chuyển ngữ sang tiếng Anh. Giáo sư, cựu chiến binh người Mỹ Eric Henry cùng nhà nghiên cứu Nguyễn Quang Dy đã biên dịch sách và Wayne Karlin đặt tên là "In Whose Eyes". Sách do xuất bản năm 2016. Theo thời báo "Nikkei Asia", đây là cuốn tự truyện đầu tiên của một đạo diễn Việt Nam xuất bản ở tiếng Anh. In lậu. Vào tháng 8 năm 2013, nhiều báo chí đã đưa tin "Chuyện nghề của Thủy" bị in lậu và tuồn ra bán với số lượng lớn trên thị trường. Những cuốn sách có chất lượng giấy kém; hình ảnh nát, nhòe; đóng sách sơ sài đã được trưng bày cả trong phố sách Đinh Lễ, Hoàn Kiếm với giá 100.000 đồng một cuốn. Việc nhiều sách giả được bày bán đã khiến bản sách thật không tiêu thụ được và khiến Công ty Phương Nam thiệt hại lên tới hàng trăm triệu đồng. Phía Phương Nam sau đó đã gửi văn bản cho các cơ quan chức năng để điều tra và xác minh những cá nhân và tổ chức đứng sau vụ việc này.
19,821,757
878555
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821757
László Bölöni
László Bölöni (; sinh ngày 11 tháng 3 năm 1953) là một cựu cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người România hiện tại đang là huấn luyện viên trưởng của câu lạc bộ Metz tại Ligue 1. Sau khi bắt đầu sự nghiệp tại ASA Târgu Mureș, Bölöni đã trở thành một phần không thể thiếu của đội hình Steaua București vô địch UEFA Champions League năm 1986, trở thành đội bóng Romania duy nhất—và là một trong hai đội bóng Đông Âu đạt được vinh dự này. Ông hai lần giành được giải thưởng Cầu thủ xuất sắc nhất năm của Romania và ra sân 484 trận tại Divizia A, số lần ra sân nhiều thứ tư trong lịch sử giải đấu. Trên đấu trường quốc tế, Bölöni ra sân 102 trận cho đội tuyển quốc gia, giúp ông đứng thứ năm trong danh sách ra sân nhiều trận cho đội tuyển quốc gia và ghi được 23 bàn thắng, cao thứ sáu trong tất cả. Do đó, ông được coi là một trong những cầu thủ bóng đá Romania xuất sắc nhất trong lịch sử. Sau khi giải nghệ với tư cách là một cầu thủ, ông tiếp tục huấn luyện các câu lạc bộ ở Pháp, Bồ Đào Nha, Bán đảo Ả Rập, Bỉ và Hy Lạp. Bölöni cũng là huấn luyện viên của đội tuyển quốc gia Romania từ năm 2000 đến năm 2001. Xét về số danh hiệu giành được, thời gian thành công nhất của ông là ở Sporting CP và Standard Liège với mỗi đội giành được ba danh hiệu trong nước. Sự nghiệp thi đấu. Bölöni sinh ra ở Târgu Mureș, Romania, trong một gia đình dân tộc Hungary đến từ Târnăveni. Đội bóng đầu tiên của ông là Chimica Târnăveni, và vào năm 1970, ông chuyển đến ASA Târgu Mureș. Ông ở đó cho đến năm 1984, khi ông gia nhập Steaua București, nơi ông là một phần của đội đã giành chiến thắng trận Chung kết Cúp C1 châu Âu 1986 (nơi ông sút hỏng quả phạt đền trong loạt đá luân lưu) và Siêu cúp châu Âu vào năm sau. Bölöni ở lại Steaua cho đến năm 1987. Năm 1988, ở tuổi 35, Bölöni rời đất nước để chơi ở Bỉ, tại câu lạc bộ Racing Jet Bruxelles và sau đó ở Pháp tại US Créteil. Ông từ giã sự nghiệp bóng đá vào năm 1992. Vào ngày 25 tháng 3 năm 2008, ông đã được tổng thống Romania, Traian Băsescu tặng huân chương Ordinul "Meritul Sportiv" — (Huân chương "The Sportive Merit") hạng II, vì đã góp phần giành được danh hiệu cúp châu Âu năm 1986. Sự nghiệp quốc tế. Bölöni giành huy chương vàng với đội tuyển bóng đá trẻ Romania tại Đại hội Thể thao Sinh viên Thế giới năm 1974 tổ chức tại Pháp, thi đấu cùng với Gheorghe Mulțescu, Dan Păltinișanu, Romulus Chihaia và Paul Cazan. Thi đấu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia România vào năm 1983, Bölöni đã ghi một trong những bàn thắng đáng chú ý nhất của ông, trong chiến thắng 1–0 trước Ý trong trận đấu tại vòng loại Euro 1984, trận đấu cuối cùng đã chứng minh là vô giá đối với quốc gia đủ điều kiện tham dự giải đấu. Ở vòng chung kết ở Pháp, ông đã chơi trong cả ba trận đấu của Romania, và ghi bàn gỡ hòa trong trận hòa 1-1 với Tây Ban Nha tại Stade Geoffroy-Guichard. Tổng cộng, Bölöni đã ra sân 102 trận cho Romania và ghi được 23 bàn thắng—hoặc 108 trận và 25 bàn thắng nếu bao gồm cả vòng loại Thế vận hội. Sự nghiệp huấn luyện viên. Là một huấn luyện viên bóng đá, Bölöni bắt đầu với câu lạc bộ AS Nancy, nơi ông là huấn luyện viên trưởng trong vài năm. Ông đã thăng hạng cùng đội bóng ở Ligue 1. Năm 2000, ông được bổ nhiệm làm huấn luyện viên đội tuyển quốc gia, nhưng đến mùa hè năm 2001, ông quyết định rời bỏ công việc này. Sau đó, ông gia nhập câu lạc bộ của Bồ Đào Nha, Sporting Clube de Portugal, nơi ông đã giành được chức vô địch quốc gia và cúp quốc gia trong năm đầu tiên của mình. Ông bị sa thải vào cuối mùa giải tiếp theo do kết quả tầm thường. Di sản của ông tại Sporting là việc đưa các cầu thủ của đội trẻ như Ricardo Quaresma, Hugo Viana và Cristiano Ronaldo vào đội hình xuất phát của đội 1. Năm 2003, ông trở lại Pháp với tư cách là huấn luyện viên của Stade Rennais; vào năm 2005, ông đã dẫn dắt đội bóng đến vị trí tốt nhất trong lịch sử (hạng 4 ở Ligue 1), và một suất tham dự UEFA Cup sau đó. Vào tháng 5 năm 2006, Bölöni ký hợp đồng hai năm với AS Monaco nhưng bị sa thải vào ngày 23 tháng 10 vì không có kết quả (Monaco đứng thứ 19/20 trong giải đấu vào ngày đó). Vào ngày 9 tháng 6 năm 2008, Standard Liège đã bổ nhiệm Bölöni làm huấn luyện viên mới của họ, khi ông kế nhiệm Michel Preud'homme, người đã dẫn dắt câu lạc bộ đến chức vô địch đầu tiên. Danh hiệu Giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ sau 25 năm (2007–2008). Vào ngày 24 tháng 5 năm 2009, ông giành chức vô địch Giải bóng đá vô địch quốc gia Bỉ trong mùa giải đầu tiên tại Standard (2008–2009) sau khi chơi trận play-off tranh chức vô địch với Anderlecht. Vào ngày 10 tháng 2 năm 2010, Bölöni từ chức huấn luyện viên tại Standard Liege. Vào ngày 29 tháng 5 năm 2010, có thông báo chính thức rằng Bölöni đã ký hợp đồng với câu lạc bộ Al-Wahda. Vào ngày 2 tháng 9 năm 2010, Al-Wahda sa thải Bölöni, bất chấp chiến thắng 3-1 của đội trước Ittihad Kalba. Vào ngày 2 tháng 1 năm 2011, ông được bổ nhiệm bởi RC Lens, theo hợp đồng một năm, nhưng ông không thể cứu đội bóng khỏi việc xuống hạng. Bölöni ngay lập tức bị sa thải vào tháng 6 và ký hợp đồng hai năm với PAOK vào ngày 8 tháng 6 năm 2011, sau một thời gian đàm phán ngắn. PAOK. Nhiệm kỳ của Bölöni tại PAOK bắt đầu với hai chiến thắng trước Vålerenga Fotball ở Vòng sơ loại thứ ba của UEFA Europa League, giúp họ đấu với Karpaty Lviv ở vòng Play-off. PAOK thắng trận lượt đi trên sân nhà và hòa trận lượt về, giành quyền vào vòng bảng. Trong một bảng đấu khó khăn bao gồm Tottenham Hotspur F.C., FC Rubin Kazan và Shamrock Rovers F.C., PAOK của Bölöni đã vượt qua vòng bảng với thành tích bất bại, giành chiến thắng tại White Hart Lane, một kỳ tích đáng chú ý khi không có đội Hy Lạp nào giành chiến thắng trên đất Anh kể từ năm 1999 khi PAOK đánh bại Arsenal tại Highbury. Ở vòng 32 đội, PAOK đối mặt với Udinese Calcio, và mặc dù trận hòa 0–0 ở Ý đã lan truyền sự lạc quan, nhưng một PAOK suy yếu đã bị loại khỏi giải đấu khi trận lượt về trên sân nhà kết thúc với tỷ số thua 0–3. Nhìn chung, sự hiện diện của châu Âu là tích cực mặc dù kết thúc đột ngột, khi PAOK giành được 6 chiến thắng trong số 12 trận, với màn trình diễn ấn tượng và chiến thắng quan trọng trước Tottenham. Trên sân nhà, PAOK đã có một mùa giải đầy sóng gió khi đội bóng này chỉ cán đích ở vị trí thứ 3 trong mùa giải chính thức, với vị trí thứ 5 là vị trí cuối cùng sau vòng play-off. Trong mùa giải, PAOK đã thắng các trận sân khách trước AEK Athens F.C. và Panathinaikos F.C., đánh dấu sự kết thúc của truyền thống 10 năm không thắng trước các đội bóng đó khi thi đấu xa nhà. Tuy nhiên, phong độ của đội không nhất quán và sự ra đi - do khó khăn tài chính của câu lạc bộ - của hai trong số những cầu thủ quan trọng nhất của đội, Vieirinha và Pablo Contreras không giúp ích được gì. Bölöni đã phải ứng biến để bù đắp cho đội hình thiếu chiều sâu, với nhiều kết quả khác nhau. Mặc dù mùa giải được coi là không thành công, nhưng người hâm mộ không đổ lỗi cho Bölöni, người đã chiếm được cảm tình của họ nhờ tính cách của ông, kết quả của ông trước một số đối thủ lớn và lối chơi của đội khi có phong độ tốt. Vào ngày 25 tháng 5 năm 2012, PAOK đã sa thải Bölöni sau một năm dẫn dắt đội bóng. Huấn luyện tại Trung Đông. Bölöni được câu lạc bộ Al Khor bổ nhiệm làm huấn luyện viên trưởng vào ngày 21 tháng 6 năm 2012. Vào ngày 26 tháng 1 năm 2013, trong trận đấu với Qatar SC, ông đã dính vào một sự cố gây tranh cãi. Ông ném một chai nước vào một cậu bé nhặt bóng phía sau khung thành sau khi cậu bé lấy quả bóng ra ngoài sân. Tuy nhiên, cái chai không trúng cậu bé, tuy nhiên, người quan sát trận đấu, Ali Al-Naimi, đã phát hiện ra nó, người đã chuyển thông tin cho một trợ lý trọng tài, người này cuối cùng đã thông báo cho trọng tài, Fahad Jaber, người đã quyết định đuổi cậu ta khỏi sân. Thay vì đi thẳng đến khán đài, ông chọn ở lại bất hợp pháp trong trạm kiểm soát. Các nhân viên an ninh đã cố gắng đuổi ông đi, nhưng ông đáp trả bằng cách sử dụng ngôn từ thô tục và xô đẩy các nhân viên cảnh sát. Kết quả là, một báo cáo của cảnh sát đã được đệ trình chống lại anh ta. Sau đó, ông bị Hiệp hội bóng đá Qatar phạt 75.000 riyal Qatar và bị cấm chỉ đạo 5 trận. Vào tháng 8 năm 2013, các phương tiện truyền thông ở Croatia suy đoán rằng Bölöni có thể được bổ nhiệm làm tân huấn luyện viên trưởng của Dinamo Zagreb, sau khi huấn luyện viên trưởng cũ của đội bị sa thải, Krunoslav Jurčić. Bölöni trước đây cũng đã được liên kết với Hajduk Split, đối thủ khốc liệt của Dinamo Zagreb. Vào ngày 21 tháng 7 năm 2015, câu lạc bộ Al-Ittihad tại Giải Vô địch quốc gia Ả Rập Xê Út thông báo bổ nhiệm Bölöni làm tân huấn luyện viên trưởng của đội bóng. Royal Antwerp. Vào ngày 16 tháng 6 năm 2017, Bölöni được công bố là huấn luyện viên mới của câu lạc bộ Royal Antwerp. Trong mùa giải đầu tiên của mình tại câu lạc bộ, đội bóng đã cán đích ở vị trí thứ 8 trong mùa giải thông thường và vị trí thứ 3 trong nhóm đá play-off Europa League để giúp đội trụ hạng thành công. Trong mùa giải thứ hai của mình, Antwerp đã gây bất ngờ cho nhóm tranh chức vô địch, kết thúc mùa giải thông thường ở vị trí thứ 6 và lần đầu tiên đủ điều kiện tham dự vòng play-off tranh chức vô địch. Antwerp đã giành những chiến thắng quan trọng trước Genk (1–0), Anderlecht (2–1), Gent (2–1), Standard Liège (2–1), cũng như như một trận hòa không bàn thắng với Club Brugge trong nửa đầu trận play-off và leo lên vị trí thứ 3, nhưng những trận thua sau đó trước những đội bóng này đồng nghĩa với việc Antwerp đứng thứ 4, do đó sẽ tham dự vòng loại play-offs cuối cùng của Europa League. Trong trận chung kết, Antwerp đánh bại Charleroi 3–2 sau khi bị dẫn trước 0-2 trong những phút đầu tiên. Như vậy, Antwerp đã giành quyền vào vòng sơ loại thứ ba của UEFA Europa League sau 26 năm vắng bóng ở châu Âu. Sau khi bất ngờ hạ gục Viktoria Plzeň nhờ luật bàn thắng trên sân khách ở vòng thứ ba, Antwerp đã dừng bước ở vòng bảng khi sau đó bị AZ loại ở vòng play-off. Về mặt nội bộ, Bölöni đã dẫn dắt đội cán đích ở vị trí thứ 4 khác trong giải đấu, cũng như lọt vào trận chung kết Cúp quốc gia Bỉ ở mùa giải 2019–20, lần đầu tiên kể từ năm 1992. bị hoãn lại đến ngày 1 tháng 8 do đại dịch COVID-19 và hợp đồng của Bölöni sau đó hết hạn vào ngày 20 tháng 5, khiến người kế nhiệm của ông Ivan Leko huấn luyện đội bóng cho trận chung kết. Gent. Vào ngày 20 tháng 8 năm 2020, K.A.A. Gent đã thông báo bổ nhiệm Bölöni trở thành tân huấn luyện viên trưởng của đội bóng. Vào tháng 9, ông bị sa thải chỉ sau ba trận cầm quân. Panathinaikos. Vào ngày 19 tháng 10 năm 2020, Bölöni được công bố là huấn luyện viên trưởng mới cho câu lạc bộ Hy Lạp, Panathinaikos. Ông đã hòa trận đầu tiên với tỷ số 1-1 trước Volos tại Giải bóng đá vô địch quốc gia Hy Lạp. Vào ngày 10 tháng 5 năm 2021, Boloni lần thứ hai trong mùa giải này bị sa thải, lần này là bởi câu lạc bộ sau khi không thể giúp họ giành một suất tham dự vòng loại cúp châu Âu; sau đó ông đuọc thay thế bởi Ivan Jovanović vào ngày 24 tháng 5. Trong suốt tháng 1 năm 2022, Bölöni đã đàm phán với chủ tịch Liên đoàn bóng đá România, Răzvan Burleanu để trở lại với tư cách là huấn luyện viên của đội tuyển quốc gia Romania, hơn 20 năm sau khi nghỉ việc. Các cuộc đàm phán thất bại dẫn đến việc bổ nhiệm Edward Iordănescu thay thế. Đời tư. Khi Bölöni 15 tuổi, cha ông qua đời vì đột quỵ khi xem ông thi đấu từ khán đài. Cái chết của cha mẹ đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến ông, nhưng Bölöni đã được mẹ thuyết phục tiếp tục chơi bóng. Bà chuyển từ thành phố quê hương Târnăveni của họ đến Budapest vào một thời điểm nào đó sau này trong đời. Trong thời gian làm việc tại Steaua București, Bölöni cũng đã tuyên bố là nha sĩ trong sáu năm; con gái ông đã tiếp bước ông và học cấy ghép ở Pháp. Khi được hỏi tại sao ông thích được gọi là người Hungary hơn là người Romania, Bölöni nói: "Đó không phải là vấn đề sở thích, tôi là người Hungary." Ông cũng nói thêm: "Điều đó không ngăn cản tôi sống ở Romania, nơi tôi đã thi đấu, kể cả trong đội tuyển quốc gia. Ngay cả khi tôi thuộc người Hungary thiểu số, tôi đã ghi bàn vào lưới Hungary, tôi đã tập luyện đội tuyển Romania đánh bại Hungary ở vòng sơ loại World Cup. Nhưng tôi đã nhận được nền giáo dục và văn hóa Hungary. Nhờ cha mẹ tôi." Vào năm 2019, sau khi những tiếng hô chống Hungary vang lên từ khán đài trong các trận đấu của đội tuyển quốc gia Romania với Tây Ban Nha và Malta, ông một lần nữa tuyên bố: "Tôi là người Hungary", sau đó hỏi: "Lỗi của chúng tôi là gì?" Trước hành động này, ông đã rất thất vọng với những kẻ thù độc ác. Vào năm 2021, ông được "Nemzeti Sport" thuê để phân tích các trận đấu của đội tuyển Hungary tại Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020, và trong cùng năm đó đã tiết lộ sự ủng hộ của ông đối với Đội bóng đá Székely Land. Tuy nhiên, sau những cuộc đàm phán thất bại để dẫn dắt đội tuyển quốc gia Romania vào năm 2022, Bölöni bày tỏ sự tiếc nuối vì không thể đại diện cho đất nước của mình một lần nữa. Bölöni nắm giữ hộ chiếu quốc tịch Romania, Hungary và Pháp. Danh hiệu. Cầu thủ. Steaua București Cá nhân Huấn luyện viên. Nancy-Lorraine Sporting CP Al-Jazira Standard Liège Cá nhân
19,821,764
784524
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821764
M247 Sergeant York
M247 Sergeant York DIVAD (Division Air Defense) là một loại Vũ khí phòng không tự hành (self-propelled anti-aircraft gun) (SPAAG), do Ford Aerospace phát triển vào cuối thập niên 1970. Pháo được phát triển dựa trên khung gầm xe tăng M48 Patton, với việc loại bỏ tháp pháo và thay bằng một tháp pháo mới với hai radar dẫn bắn trực tiếp cho pháo bắn nhanh Bofors 40 mm. Xe thiết giáp được đặt theo tên của Trung sĩ Alvin York, một anh hùng thời Chiến tranh thế giới lần thứ nhất World War I. Sergeant York được dự tính sẽ được triển khai kết hợp với M1 Abrams và M2 Bradley trong Lục quân Hoa Kỳ, tương tự như pháo ZSU-23-4 của Liên Xô và pháo Flakpanzer Gepard của Đức. Nó sẽ thay thế cho M163 Vulcan Air Defense System SPAAG và tên lửa phòng không MIM-72 Chaparral, trong khi hệ thống tên lửa phòng không MIM-46 Mauler chưa được hoàn thiện. Dù áp dụng nhiều công nghệ đã tiêu chuẩn hóa để cho phép phát triển nhanh và giảm giá thành nhưng một loạt lỗi kỹ thuật cùng với giá thành đội giá đã khiến Quân đội Mỹ hủy bỏ chương trình vào năm 1985.
19,821,776
496904
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821776
Danh sách tích phân với hàm vô tỉ
Dưới đây là danh sách tích phân (nguyên hàm) với hàm vô tỉ. Đối với danh sách đầy đủ hàm tích phân, xem danh sách tích phân. Trong bài này, hằng số tích phân được lược bớt đi cho ngắn gọn. Tích phân chứa "s" =. Giả định "x"2 > "a"2 (đối với trường hợp "x"2 < "a"2, xem mục sau): Tích phân chứa "R" =. Giả định rằng ("ax"2 + "bx" + "c") không thể chuyển về dạng ("px" + "q")2 với "p" và "q" là hằng số.
19,821,777
827006
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821777
Stephen Hopkins
Stephen Hopkins (7 tháng 3 năm 1707 – 13 tháng 7 năm 1785) là một thành viên nhóm lập quốc Hoa Kỳ, thống đốc của Rhode Island và Đồn điền Providence, chánh án của Tòa án Tối cao Rhode Island, và là người ký kết bản thảo Hiệp hội Lục địa và Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ. Ông xuất thân từ một gia đình nổi tiếng ở Rhode Island, và là cháu trai của William Hopkins, một chính trị gia lỗi lạc. Ông cố của ông, Thomas Hopkins đã đi thuyền từ Anh cùng với người anh họ Benedict Arnold vào năm 1635 là một trong những người đã định cư ban đầu tại Đồn điền Providence. Về sau, Benedict Arnold đã trở thành thống đốc đầu tiên của thuộc địa Rhode Island theo Hiến chương Hoàng gia năm 1663. Thủa bé, Hopkins là rất ham mê đọc sách, và đặc biệt tỏ ra chuyên cần trong các bộ môn khoa học, toán học và văn học. Ông trở thành một nhà khảo sát, nhà thiên văn học và là người thực hiện các phép đo trong quá trình sao Kim đi qua Mặt trời, năm 1769. Vào năm 23 tuổi, ông tham gia hoạt động công ích ở thị trấn mới thành lập thời bấy giờ là Scituate, Rhode Island. Hopkins nhanh chóng trở thành thẩm phán của Tòa án chung thẩm, đồng thời phục vụ với tư cách là người phát ngôn của Hạ viện và chủ tịch của Hội đồng thị trấn Scituate. Ngoài việc hoạt động tích cực trong các vấn đề dân sự, Hopkins còn là một thương gia thành đạt nhờ vào xưởng đúc sắt của ông. Năm 1750, Hopkins là nhân vật chính chính trong bức tranh châm biếm "Sea Captains Carousing in Surinam" của John Greenwood. Tháng 5 năm 1747, Hopkins được bổ nhiệm làm thẩm phán của Tòa án Tối cao Rhode Island, công việc được duy trì cho đến tháng 5 năm 1749. Tiếp đó, vào tháng 5 năm 1751, ông trở thành chánh án thứ ba của cơ quan này, chức vụ được ông nắm giữ kết thúc vào tháng 5 năm 1755. Năm 1755, Hopkins trở thành thống đốc của thuộc địa và bước vào thời kỳ nhiệm kỳ đầu tiên. Chức vị này được Hopkins nắm giữ suốt từ 9 đến 15 năm tiếp theo của cuộc đời. Vào thời Hopkins sống, vấn đề về sử dụng đồng tiền tệ và một trong những vấn đề chính trị gây mẫu thuẫn nhất. Samuel Ward, đối thủ chính trị hàng đầu của Hopkins là một người ủng hộ mạnh mẽ cho việc dùng tiền tệ cứng, trong khi Hopkins ủng hộ đồng tiền giấy. Việc cạnh giữa hai chính trị gia đã có lúc lên đến đỉnh điểm khi có lần Hopkins đã kiện Ward đòi 40.000 bảng Anh, nhưng vụ kiện này cuối cùng đã không thành công và chính Hopskin đã phải trả một khoản chi phí cho vụ kiện. Samuel Ward, cũng là một đại biểu của Quốc hội Lục địa và đã từng luân phiên với Hopkins làm thống đốc của Rhode Island trong một số nhiệm kỳ. Hai người họ đã trở thành đối thủ gây gắt của nhau. Vào giữa những năm 1760, những bất đồng giữa Hopkins và Ward đã trở thành mối phân tâm nghiêm trọng đối với chính quyền tại Rhode Island, trong tình thế này cả Hopkins và Ward sau đó đã chọn cách xoa dịu lẫn nhau mặc dù ban đầu vẫn không mấy thành công. Đến năm 1768, Samuel Ward và Hopkins thông qua thỏa thuận và không đứng ra tranh cử, ứng cử viên Josias Lyndon đã trở thành Thống đốc thứ 35 của Thuộc địa Rhode Island và Đồn điền Providence. Năm 1770, một lần nữa Hopkins đảm nhiệm chức vụ chánh án của Tòa án Tối cao Rhode Island, ông đảm nhận vai trò xử lý chính trong Vụ Gaspee vào năm 1772, khi nhóm công dân tại đảo Rhode Island trong lúc nổi giận đã tấn công ngoài khơi lên một con tàu hải giám Anh Quốc. Năm 1774, với tư cách là một trong hai Đại biểu Quốc hội tại Rhode Island, ông được giao nhiệm vụ tham dự Đại hội Lục địa lần thứ nhất cùng với Samuel Ward. Tên tuổi của Hopkins đã trở nên nổi tiếng tại Mười ba thuộc địa Anh-Mỹ vào năm năm trước khi Hopkins cho xuất bản một bài tiểu luận nhỏ mang tên "The Rights of Colonies Examined" để chỉ trích Quốc hội Anh cùng chính sách thuế tại quốc gia này. Hopkins đã ký bản Tuyên ngôn độc lập Hoa Kỳ vào mùa hè năm 1776, tại thời điểm này, một bên cánh tay của ông gặp phải chứng tê liệt nghiêm trọng. Ông đã ký bản tuyên ngôn bằng tay phải và dùng tay trái nắm chặt tay còn lại và nói rằng, "Chỉ có tay tôi run, nhưng trái tim tôi thì không." Hopkins vẫn phục vụ trong Quốc hội Lục địa đến tháng 9 năm 1776, sau đó ông đã từ chức vì sức khỏe suy giảm. Ông là một người ủng hộ nhiệt thành cho Trường Đại học thuộc địa Rhode Island và các đồn điền Providence của Anh (được đổi tên thành Đại học Brown về sau), và đồng thời cũng là hiệu trưởng danh dự đầu tiên của trường học này. Ông qua đời tại Providence vào năm 1785 ở tuổi 78 và được chôn cất ở Nghĩa trang Burial Ground của thành phố này. Stephen Hopkins được coi là một nhà chính khách vĩ đại nhất của Rhode Island. Trước đó, năm 1774, Hopkins nắm giữ sáu hoặc bảy người nô lệ, khiến ông nằm trong số 5% những chủ nô hàng đầu ở Providence vào thời đại này. Niên thiếu. Stephen Hopkins sinh ra ở Providence tại Thuộc địa Rhode Island và Đồn điền Providence, là con thứ hai trong một gia đình có chín anh chị em, cha mẹ ông là William và Ruth Hopkins (nhủ danh Wilkinson). Ông nội của Stephen, William Hopkins, là một chính trị gia thuộc địa nổi bật và đã phục vụ hơn 40 năm với tư cách là Phó Thứ trưởng Providence, Chủ tịch Hạ viện và là thiếu tá. Bà nội của Stephen, Abigail Whipple Hopkins, là con gái của John Whipple, một trong những người định cư ban đầu sớm nhất tại Providence, bà Abigail cũng là em gái của Joseph Whipple, một thương gia tại Providence giàu có, đồng thời là dì của Joseph Whipple Jr, Phó Thống đốc thứ 27 và 29 của Thuộc địa Rhode Island. Ông Thomas Hopkins, cụ cố của Stephen là một trong những người đầu tiên di cư đến Đồn điền Providence. Thomas là một đứa trẻ mồ côi và được nuôi nấng bởi người chú William Arnold, và vào năm 1635 ông cùng với những người nhà Arnold trong đó có Benedict Arnold di cư đến New England, Benedict là anh họ của Stephen, người sau này đã trở thành thống đốc đầu tiên của Thuộc địa Rhode Island và Đồn điền Providence theo Hiến chương Hoàng gia vào năm 1663. Hopkins trải qua phần lớn những năm đầu đời của mình tại phía bắc của Providence, một khu vực có nhiều cây cối được gọi là ngọn Đồi Chopmist, về sau nơi này trở thành thị trấn Scituate của Rhode Island. Vào thời điểm đó, khu vực này không có trường học, Hopkins đã tự bổ sung kiến thức cho mình bằng việc đọc ngấu nghiến những cuốn sách và tài liệu có sẵn trong gia đình. Irving Richman, một nhà sử học đã đề cập Hopkins là "một cậu học sinh nghiêm túc và chuyên cần, thường dành phần lớn thời gian của mình để đọc sách những lúc thư nhàn." John Sanderson viết rằng, "Hopkins hồi trẻ gắn bó với việc nghiền ngẫm về sách và những người đàn ông." Hopkins thừa hưởng được khả năng khảo sát từ người ông nội Samuel Wilkinson. Ông đã sử dụng kỹ năng này trong việc thiết kế đường phố và tạo dựng bản đồ thị trấn Scituate, và cũng như cho chính Providence sau này. Khi Hopkins 19 tuổi, ông nhận từ cha và từ ông nội , như một phần trách nhiệm của tuổi trẻ. Con đường chính trị và thương mại. Hopkins bắt đầu hoạt động công ích vào năm 1730 khi ông 23 tuổi, và trở thành Thẩm pháp Hòa bình cho thị trấn Scituate mới thành lập bấy giờ, vị trí này được ông giữ cho đến năm 1735. Ông cũng làm thư ký tại Scituate vào năm 1731, một công việc được ông nắm giữ suốt 11 năm cho đến khi chuyển đến Providence năm 1742. Sau nhiệm kỳ thẩm phán cho thị trấn Scituate, ông giữ chức vụ Inferior Court of Common Pleas và General Sessions từ năm 1736 đến 1746, nhiệm kỳ thư ký của Hopkins cũng kết thúc trong năm năm cuối cùng trong thời gian đó. Một số chức vụ khác được Hopkins nắm giữ trong thời gian này gồm chủ tịch Hội đồng thị trấn, phó đại biểu và là người phát ngôn của Hạ viện. Năm 1744, Hopkins được bầu trở thành đại biểu Providence, chức vụ này được ông giữ trong bảy năm tiếp theo, và dành hai năm phục vụ với tư cách là một đại biểu của Hạ viện trong khoản thời gian này. Hopkins bán trang trại của mình ở Scituate vào năm 1742 để chuyển đến và định cư tại Providence. Tại đây, ông đã bỏ ra nhiều công sức trong việc giúp phát triển thương mại ở Providence. Ông trở thành một thương gia đóng, chủ sở hữu và trang bị các thiết bị cho những con tàu, Hopkins cũng là một trong những chủ sở hữu của con tàu tư nhân tên "Reprisal" vào năm 1745, phi vụ được hợp tác với con trai của Đại tá Peter Mawney là ông John Mawney, cảnh sát trưởng của Providence. Giữa những năm 1750, John Greenwood, một họa sĩ vẽ chân dung ở Boston được một nhóm thuyền thương nhân và trưởng, trong đó có Hopkins, thuê để vẽ ra một bức họa châm biếm. Họa phẩm này đã vẽ lên một bức tranh gồm những người đàn ông kẹt lại tại một thương cảng lớn ở Suriname nằm trên bờ biển phía bắc Nam Mỹ, vùng mà Greenwood sinh sống vào thời điểm đó. Greenwood đã phát họa một khung cảnh trong một quán rượu gồm 22 người, thể hiện Hopkins được bao quanh giữa những thương nhân giàu có khác, nhiều người trong số những thương gia này bị biếm họa trong tình trạng say rượu. Một trong những công việc của Hopkins sau này là hoạt động như một nhà kinh doanh và sản xuất, ông đã hợp tác cùng với những người anh em khác của ông bao gồm Moses, Nicholas, Joseph và John Brown để thành lập Hope Furnace. Khu xưởng này chuyên thực hiện những việc liên quan đến đúc sắt cũng như việc sản xuất gang thỏi và đại bác phục vụ trong Chiến tranh Cách mạng. Về sau việc quản lý nhà xưởng này đã được giao cho Rufus, con trai của Hopkins trong bốn thập kỷ. Trở thành Thống đốc. Hopkins nhậm vào nhiệm kỳ thống đốc đầu tiên vào năm 1755, khi ông đánh bại người tiền nhiệm trước đó William Greene với tỷ số cách biệt không quá lớn. Khoảng thời gian này, Hopkins chủ yếu bận rộn với luật pháp và công việc liên quan đến cuộc chiến đang diễn với Pháp. Với thất bại của Thiếu tướng Braddock và việc đóng chiếm Pháo đài Crown Point đã khiến Rhode Island gửi một lực lượng đến Albany. Cuối năm trước đó, Hopkins và Bộ trưởng Tư pháp Hoa Kỳ, ông Daniel Updike, là một đại biểu từ Rhode Island khác đã đến Đại hội Albany, hội nghị này được triệu tập với mục đích thảo luận về các vấn đề bảo vệ các thuộc địa chung đồng thời mở một hội nghị mới với năm bộ lạc da đỏ sống tại đây để yêu cầu sự viện trợ của họ trong việc ngăn sự xâm lược của Pháp. Hopkins cùng những nhà lãnh đạo khác đã xem qua bản kế hoạch ban đầu do Benjamin Franklin đề xuất cho việc thống nhất các vấn đề về thuộc địa, nhưng các nguyên tắc của bản kế hoạch cuối cùng đã bị bác bỏ ở cả thuộc địa Rhode Island và Vương quốc Anh. Vào tháng 2 năm 1756 thời điểm bùng nổ chiến tranh với Pháp, 500 người đàn ông sinh sống tại Rhode Island đã được Đại hội đồng huy động tham gia vào trận đánh Hồ George ở New York. Sau hai năm trên cương vị của mình, Hopkins bị đánh bại bởi William Greene trong việc cạnh tranh chức Thống đốc, nhưng việc Greene qua đời khi đang tại chức vào tháng 2 năm 1758, khiến Hopkins một lần nữa đảm nhiệm vai trò này. Khi đó, một trong những vấn đề gây mâu thuẫn nhất trong chính trị là việc sử dụng giữa hai loại đồng tiền tệ là đồng tiền cứng và đồng tiền giấy, so với việc dùng tiền tệ cứng, Hopkins đã ủng hộ cho việc sử dụng tiền giấy. Vấn đề chính trị gây mâu thuẫn thứ hai vào thời này là lợi ích giữa Newport và Providence. Trong nhiều năm, Hopkins đã vướng vào cuộc tranh chấp gay gắt với Samuel Ward, phó của Westerly, người ủng hộ mạnh mẽ trong việc sử dụng đồng tiền tệ cứng và là một người đặt lợi ích của Newport hàng đầu, Hopkins sau đó đã kiện Ward tội danh vu khống và đòi 40.000 bảng Anh. Vụ kiện này được lên Massachusetts trong việc đưa ra xét xử một cách công bằng; vào năm 1759, kết quả phán quyết cuối cùng nghiêng về phía bất lợi cho Hopkins, và chính ông đã phải trả giá cho vụ kiện này. Trong mười năm, Hopkins và Samuel Ward giữ mối quan hệ qua lại với tư cách là Thống đốc của thuộc địa, cả Ward và Hopkins đều là người đứng đầu của một đảng thế lực khác nhau. Ward là người dẫn dắt cho sự giàu có và chủ nghĩa bảo thủ tại Quận Newport, Narragansett và Kent, trong khi Hopkins đại diện cho sức mạnh ngày càng tăng của các quận thuộc Rhode Island và Bristol. Hai chính trị gia được ví như những đấu sĩ trên đấu trường, luôn thèm muốn diệt trừ lẫn nhau. Cuối cùng, Ward đánh bại Hopkins thông qua bầu cử và nắm giữ chức vụ Thống đốc vào năm 1762. Năm 1763, Hopkins giành lại chức thống đốc, dấu hiệu hòa bình giữa Hopkins và Ward chỉ xuất hiện vào một năm sau khi Ward viết thư cho Hopkins yêu cầu cả hai nên từ bỏ "tham muốn đứng đầu chính phủ." Cùng ngày này, Hopkins không biết về lá thư, ông viết thư cho Ward để bổ nhiệm Ward nhận chức phó thống đốc, một vị trí trống sau cái chết của John Gardner. Cuối cùng, cả Hopkins và Ward đều không chấp nhận đề xuất lẫn nhau, nhưng giai đoạn này giữa hai chính trị gia đã trở thành là mầm móng cho sự hợp tác sau này. Đầu năm 1765, nghị viện và hạ viện của Quốc hội Anh thông qua về một đạo luật mang tên Đạo luật Tem. Về đạo luật này là một trong những kế hoạch nhầm đánh thuế vá vào các thuộc địa, chỉ thị nêu rằng tất cả các tài liệu pháp lý và thương mại phải được viết trên giấy có dấu xác nhận được bán với giá cố định bởi các quan chức chính phủ, đồng thời chỉ thị cũng áp dụng thuế đối với báo chí. Quốc hội có quyền trong việc đánh thuế vào các thuộc địa cũng như việc tăng thuế đối với các sản phẩm như đường, cà phê và các loại mặt hàng khác, đồng thời yêu cầu hai loại mặt hàng là gỗ và sắt từ các thuộc địa Hoa Kỳ chỉ được xuất khẩu sang Vương quốc Anh. Tin tức về nội dung của đạo luật này mang lại đã khiến người dân Mỹ tức giận, và Samuel Adams ở Massachusetts phải mời tất cả quan chức của các thuộc địa đến tham dự một đại hội đại biểu ở New York để thảo luận về việc giảm bớt các khoản thuế được đề ra trước đó mang tính bất công. Vào tháng 8 năm 1765, Đại hội đồng Rhode Island đã thông qua một nghị quyết dưới sự chỉ đạo của chính trị gia của Virginia là ông Patrick Henry. Nhà phân phối tem của Rhode Island được bổ nhiệm là Augustus Johnson, nhưng ông đã từ chối nhiệm vụ này vì cho rằng "trái với điều mà Chúa tối cao của chúng ta muốn." Cuộc họp tại East Greenwich của Đại hội đồng Rhode Island vào tháng 9 năm 1765, chọn các đại biểu tham dự đại hội ở New York và quyết định bổ nhiệm một ủy ban xem xét Đạo luật Tem 1765. Ủy ban đưa ra sáu nghị quyết loại trừ mọi sự ưu ái của Hoa Kỳ đối với Anh Quốc trừ khi những bất lợi từ đạo luật mang lại được giải quyết. Đạo luật tem chính thức bị bãi bỏ vào năm 1766, tin tức được đưa đến Mỹ vào tháng 5 cùng năm đó và công dân Mỹ đã tỏ ra vui mừng. Năm 1764, một đạo luật được thông qua nhầm mục đích thành lập trường đại học tại Rhode Island. Hopkins và Ward đều là những người ủng hộ nhiệt thành cho một cơ sở giáo dục đại học ở thuộc địa, và cả hai chính trị gia đã trở thành ủy viên của hội đồng ủy thác ủy của Rhode Island College. Hopkins cũng đã trở thành một trong những nhà tài trợ hào phóng nhất và là hiệu trưởng đầu tiên của trường học này, một vị trí được ông giữ trong suốt nhiều năm cho đến khi qua đời vào năm 1785. Vào năm 1767, cuộc tranh cử vào chức thống đốc Rhode Island của Hopkins là cuộc tranh cử gây gắt nhất trong sự nghiệp chính trị của ông, nhưng Hopkins cuối cùng đã đánh bại Ward với kết quả áp đảo chưa từng có trong bất kỳ cuộc bầu cử trước nào. Đến năm 1768, Hopkins đưa ra lời đề xuất với Ward nhầm khuyên nhủ cả Ward và ông nên từ bỏ yêu sách cạnh tranh trong cuộc bầu cử và đồng ý cho việc chọn ra một ứng viên thỏa hiệp thay thế. Ông Ward đã chấp thuận lời nghị này và Josias Lyndon là người tiếp theo được bầu để trở thành thống đốc, Hopkins về sau đã trở thành bạn thân của Ward và tình bạn giữa ông vẫn được truy trì trong suốt quãng thời gian sau này. Tiểu luận "The Rights of Colonies Examined". Tháng 11 năm 1764, Đại hội đồng Rhode Island cho xuất bản một cuốn sách tiểu luận nhỏ do chính Hopkins biên soạn mang tên "The Rights of Colonies Examined" (tạm dịch: "Quyền của các thuộc địa được kiểm tra"). Bài tiều luận này chủ yếu nhắm đến Đạo luật tem và trong việc tạo dựng danh tiếng của Hopkins với tư cách là một nhà lãnh đạo cách mạng, cuốn sách chỉ trích thuế và Nghị viện này đã được phân phối một cách rộng rãi. Văn bản trong bài tiểu luận được bắt đầu rằng, "Tự do là phúc lành lớn nhất mà con người được thụ hưởng, chế độ nô lệ là lời trù rủa nặng nề nhất mà về cơ bản con người có thể mắc phải;" nội dung bài tiểu luận đưa ra một đánh giá rõ ràng về mối quan hệ của các thuộc địa Anh-Mỹ. Bài luận văn của Hopkins đã nhận được sự lưu hành rộng rãi cũng như sự tán thành nồng nhiệt từ khắp các thuộc địa. Nhà sử học Thomas Bicknell gọi bài luận là "tài liệu đáng lưu tâm nhất được xuất bản trong thời kỳ trước Chiến tranh Cách mạng." Ông Thomas Hutchinson, Thống đốc Massachusetts nhận xét về bài báo rằng, "Bài tiểu luận của Hopkins được làm ra ở mức độ căng thẳng cao hơn bất kỳ các bài báo thuộc địa nào trước đây." Hopkins được công nhận là một trong những nhà lãnh đạo dư luận của các thuộc địa và tiểu luận "The Rights of Colonies Examined" của ông đã được xuất bản rộng rãi. Chánh án Tòa án tối cao Rhode Island. In May 1747, Hopkins was first appointed as a justice of the Rhode Island Superior Court, whose long title was the "Superior Court of Judicature, Court Of Assize, and General Gaol Delivery." In 1751, he became the third Chief Justice of this court, which he held until 1755 when he became governor. Hopkins was once again appointed as Chief Justice of the court in 1770 after a total of nine years as governor; he served until October 1775 while simultaneously serving as a delegate to the Continental Congress. One of the most important events with which Hopkins dealt during his final tenure as Chief Justice was the Gaspee Affair. In March 1772, Deputy Governor Darius Sessions in Providence sent a letter of concern to Governor Joseph Wanton in Newport, having consulted with Chief Justice Hopkins. Sessions expressed alarm that the British schooner "Gaspee" had been cruising the Narragansett Bay, disrupting the traffic by stopping and searching commercial ships. Sessions wrote:Sessions went on to request that the governor take measures to bring the ship's commander to account. A chain of threatening correspondence ensued between the governor and "Gaspee" commander Lieutenant William Dudingston, and Dudingston's superior Admiral John Montagu. On the night of June 9–10, a party of incensed colonists attacked the vessel and burned it to the waterline. Officially, Sessions was outraged at the incident and offered the colony's assistance in bringing the perpetrators to justice. To ameliorate retribution by the British authorities, Rhode Island officials took visible steps to find the culprits who burned the ship. Behind the scenes, however, Sessions and Hopkins did all they could to thwart any attempts to identify the attackers. A royal commission was appointed by the British to investigate the incident, and they demanded that any indicted person be sent to England for trial. This egregious threat to local liberty prompted the colonists to form the Committees of Correspondence. Loyalist Massachusetts Governor Hutchinson further aggravated the colonists' sensitivities by urging Britain to rescind the Rhode Island Royal Charter. Sessions conferred with Chief Justice Hopkins, lawyer John Cole, and Moses Brown, and the four men drafted a letter to Massachusetts' statesman Samuel Adams. Adams replied by urging Rhode Island to remain defiant, or at least to stall matters by appealing the creation of the royal commission. Governor Wanton was put at the head of this commission but was compliant with Sessions' and Hopkins' attempts to frustrate the aims of the commission. Sessions, Hopkins, and others coordinated their efforts to lose evidence, threaten potential witnesses, and discredit those who testified. The vast majority of Rhode Island's citizens were supportive of the attackers and kept quiet about their identities. A year after the incident, the royal commission was terminated without a single indictment. Quốc hội Lục địa. Cuộc họp Đệ nhất Quốc hội Lục địa lần đầu tiên diễn ra vào năm 1774, Hopkins và Ward là hai đại biểu đại diện của Rhode Island. Khi đó Hopkins, đã 68 tuổi, ông là người lớn tuổi nhất trong số tất cả các thành viên đại biểu vào thời điểm đó, và chỉ có Hopkins là đại biểu duy nhất từng cùng Benjamin Franklin tham dự Đại hội Albany vào 20 năm trước. Trong nhiều năm, Hopkins gặp phải chứng tê liệt ở tay và làm ảnh hưởng lớn đến năng lực viết của ông. Tại hội nghị này, Henry Arniett Brown đã viết về Hopkins rằng, "người ngồi ở đằng kia là người già nhất trong số họ. Dáng ông hơi nghiêng, những lọn tóc thưa thớt, vầng trán của ông trĩu xuống vì tuổi tác và lòng phụng sự tận tụy, đôi tay của ông run khi đặt chúng vào lòng. Đó là Stephen Hopkins." Hội nghị Đệ nhất Quốc hội Lục địa được triệu tập với mục đích xem xét các đối sách của Vương quốc Anh nhầm đảm bảo quyền lợi và đặc quyền của 13 thuộc địa. Cả Hopkins và Ward trước đó đều dự đoán rằng độc lập sẽ chỉ xuất phát từ chiến tranh. Hopkins nói với các cộng sự của mình tại Quốc hội: "Thuốc súng và dạn sẽ quyết định cho câu hỏi. Riêng khẩu súng và lưỡi lê sẽ kết thúc cuộc đấu giao chiến này, và bất kỳ ai trong số các anh không thể điều chỉnh sự tập trung của mình vào cuộc dao chạm, tốt hơn là nên rút lui kịp thời." Sau các cuộc tấn công nhấm vào tháng 4 của Trận Lexington và Concord, phiên họp lập pháp lần thứ hai Đệ Nhị Quốc hội Lục địa diễn ra vào ngày 10 tháng 5 năm 1775 và Hopkins một lần nữa là đại biểu tham dự cuộc họp này. Đại hội này được triệu tập với mục đích điều hành chiến lược chiến tranh, và sau đó tiến hành việc tuyên bố độc lập khỏi Vương quốc Anh. Tháng 7 năm 1775, quốc hội áp dụng hệ thống bưu chính quốc gia được đề xuất bởi ông William Goddard, và Benjamin Franklin trở thành Tổng Bưu tá trưởng Hoa Kỳ đầu tiên. Đây là một ý tưởng đã được Rhode Island thực hiện vào một tháng trước đó. Đến tháng 12 năm 1775, Hopkins góp mặt trong ủy ban để báo cáo về kế hoạch trang bị vũ khí hải quân cho các quân đội thuộc địa. Lượng kiến thức mà Hopkins sở hữu về kinh doanh vận tải biển được ông phục vụ với tư cách là thành viên của ủy ban hải quân Quốc hội vốn thành lập nhầm mục đích mua, trang bị cũng như vận hành những con tàu đầu tiên của Hải quân Lục địa mới đã trở nên thực sự hữu ích. Hopkins là người có công trong việc xây dựng nên bộ luật hải quân Hoa Kỳ và soạn thảo ra các nguyên tắc cũng như những quy định cần thiết để phục vụ cho công việc quản lý một tổ chức hàng hải non trẻ vừa mới ra đời hồi Chiến tranh Cách mạng Mỹ. Hải đội hải quân đầu tiên của Mỹ được hạ thủy vào ngày 18 tháng 2 năm 1776. Hopkins đã sử dụng sức ảnh hưởng của mình để đảm bảo cho vị trí tổng tư lệnh hải quân mới cho người anh trai là Esek Hopkins, vì cuộc bổ nhiệm trước cho thấy một tỷ lệ kết quả không mong muốn. The Colony of Rhode Island and Providence Plantations declared its absolute independence from Great Britain by a nearly unanimous vote on May 4, 1776; the Continental Congress adopted the United States Declaration of Independence two months later on July 2. Hopkins had to support his palsied right hand with his left as he signed the document, remarking, "my hand trembles, but my heart does not." The gathering of the Founding Fathers was depicted in John Trumbull's "Declaration of Independence", where Hopkins is pictured standing in the back wearing a hat. John Adams appreciated Hopkins' contributions during the congressional sessions: Hopkins và chế độ nô lệ. Stephen Hopkins là một chủ nô và có sở hữu nô lệ, giống như phần lớn những chính trị gia ký bản Tuyên ngôn Độc lập Mỹ ở thời điểm đó, Hopkins đã đề cập 5 người nô lệ trong di chúc của mình vào năm 1760 trong số đó bao gồm một đàn ông, một phụ nữ và ba đứa trẻ. Những người nô lệ này sẽ được để lại cho các thành viên thân thiết trong gia đình Hopkins sau khi ông mất cùng với lời hướng dẫn về cách cư xử với họ; đây là một điều hiếm có ở bất kỳ chủ nô nào. Những thông tin trong bản di chúc đã nêu ra rằng nữ nô lệ Fibbo (hoặc tên Phibo hay Phebe) sẽ đến phục vụ vợ Hopkins là Anne và được đối xử theo cách giúp "Fibbo không còn cảm thấy nô lệ là một gánh nặng"; và Saint Jago sẽ đến phục vụ Rufus, con trai cả của Hopkins và được đối xử theo cách "giúp cuộc sống của anh ta có thể trở nên dễ dàng và thoải mái hơn." Mặc vậy, bản di chúc chưa bao giờ được thực hiện vì Hopkins đã sống thêm 25 năm và nội dung trong bản di chúc này đã được thay đổi. Vào ngày 28 tháng 10 năm 1772, Hopkins trả tự do cho Saint Jago, trong văn thư giải phóng nô lệ của mình, ông viết: Hopkins thấy rằng sự trói buộc vào những "loài sinh vật có lý trí" vốn tự lập là trái với ý muốn Chúa Trời; nhưng ông cũng cho rằng việc trả tự do không màng điều kiện cho những người nô lệ là một hành động vô trách nhiệm đối với ông. Cũng chính vì điều này, Hopkins từ chối trả tự do cho Fibbo, và ông đã trả giá bằng việc từ bỏ tư cách thành viên Quaker. Hopkins cho rằng "những đứa con của nữ nô lệ Fibbo cần sự chăm sóc từ một người mẹ." Và những nô lệ khác của do ông sở hữu không được trả tự do cho đến sau khi ông mất, nhưng trong đó có Primus và Bonner Jr., hai nô lệ hiếm hoi khác của Hopkins đã được giải phóng vài năm trước khi ông qua đời. Vào năm 1774, trong thời gian phục vụ trong Hội đồng Rhode Island, Hopkins đưa ra một dự luật trong đó ngăn cấm việc nhập khẩu nô lệ vào thuộc địa. Dư luật này đã trở thành một trong những đạo luật chống buôn bán nô lệ đầu tiên tại Hoa Kỳ. Ngoài ra, một số áp lực lớn khác tại Rhode Island dẫn đến nảy sinh nhiều hạn chế hơn đối với việc buôn bán nô lệ tại vùng đất này là tỷ lệ dân cư sinh sống là tín hữu Quakers chiếm một tỷ lệ lớn. Qua đời và di sản. Tháng 9 năm 1776, với tình trạng suy giảm sức khỏe đã buộc Hopkins phải từ bỏ chức Quốc hội Lục địa để trở về Rhode Island, tuy nhiên Hopkins vẫn là một thành viên tích cực của đại hội đồng Rhode Island trong suốt những năm 1777 đến năm 1779. Ông mất tại Providenc trong nhà riêng của mình vào ngày 13 tháng 7 năm 1785, ở tuổi 78, và được chôn cất tại Nghĩa trang North Burial Ground cùng thành phố này. Năm 1753, Hopkins đã hỗ trợ thành lập Providence Library Company, ông đồng thời là thành viên của Hiệp hội Triết học Newport. Thị trấn Hopkinton của Rhode Island sau này được đặt theo tên ông. Một con tàu lớp tự do mang tên SS "Stephen Hopkins" đã được đặt theo tên Hopkins để vinh danh ông, đây là con tàu buôn duy nhất của Hoa Kỳ đánh chìm một tàu chiến Hải quân Đức trong Thế chiến II. Ông cũng có công trong việc thành lập Trường Đại học thuộc địa Rhode Island và các đồn điền Providence của Anh (ngày nay là Đại học Brown) và là người được ủy thác sáng lập. Từ năm 1764 đến năm 1785, Hopkins là hiệu trưởng đầu tiên của trường học này. Nhà Thống đốc Hopkins của ông ban đầu nằm trên góc đường Hopkins và South Main tại Providence, sau khi Hopkins qua đời ngôi nhà này về sau đã được chuyển đi hai lần nằm trên các địa điểm khác nhau của Phố Hopkins. Ngôi nhà này hiện tọa lạc rìa khuôn viên Đại học Brown nằm tại số 15 Phố Hopkins, góc Phố Benefit, và đây là một Di tích Lịch sử Quốc gia Hoa Kỳ. Ezra Stiles, một mục sư công giáo, trong nhật ký của mình đã viết về Hopkins rằng, "Tôi hiểu rõ về Gov. Hopkins. Ông ấy là một thiên tài sáng suốt, rất tinh tế, mưu mẹo, hấp dẫn và gan dạ." Stiles đề cập thêm về Hopkins là một "con người có tính kiên trì và quyết tâm cao quý" đồng thời là "một nhà ái quốc quang vinh!" Hopkins đã nhận được nhiều lời phê bình tích cực từ nhiều nhà sử học, trong số đó là Sanderson, Arnold và Bicknell, nhưng Richman đơn thuần gọi Hopkins là "chính khách vĩ đại nhất của Rhode Island." Đời sống cá nhân. Vào năm 1726, Hopkins kết hôn với Sarah Scott, con gái của Sylvanus Scott và Joanna Jenckes, họ đều là hậu duệ của Richard Scott và Katharine Marbury, những người đầu tiên định cư tại Đồn điền Providence; bà Marbury là em gái út của Anne Hutchinson, một nhà cải cách tôn giáo. Còn Richard Scott là một tín đồ thuộc giáo phái Quaker đầu tiên của Providence. Hopkins có tổng cộng bảy người con, và có năm người trong số họ sống đến tuổi trưởng thành. Sau khi bà Sarah Scott qua đời vào ngày 9 tháng 9 năm 1753, ở tuổi 46, Hopkins đã kết hôn với Anne Smith, con gái của Benjamin Smith và không có con. Một trong những người em trai của Hopkins là Esek Hopkins đã trở thành tổng tư lệnh đầu tiên của Hải quân Lục địa Hoa Kỳ, người anh trai William của ông là một thương gia có tiếng. Jemima Wilkinson, một nhà thuyết giáo Quaker, một trong những người họ hàng của Hopkins, đã được ông xem là một người bạn.
19,821,778
648222
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821778
Osakeyhtiö
' (; "Công ty cổ phần"), thường được viết tắt là Oy (), là thuật ngữ chỉ một công ty trách nhiệm hữu hạn của Phần Lan (ví dụ: , LLC, or GmbH). Còn theo thuật ngữ tiếng Thụy Điển là ", thường được viết tắt (ở Phần Lan) thành Ab"', còn chữ viết tắt theo tiếng Thụy Điển đôi khi được viết như sau: "Ab Company Oy", "Oy Company Ab", hoặc "Company Oy Ab". Các chữ viết tắt đã được tạo theo nhiều kiểu cách khác, chẳng hạn như "Oy", "OY", "O.Y". hoặc thậm chí là "O/Y". Dạng viết tắt trong tiếng Anh là "Ltd". Julkinen osakeyhtiö. "Julkinen osakeyhtiö" (pl. "julkiset osakeyhtiöt") có nghĩa là "công ty cổ phần (đại chúng)" và được viết tắt là oyj (). Một "julkinen osakeyhtiö" có thể được niêm yết trên . Thuật ngữ tương tự trong tiếng Thụy Điển là "Abp" ("publikt aktiebolag"). Một "oyj" có thể được gọi là Công ty trách nhiệm hữu hạn đại chúng hoặc công ty đại chúng bằng tiếng Anh và có thể sử dụng chữ viết tắt là PLC hoặc thuật ngữ công ty trong tên tiếng Anh của công ty, ví dụ như: , và Nokia Corporation.
19,821,779
70615812
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821779
Only Friends
Only Friends (; ; tạm dịch:Bạn cấm kỵ)là một bộ phim truyền hình Thái Lan phát sóng năm 2023 với sự tham gia của Kanaphan Puitrakul (First), Thanawat Rattanakitpaisan (Khaotung), Jiratchapong Srisang (Force), Kasidet Plookphol (Book), Trai Nimtawat (Neo) và Pakin Kuna-anuvit (Mark). Bộ phim được đạo diễn bởi Tichakorn Phukhaotong và sản xuất bởi GMMTV cùng với Hard Feeling Film. Đây là một trong 19 dự án phim truyền hình cho năm 2023 được GMMTV giới thiệu trong sự kiện "GMMTV 2023 Diversely Yours," vào ngày 22 tháng 11 năm 2022. Bộ phim được phát sóng vào lúc 20:30 (), thứ Bảy trên GMM 25, bắt đầu từ ngày 12 tháng 8 năm 2023.
19,821,782
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821782
Chuyển nhượng (bóng đá)
Trong bóng đá chuyên nghiệp, một vụ chuyển nhượng là hành động được thực hiện bất cứ khi nào một cầu thủ theo hợp đồng di chuyển giữa các câu lạc bộ. Nó đề cập đến việc chuyển đăng ký của một cầu thủ từ câu lạc bộ bóng đá này sang một câu lạc bộ bóng đá khác. Nói chung, các cầu thủ chỉ có thể được chuyển nhượng trong kỳ chuyển nhượng và theo các quy tắc do cơ quan quản lý đặt ra (đáp ứng các yêu cầu của FIFA, các cơ quan cấp châu lục và quốc gia điều chỉnh các câu lạc bộ mua và bán). Phí chuyển nhượng thương lượng là khoản bồi thường tài chính theo thỏa thuận được trả từ một câu lạc bộ quan tâm, cho câu lạc bộ sở hữu quyền thi đấu theo hợp đồng độc quyền của cầu thủ. Khi một cầu thủ chuyển từ câu lạc bộ này sang câu lạc bộ khác, hợp đồng cũ của họ sẽ bị chấm dứt trong khi cầu thủ và câu lạc bộ đích mới của họ sẽ thương lượng về các điều khoản hợp đồng mới (hoặc đã cùng nhau đồng ý trước đó về các điều khoản cá nhân). Do đó, phí chuyển nhượng có chức năng như bồi thường tài chính (trả cho câu lạc bộ sở hữu các quyền thi đấu hiện có) đối với chấm dứt hợp đồng của một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp được hai bên đồng ý sớm. Phí chuyển nhượng phụ thuộc vào khả năng chơi bóng hiện tại của cầu thủ, tiềm năng trong tương lai, thời hạn của hợp đồng hiện tại, số tiền lương nợ trong tương lai (trong thời hạn còn lại của hợp đồng hiện tại) và sự sẵn lòng của các câu lạc bộ trong việc đồng ý cân bằng kinh tế thông qua cung và cầu. Chuyển nhượng trong Hiệp hội Bóng đá khác đáng kể so với giao dịch trong các môn thể thao của Mỹ, Canada và Úc, trong đó các đội về cơ bản giao dịch hợp đồng cầu thủ hiện có. Tuy nhiên, tiền mặt hoặc nghĩa vụ hợp đồng có thể được sử dụng thay vì hoặc với người chơi, chẳng hạn như Major League Baseball và National Football League để giảm bớt giới hạn tiền lương và các mối quan tâm tài chính khác. Tuy nhiên, trong một số trường hợp không phổ biến, chuyển nhượng có thể hoạt động theo cách tương tự như giao dịch cầu thủ, vì các đội có thể cung cấp một cầu thủ khác trong đội của họ như một phần của khoản bồi thường dưới hình thức giao dịch hoán đổi, nhằm giảm khoản bồi thường tài chính cho phí chuyển nhượng. Theo FIFA, từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2018 đã có 15.049 vụ chuyển nhượng cầu thủ nam quốc tế với tổng phí 7,1 tỷ USD và 577 vụ chuyển nhượng quốc tế cầu thủ nữ với giá 493.235 USD. Hầu hết các hoạt động chuyển nhượng được tiến hành trong kỳ chuyển nhượng mùa hè châu Âu (kỳ trước mùa giải ở châu Âu), trùng lặp từ ngày 1 tháng 7 đến ngày 31 tháng 8 của bất kỳ năm nhất định nào (bao gồm cả hai ngày), với các thay đổi nhỏ của cả ngày bắt đầu và ngày kết thúc, cho mỗi giải đấu trong nước tương ứng. Prominent transfers also occur during the European winter transfer window of 1–31 January. Most notably, the transfer deadline dates of the transfer windows, are solely reliant upon the country jurisdiction of the purchasing club, in order to successfully perform the registration of newly transferred players (football clubs worldwide may agree to sell the playing rights of any contracted player at any time to another club whose country's transfer window is still open, in addition free agents may be signed at any time outside the prescribed transfer windows).
19,821,836
70570033
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821836
Tam Trì Tể
Tam Trì Tể () là một đảo cát nhỏ thuộc nhóm đảo An Vĩnh, quần đảo Hoàng Sa. Nó nằm giữa đảo Trung và đảo Nam, nhưng gần đảo Nam hơn. Các tọa độ địa lý là 16°57'00"N vĩ độ bắc và 112°19'48"E kinh độ đông. Hiện tại, đảo này đang được quản lý bởi thành phố Tam Sa, tỉnh Hải Nam, Trung Quốc. Thực thể này mới được Trung Quốc đặt tên vào ngày 19 tháng 4, 2020.<mapframe latitude="16.949590" longitude="112.330323" zoom="16" width="508" height="204" text="Tam Trì Tể (đảo nhỏ, giữa). Góc bên phải là đảo Nam." align="center" />
19,821,842
71308
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821842
Channa amphibeus
Channa amphibeus là một loài cá lóc trong chi "Channa" (cá quả/cá lóc) thuộc họ Channidae có nguồn gốc từ Ấn Độ (bang Tây Bengal, Assam?) và có thể có ở Bhutan. Mẫu điển hình thu thập tại sông Chail (cửa sông khoảng 6 km ở phía bắc Jalpaiguri), chi lưu tả ngạn của sông Teesta - chi lưu hữu ngạn của sông Brahmaputra tại bang Tây Bengal, Ấn Độ. "C. amphibeus" có kích thước dài tối đa tới 90 cm. Loài này từng bị nhầm lẫn với "Channa barca" có ở bang Assam.
19,821,859
71308
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821859
Cá tràu tiến vua
Cá tràu tiến vua có thể là:
19,821,885
655
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821885
Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina
Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina () là một phiên hiệu đội hình tác chiến chiến lược cấp cụm tập đoàn quân của liên quân Đức Quốc xã và Vương quốc Rumani trên Mặt trận phía Đông trong Thế chiến thứ hai. Cụm tập đoàn quân này đặt bản doanh tại Slănic-Moldova, chịu trách nhiệm trên tuyến mặt trận dài 680 km, trong đó gần phân nửa do quân Romania trấn giữ. Khu vực hoạt động của nó bao phủ toàn bộ miền Đông Romania, từ một đường 40 km về phía đông Bucharest. Hoạt động. Cụm tập đoàn quân Nam Ukraina được thành lập vào ngày 5 tháng 4 năm 1944 trên cơ sở đổi tên thành từ Cụm tập đoàn quân A. Quân số lúc cao điểm của cụm tập đoàn quân này lên đến 905.000 người (gồm 500.000 quân Đức và 405.000 quân Rumani), 400 xe tăng và pháo xung kích (gồm 120 xe tăng và 280 pháo xung kích), 7.600 pháo các loại, 810 máy bay Cụm tập đoàn quân này tham chiến trong Chiến dịch Iaşi–Chişinău và sau khi chịu thương vong nặng nề được đổi tên thành Cụm tập đoàn quân Nam vào nửa đêm ngày 23 tháng 9 năm 1944.
19,821,891
784524
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821891
MIM-46 Mauler
MIM-46 Mauler là một hệ thống tên lửa phòng không cơ động được phát triển bởi General Dynamics từ cuối những năm 1950s nhằm đáp ứng yêu cầu của Lục quân Mỹ về một hệ thống tên lửa phòng không chống lại mục tiêu bay thấp như máy bay cường kích và các tên lửa đạn đạo tầm ngắn. Hệ thống được đặt trên xe thiết giáp XM546, dựa trên khung gầm xe thiết giáp M-113, cùng với trang bị chín tên lửa MIM-46, radar chuyên theo dõi và chiếu xạ mục tiêu bằng sóng liên tục và hệ thống điều khiển hỏa lực. Là một thiết kế có nhiều tham vọng vào thời điểm nó ra đời, Mauler đã trải qua quá trình phát triển gặp nhiều vấn đề và khó khăn, nên nó đã bị hủy bỏ vào tháng 11 năm 1965. Việc hủy bỏ chương trình phát triển MIM-46 đã khiến cho quân đội Mỹ bị bỏ trống không có một vũ khí phòng không Lục quân hiện đại nào trong trang bị, bắt buộc Lục quân Mỹ phải đẩy nhanh việc phát triển hệ thống MIM-72 Chaparral và M163 Tracked Vulcan đơn giản hơn nhiều để trang bị. Những hệ thống vũ khí này có tính năng thấp hơn nhiều so với MIM-46 Mauler, và chỉ đóng vai trò là một giải pháp tạm thời cho đến khi phát triển hệ thống phòng không mới cao cấp hơn. Mặc dù vậy, chúng không bị loại biên cho đến tận cuối những năm 1990s. Cả Hải quân Mỹ và Hải quân Anh đều mong đợi rằng Mauler sẽ đảm đương tốt vai trò phòng không tầm ngắn mà hai lực lượng này vẫn còn thiếu. Sau khi chương trình phát triển MIM-46 Mauler bị hủy bỏ, cả hai đã phát triển tên lửa phòng không tầm ngắn RIM-7 Sea Sparrow và Rapier, để đảm đương vai trò phòng không tầm ngắn. Bối cảnh ra đời. Duster và Vigilante. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các loại vũ khí phòng không cơ động đầu tiên mà Lục quân Mỹ phát triển đều được dựa trên pháo phòng không Bofors cỡ nòng 40 mm với tên gọi là M19 Multiple Gun Motor Carriage sau đó là M42 Duster. Lần đầu được đưa vào trang bị năm 1952, hệ thống pháo phòng không Duster nhanh chóng trở nên lỗi thời do tốc độ và tính năng của máy bay ngày một được nâng cao. Do đó việc theo dõi, bám mục tiêu, xác định khoảng cách tới mục tiêu thủ công đã trở nên lỗi thời và quân đội Mỹ đã triển khai thêm radar RADUSTER cho hệ thống Duster. Đến năm 1955 người ta nhận ra rằng cần phải phát triển loại khí tài mới để đáp ứng yêu cầu đặt ra chứ không thể nâng cấp M42 Duster được thêm nữa. Do đó vào năm 1956 kế hoạch đặt ra là cải tiến hệ thống điều khiển hỏa lực T50 cho hệ thống RADUSTER. Do yêu cầu đặt ra là chống lại máy bay phản lực bay cao tới và tầm bắn thẳng là , các kỹ sư đã kết hợp pháo 37 mm Gatling lên khung gầm M113 Armored Personnel Carrier tạo thành hệ thống phòng không mới mang tên T249 Vigilante cuối năm 1956. Ngoài ra còn có một phiên bản T248 dạng xe kéo cũng được phát triển. Mặc dù Vigilante ngắm bắn bằng quang học giống như Duster, nhưng vận tốc bắn cao của nó (3.000 phát/phút) giúp nó có hiệu suất tốt hơn nhiều trong việc chống mục tiêu bay có vận tốc lớn. Khi chương trình phát triển pháo phòng không Vigilante còn đang tiến hành, Lục quân Mỹ đã đưa ra quyết định sẽ hủy bỏ các chương trình phát triển pháo phòng không do vô dụng trước máy bay phản lực có vận tốc lớn cùng với thời gian giao chiến giảm xuống. Pháo phòng không Vigilante có tầm bắn hiệu dụng khoảng , và đạn pháo sẽ mất khoảng 5 giây để bay tới cự ly tối đa, trong khi máy bay phản lực bay ở vận tốc đã di chuyển được hơn một km trong khoảng thời gian này. Do đó, hệ thống radar ngắm bắn sẽ không thể đưa ra giải pháp để điều khiển pháo bắn trúng đích. Sau cùng Lục quân Mỹ đã quyết định tiếp tục sử dụng pháo phòng không Duster trong lúc chờ đợi giai đoạn phát triển thứ 3 (Phase III) phát triển loại tên lửa phòng không có năng lực để thay thế nó. Phase III. Phase III được mong đợi sẽ đáp ứng yêu cầu cấp thiết của Lục quân Mỹ về hệ thống phòng không cơ động. Hệ thống có kích thước nhỏ, có khả năng cơ động và có khả năng bắn máy bay bay ở độ cao lên tới 10.000 feet. FAAD. Trong dự án "Phòng không khu vực phía trước-Forward Area Air Defense", Lục quân Mỹ triển khai thu thập các thông số lý thuyết để phát triển hệ thống phòng không dựa trên tên lửa vào năm 1959. Hệ thống dẫn đường cho tên lửa là một mối quan tâm chính. Phần lớn các hệ thống tên lửa phòng không trong thời kỳ này đều sử dụng phương pháp Dẫn đường bằng radar bán chủ động, với radar mặt đất để chiếu xạ mục tiêu, sóng phản xạ trở lại từ mục tiêu được thu lại bởi bộ phận thu tín hiệu đặt trên đầu tên lửa. Hệ thống này có ưu điểm là tín hiệu radar sẽ ngày càng mạnh hơn khi tên lửa ngày càng bay lại gần mục tiêu, khiến nó dễ dàng bám mục tiêu. Ngoài ra tín hiệu phản xạ từ mục tiêu có dạng hình côn, do đó càng tăng độ chính xác khi tên lửa tiếp cận mục tiêu. Về nhược điểm, việc sử dụng Dẫn đường bằng radar bán chủ động SARH cũng đồng nghĩa với việc các tín hiệu radar phản xạ từ nơi khác cũng sẽ được tên lửa thu nhận và làm nhiễu đầu dò của tên lửa. Các tên lửa SARH đời đầu thường dễ dàng bị nhiễu bởi các tín hiệu radar phản xạ từ cây, các tòa nhà hoặc phản xạ bởi mặt đất. Rất khó để tên lửa có khả năng xác định đúng đâu là tín hiệu phản xạ từ mục tiêu trong một môi trường dày đặc nhiễu như vậy. Trong dự án FAAD, Lục quân Hoa Kỳ quyết định sử dụng phương pháp lái tên lửa bằng chùm tia. Phương pháp này đã được sử dụng từ rất sớm trên tên lửa RIM-2 Terrier, tuy nhiên nó đã bị bỏ xó do quân đội ưa thích hệ thống dẫn đường bằng radar bán chủ động do các ưu điểm liệt kê bên trên. Tín hiệu lái tên lửa có dạng hình côn đồng nghĩa với việc tên lửa sẽ ngày càng "thiếu chính xác" khi bay gần đến mục tiêu. Phần lớn các tên lửa sử dụng phương pháp lái tên lửa theo chùm tia như một phương pháp phụ để dẫn đường giai đoạn cuối. Mặc dù có các nhược điểm như trên, nhưng phương pháp lái tên lửa bằng chùm tia đã trở thành phương án để dẫn đường cho tên lửa ở tầm thấp gần mặt đất trong dự án FAAD. Do tín hiệu điều khiển được thu lại qua cạnh thân tên lửa, tín hiệu sẽ vẫn gần như không bị nhiễu. FAAD sử dụng radar với hiệu ứng Doppler để xác định chính xác mục tiêu trong môi trường nhiễu nền. Ở giai đoạn cuối, FAAD sử dụng hệ thống dò tìm hồng ngoại tiên tiến. FAAD sẽ có chế độ hoạt động bán tự động. Trong chiến đấu, kíp điều khiển có thể lựa chọn mục tiêu trên radar tìm kiếm từ xa và ra lệnh phóng bằng giọng nói. Sau đó hệ thống máy tính sẽ tự động điều khiển và dẫn bắn tên lửa ngay khi mục tiêu bay vào tầm bắn. Sau khi chạy mô phỏng Monte Carlo trên máy tính IBM 650, các nhà thiết kế sử dụng đầu đạn nổ văng mảnh thay vì đầu đạn continuous-rod warhead. Để cơ động, hệ thống được đặt trên khung gầm xe M113, loại xe thiết giáp chở quân tốt nhất của Lục quân Mỹ khi đó. Sau khi sửa đổi xe M113 mang định danh XM-546. Phát triển. General Dynamics (Convair Pomona Division) dành được hợp đồng phát triển hệ thống phòng không mới vào năm 1959. Chương trình phát triển Mauler được bắt đầu vào tháng Năm năm 1959 nhưng thực sự được triển khai từ tháng Ba năm 1960. Lục quân Mỹ không phải là khách hàng duy nhất của hệ thống Mauler, cả Hải quân Mỹ và Lục quân Anh cũng dự kiến sẽ trang bị loại tên lửa phòng không này. Từ năm 1960, Hải quân Mỹ phát triển hệ thống mang tên "Basic Point Defense Missile System", với việc sửa đổi Mauler trở thành "RIM-46A Sea Mauler". Thậm chí tàu hộ tống của Hải quân Mỹ đã được chế tạo với dư địa để lắp đặt ống phóng tên lửa Sea Mauler khi nó được tiếp nhận. Việc phát triển hệ thống trên nhiều nền tảng khác nhau khá phức tạp. Trong đó vấn đề đặc thù là sự tương hợp của hệ thống nhận diện địch ta (IFF). Việc phát triển cấu hình khí động học của tên lửa và động cơ diễn ra rất nhanh chóng. Tuy nhiên hai lần phóng thử nghiệm không điều khiển và có điều khiển đều gặp nhiều vấn đề. Trong khi đó Anh và NATO đã phát triển thành công Rapier missile là một hệ thống tương tự như Mauler. Vấn đề. Vốn phát triển hệ thống Mauler bị hạn chế và việc phát triển bị kéo dài tới hai năm. Kế hoạch sản xuất được điều chỉnh lại vào năm 1963 khi hệ thống pháo phòng không M42 Duster bị loại biên. Chương trình Feasibility Validation Program được đề ra năm 1963 để xác định liệu Mauler có khả năng được phát triển thành công trong khoảng thời gian và chi phí hợp lý. Chương trình đi đến kết luận rằng Mauler có khả năng chống lại máy bay phản lực và máy bay cánh quạt dù ở cự ly không không như mong đợi. Chương trình phát triển Mauler bị khai tử tháng Bảy năm 1965 không làm giới chuyên môn bất ngờ. Thiếu vốn, thiếu dẫn đường từ trung tâm chỉ huy, thay đổi về yêu cầu đặc tính kỹ thuật, và các vấn đề kỹ thuật mới chưa được kiểm chứng đã dẫn đến tương lai mù mịt của chương trình phát triển Mauler. Kết quả của sáu năm phát triển cuối cùng là sự hủy bỏ. Hủy bỏ chương trình. Lúc này đã có nhiều nghi ngại về việc hệ thống phòng không sẽ được triển khai sớm. Ngày 16 tháng Chín năm 1963, Army Materiel Command yêu cầu Aviation and Missile Command nghiên cứu khả năng phát triển hệ thống tên lửa phòng không tầm ngắn dựa trên AIM-9 Sidewinder. Theo đánh giá của cơ quan này, việc chuyển đổi sẽ đơn giản, nhưng sẽ không hiệu quả. Ban Lục quân với sự hỗ trợ từ Army Air Defense Artillery School tại Fort Bliss, đã bắt đầu nghiên cứu mới dưới sự lãnh đạo của Lieutenant Colonel Edward Hirsch. Theo đó Ủy ban này đưa ra một hệ thống phòng không nhiều lớp bao gồm hệ thống tên lửa phòng không MIM-72 Chaparral mang tên lửa Sidewinder đảm nhiệm phòng không tầm xa và hệ thống M163 VADS được trang bị pháo M61 Vulcan đóng vai trò phòng không tầm gần, và radar cảnh báo phía trước AN/MPQ-49 Forward Area Alerting Radar sẽ gửi tín hiệu cho cả hai hệ thống phòng thủ. Ngoài ra những tổ hợp phòng không trên sẽ được hỗ trợ bởi tên lửa phòng không vác vai FIM-43 Redeye. Mặc dù có thể không hiệu quả như Mauler nhưng những tổ hợp phòng không này sẽ được sản xuất và trang bị sớm hơn nhiều trong khi quá trình phát triển một hệ thống phòng không tiên tiến vẫn còn chưa hoàn thiện. Tháng Mười một năm 1963, Mauler được định hướng sẽ sử dụng các công nghệ kém tiên tiến hơn, một vài mẫu thử nghiệm đã được đề xuất nhưng vẫn không được trang bị trước năm 1969. Các thử nghiệm vẫn được tiếp tục cho đến khi toàn bộ chương trình bị hủy bỏ vào tháng Mười một năm 1965. Chaparral cùng với đầu dò hồng ngoại của Mauler đã tỏ ra có hiệu quả cao hơn nhiều so với nguyên mẫu AIM-9C. Cái kết. Sự kết hợp của bộ đôi Chaparral/Vulcan là sự bổ sung hoàn hảo trong khi một hệ thống phòng không hoàn thiện hơn được phát triển. Tuy nhiên trong những năm 1970s các mối đe dọa đường không chuyển từ máy bay cường kích-bom chiến thuật sang máy bay trực thăng mang tên lửa có khả năng tấn công từ phía sau đội hình cần bảo vệ. Điều này dẫn đến việc cần thiết phải có hệ thống dựa trên súng pháo bắn nhanh, có tầm bắn xa hơn tầm bắn 1.200 mét của pháo Vulcan. Một giải pháp đưa ra là sử dụng M247 Sergeant York. Tuy nhiên chương trình phát triển pháo này gặp nhiều vấn đề kỹ thuật dẫn đến bị hủy bỏ vào năm 1985. Sau khi chương trình phát triển Sergeant York bị hủy bỏ, Lục quân Mỹ tham gia cùng với Lục quân Canada để phát triển một hệ thống mới với cái tên ADATS dựa trên pháo Oelingkon, rất tương đồng với nguyên mẫu của Mauler cũng dựa trên khung gầm xe M113. ADATS có năng lực tốt hơn Mauler, với tầm bắn tới 10 km và tốc độ tên lửa cao hơn. Tuy nhiên, sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Lục quân Hoa Kỳ đã rút khỏi chương trình phát triển ADATS. Vai trò phòng không được thực hiện bởi hệ thống Bradley Linebacker, dựa trên FIM-92 Stinger. Hải quân Mỹ trong khi đó cần thứ có thể thay thế được RIM-24 Tartar, Hải quân Mỹ cũng tìm kiếm một loại vũ khí có khả năng thay thế cho các hệ thống súng phòng không tầm ngắn trên hạm tàu của mình. Hải quân mong đợi Mauler sẽ được trang bị trên không chỉ là tàu hiện đại nhất của Hải quân khi đó như lớp Knox mà còn hình thành nên một cấu hình phòng không cơ bản của Hải quân Mỹ vào những năm 1970s. Người ta cũng tin tưởng rằng Mauler sẽ cải thiện đáng kể khả năng phòng không của các tàu cỡ nhỏ, giúp nó có khả năng đảm đương nhiệm vụ tương đương một phần với các tàu cỡ lớn hơn như tàu khu trục. Tuy nhiên, sau khi chương trình Mauler bị hủy bỏ, Hải quân Mỹ buộc phải khởi động lại chương trình đã dở dang trước đó để phát triển một hệ thống phù hợp. Do tên lửa hồng ngoại Sidewinder bị giới hạn trong việc chống lại mục tiêu bay như máy bay và tên lửa bay đến trực diện, nên Hải quân Mỹ đã sử dụng AIM-7 Sparrow để thay thế. Dù cho Sparrow là một tên lửa tốt, nhưng nó được thiết kế chuyên biệt để đối phó với máy bay tốc độ cao do đó nó có gia tốc khá thấp, đổi lại cho việc bay hành trình ở cự ly xa hơn và tầm bắn lớn hơn. Do đó, một động cơ mới đã được phát triển và trang bị riêng cho RIM-7 Sea Sparrow, một tên lửa mới dựa trên AIM-7. Để dẫn đường cho tên lửa, một radar chiếu xạ thủ công mới được phát triển. Radar tìm kiếm mục tiêu của tàu chiến sẽ gửi thông tin về mục tiêu thông qua kênh âm thanh tới kíp điều khiển, kíp điều khiển sẽ vận hành thủ công hướng chùm tia radar về phía mục tiêu và phóng tên lửa. Tên lửa sẽ được chứa trong tám ống phóng quay. Toàn bộ hệ thống lớn hơn nhiều so với Mauler nhưng lại có tầm bắn ngắn hơn, và mất nhiều thời gian để chuyển trạng thái chiến đấu hơn. Do nguyên mẫu Sea Sparrow đơn giản và tính năng không cao, nó đã nhanh chóng được nâng cấp. Nhờ áp dụng kiểu cánh có thể gấp lại được nên đã làm giảm kích thước của ống phóng tên lửa, và hệ thống tự động bắt bám mục tiêu cũng sớm được bổ sung cho radar chiếu mục tiêu. Sea Sparrow còn tiếp tục được nâng cấp với radar mảng pha trên các tàu chiến hiện đại giúp trực tiếp dẫn đường cho tên lửa Sparrow, thay vì sử dụng radar chiếu xạ cồng kềnh trước kia. Phiên bản mới nhất có khả năng phóng từ giếng phóng thẳng đứng giúp tăng đáng kể số tên lửa có thể mang trên tàu. Cuối cùng, Hải quân và Lục quân Mỹ đã tìm được giải pháp cho câu hỏi phòng thủ, bắt đầu từ Mauler cho đến các hệ thống có khả năng tốt hơn rất nhiều.
19,821,902
70572026
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821902
Đụng tường
Trong sức bền các môn thể thao như đạp xe đường dài và chạy bộ đường dài, đụng tường là tình trạng đột ngột mệt mỏi và mất năng lượng do cạn kiệt glycogen dự trữ trong gan và cơ. Các trường hợp nhẹ hơn có thể được khắc phục bằng cách nghỉ ngơi ngắn và ăn thức ăn hoặc đồ uống có chứa carbohydrate. Mặt khác, nó có thể được khắc phục bằng cách đạt được hô hấp lần thứ hai bằng cách nghỉ khoảng 10 phút hoặc bằng cách giảm tốc độ đáng kể và tăng tốc độ từ từ trong khoảng thời gian 10 phút. Mười phút là khoảng thời gian cần thiết để axit béo tự do sản xuất đủ ATP để đáp ứng nhu cầu gia tăng.. Có thể tránh được tình trạng này thường bằng cách đảm bảo rằng mức glycogen cao khi bắt đầu tập luyện, duy trì mức glucose trong khi tập luyện bằng cách ăn hoặc uống các chất giàu carbohydrate hoặc bằng cách giảm cường độ tập luyện. Cơ xương chủ yếu dựa vào glycogenolysis trong vài phút đầu tiên khi nó chuyển từ trạng thái nghỉ ngơi sang hoạt động, cũng như trong suốt hoạt động hiếu khí cường độ cao và tất cả các hoạt động kỵ khí. Việc thiếu glycogen gây ra lượng dự trữ ATP thấp trong các tế bào cơ đang tập luyện. Cho đến khi đạt được hô hấp lần thứ hai (tăng sản xuất ATP chủ yếu từ axit béo tự do), các triệu chứng của dự trữ ATP thấp khi tập luyện cơ do cạn kiệt glycogen bao gồm: mỏi cơ, cơ chuột rút, đau cơ nhịp tim nhanh không phù hợp khi tập thể dục (nhịp tim nhanh), khó thở (khó thở) hoặc thở nhanh (thở nhanh), phóng đại tim mạch phản ứng với tập thể dục (nhịp tim nhanh & khó thở/thở nhanh). Tim cố gắng bù đắp cho sự thiếu hụt năng lượng bằng cách tăng nhịp tim để tối đa hóa việc cung cấp oxy và nhiên liệu từ máu đến các tế bào cơ để phosphoryl hóa oxy hóa. Không có glycogen trong cơ, điều quan trọng là phải bước vào cơn gió thứ hai mà không đi quá nhanh, quá sớm cũng như không cố gắng vượt qua cơn đau. Đi quá nhanh, quá sớm khuyến khích chuyển hóa protein hơn chuyển hóa chất béo và đau cơ trong trường hợp này là kết quả của tổn thương cơ do dự trữ ATP thấp nghiêm trọng.
19,821,912
787108
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821912
Katie Higgins Cook
Katie Higgins Cook (nhũ danh Johnson) là một nữ phi công người Mỹ thuộc Thủy quân Lục chiến. Năm 2015, cô trở thành nữ phi công đầu tiên của Blue Angels, và điều khiển chiếc máy bay vận tải C-130 "Fat Albert" trong hai mùa. Cuộc biểu diễn đầu tiên của cô với đội Blue Angels diễn ra ở El Centro, California, vào tháng 3 năm 2015. Cô còn được biết với tên Katie Higgins và gia nhập Blue Angels ở tuổi 28. Đầu đời và học vấn. Higgins là phi công thế hệ thứ ba, cô sinh trưởng trong một gia đình theo quân sự thường chuyển đến sinh sống ở California và Nhật Bản. Cha cô, Bill Johnson, tốt nghiệp Học viện Hải quân năm 1981, ông đã điều khiển chiếc F-18 Hornet trong Hải quân Hoa Kỳ rồi làm kỹ sư cho Northrop Grumman. Cô tốt nghiệp Trung học W. T. Woodson ở Fairfax, Virginia năm 2004. Higgins hoàn thành bằng Cử nhân Khoa học về khoa học chính trị tại Học viện Hải quân Hoa Kỳ ở Annapolis, Maryland vào năm 2008. Cô nhận bằng sắc phong hàm thiếu úy từ Thủy quân lục chiến Hoa Kỳ, cô theo học an ninh quốc tế tại Đại học Georgetown và hoàn thành bằng Thạc sĩ Xã hội và Nhân văn năm 2009. Cô có một người em trai hoạt động trong lĩnh vực chất nổ tốt nghiệp trường Annapolis năm 2010. Sự nghiệp. Higgins trở thành phi công hải quân thuộc phi đội VMGR-252. Cô phục vụ tại Afghanistan để hỗ trợ Chiến dịch Tự do Bền vững. Ở tuổi 26, trong hành động đầu tiên chống lại Taliban vào năm 2013, cô điều khiển chiếc KC-130 (tín hiệu gọi "Filth02"), bắn hai tên lửa Hellfire và loại bỏ vị trí quân địch, cứu sống một nhóm Thủy quân Lục chiến. Cô triển khai đến Châu Phi cùng để hỗ trợ các hoạt động dự phòng. Trong năm 2015, cô đã bay gần 400 giờ chiến đấu qua bảy quốc gia. Blue Angels. Vào tháng 7 năm 2014, Blue Angels tuyển chọn Higgins và các sĩ quan khác vào đội biểu diễn năm 2015. Thông báo được đưa ra ngay sau khi cựu chỉ huy của Blue Angels, Hạm trưởng Gregory McWherter bị khiển trách khi để cấp dưới xem hình ảnh khiêu dâm trong buồng lái cùng những hành vi dâm ô khác. Higgins nhận những bình luận lý do duy nhất cô được chọn vì là phụ nữ, nhưng khẳng định với Blue Angels, "Ứng viên thích hợp nhất sẽ có được công việc – không quan trọng giới tính nào." Higgins tham gia cuộc biểu diễn Blue Angels đầu tiên vào tháng 3 năm 2015. Chiếc C-130 Hercules mang tên "Fat Albert", do cô lái luân phiên cùng với các Thủy quân lục chiến khác, là phần mở đầu của cuộc biểu diễn Blue Angels kéo dài khoảng tám phút. Diễn tập nhanh nhất do Fat Albert thực hiện được gọi là "con đường bằng phẳng", bay với tốc độ 370 dặm trên giờ ở độ cao 40 feet. Các diễn tập khác bao gồm "vượt qua duyệt binh", qua độ cao 300 foot ở góc 60 độ và "leo dốc", leo 45 độ tới độ cao 1.200 foot, tiếp theo lao xuống mũi dốc đứng gây ra không trọng lượng đối với hành khách ở phía sau máy bay. Trong năm 2019, cô được biết với tên Katie Higgins Cook với quân hàm Thiếu tá. Truyền thông. Năm 2020, Cook trở thành khách mời trong buổi ra mắt mùa thứ 24 của chương trình "The Bachelor". Trong chương trình, cô giúp phi công Peter Weber thuộc Delta Air Lines, tổ chức một buổi hẹn hò theo nhóm, trong đó anh đưa các thí sinh nữ vượt qua chương trình huấn luyện bay bao gồm đi bằng con quay hồi chuyển. Katie Higgins Cook được vinh danh trong "American Valor: A Salute to Our Heroes", một chương trình truyền hình đặc biệt từng đoạt giải Emmy do Trung tâm Cựu chiến binh Hoa Kỳ sản xuất và dẫn chuyện bởi Harrison Ford. Gia đình. Katie Higgins kết hôn với Dusty Cook là phi công của Blue Angels, cả hai gặp nhau lần đầu ở VMGR-252 và bắt đầu hẹn hò sau khi Dusty Cook rời khỏi đội Blue Angels. Họ có hai người con và sinh sống ở Texas.
19,821,920
518426
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821920
Fundadores de São Paulo
Fundadores de São Paulo (tạm dịch: Những vị đấng sáng lập São Paulo) là một tượng đài nằm ở khu phố Vila Mariana của São Paulo, Brazil. Tác phẩm được tạc bởi nhà điêu khắc người Brazil nhằm vinh danh những vị thuỷ tổ có công sáng lập thành phố. Tượng đài được khánh thành vào ngày 25 tháng 1 năm 1963 sau 10 năm xây dựng. Mô tả. Tượng đài được điêu khắc bởi Luis Morrone, có vị trí nằm trên phố Nábia Abdala Chohfi, ở góc Đại lộ Sargento Mario Kozel Filho, gần R. Manoel da Nóbrega, trong khu phố Vila Mariana của São Paulo, Brazil. Tác phẩm điêu khắc này nằm giữa Nhà thi đấu Ibirapuera và Đài tưởng niệm Bandeiras. Tượng đài nằm ở phía trước , nhưng ban đầu được đặt gần Praça da Sé cho đến những năm 1970. Có chín nhân vật tượng đồng được điêu khắc trong tác phẩm, trong đó có 3 nhân vật mang vai trò tôn giáo (và ), 2 nhà thám hiểm người Bồ Đào Nha (Martim Afonso de Souza và ) và 3 người bản xứ (Bartira, Tibiriçá và cậu bé Curumim). Nhân vật thứ chín là một em bé nằm trong lòng Bartira không được xác định rõ danh tính. Một cây thánh giá được đặt ở trung tâm nhằm đề cập đến tôn giáo chủ yếu của thành phố là Công giáo. Hai tấm bảng trên bệ đá hoa cương đại diện cho quần chúng nhân dân đầu tiên ở São Paulo và sự thành lập của São Vicente. Phần chính của tượng đài được làm bằng đồng và đá hoa cương có kích thước , nằm trên một bệ đá cũng làm từ đá hoa cương có kích thước . Cây thánh giá ở vị trí trung tâm có chiều cao . Lịch sử. Việc xây dựng tượng đài bắt đầu bằng việc đặt viên đá nền vào ngày 18 tháng 10 năm 1952 và được hoàn thành vào năm 1962. Tác phẩm được khánh thành vào ngày 25 tháng 1 năm 1963 vào ngày kỷ niệm thành lập thành phố. Tấm bảng tượng trưng cho quần chúng nhân dân đầu tiên đã bị lấy trộm vào năm 2004. Và vì không có bức ảnh nào chụp lại tấm bảng này, nó đã được thay thế bằng một tấm bảng tạm thời ghi lại vụ trộm. Ít nhất kể từ năm 2016 dường như không còn cây thánh giá nào ngoại trừ cây thánh giá đang đặt ở vị trí giữa.
19,821,931
518426
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821931
Martin Perscheid
Martin Perscheid (16 tháng 2 năm 1966 – 31 tháng 7 năm 2021) là một họa sĩ truyện tranh người Đức. Ông đã tạo ra một nhân vật chính vào năm 1994, nhân vật này xuất hiện từ năm 1998 với tựa đề "Perscheids Abgründe" (tạm dịch là "Vực thẳm của Perscheid"). Hơn 4.300 cột tranh biếm hoạ đã xuất hiện trên một số tờ báo và tạp chí của Đức. Ông còn được biết đến với "cái nhìn không sợ hãi về vực thẳm của con người về phân biệt giới tính, phân biệt chủng tộc, sự thiếu hiểu biết, tham nhũng và ngu si tất cả được ghi lại dưới sự hài hước của hài đen." Cuộc đời. Perscheid sinh ra ở Wesseling vào ngày 16 tháng 2 năm 1966, nơi ông đã sống và làm việc cho đến khi qua đời. Ông đã được đào tạo làm một hoạ sĩ in thạch bản. Perscheid đã kết hôn và có hai con nhưng vào thời điểm qua đời, ông đang có mối quan hệ tình cảm với đồng nghiệp là nữ họa sĩ truyện tranh Nadia Menze. Perscheid qua đời vào ngày 31 tháng 7 năm 2021 sau một thời gian dài đối mặt với căn bệnh ung thư. Sinh ra trong một gia đình Công giáo, Perscheid sớm trở thành một người theo chủ nghĩa vô thần và nhân văn, điều này ảnh hưởng đáng kể đến sự nghiệp của ông. Từ năm 2020 cho đến khi qua đời, ông là thành viên ban cố vấn của Giordano Bruno Foundation, một tổ chức phi lợi nhuận đến từ Đức nhằm thúc đẩy chủ nghĩa nhân văn tiến hóa và sự khai sáng. Truyện tranh. Phong cách vẽ của Perscheid được so sánh với phong cách của Gary Larson. Các chủ đề trong truyện tranh của ông thường là châm biếm, kể cả những chủ đề bị cho là cấm kỵ và thường bao gồm cả hài đen. Loạt truyện tranh của ông được vẽ ở định dạng ô thẳng đứng không thay đổi, có khung màu đen, được vẽ bằng các nét thưa thớt và phóng nét vẽ một cách chính xác ("mit zielsicherer Pointenführung"). Các tác phẩm của Perscheid đã được đăng trên nhiều tờ báo và tạp chí của Đức. Năm 1994, ông gia nhập Lappan Verlag và gắn bó cho đến khi qua đời. Sau đó, vị hoạ sĩ này còn sáng tạo ra nhân vật chính của mình, một người đàn ông hói đầu, đeo kính và là người thay thế cho chính bản thân Perscheid. Loạt truyện hoạt hình xoay quanh nhân vật của ông năm 1996 có tên là "Perscheids Abgründe". Ông đã vẽ hơn hơn 4.300 tranh biếm hoạ về tác phẩm. Perscheid đã xuất bản cuốn sách đầu tiên của mình vào năm 1995. Trong sự nghiệp của mình, ông đã cho ra mắt hơn 25 cuốn sách với truyện tranh. Giải thưởng và di sản. Truyện tranh của Perscheid đã được trưng bày tại các viện bảo tàng, bao gồm một buổi trưng bày tại bảo tàng Caricatura ở Kassel và Bảo tàng der niederrheinischen Seele vào năm 2017. Perscheid đã nhận được nhiều giải thưởng cho sự nghiệp của mình, bao gồm Giải thưởng Max & Moritz 2002 cho hạng mục Truyện tranh bằng tiếng Đức hay nhất, cũng như "Kulturplakette" (Giải thưởng Văn hóa) từ quê hương Wesseling của bản thân ông. Bảo tàng Caricatura đã vinh danh ông bằng một tác phẩm điêu khắc nhân vật hoạt hình của ông có tên là "Der unbekannte Idiot" (tạm dịch là "kẻ ngốc vô danh"). Sau khi qua đời, nhà xuất bản của Perscheid bày tỏ trong cáo phó rằng: "Sự dũng cảm của ông ấy khi nhìn thoáng qua tận cùng vực thẳm của con người về phân biệt giới tính, phân biệt chủng tộc, sự thiếu hiểu biết, tham nhũng và ngu si, cũng như cách ông thể hiện lại tất cả những điều này trong truyện tranh với sự chế nhạo gay gắt và hài đen là điều độc nhất vô nhị."
19,821,934
161772
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821934
Phosphoryl hóa oxy hóa
Phosphoryl hóa oxy hóa hoặc Phosphoryl hóa liên kết vận chuyển điện tử hoặc oxy hóa đầu cuối là con đường trao đổi chất trong đó tế bào sử dụng enzyme để oxy hóa chất dinh dưỡng, do đó giải phóng năng lượng hóa học để tạo ra adenosine triphosphate (ATP). Ở sinh vật nhân chuẩn, điều này diễn ra bên trong ti thể. Hầu như tất cả sinh vật hiếu khí đều thực hiện quá trình phosphoryl hóa oxy hóa. Con đường này rất phổ biến vì nó giải phóng nhiều năng lượng hơn các quá trình lên men thay thế như kỵ khí glycolysis. Tnăng lượng được lưu trữ trong các liên kết hóa học của glucose được tế bào giải phóng trong chu trình acid citric tạo ra carbon dioxide, và năng lượng chất cho điện tử NADH và FADH. Phosphoryl hóa oxy hóa sử dụng các phân tử này và O2 để tạo ra ATP,được sử dụng khắp tế bào bất cứ khi nào cần năng lượng. Trong quá trình phosphoryl hóa oxy hóa, các electron được chuyển từ các chất cho điện tử sang một loạt chất nhận điện tử trong một chuỗi phản ứng oxy hóa khử kết thúc bằng oxy, phản ứng giải phóng một nửa tổng năng lượng.
19,821,935
912316
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821935
Western & Southern Open 2023
Western & Southern Open 2023 là một giải quần vợt nam và nữ thi đấu trên mặt sân cứng ngoài trời diễn ra từ ngày 13 đến ngày 20 tháng 8 năm 2023. Đây là một giải đấu Masters 1000 trong ATP Tour 2023 và WTA 1000 không Mandatory trong WTA Tour 2023. Giải đấu năm 2023 là lần thứ 122 (nam) và lần thứ 95 (nữ) giải Cincinnati Masters được tổ chức và diễn ra tại Lindner Family Tennis Center ở Mason, Ohio, ngoại ô phía bắc Cincinnati, Hoa Kỳ. Nội dung đơn ATP. Hạt giống. Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng ATP vào ngày 7 tháng 8 năm 2023. Xếp hạng và điểm trước vào ngày 14 tháng 8 năm 2023. Vận động viên khác. Đặc cách: Bảo toàn thứ hạng: Vượt qua vòng loại: Thua cuộc may mắn: Nội dung đôi ATP. Vận động viên khác. Đặc cách: Nội dung đơn WTA. Hạt giống. Dưới đây là những tay vợt được xếp loại hạt giống. Hạt giống dựa trên bảng xếp hạng WTA vào ngày 7 tháng 8 năm 2023. Xếp hạng và điểm trước vào ngày 14 tháng 8 năm 2023. † Điểm từ kết quả tốt nhất của lần 16 (cho điểm bảo vệ) hoặc kết quả tốt nhất của lần 17 (cho điểm thắng), vào ngày 14 tháng 8 năm 2023.<br> ‡ Điểm từ giải WTA 1000 không Mandatory thứ hai tốt nhất của tay vợt, phải được tính vào xếp hạng của tay vợt.<br> § Không thay đổi điểm vì điểm từ giải đấu không được tính là một trong 16 kết quả tốt nhất của tay vợt. Vận động viên khác. Đặc cách: Bảo toàn thứ hạng: Vượt qua vòng loại: Thua cuộc may mắn: Nội dung đôi WTA. Vận động viên khác. Đặc cách: Bảo toàn thứ hạng: Thay thế:
19,821,937
836926
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821937
Western & Southern Open 2023 - Đơn nam
Novak Djokovic là nhà vô địch, đánh bại Carlos Alcaraz trong trận chung kết, 5–7, 7–6(9–7), 7–6(7–4). Đây là danh hiệu Cincinnati Masters thứ 3 và là danh hiệu ATP Tour Masters 1000 thứ 39 của Djokovic. Trận đấu giữa Djokovic và Alcaraz là trận chung kết ATP Tour theo thể thức đánh ba thắng hai dài nhất và cũng là trận đấu dài nhất trong lịch sử giải đấu, với 3 tiếng 49 phút. Borna Ćorić là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 2 trước Hubert Hurkacz. Alcaraz và Djokovic cạnh tranh vị trí số 1 bảng xếp hạng đơn ATP. Alcaraz giữ nguyên thứ hạng sau khi vào trận chung kết. Đây là giải đấu đầu tiên của Djokovic ở Hoa Kỳ kể từ sau Giải quần vợt Mỹ Mở rộng 2021, sau khi yêu cầu tiêm chủng vắc-xin COVID-19 đối với hành khách quốc tế được dỡ bỏ vào tháng 5 năm 2023. Hạt giống. 8 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2. Kết quả. Chung kết. <section begin=Finals /><section end=Finals />
19,821,938
836926
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821938
Western & Southern Open 2023 - Đơn nữ
Coco Gauff là nhà vô địch, đánh bại Karolína Muchová trong trận chung kết, 6–3, 6–4. Đây là danh hiệu WTA 1000 đầu tiên của Gauff và là trận chung kết WTA 1000 đầu tiên của cả Gauff và Muchová. Cô cũng trở thành tay vợt trẻ nhất vô địch giải đấu. Với việc vào trận chung kết, Muchová có lần đầu tiên vào top 10 trên bảng xếp hạng WTA. Caroline Garcia là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 2 trước Sloane Stephens. Hạt giống. 8 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2.
19,821,939
845147
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821939
Western & Southern Open 2023 - Đôi nam
Máximo González và Andrés Molteni là nhà vô địch, đánh bại Jamie Murray và Michael Venus trong trận chung kết, 3–6, 6–1, [11–9]. Đây là danh hiệu ATP Tour Masters 1000 đầu tiên của González và Molteni. Rajeev Ram và Joe Salisbury là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 2 trước González và Molteni. Hạt giống. 4 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2. Kết quả. Chung kết. <section begin=Finals /><section end=Finals />
19,821,948
836926
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821948
Western & Southern Open 2023 - Đôi nữ
Alycia Parks và Taylor Townsend là nhà vô địch, đánh bại Nicole Melichar-Martinez và Ellen Perez trong trận chung kết, 6–7(1–7), 6–4, [10–6]. Lyudmyla Kichenok và Jeļena Ostapenko là đương kim vô địch, nhưng thua ở vòng 2 trước Parks và Townsend. Hạt giống. 4 hạt giống hàng đầu được miễn vào vòng 2.
19,821,954
845234
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821954
Ga Eocheon
Ga Eocheon (Tiếng Hàn: 어천역, Hanja: 漁川驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Suin–Bundang, nằm ở nằm ở Eocheon-ri, Maesong-myeon, Hwaseong, Gyeonggi-do. Trước khi mở cửa trở lại vào ngày 12 tháng 9 năm 2020, Tuyến Suin khổ hẹp hoạt động cho đến năm 1995 và tòa nhà ga vào thời điểm đó được sử dụng làm phòng nghỉ cho nhân viên của các nhà máy gần đó trong một thời gian ngay cả sau khi nhà ga bị đóng cửa và bị phá bỏ vào nửa đầu năm 2013
19,821,962
808250
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821962
La Liga 2023–24
La Liga 2023–24 (còn được gọi là LaLiga EA Sports vì lý do tài trợ) là mùa giải thứ 93 của La Liga, giải đấu bóng đá hàng đầu của Tây Ban Nha. Giải đấu bắt đầu vào ngày 11 tháng 8 năm 2023 và dự kiến ​​kết thúc vào ngày 26 tháng 5 năm 2024. Barcelona là đương kim vô địch, đã giành chức vô địch thứ 27 ở mùa giải trước. Các đội tham dự. Thăng hạng và xuống hạng. Tổng cộng có 20 đội tham dự giải, bao gồm 17 đội từ mùa 2022–23 và 3 đội thăng hạng từ Segunda División 2022–23 (2 đội đầu bảng và 1 đội thắng play-off thăng hạng). Elche là đội đầu tiên xuống hạng vào ngày 2 tháng 5 năm 2023, sau trận thua 2–1 trước Almería. Đội thứ hai là Espanyol, vào ngày 28 tháng 5 năm 2023, sau trận hòa 2–2 trước Valencia. Đội cuối cùng xuống hạng là Real Valladolid, sau trận hòa 0–0 trước Getafe vào ngày 4 tháng 6 năm 2023. Hai đội đầu tiên giành được suất thăng hạng là Granada và Las Palmas, hai đội đứng đầu mùa giải 2022–23. Granada trở lại La Liga sau một năm vắng bóng, Las Palmas trở lại sau 5 năm. Đội cuối cùng được thăng hạng là Alavés sau khi giành chiến thắng 1–0 trong trận chung kết play-off trước Levante, trở lại La Liga chỉ sau 1 năm bị xuống hạng. Nhân sự và nhà tài trợ. ! Đội ! Huấn luyện viên trưởng ! Đội trưởng ! Nhà tài trợ trang phục ! Nhà tài trợ chính ! (Các) nhà tài trợ khác
19,821,984
845234
https://vi.wikipedia.org/wiki?curid=19821984
Ga Yamok
Ga Yamok (Tiếng Hàn: 야목역, Hanja: 野牧驛) là ga tàu điện ngầm trên Tuyến Suin–Bundang, nằm ở nằm ở Yamok-ri, Maesong-myeon, Hwaseong, Gyeonggi-do. Nó bắt đầu hoạt động với việc khai trương Tuyến Suin vào tháng 8 năm 1937, ngừng xử lý hành khách vào tháng 1 năm 1996 và tiếp tục hoạt động như một ga đường đôi khổ tiêu chuẩn vào ngày 12 tháng 9 năm 2020