text
stringlengths 0
308k
| title
stringlengths 0
51.1k
⌀ | categories
stringlengths 0
57.3k
|
---|---|---|
Kể về thời tuổi tuổi thơ của cậu bé đam mê bóng đá Ozora Tsubasa khi hoàn thành xong lớp và chuyển đến trường tiểu học Nankatsu để hoàn thành năm lớp cuối cùng của cấp tiểu học (tại Nhật tiểu học từ lớp 1-6). Ozora Tsubasa Ozora Tsubasa (tên cũ: hyuga Là nhân vật chính xuyên suốt bộ truyện, một thiên tài bóng đá. Cậu sinh ra Tokyo, trong một gia đình có cha làm nghề thủy thủ, mẹ là nội trợ. Hàng xóm trước đây của cậu là gia đình của Yayoi người bạn thân thuở bé của Tsubasa. Ngay từ bé, cậu đã rất thích chơi bóng đá. Quả bóng luôn đi theo bên cậu mọi lúc, mọi nơi. Nó đã từng cứu mạng Tsubasa khi cậu còn rất nhỏ. Năm học lớp 6, gia đình cậu chuyển đến Shizuoka. Cậu đã gặp rất nhiều người bạn mới như đội trưởng Ishizaki Ryou, quản lý Sanae Anego,... của đội bóng trường Tiểu học Nankatsu. Cậu còn gặp và so tài cao thấp cùng thủ môn thiên tài, đội trưởng đội bóng trường Tiểu học Shutetsu Wakabayashi Genzo. Wakabayashi hẹn cậu tại trận đấu Liên trường. Đúng lúc đó, cựu cầu thủ nổi tiếng người Brazil Robert Hongo được cha Tsubasa giới thiệu sang Nhật chữa trị chấn thương mắt. Ông đã nhờ nhà Tsubasa và nhận làm huấn luyện viên cho đội bóng Nankatsu để chuẩn bị cho trận đấu. Tại trận Liên trường, một cầu thủ mới chuyển đến là Misaki Taro xuất hiện. Từ đó đã khai sinh nên bộ đôi vàng Nankatsu giữa Ozora Tsubasa và Misaki Taro. Sau khi trận đấu giữa Nankatsu và Shutetsu hòa với tỉ số 2, ban tổ chức đã cho hợp tất cả các cầu thủ tài năng của tất cả đội bóng Shizuoka, tạo thành một đội mới gọi là Nankatsu FC. Tsubasa đã dẫn cả đội tiến thẳng đến Đại hội toàn quốc, tranh tài cùng các đối thủ vô cùng mạnh như: Takeshi và Hyuga Kojiro (Meiwa FC); Misugi Jun;.... Sau này cậu tới Brazil đầu quân cho Sao Paulo, và gặt hái thành công tại đội bóng này. Misaki Taro Cậu là người đá cặp với Tsubasa và cũng là bạn thân của Tsubasa. Do trong quá khứ, bố mẹ cậu đã ly dị nên cậu phải đi theo ba cậu Misaki Ichiro, một hoạ sĩ tài ba và nổi tiếng đến khắp mọi nơi trên nước Nhật. Cậu đã từng chơi nhiều câu lạc bộ như: Furano FC(Furano, Hokkaido); Meiwa FC(Saitama);... Sau khi ngừng chơi Nankatsu SC, cậu đã chuyển tới Okinawa. Trước khi đi công tác Pháp, vì không muốn con trai phải xa bạn bè, ông Ichiro dự định sẽ cho con sống cùng vợ cũ Yamaoka Yumiko, và em gái cùng mẹ khác cha Yamaoka Yoshiko. Nhưng vì lí do nào đó nên cậu quyết định du học tại Pháp. Hyuga Kojiro Hyuga Kojiro (日向 小次郎) tiền đạo của Meiwa FC. Cậu là mẫu tiền đạo sức mạnh trái ngược với Tsubasa (tiền đạo kỹ thuật). Takeshi Sawada Là bạn đồng hành và là người phối hợp với Hyuga ăn nhất. Ken Wakashimazu Là thủ môn thiên tài của Meiwa FC. Matsuyama Hikaru Matsuyama Hikaru (松山光) là đội trưởng của đội Furano. Cậu cũng đóng vai trò tiền đạo chủ lực của đội bóng và truyền cảm hứng cho các thành viên nhờ chí sắt đá của mình. Ngoài ra cậu cũng thuộc kiểu người dễ gần, ấm áp. Kazumasa Oda Kazumasa Oda (小田和正) là tiền đạo của Furano FC, cánh tay phải đắc lực của Matsuyama. Masanori Kato Masanori Kato (加藤正則) là thủ môn của Furano FC. Cậu mang áo số 1. Kato cũng được chọn vào đội hình đội tuyển quốc gia Nhật Bản thi đấu tại Giải Bóng đá Thanh niên thế giới. Misugi Jun Misugi Jun (三杉 淳) là đội trưởng Musashi. Cậu là một cầu thủ rất đẹp trai và toàn diện nhưng bị bệnh tim, đã từng gây không ít khó khăn cho Tsubasa, Misaki và cả đội Nankatsu. Anh em nhà Tachibana = = | Ozora Tsubasa | Danh sách nhân vật trong anime và manga |
Ngọ Doãn Trù (chữ Hán:午尹儔 ?-?), là người xã Bắc Lý, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Ông làm quan Đoán sự dưới thời vua Lê Chiêu Tông. Trong cuốn gia phả họ Ngọ hiện được cất giữ tại Bắc Sơn, xã Bắc Lý có ghi ông sinh tại xã Bắc Lý, huyện Việt Yên (nay là xã Bắc Lý, huyện Hiệp Hòa). Năm 1518 tức năm Quang Thiệu thứ 3, ông thi Đình đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân. Ông làm quan đến chức Đoán sự dưới thời vua Lê Chiêu Tông. Hiện nay, thi hài ông được thờ tại nghè Long Động, xã Bắc Lý, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang. Lăng họ Ngọ Lăng Dinh Hương Hùng Linh Công | Ngọ Doãn Trù | |
Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam là một chức vụ cao cấp trong Quân đội nhân dân Việt Nam, đứng đầu Bộ Tổng tham mưu (thuộc Bộ Quốc phòng, có chức trách tổ chức lực lượng, chỉ huy và điều hành các hoạt động quân sự quân đội. Đồng thời kiêm chức vụ Thứ trưởng Bộ Quốc phòng. Ngoài ra, Tổng tham mưu trưởng còn giữ nhiệm vụ tham mưu cho Quân ủy Trung ương và Bộ trưởng Quốc phòng về mặt quản lý nhà nước và chỉ huy quân đội. Theo Luật Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam sửa đổi, bổ sung năm 2014 tại Điều 15 thì chức vụ Tổng Tham mưu trưởng có cấp bậc quân hàm cao nhất là Đại tướng. Tại Điều 25, thẩm quyền quyết định đối với sĩ quan thì Chủ tịch nước có quyền bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Tổng Tham mưu trưởng theo sự đề nghị của Thủ tướng Chính phủ. Theo Quy định số 89-QĐ/TW ngày 19 tháng 12 năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, tại Phụ lục 1, Mục I, Tiểu mục và tại Điều 4, Điều 13 thì chức danh Tổng Tham mưu trưởng có thời hạn giữ chức vụ là năm và thuộc diện thẩm quyền Bộ Chính trị quản lý, đánh giá, bố trí, giới thiệu ứng cử, chỉ định; quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng; điều động, luân chuyển, bổ nhiệm, miễn nhiệm, cho thôi giữ chức, đình chỉ chức vụ; khen thưởng, kỷ luật. Các đồng chí giữ chức vụ Tổng Tham mưu trưởng thường kiêm nhiệm chức danh Thứ trưởng Bộ Quốc phòng và giữ các chức danh trong Đảng là Ủy viên Trung ương Đảng, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương. Theo Quy định số 89-QĐ/TW ngày tháng năm 2017 và Quy định số 90-QĐ/TW ngày tháng năm 2017 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng thì tiêu chuẩn chung của chức danh Tổng Tham mưu trưởng bao gồmː Về chính trị tư tưởngː Trung thành với Tổ quốc, Nhà nước. Lập trường bản lĩnh chính trị vững vàng. Về đạo đức, lối sốngː Mẫu mực, trung thực, khiêm tốn, chân thành, cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Về trình độː Tốt nghiệp đại học trở lên (chuyên về lĩnh vực quân sự). Về năng lực và uy tínː Có tư duy đổi mới, tầm nhìn chiến lược; phương pháp làm việc khoa học; nhạy bén chính trị; có năng lực cụ thể hóa và lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện có hiệu quả. Là hạt nhân quy tụ được cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân tin tưởng, tín nhiệm cao. Sức khỏe, độ tuổi và kinh nghiệmː Đủ sức khỏe, đã kinh qua và hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ của chức danh lãnh đạo, quản lý chủ chốt cấp dưới trực tiếp đây; có nhiều kinh nghiệm thực tiễn. Theo Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19/5/2018 tại phần III, mục có quy định cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp trên phải kinh qua vị trí chủ chốt cấp dưới. Cơ cấu tổ chức của Bộ Quốc phòng gồm có Bộ Tổng Tham mưu, Tổng cục Chính trị, các Quân khu, các Quân chủng, các Tổng cục, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, như vậy để được bổ nhiệm chức danh Tổng Tham mưu trưởng thì phải kinh qua cấp dưới chủ chốt trực tiếp hay từng giữ các chức vụ đó là Phó Tổng Tham mưu trưởng, Tư lệnh Quân khu, Tư lệnh Quân chủng. Tổng tham mưu trưởng là người đứng đầu Bộ Tổng tham mưu, chịu trách nhiệm trước Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về toàn bộ hoạt động của Bộ Tổng tham mưu và có trách nhiệm: Tổ chức thực hiện những công việc thuộc thẩm quyền quy định trong Hiến pháp Tổ chức thực hiện những công việc được Chủ tịch nước, Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng giao hoặc ủy quyền Tổ chức thực hiện chức năng, nhiệm vụ quản lý nhà nước theo quy định Tổ chức thực hiện Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của Bộ Tổng tham mưu Tham mưu cho Quân ủy Trung ương và Bộ trưởng Quốc phòng về mặt quản lý nhà nước và chỉ huy quân đội *Phụ trách chỉ đạo khối các Quân khu, Quân đoàn, Học viện, Nhà trường Nâng bậc lương và phiên quân hàm quân nhân chuyên nghiệp cấp Thượng tá. Điều động quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên chức quốc phòng, hạ sĩ quan chiến sĩ từ đơn vị này sang đơn vị khác thuộc Bộ Quốc phòng. Chuyển chế độ phục vụ tại ngũ từ công nhân viên chức quốc phòng, hạ sĩ quan chiến sĩ sang quân nhân chuyên nghiệp hoặc ngược lại. STT Hình Họ và tênNăm sinh–mất Thời gianđảm nhiệm Cấp bậc Quân chủng Ghi chú 90px Hoàng Văn Thái(1915 1986) 1945 1953 Đại tướng Lục quân 119x119px Văn Tiến Dũng(1917 2002) 1953 1978 Đại tướng Lục quân 120x120px Lê Trọng Tấn(1914 1986) 1978 1986 Đại tướng Lục quân Mất năm 1986 99x99px Lê Đức Anh(1920 2019) 1986 1987 Đại tướng Lục quân 90px Đoàn Khuê(1923 1999) 1987 1991 Đại tướng Lục quân 90px Đào Đình Luyện(1929 1999) 1991 1995 Thượng tướng Phòng không Không quân 90px Phạm Văn Trà(1935–) 1995 1997 Đại tướng Lục quân 90px Đào Trọng Lịch(1939 1998) 1997 1998 Trung tướng Lục quân Tử nạn năm 1998 90px Lê Văn Dũng(1945–) 1998 2001 Đại tướng Lục quân 10 90px Phùng Quang 2001 31/8/2006 Đại tướng Lục quân 11 90px Nguyễn Khắc Nghiên(1951 2010) 31/8/2006 22/12/2010 Thượng tướng Lục quân Qua đời năm 2010 12 117x117px Đỗ Bá Tỵ(1954–) 22/12/2010 17/5/2016 Đại tướng Lục quân 13 Phan Văn Giang(1960–) 17/5/2016 31/5/2021 Đại tướng Lục quân 14 Nguyễn Tân Cương'''(1966–) 31/5/2021– nay Thượng tướng Lục quân +Chân dung Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam (1945 nay) 900x900px Lục quân: 13 Không quân: Hải quân: Cảnh sát biển: Biên phòng: *Bộ trưởng Bộ Quốc phòng *Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị *Phó Tổng tham mưu trưởng | Tổng tham mưu trưởng Quân đội nhân dân Việt Nam | |
6562 Takoyaki (1991 VR3) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày tháng 11 năm 1991 bởi M. Yanai và K. Watanabe Kitami. *Takoyaki JPL Small-Body Database Browser 6562 Takoyaki | 6562 Takoyaki | |
Có khoảng hai mươi ngôn ngữ tại Bhutan, tất cả đều là những ngôn ngữ Tạng-Miến, trừ tiếng Nepal, một ngôn ngữ Indo-Arya. Tiếng Dzongkha, ngôn ngữ quốc gia, là ngôn ngữ duy nhất có truyền thống văn học tại Bhutan, dù tiếng Lepcha và Nepal là ngôn ngữ văn học tại những quốc gia khác. Tiếng Nepal được dùng tại các cộng đồng Lhotshampa Nam Bhutan, các ngôn ngữ thiểu số có nguồn gốc phi Bhutan khác được sử dụng dọc theo biên giới. Nhóm ngôn ngữ Trung Bod là một nhóm ngôn ngữ Tạng xuất phát từ tiếng Tạng Cổ (Chöke). Đa phần các ngôn ngữ Trung Bod tại Bhutan thuộc về phân nhóm Nam. Tiếng Dzongkha là một ngôn ngữ Trung Bod với chừng 160.000 người nói (2006). Đây là thứ tiếng chiếm ưu thế tại Tây Bhutan, và đã là ngôn ngữ của chính phủ và giáo dục tại Bhutan từ năm 1971. Tiếng Chocangaca, một "ngôn ngữ chị em" của Dzongkha, được nói tại Thung lũng Kurichu Đông Bhutan bởi chừng 20.000 người. Tiếng Lakha (8.000 người nói) và Brokkat (300 người nói) Trung Bhutan, cũng như tiếng Brokpa (5.000 người nói) cực Đông Bhutan, được Van Driem (1993) xếp vào nhóm Trung Bod. Phương ngữ Laya, gần với tiếng Dzongkha chuẩn, được nói bởi khoảng 1.100 người Layap tại vùng biên giới tây bắc với Tây Tạng. Người Layap là những người du cư hoặc bán du cư, truyền thống chăn nuôi yak và dzo. Người nói Dzongkha và Laya có thể hiểu nhau mức độ nào đó, nhờ vào tương đồng ngữ pháp và từ vựng cơ bản. 1.000 người nói tiếng Tạng Khams tại Đông Bhutan, họ cũng là hậu duệ của những người chăn nuôi yak. Dù rõ ràng là ngôn ngữ Tạng, vị trí phân loại chính xác của tiếng Tạng Khamps không chắc chắn. Tám thứ tiếng tại Bhutan thuộc nhóm ngôn ngữ Đông Bod, đây không phải là nhóm ngôn ngữ Tạng có quan hệ gần gũi nhưng cũng xuất phát từ tiếng Tạng Cổ (hoặc một thứ tiếng rất gần tiếng Tạng Cổ). Tiếng Bumthang là ngôn ngữ tiếng ưu thế tại Trung Bhutan. Nó có chừng 30.000 người nói. Kheng (40.000 người nói) và tiếng Kurtöp (10.000 người nói) là các "ngôn ngữ chị em" của tiếng Bumthang. Tiếng Dzala (Dzalakha) có khoảng 15.000 người nói. Tiếng Nyen (Henkha hay và tiếng 'Ole (Mönkha) được nói Dãy núi Đen Trung Bhutan bởi lần lượt 10.000 và 1.000 người. Van Driem (1993) xem 'Ole là vết tích của ngôn ngữ của dân cư nguyên thủy tại dãy núi Đen trước khi có sự Nam tiến của các bộ tộc Đông Bod cổ. Ngoài ra, tiếng Dakpa (Dakpakha) và Chali (Chalikha), mỗi thứ có khoảng 1.000 người nói, hiện diện tại Đông Bhutan. Có những ngôn ngữ Tạng-Miên khác tại Bhutan. Những ngôn ngữ này có quan hệ xa hơn với nhóm ngôn ngữ Bod. Tiếng Tshangla có khoảng 138.000 người nói. Đây là tiếng mẹ đẻ của người Sharchops. Nó là ngôn ngữ nổi trội Đông Bhutan và là lingua franca của vùng này. Tiếng Gongduk là một ngôn ngữ bị đe dọa với 1.000 người nói những ngôi làng tách biệt dọc sông Kuri Chhu. Nó có vẻ là đại diện duy nhất của một nhánh riêng biệt thuộc ngữ tộc Tạng-Miến, và vẫn duy trì hệ thống hợp động từ phức tạp của ngôn ngữ Tạng-Miến nguyên thủy. 2.000 người Lepcha tại Bhutan nói tiếng Lepcha, thứ tiếng này sở hữu một hệ thống chữ viết riêng (bảng chữ cái Lepcha). Tiếng Lhokpu có khoảng 2.500 người nói. Đây là một ngôn ngữ chưa được phân loại rõ. Van Driem (1993) xem có là vết tích của nhóm "dân cư du mục Tây Bhutan". Nó được người Lhop sử dụng. Tiếng Nepal là ngôn ngữ Indo-Arya duy nhất của người dân sống bản địa Bhutan. Tại Bhutan, nó hiện diện chủ yếu miền Nam, sử dụng bởi 265.000 người Lhotshampa (2006). Dù người Lhotshampa đa phần nói tiếng Nepal, nhóm người Lhotshampa cũng gồm nhiều dân tộc khác như Tamang, Gurung, và nhóm Kirant (gồm người Rai và Limbu). Trong những nhóm thiểu số này có người nói Chamling, Limbu, và Nepal Bhasa. Dzongkha Development Commission Official language body of Bhutan | ngôn ngữ tại Bhutan | |
721 Tabora Tên Tên Tabora Tên chỉ định 1911 MZ Phát hiện Người phát hiện Franz Kaiser Ngày phát hiện 18 tháng 10 năm 1911 Nơi phát hiện Heidelberg Thông số quỹ đạo KNTV 18 tháng năm 2005 (ngJ 2453600.5) Độ lệch tâm (e) 0.108 Bán trục lớn (a) 3.559 ĐVTV Cận điểm quỹ đạo (q) 3.173 ĐVTV Viễn điểm quỹ đạo (Q) 3.945 ĐVTV Chu kỳ quỹ đạo (P) 6.715 NJ Độ nghiêng quỹ đạo (i) 8.344° Kinh độ (Ω) 38.822° Acgumen (ω) 356.051° Độ bất thường trung bình (M) 347.765° 721 Tabora là một tiểu hành tinh vành đai chính, thuộc nhóm tiểu hành tinh Cybele. Nó được Franz Kaiser phát hiện ngày 18.10.1911 Heidelberg, và được đặt theo tên Tabora (Tanzania), nhân một chuyến tàu tới thăm nơi này trong dịp hội nghị thiên văn học Orbital simulation from JPL (Java) Ephemeris Discovery Circumstances: Numbered Minor Planets | 721 Tabora | |
Triều Dương () là một khu thuộc thành phố Sán Đầu, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Tên gọi "Triều Dương" là do khu vực nằm phía bắc của vùng biển lớn. Ngay từ thời nhà Thanh, huyện Triều Dương đã là một trong những khu vực có mật độ dân số cao nhất tại Triều Châu. Triều Dương là quê hương của khoảng 1,2 triệu người Hoa hải ngoại và người dân Hồng Kông-Ma Cao-Đài Loan. Cư dân Triều Dương chủ yếu nói phương ngữ Triều Dương của tiếng Triều Châu. ;Nhai đạo Văn Quang (文光街道) Thành Nam (城南街道) Miên Bắc (棉北街道) Kim Phổ (金浦街道) ;Trấn Hải Môn (海门镇) Hà Khê (河溪镇) Hòa Bình (和平镇) Tây Lô (西胪镇) Quan Phụ (关埠镇) Kim Táo (金灶镇) Cốc Nhiêu (谷饶镇) Quý Tự (贵屿镇) Đồng Vu (铜盂镇) | Triều Dương | Đơn vị cấp huyện Quảng Đông, Sán Đầu |
Anceya giraudi là một loài ốc nước ngọt trong liên họ Cerithioidea. Loài này phân bố Burundi, Cộng hòa Dân chủ Congo, Tanzania, và Zambia. Môi trường sống tự nhiên của chúng là hồ nước ngọt. | ''Anceya giraudi | Anceya, Động vật được mô tả năm 1885 |
Đèo Phú Hiệp là một con đèo ngắn nằm trên trục đường Quốc lộ 20 thuộc địa phận huyện Di Linh, Lâm Đồng. Đèo nổi tiếng vì trồng nhiều hoa dã quỳ. *Đèo cách trung tâm thành phố Bảo Lộc khoảng 62 km. *Đèo cách trung tâm Thành phố Hồ Chí Minh khoảng 249 km. *Đèo cách tỉnh Đồng Nai khoảng 97 km. *Đèo cách trung tâm thành phố Đà Lạt khoảng 58 km | Đèo Phú Hiệp | Giao thông Lâm Đồng |
'''7715 (1996 CR7) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 14 tháng năm 1996 bởi U. Munari Cima Ekar. JPL Small-Body Database Browser ngày 7715 Leonidarosino | null | |
Rantoul là một làng thuộc quận Champaign, tiểu bang Illinois, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của làng này là 12941 người. Dân số qua các năm: Năm 2000: 12857 người. Năm 2010: 12941 người. American Finder | Rantoul | Làng của Illinois, Làng quận Champaign, Illinois, Nhảy dù |
Spizocorys personata là một loài chim trong họ Alaudidae. Loài chim này được tìm thấy Ethiopia và Kenya. Môi trường sống tự nhiên của chúng là cận nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới vùng cây bụi khô và đồng cỏ vùng đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới khô. | ''Spizocorys personata | Động vật được mô tả năm 1895 |
Tường Vân (1 tháng năm 1938 tháng năm 2022) là một diễn viên kịch nói người Việt Nam. Bà được xem là đại thụ của sân khấu kịch nói miền Nam và được Nhà nước Việt Nam phong danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú. Tường Vân tên đầy đủ Hoàng Tường Vân, sinh ngày tháng năm 1938 tại Ước Lễ, Hà Đông, Hà Nội. Bà gắn bó với Đoàn Kịch nói Nam Bộ, sau đó chuyển sang Đoàn Cửu Long Giang, rồi về đầu quân tại Nhà hát kịch Thành phố Hồ Chí Minh. Sau này, bà từng tham gia đóng rất nhiều bộ phim truyền hình. Khán giả vẫn nhớ đến các vở kịch mà bà đã tham gia, dù đóng các vai phụ nhưng để lại nhiều dấu ấn đẹp như: "Chuông đồng hồ điện Kremlin"; "Đâu có giặc là ta cứ đi", "Lão hà tiện", "Coi mắt", "Tháp đoạn hồn", "Trên đỉnh thiên thai". Bà lập gia đình với nhạc sĩ Phan Miên, họ có hai người con, một trai, một gái nhưng đều đã qua đời. Ngày tháng năm 2022, bà qua đời tại nhà riêng Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 85 tuổi. | Tường Vân | Nữ diễn viên sân khấu Việt Nam, Nghệ sĩ ưu tú Việt Nam |
là một chi sơn ca sống khắp lục địa Á-Âu và miền núi Bắc Phi, với một loài (Alauda razae) đặc hữu đảo Raso của Cabo Verde. Thêm nữa, có hai loài đã tuyệt chủng ghi nhận trong hoá thạch. Tên chi bắt nguồn từ alauda tiếng Latinh, nghĩa là "sơn ca". Pliny già cho rằng từ này có gốc gác Celt. Chi Alauda được mô tả bời nhà tự nhiên học Thuỵ Điển Carl Linnaeus năm 1758 trong ấn bản thứ 10 của cuốn Systema Naturae. Loài điển hình là Alauda arvensis. Chi Alauda có bốn loài còn sinh tồn và chí ít hai loài hoá thạch. Trước đây nhiều loài nữa từng được gộp vào chi này. Bốn loài còn sinh tồn là: Hình ảnh Danh pháp hai phần Tên thường gọi trong tiếng Anh Phân bố Alauda leucoptera White-winged lark (sơn ca cánh trắng) Từ nam Ukraina qua Kazakhstan đến trung-nam Nga 120px Alauda razae Raso lark (sơn ca Raso) Đảo Raso Cabo Verde 120px Alauda gulgula Oriental skylark (sơn ca phương đông) Nam, Trung, và Đông 120px Alauda arvensis Eurasian skylark (sơn ca Á-Âu) Hầu khắp châu Âu và châu †Alauda xerarvensis (cuối Pliocen Varshets, Bulgaria) †Alauda tivadari (cuối Miocen Polgardi, Hungary) | null | Danh sách các chi chim, Nhóm loài do Carl Linnaeus đặt tên |
lingua' là một loài dương xỉ trong họ Aspleniaceae. Loài này được Cav. mô tả khoa học đầu tiên năm 1802. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. Tập Tập tin:Phyllitis scolopendrium subsp. scolopendrium 01 by Line1.jpg Thể | null | Unresolved names |
El Dorado (tiếng Anh: The Golden One) là album phòng thu thứ mười một của nữ ca sĩ người Colombia, Shakira, phát hành ngày 26 tháng năm 2017, bởi Sony Music Latin. Album chủ yếu là các bài hát bằng tiếng Tây Ban Nha, và thêm bài hát tiếng Anh. Sau khi Shakira phát hành album phòng thu thứ mười mang tên chính cô (2014), Shakira đã có đứa con thứ hai, bị thiếu tưởng viết nhạc và không chắc chắn về tương lai sự nghiệp làm nhạc của cô. Tuy nhiên, bản hợp tác "La Bicicleta" của cô với Carlos Vives và sự ủng hộ của bạn trai cô, Gerard Piqué, đã thúc đẩy Shakira quay lại làm nhạc. Được lấy cảm hứng từ cuộc sống và trải nghiệm của Shakira, El Dorado chủ yếu mang những bài hát nói về mối quan hệ của cô với Piqué. Shakira đã làm việc cùng nhà sản xuất lâu năm của cô Luis Fernando Ochoa, cũng như nhiều nhà sản xuất mới như Supa Dups, Rude Boyz và The Arcade. Về mặt âm nhạc, album là sự kết hợp giữa Latin pop và reggaeton, với cảm hứng từ bachata, vallenato và electropop. Album có sự góp giọng của nghệ sĩ: hai bài hát cùng ca sĩ Colombia Maluma, và một bài hát với mỗi nghệ sĩ Nicky Jam, Vives, Prince Royce, Black M, và Magic!. Hầu hết các phê bình khen ngợi tính mạch lạc và vui vẻ của album, sự tự nhiên một cách chưa trưởng thành. Số khác cho rằng El Dorado thiếu sự sáng tạo và dựa dẫm quá nhiều vào những nghệ sĩ đã từng hợp tác những album trước. Album mở đầu trong số một Thụy Sĩ (nói tiếng Pháp), top 10 tại Argentina, Áo, Pháp, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ (không nói tiếng Pháp). Nó cũng đạt đến vị trí đầu bảng trên bảng xếp hạng Top Latin Albums của Mỹ và vị trí số 15 trên Billboard 200. "Chantaje" là đĩa đơn đầu tiên từ album. Bài hát trở thành một bản hit toàn cầu, đứng đầu Hot Latin Songs của Billboard trong 11 tuần không liên tiếp và được chứng nhận 16x Bạch kim Latin của Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ (RIAA). Đĩa đơn thứ hai, "Me Enamoré", cũng đạt được thành công về mặt thương mại. Một chuyến lưu diễn quốc tế để quảng bá cho album đã được xác nhận. "Chantaje" được phát hành dưới dạng đĩa đơn đầu tiên từ album vào ngày 28 tháng 10 năm 2016. Bài hát trở thành một bản hit lớn tại khu vực Mỹ Latin và các vùng nói tiếng Tây Ban Nha, đạt được vị trí quán quân tại Tây Ban Nha, Guatemala, Mexico, Ecuador, Uruguay và bảng xếp hạng Hot Latin Songs tại Hoa Kỳ trong 11 tuần. Bài hát cũng đạt được thành công mức trung bình tại các khu vực khác, đạt top 10 tại Thụy Sĩ, Israel, Romania, Bulgaria và một vaid nước khác, đồng thời là top 20 tại Italia, Pháp, Đức and Bỉ. Trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100 của Hoa Kỳ, "Chantaje" đạt vị trí số 51, trở thành bài hát tiếng Tây Ban Nha đạt vị trí trên Hot 100 cao nhất của cô kể từ đĩa đơn "La Tortura" (2005). Đĩa đơn đã được chứng nhận 16× Bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Hoa Kỳ địa mảng Latin với doanh số bán ra là 960,000 bản. Video âm nhạc của bài hát đã đạt được hơn 1.8 tỉ lượt xem trên YouTube và 326 triệu lượt nghe trên Spotify. "Me Enamoré" được phát hành dưới dạng đĩa đơn thứ hai từ album vào ngày tháng năm 2017. Bài hát đạt vị trí thứ ba tại Tây Ban Nha, cũng như top 10 tại Argentina, Chile, Guatemala, Mexico và Uruguay. Tại Hoa Kỳ, bài hát đã đạt vị trí số 83 trên Billboard Hot 100, và vị trí thứ trên Hot Latin Songs, trở thành hit top 10 thứ 26 của Shakira trên bảng xếp hạng. Video âm nhạc của bài hát được giới truyền thông chú đến nhờ sự góp mặt của Gerard Piqué. "Perro Fiel" ban đầu được phát hành dưới dạng đĩa đơn quảng bá cho album vào ngày 25 tháng năm 2017. Sau đó, bài hát được xác nhận là đĩa đơn chính thức thứ ba từ album, ra mắt vào ngày 15 tháng năm 2017, với video âm nhạc được ra mắt cùng ngày. which was filmed in Barcelona on ngày 27 tháng năm 2017. Trước khi được phát hành dưới dạng đĩa đơn, bài hát đã được chứng nhận doanh số Vàng tại Tây Ban Nha với 20,000 bản bán ra vào ngày 30 tháng năm 2017. El Dorado mở đầu tại vị trí thứ 15 trên Billboard 200 của Hoa Kỳ, với 29,000 đơn vị. Album trở thành album bán chạy thứ sáu trong tuần đó, với 20,000 bản thuần trong tuần đầu phát hành. Album cũng mở màn tại vị trí quân trên bảng xếp hạng Top Latin Albums. Mặc dù là album đầu tiên của cô không mở đầu tại vị trí quán quân trên Top Latin Albums kể từ Pies Descalzos (1995), album đã mở đầu tại vị trí ấy trên Latin Pop Albums, trở thành album thứ của cô làm được điều này và nắm giữ kỷ lục nhiều album đứng đầu Latin Pop Albums nhất của một nữ nghệ sĩ. Album tuy nhiên đã leo lên đứng đầu Top Latin Albums tuần tiếp theo, trở thành quán quân thứ sáu của Shakira trên bảng xếp hạng. El Dorado cũng là album Latin có doanh số mở màn cao nhất trong năm, kể từ khi Gerardo Ortiz phát hành album Hoy Mas Fuerte (2015). Album cũng là album Latin bán chạy nhất nửa đầu năm 2017 tại Mỹ, với doanh số lên đến 131,000 đơn vị. Tính đến tháng năm 2017, album được hãng đĩa xác nhận đã bán được 240,000 bản tại Hoa Kỳ. Album cũng mở đầu tại vị trí số 92 tại Úc và vị trí số 54 tại Anh Quốc, trở thành album tiếng Tây Ban Nha đầu tiên xếp hạng tại Úc và album tiếng Tây Ban Nha đạt vị trí cao nhất của cô cả hai nước. Album mở đầu trong số một Thụy Sĩ (nói tiếng Pháp). Album đồng thời mở đầu tại Tây Ban Nha vị trí số 2, số tại Thụy Sĩ (không nói tiếng Pháp), số tại Pháp, số 10 tại Áo, số 12 tại Italia, số 19 tại Đức, số 32 tại Phần Lan, và số 20 tại Hà Lan. Notes *Thông tin lấy từ booklet của album biểu thị nhiệm vụ đồng sản xuất biểu thị nhiệm vụ sản xuất bổ sung Bảng xếp hạng (2017) Vị trí cao nhất Australian Albums (ARIA) 92 Greek Albums (IFPI Greece) Mexican Albums (AMPROFON) New Zealand Heatseekers Albums (RMNZ) Album Thụy Sĩ (Romandie) Uruguayan Albums (CUD) *Nhạc Latin năm 2017 *Danh sách đĩa nhạc của Shakira | ''El Dorado | Album năm 2017, Album của Shakira, Album của Sony Music Latin, Album tiếng Tây Ban Nha, Album của RCA Records |
Aconitum firmum là một loài thực vật có hoa trong họ Mao lương. Loài này được Rchb. mô tả khoa học đầu tiên năm 1819. Tập tin:Aconitum napellus8 ies.jpg Tập tin:Aconitum napellus 012.JPG Tập tin:Aconitum napellus 001.JPG | ''Aconitum firmum | |
Man Bahadur Gurung là một cầu thủ bóng đá người Bhutan hiện tại thi đấu cho Druk Star. Anh ra mắt lần đầu cho Đội tuyển bóng đá quốc gia Bhutan năm 2011. | Man Bahadur Gurung | Cầu thủ bóng đá Bhutan, Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Bhutan, Nhân vật còn sống |
phải Jacques Antoine Charles Bresse (9 tháng 10 năm 1822 tại Vienne, Isère 22 tháng năm 1883 tại Paris) là một kỹ sư xây dựng chuyên ngành cầu đường và kĩ sư thủy lực người Pháp, nổi tiếng với việc thiết kế và đưa vào sử dụng động cơ thủy lực. Ngoài ra ông cũng đóng góp nhiều công thức tính toán cầu sắt cho đường xe lửa. Bresse tốt nghiệp Trường Bách khoa Paris năm 1843 và nhận bằng kĩ sư tại Trường Cầu đường Quốc gia Pháp. Ông quay lại làm giảng viên Trường Cầu đường Quốc gia Pháp môn cơ học ứng dụng năm 1848 và đến năm 1853 nhận chức danh giáo sư về cơ học ứng dụng, kế vị Jean-Baptiste Charles Bélanger. Ông dạy tại trường và Trường Bách khoa Paris đến khi mất năm 1883 Những công trình của Bresse còn có nghiên cứu về độ uốn của xà và vòm. Trong lĩnh vực đó ông là một trong những người đóng góp chủ yếu, với Barré de Saint-Venant Công trình của cả hai phát triển từ những nghiên cứu của Henri Navier Bresse đã hệ thống hoá những nghiên cứu về mái vòm và đưa ra tổng quan cho các trường hợp cụ thể Tên ông được khắc trên tháp Eiffel. Recherches analytiques sur la flexion et la résistance des pièces courbes (Nghiên cứu phân tích về độ uốn và sức chịu đựng của các vật thể cong), 1854 (với bảng số) Bresse, Jacques Antoine Charles, Water-wheels; Or, Hydraulic Motors (Động cơ nước, hay động cơ thủy lực), John Wiley Sons, New York 1869 Cours de mécanique appliquée, professé l'École impériale des ponts et chaussées (Bài giảng về cơ học ứng dụng Trường Cầu đường Quốc gia Pháp), 1880 Cours de mécanique et machines professé l'École polytechnique (Bài giảng về cơ học và máy móc Trường Bách khoa Paris), 1885 | Jacques Antoine Charles Bresse | Kỹ sư xây dựng Pháp, Viện sĩ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp, Sinh viên trường Bách khoa Paris |
Glen Ellyn là một làng thuộc quận DuPage, tiểu bang Illinois, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của làng này là 27450 người. Dân số qua các năm: Năm 2000: 26999 người. Năm 2010: 27450 người. American Finder | Glen Ellyn | Làng của Illinois, Làng quận DuPage, Illinois |
Thiền sư Ngọc Lâm Thông Tú Thiền sư Ngọc Lâm Thông Tú (zh: 玉林通琇, ja: Gyokurin Tsūshū, 1614-1675), thiền sư Trung Quốc nổi tiếng, thuộc Tông Lâm Tế. Sư là pháp tử của Thiền sư Thiên Ẩn Viên Tu, dưới sư có hơn 20 đệ tử ngộ đạo và nối pháp, nổi bật nhất là Thiền sư Ngưỡng Khê Hành Sâm. Người đời tôn kính thường gọi sư là Ngọc Lâm Quốc sư. Sư họ Dương, quê huyện Giang Âm, Thường Châu, tỉnh Giang Tô. Năm 19 tuổi, sư theo Thiền sư Thiên Ẩn Viên Tu cạo tóc xuất gia, thọ giới cụ túc và tham Thiền dưới sự hướng dẫn của vị này. Một hôm, sư xem công án "hớp một hơi hết sạch nước Tây Giang" liền đại ngộ và trình kệ tỏ ngộ với Thiền sư Viên Tu:Không như vạn pháp nó là ai? Không phải là ai chớ vội khai Hữu kiếm tìm thành cách trở Vô tâm hoà hợp chẳng còn haiNgài bảo sư: "Ta chẳng hỏi ông không giống vạn pháp, chỉ cần ông thể hội được công án uống một hơi hết sạch nước Tây Giang" mà thôi". Ngay lời nói này, sư nghe liền triệt ngộ, phất tay áo bước ra khỏi phương trượng. Sau đó, Thiền sư Thiên Ẩn Viên Tu phú pháp cho sư nối tông Lâm Tế, ngài rất hài lòng về sở ngộ của sư. Sau khi bản sư Viên Tu thị tịch, sư kế tiếp trụ trì, thăng tòa thuyết pháp tại chùa Báo Ân Võ Khang, tỉnh Triết Giang. Sư tùy căn cơ giáo hóa, môn đệ đến tham học đông. Năm thứ 15 niên hiệu Thuân Trị nhà Thanh (1658), sư nhận chiếu chỉ của Thế Tổ Thuận Trị mời vào cung thuyết pháp tại điện Vạn Thiện. Vua ngưỡng mộ tài đức, đạo hạnh và ban sư hiệu là Đại Giác Thiền sư. Ít lâu sau, sư trở về ẩn cư tại núi, giao lại cho đệ tử là Thiền sư Ngưỡng Khê Hành Sâm tiếp tục hoằng pháp Bắc Kinh, đó là sự mở đầu cho dòng pháp của sư lưu hành nơi này. Năm 1659, vua nhà Thanh tặng cà-sa và ban hiệu cho sư là Đại Giác Phổ Tế Thiền sư. Năm 1660, vua thỉnh sư làm bản sư truyền giới Bồ Tát và sắc phong sư danh hiệu Đại Giác Năng Nhân Phổ Tế Quốc sư(大覺普濟能仁國師). Năm 1665. sư đến ẩn cư tại phía tây núi Thiên Mục, tỉnh Triết Giang và xây chùa Thiền Nguyên. Tại đây sư tiếp tục truyền bá Thiền tông và hình thành nên dòng pháp Sư Tử Chính Tông thuộc Tông Lâm Tế. Ngày 10, tháng 8, năm thứ 14 niên hiệu Khang Hi (1675), sư an nhiên ngồi kiết già thị tịch tại am Từ Vân Hoài An, tỉnh Giang Tô, hưởng thọ 62 tuổi, hạ lạp 43 năm. Môn đệ xây tháp thờ tại Đông Ô, phía tây núi Thiên Mục. Ngọc Lâm Tú Quốc Sư Ngữ Lục (玉林琇國師語錄) 12 quyển. Ngọc Lâm Thiền sư Niên Phổ (2 quyển), đệ tử nối pháp là Thiền sư Siêu Kỳ soạn. Ngọc Lâm Quốc Sư-Thoát Vòng Tục Lụy,Tác giả: HT Tinh Vân, Phật Quang Sơn Đài Loan. Dịch Việt: HT Thích Quảng Độ Tái Thế Tình Duyên (Thoát Vòng Tục Lụy), do Phật Quang Sơn Đài Loan sản xuất. Fo Guang Ta-tz'u-tien 佛光大辭典. Fo Guang Ta-tz'u-tien pien-hsiu wei-yuan-hui 佛光大辭典編修委員會. Taipei: Fo-kuang ch'u-pan-she, 1988. (Phật Quang Đại Từ điển. Phật Quang Đại Từ điển biên tu uỷ viên hội. Đài Bắc: Phật Quang xuất bản xã, 1988.) ''Das Lexikon der Östlichen Bern 1986. Phật Tổ Đạo Ảnh, quyển 1, Thiền Sư Hư Vân biên soạn, đệ tử Đại Sư Tuyên Hóa hiệu đính. | Ngọc Lâm Thông Tú | Lâm Tế tông, Người Giang Tô |
Lý Vệ (, tháng năm 1688 tháng 12 năm 1738), tự Hựu Giới (), hiệu Kháp Đình (), là một quan viên nổi tiếng thanh liêm của nhà Thanh. Ông đóng vai trò quan trọng trong việc thực thi các cải cách, là một trong ba vị quan viên mẫu mực, được xưng là "Tam đại mô phạm", là tấm gương cho Tổng đốc và Tuần phủ địa phương dưới thời Ung Chính cùng với Ngạc Nhĩ Thái và Điền Văn Kính. Lý Vệ sinh vào giờ Ngọ ngày tháng (âm lịch) năm Khang Hi thứ 27 (1688), trong một gia đình tương đối giàu có Đồng Sơn, Giang Nam (nay là Từ Châu, Giang Tô). Ông mồ côi cha mẹ từ năm 10 tuổi. Tổ tiên Lý Vệ là vốn xuất thân là người Hà Bắc, đến đầu thời Minh mới huyện Phong của Từ Châu, cũng từ đây mà xuất hiện cách gọi "Bành Thành Lý thị". Lý Vệ là cháu đời thứ 11 của nhánh thứ của gia tộc lâu đời này. Tổ tiên của ông nhờ quân công mà lập nghiệp, trở thành Cẩm vệ. Bắt đầu từ ông nội của Lý Vệ là Lý Tòng, gia đình này đã nổi danh quê nhà nhờ sự chính nghĩa. Đến thời cha của Lý Vệ là Lý Tông Tĩnh thì gia cảnh sa sút, cũng vì vậy mà Lý Vệ không biết nhiều chữ, nhưng rất giỏi võ thuật. Năm Khang Hi thứ 56 (1717), nhờ quyên tiền mà ông được giữ chức Viên ngoại lang của Binh bộ. Hai năm sau, ông được chuyển vào bộ Hộ làm chức Lang trung. Từ sau khi Ung Chính lên ngôi năm Khang Hi thứ 61 (1722) đến năm Ung Chính thứ (1724), ông quản lý diêm vận Vân Nam. Trong thời gian nhậm chức, ông liên tiếp mạnh mẽ điều tra làm rõ các vụ án liên quan đến muối, trừng phạt tham quan, gần như chấm dứt tệ nạn tham muối trong nhiều nhiều thập niên, nghề muối địa phương cũng từ đó mà phát triển trở lại. Nhờ công lao khi nhậm chức Diêm dịch đạo, ông đã được Ung Chính thăng làm Bố chính sứ, quản lý toàn bộ các mặt tài chính, thuế khóa của Vân Nam, nhưng ông vẫn tiếp tục quản lý sự vụ muối, kiêm quản lý xưởng đồng. Năm thứ (1725), Lý Vệ được bổ nhiệm làm Tổng đốc Chiết Giang, tại đây ông đã thực thi chính sách "Than đinh nhập mẫu". Cùng năm, ông kiêm nhiệm Đô sát viện hữu Phó đô Ngự sử. Trước khi Lý Vệ nhậm chức, Chiết Giang Tuần phủ từng có dự định tiến hành chính sách này nhưng lại gặp phải sự phản đối của địa chủ, thổ hào mà không thể thực hiện. Sau khi Lý Vệ nhậm chức đã quyết đoán thi hành chính sách này. Từ tháng năm 1726, ông dẹp một vài cuộc nổi loại của phú hộ, từ đó chính sách này chính thức được áp dụng. Năm thứ (1726), ông quản lý diêm vụ của cả Lưỡng Chiết. Năm thứ (1728), ông kiêm nhiệm thêm hàm Binh bộ hữu Thị lang, quản lý sự vụ Thất phủ Ngũ châu đốc bộ của Giang Nam. Năm thứ (1729), ông nhậm chức Binh bộ Thượng thư, gia hàm Thái tử Thiếu bảo. Cùng năm, một cuộc biến loạn của những phần tử trung thành với cựu triều nhà Minh bùng nổ Nam Kinh và Lý Vệ nhanh chóng dẹp tan cuộc nổi dậy này. Năm thứ 10 (1732), Lý Vệ thay quyền Hình bộ Thượng thư và Tổng đốc Trực Lệ. Năm Càn Long nguyên niên (1736), ông kiêm quản Trực Lệ Tổng hà. Năm sau ông được ban thưởng Bổ phục Đoàn long. Năm thứ (1738), tháng 8, trong một viếng thăm lăng mộ Hoàng gia núi Tần Lĩnh cùng với vua Càn Long, Lý Vệ nhiễm bệnh viêm phổi và qua đời năm 52 tuổi. Ông được truy thụy "Mẫn Đạt" (敏达). Lý Tinh Viên (李星垣), đậu Võ Thám hoa năm 1736, Ngự tiền Nhị đẳng Thị vệ, từng nhậm chức Quảng Tây Hữu Giang Tổng binh, Tổng đốc Lưỡng Quảng. Năm 1765 vì liên quan đến án tham của Lý Thị Nghiêu mà bị cách chức thẩm vấn, sau bị vấn trảm. Lý Tinh Tụ (李星聚), làm quan Phúc Kiến. Lý Tinh Xán (李星灿), làm quan châu phán. Lý Tinh Túc (李星宿), làm quan Hồ Bắc đốc lương đạo. Lý Tinh Phúc (李星福), làm quan Lưỡng Giang hậu bổ đốc khổn phủ. Lý Quang Văn (李光文), Phúc Kiến nam lộ Tham tướng. Lý Quang Đệ (李光第), Vũ Đức kỵ úy của Tức Mặc doanh thủ phủ. Lý Quang Dụ (李光裕), Thái học sinh. Lý Quang Tuyên (李光宣): giám sinh hầu tuyển tri châu Lý Quang Liệt, Lý Quang Đại, Lý Quang Vạn, Lý Quang Bản: giám sinh. Lý Quang Phổ: Quảng Tây Tín sử Đốc tuần kiểm. Lý Quang Tục: tri huyện. Lý Quang Vinh: tường sinh Cuộc đời của Lý Vệ đã được đưa vào một số phim truyền hình của Trung Quốc và Hồng Kông, tỉ dụ như các phim Ung Chính Hoàng đế, Lý Vệ làm quan, Lý Vệ từ quan. Lý Truyền Vệ cháu nội của Lý Vệ cũng được các tiểu thuyết gia, nhà biên kịch thêu dệt và đưa vào bộ phim truyền hình đặc sắc mang phong cách hài hước "Cao Thủ Giả Danh". Năm 1997 phim Ung Chính vương triều Năm 2000 phim Lý Vệ đương quan phần Năm 2004 phim Lý Vệ đương quan phần Năm 2005 phim Lý Vệ từ quan Năm 2011 phim Cung tỏa châu liêm Năm 2013 phim Thực vi nô Lịch sử nhà Thanh: Lý Vệ | Lý Vệ | Quan nhà Thanh, Viên chức chính quyền Chiết Giang |
'Trận là một trận đánh trong cuộc Chiến tranh Bảy năm châu Âu,, đã diễn ra vào ngày 30 tháng năm 1757 trong cuộc tấn công Đông Phổ lần đầu tiên của quân đội Nga hoàng. Trong trận chiến này, với ưu thế áp đảo về mặt quân số, quân đội Đế quốc Nga dưới quyền chỉ huy của Nguyên soái Stepan F. Apraksin đã giành chiến thắng vang dội trước các cuộc tấn công không được phối hợp tốt của quân đội Phổ dưới sự chỉ huy của Thống chế Hans von Lehwaldt, chỉ tháng sau thất bại của nhà Vua Friedrich II của Phổ (Friedrich Đại đế'') trước quân đội Áo Habsburg trong trận Kolín. Trận đánh đã đem lại thiệt hại nặng nề cho cả hai phe tham chiến, và buộc người Phổ phải triệt thoái. Chiến thắng của quân Nga tại đã khiến cho quân Phổ bắt đầu phải nể phục trước khả năng chiến đấu của họ điều này sẽ còn tăng thêm trong trận Zorndorf (1758) và trận Kunersdorf (1759). Trận đánh cũng chứng tỏ ưu thế của lực lượng Pháo binh Nga so với đối phương. Tình hình cho thấy là con đường đến Berlin của quân đội Nga đã rộng mở, và Apraksin có thể sẽ đánh chiếm toàn bộ vùng Đông Phổ. Mặc dù vậy, người Nga đã không thể khai thác chiến quả của mình. Sau khi chiếm được Memel (tại Litva ngày nay) vào đầu tháng năm 1757, quân đội Nga do Apraksin chỉ huy đã tiến vào Đông Phổ. Các lực lượng của ông đã vượt sông Pregel gần làng Mặc dù đội quân Phổ dưới quyền của Von Lehwaldt bị áp đảo nặng nề về mặt quân số, ông hiểu những huấn lệnh của Friedrich Đại đế theo một cách táo bạo, và quyết định tiến công đối phương. Nhận thấy quân Nga kéo dài chiến tuyến của mình trên hơn 3,22 km từ hướng tây bắc tới đông nam, quân Phổ công kích địch thủ từ phía đông nam. Trong khi lực lượng kỵ binh Phổ đánh thốc vào bên sườn của Nga, quân bộ binh Phổ tiến thẳng vào khu rừng trung tâm. Trong khi người Nga gấp rút khai triển các đội hình đang hành quân vào trận tuyến, có nguy cơ là quân Phổ sẽ đột phá một tuyến thưa thớt của quân Nga rồi sau đó bao vây và tiêu diệt từng đơn vị riêng biệt. Người Phổ đã bắt được tướng Lopukhin của Nga. Nhưng rồi, tướng Pyotr A. Rumyantsev đã tập hợp các trung đoàn của trung quân Nga, đánh bật quân bộ binh Phổ ra khỏi rừng bằng một đòn tấn công quyết liệt và chấm dứt hoàn toàn khả năng thắng trận của quân Phổ. Hệ thống phòng ngự chặt chẽ của quân Nga, với hỏa lực pháo binh và quân số áp đảo, đã buộc Lehwaldt phải từ bỏ. Quân đội Phổ đã triệt thoái trong trật tự tốt về doanh trại, và không bị quân đội Nga truy kích. Đây là thắng lợi đầu tiên của Nga trong cuộc chiến tranh. Song, sau trận đánh, Apraksin đã chấm dứt bước tiến của mình và rút quân về nghỉ đông do hệ thống hậu cần yếu kém, dịch bệnh lan tràn và tổn thất nặng nề của quân Nga trong trận Điều này cũng có động cơ chính trị: Aspraksin nhận thấy Nữ hoàng Elizaveta của Nga đã lâm trọng bệnh và không muốn đụng chạm với Nga hoàng tương lai Pyotr III một người rất ngưỡng mộ Friedrich Đại đế của Phổ. Apraksin's report about the battle (with map appended) 1757-08-30 Battle of Trận | null | Đông Phổ |
Liên họ Đớp ruồi (danh pháp khoa học: là một liên họ thuộc phân bộ Passeri, bao gồm các loài chim đớp ruồi, hoét, sáo và các loài khác. Liên họ này hiện có khoảng 670 loài. Năm 2019, Carl Oliveros và các đồng nghiệp công bố nghiên cứu phát sinh chủng loại phân tử của liên họ Đớp ruồi, gồm họ. | Liên họ Đớp ruồi | Phân thứ bộ Sẻ |
Penol là một xã thuộc tỉnh Isère trong vùng Rhône-Alpes đông nam nước Pháp. Xã này nằm khu vực có độ cao từ 281-455 mét trên mực nước biển. Theo điều tra dân số năm 1999 của INSEE có dân số là 288 người. | Penol | Xã của Isère |
Hiệu suất (thường có thể đo được) là khả năng tránh lãng phí vật liệu, năng lượng, nỗ lực, tiền bạc và thời gian để làm một việc gì đó hay tạo ra kết quả mong muốn. Nói chung, đó là khả năng làm tốt một việc mà không có lãng phí. Trong nhiều thuật ngữ toán học và khoa học, nó là thước đo mức độ mà đầu vào cũng được dùng cho một mục đích, nhiệm vụ, chức năng được yêu cầu (đầu ra). Nó thường đặc biệt bao gồm các khả năng của một ứng dụng cụ thể nỗ lực để sản xuất ra một kết quả cụ thể với một số tiền tối thiểu hay số lượng chất thải, chi phí, nỗ lực không cần thiết. Hiệu quả đề cập đến rất khác nhau đầu vào và đầu ra trong lĩnh vực và các ngành công nghiệp khác nhau. Chúng ta thường nhầm lẫn hiệu suất với hiệu quả. Nói chung, hiệu quả là một khái niệm có thể đo được, được định lượng bằng tỉ số giữa đầu ra hữu ích trên tổng đầu vào. Hiệu quả là một khái niệm đơn giản hơn của khả năng đạt được kết quả mong muốn,có thể mang nghĩa định lượng nhưng không có một biểu thức toán học cụ thể. Hiệu quả thường có thể biểu thị bằng phần kết quả phần trăm so với kết quả lý tưởng, ví dụ nếu như không có mất mát năng lượng do ma sát và các nguyên nhân khác thì 100% lượng nhiên liệu sẽ được chuyển hết thành công cơ học chẳng hạn. Không phải lúc nào cũng áp dụng như thế, thậm chí trong trường hợp mà hiệu quả được gán với một giá trị cụ thể, ví dụ như xung lực riêng. Một cách phân biệt phổ biến nhưng khó hiểu giữa hiệu suất và hiệu quả là "hiệu suất là làm điều gì đó theo cách đúng đắn, trong khi hiệu quả là làm những điều đúng đắn." Nói một cách gián tiếp, nó nhấn mạnh rằng các lựa chọn của mục tiêu của một quá trình sản xuất cũng quan trọng như chất lượng của quá trình đó. Câu nói này phổ biến trong kinh doanh tuy nhiên nó lại bị che khuất bởi cảm giác "hiệu quả", mà sẽ/nên sinh ra sau khi ghi nhớ: "hiệu suất là làm những điều gì đó đúng cách, hiệu quả là làm đúng việc." Điều này làm rõ rằng hiệu quả, ví dụ trong sản xuất hàng loạt, cũng có thể đạt được thông qua các phương pháp không có hiệu suất nếu như người lao động sẵn sàng hay sử dụng nhiều thời gian hay bỏ công sức nhiều hơn trong các công ty hoặc quốc gia khác, nếu họ có thể bị buộc phải làm vậy. Tương tự, một công ty có thể đạt được hiệu quả, ví dụ trong sản xuất hàng loạt, bằng phương pháp không hiệu quả nếu họ có thể đủ khả năng để sử dụng nhiều năng lượng hơn trong mỗi sản phẩm, ví dụ nếu giá năng lượng hoặc chi phí lao động hoặc cả hai đều thấp hơn so với các đối thủ cạnh tranh. Ví dụ, người ta có thể đo lường trực tiếp hai đối tượng đang giao tiếp như thế nào: tải nhạc trực tiếp từ máy tính sang thiết bị di động hiệu quả hơn việc sử dụng micrô của thiết bị di động để ghi âm nhạc phát ra từ loa của máy tính. Hiệu quả thường được đo bằng tỷ số của đầu ra hữu ích trên tổng đầu vào, có thể được biểu diễn bằng công thức toán học P/C, trong đó là lượng đầu ra hữu ích ("sản phẩm") được sản xuất trên một lượng tài nguyên được tiêu thụ ("chi phí"). Điều này có thể tương ứng với tỷ lệ phần trăm nếu sản phẩm và hàng tiêu dùng được định lượng trong các đơn vị tương thích và nếu hàng tiêu dùng được chuyển thành sản phẩm thông qua một quy trình bảo thủ. Ví dụ, trong phân tích hiệu suất chuyển đổi năng lượng của động cơ nhiệt trong nhiệt động lực học, sản phẩm có thể là lượng đầu ra công hữu ích, trong khi tiêu hao là lượng nhiệt đầu vào cao. Vì năng lượng được bảo toàn, không bao giờ có thể lớn hơn C, và do đó hiệu suất không bao giờ lớn hơn 100% (và trên thực tế phải còn ít hơn nhiệt độ hữu hạn). Công có ích trên lượng năng lượng, hiệu suất cơ học so với hiệu suất cơ lý tưởng, thường được biểu thị bằng chữ thường Hy Lạp (Eta):: ** Hiệu suất điện ** Hiệu suất chuyển đổi năng lượng ** Hiệu suất cơ học ** Hiệu suất nhiệt, tỷ lệ công được thực hiện cho năng lượng nhiệt tiêu thụ Sử dụng năng lượng có hiệu suất, mục tiêu tối đa hóa hiệu suất ** Trong nhiệt động lực học: *** Hiệu quả chuyển đổi năng lượng, đo lường tổn thất theo định luật II nhiệt động lực học ** Hiệu suất bức xạ, tỷ số công suất bức xạ với công suất hấp thụ tại các cực của anten ** Hiệu suất thể tích, trong thiết kế động cơ đốt trong cho RAF Tỷ số lực nâng-cản Hiệu suất Faraday, điện phân Hiệu suất lượng tử, thước đo độ nhạy của thiết bị cảm quang Hiệu suất nhiễu xạ ánh sáng, tổng quát hóa phản xạ của gương, mở rộng đến lưới nhiễu xạ Công nghệ cải tiến năng suất Hiệu quả kinh tế, mức độ tránh hao phí hoặc các tính năng không mong muốn khác Hiệu suất thị trường, mức độ mà một thị trường nhất định giống với như lý tưởng về một thị trường hiệu quả ** Hiệu suất Pareto, trạng thái mà làm cho một cá nhân tốt hơn, mà không làm cho bất kỳ cá nhân nào khác tồi tệ hơn ** Hiệu suất Kaldor-Hicks, một phiên bản kém chặt chẽ hơn của hiệu suất Pareto ** Hiệu suất phân bổ, phân phối hàng hóa tối ưu ** Tiền lương hiệu suất, trả công nhân nhiều hơn giá thị trường để tăng năng suất Hiệu suất kinh doanh, doanh thu liên quan đến chi phí, v.v. Cuộc vận động hiệu suất, của kỷ nguyên tiến bộ (1890–1932), ủng hộ hiệu suất trong nền kinh tế, xã hội và chính phủ Trong điện toán: ** Hiệu suất thuật toán, tối ưu hóa tốc độ và yêu cầu bộ nhớ của chương trình máy tính ** Hiệu suất lưu trữ, hiệu quả lưu trữ dữ liệu máy tính ** Hệ số hiệu suất, trong truyền thông dữ liệu Hiệu suất (thống kê), một thước đo về kỳ vọng của người đánh giá Hiệu suất vật liệu, so sánh các yêu cầu vật liệu giữa các dự án xây dựng hoặc các quá trình vật chất Hiệu suất hành chính, đo tính minh bạch trong các cơ quan công quyền và sự đơn giản của các quy tắc và thủ tục đối với công dân và doanh nghiệp Hiệu suất quang hợp Không có hiệu suất | Hiệu suất | Quản lý chất thải, Hiệu suất kinh tế, Khái niệm kĩ thuật |
Ngày Tiếp xúc Thế giới (tiếng Anh: World Contact Day) lần đầu tiên được tuyên bố vào tháng năm 1953 bởi một tổ chức có tên là Cục Đĩa Bay Quốc tế (International Flying Saucer Bureau, viết tắt IFSB), là ngày mà tất cả các thành viên IFSB sẽ cố gắng gửi một thông điệp thần giao cách cảm vào không gian. IFSB đã bỏ phiếu để tổ chức một ngày như vậy vào năm 1953, với giả thuyết rằng nếu cả thần giao cách cảm và sự sống ngoài hành tinh là có thật, thì một số lượng lớn người tập trung vào một đoạn văn bản giống hệt nhau có thể truyền thông điệp xuyên không gian. Các thành viên IFSB tập trung vào thông điệp sau trong năm 1953: Lễ kỷ niệm năm 1953 được nhắc đến trong bài hát Calling Occupants of Interplanetary Craft (Kêu gọi chủ nhân của phi thuyền liên hành tinh), do nhóm nhạc rock Klaatu thu âm vào năm 1976 và về sau được The Carpenters cover lại. Vào dịp kỷ niệm 60 năm sự kiện vào năm 2013, Ngày Tiếp xúc Thế giới đã được kéo dài đến cả tuần. Ngày UFO Thế giới | Ngày Tiếp xúc Thế giới | Văn hóa UFO, Nghiên cứu về UFO, Lễ kỷ niệm không chính thức, Ngày lễ và Ngày Hành động trong tháng Ba |
Rùa cổ dài phương Đông (Chelodina longicollis), còn được gọi là rùa cổ rắn phương đông, rùa cổ rắn thông thường hoặc rùa cổ dài thông thường là một loài rùa cổ rắn đông Úc sống nhiều vùng nước khác nhau và là loài kiếm ăn cơ hội. Nó là một loài rùa cổ bên (Pleurodira), có nghĩa là nó cúi đầu sang một bên vào mai chứ không kéo trực tiếp ra sau. Loài này được tìm thấy khắp miền đông nam Úc, nơi nó được tìm thấy phía tây Adelaide (Nam Úc) về phía đông khắp Victoria và New South Wales, và về phía bắc đến sông Fitzroy của Queensland. Nơi những con rùa này tiếp xúc với loài Chelodina canni, chúng tự do lai tạo, thể hiện sức sống lai trong hệ thống thoát nước sông Styx của Queensland. Mai rùa thường có màu đen, mặc dù một số có thể màu nâu. Nó rộng và phẳng với một rãnh sâu giữa. Các đường viền được viền màu đen những cá thể có màu nền sáng hơn. Phần dưới mai cũng rất rộng và có màu kem đến vàng với các đường chỉ khâu màu đen. Cổ dài và hẹp, điển hình của chi Chelodina, và đạt chiều dài xấp xỉ 60% chiều dài mai. Cổ có nhiều nốt sần nhỏ nhọn và có màu xám đến đen mặt lưng, màu kem dưới, cũng như phần đầu hẹp. Con cái có xu hướng phát triển với kích thước lớn hơn và có cơ thể sâu hơn. Kích thước tối đa được ghi nhận đối với con cái và con đực khác nhau tùy theo phạm vi sống, trong môi trường sông Murray, nó là 28,2 cm và 24,9 cm, trong khi thung lũng Latrobe, nó là 21,6 cm và 18,8 cm. Người ta cho rằng điều này có liên quan đến năng suất của môi trường địa phương. Khi cảm thấy bị đe dọa, loài rùa này sẽ tiết ra chất dịch có mùi khó chịu từ tuyến xạ hương của chúng. Đặc điểm này khiến chúng có thêm một cái tên phổ biến khác là "kẻ bốc mùi". Rùa cổ dài phương Đông là loài ăn thịt, ăn nhiều loại động vật, bao gồm côn trùng, giun, nòng nọc, ếch, cá nhỏ, động vật giáp xác và động vật thân mềm. Vào đầu mùa hè, con cái đẻ từ hai đến mười quả trứng bờ môi trường sống dưới nước của chúng. Ba đến năm tháng sau, con non thoát ra khỏi vỏ. Những con rùa non này thường trở thành con mồi cho những thú săn mồi như cá và chim. Con cái đẻ từ một đến ba trứng mỗi năm. Vườn thú Quốc gia Washington con rùa leo lên một khúc gỗ để tắm nắng File:Common snakeneck turtle (Chelodina longicollis) 1.jpg|Cổ uốn cong trở lại vào mai của nó File:Eastern long neck tortoise chelodina một bể cá File:Eastern phủ trong tảo, Victoria, Úc. File:Eastern Snake-Necked Turtle.jpg| Nhìn từ vỏ của nó, Vườn quốc gia Carnarvon, tiểu bang Queensland, Úc. | Rùa cổ dài phương Đông | Động vật được mô tả năm 1794, Động vật bò sát Úc |
Nhiếp Vinh Trăn (giản thể: 聂荣臻, phồn thể: 聶榮臻, bính âm: Niè Róngzhēn, Wade-Giles: Nieh Jung-chen; 29 tháng 12 năm 1899 14 tháng năm 1992) là một trong "thập đại nguyên soái" của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc. Nhiếp Vinh Trăn sinh ra tại huyện Giang Tân tỉnh Tứ Xuyên (nay là quận Giang Tân, Trùng Khánh), là một người được ăn học tử tế, con trai của một gia đình giàu có. Năm 1920, Nhiếp Vinh Trăn tham gia một nhóm sinh viên Trung Quốc Pháp trong một chương trình du học-lao động, nơi đó cậu học kỹ thuật công trình và trở thành một người được che chở (protégé) của Chu Ân Lai. Chu Ân Lai đã tuyển mộ cậu vào năm 1921 khi Nhiếp Vinh Trăn đang học khoa học kỹ thuật Bỉ, và cậu đã gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc năm 1923. Nhiếp đã tốt nghiệp Cao đẳng Hồng Quân Liên Xô và Học viện Quân sự Hoàng Phố, và ban đầu công tác với các chức danh: cán bộ chính trị của Khoa Chính trị Hoàng Phố, nơi Chu Ân Lai làm giám đốc, và trong Hồng quân Trung Quốc. Trong cuộc Chiến tranh Trung-Nhật lần 2, đầu tiên ông đã được bổ nhiệm làm sư đoàn phó sư đoàn 115 của Bát Lộ Quân, với chỉ huy là Lâm Bưu, và cuối thập niên 1930, ông được phong làm chỉ huy chiến trường gần gũi thành trì Sơn Tây của Diêm Tích Sơn (阎锡山). Trong cuộc Nội chiến Trung Quốc ông đã chỉ huy Quân chiến trường phía bắc Trung Quốc, và với cấp phó của mình là Từ Hướng Tiền, lực lượng của ông đã đánh bại các lực lượng của Phó Tác Nghĩa Thiên Tân gần Bắc Kinh. Sau đó từ tháng 8/1949 đến năm 1951 ông giữ chức Thị trưởng thành phố Bắc kinh. Trong cuộc Chiến tranh Triều Tiên, Nhiếp tham gia trong nhóm ra quyết định chỉ huy cấp cao, hoạch định chiến dịch và chia sẻ trách nhiệm huy động chiến tranh. Nhiếp được phong làm nguyên soái năm 1955 và sau này đảm trách Chương trình vũ khí hạt nhân Trung Quốc. Ông được cử giữ chức Phó chủ tịch Ủy ban Quốc phòng, Phó chủ tịch Quân ủy Trung ương, Phó thủ tướng kiêm Chủ nhiệm Ủy ban Khoa học kỹ thuật quốc gia... Ông đã bị thanh trừng trong thời kỳ Cách mạng văn hóa. Năm 1979, Nhiếp được giao làm phó tư lệnh chiến dịch tấn công Việt Nam. Tỉnh trưởng Chính phủ Nhân dân Thị trưởng Chính phủ Nhân dân thành phố Bắc Kinh Bí thư Tỉnh ủy (Trung Quốc) Bí thư Thành ủy thành phố Bắc Kinh Bài trên Nhân dân nhật báo Lãnh đạo cuộc Trường Chinh Cao đẳng Chiến tranh Hải quân Mỹ *King C. Chen, China's War with Vietnam, 1979. | Nhiếp Vinh Trăn | Người Tứ Xuyên, Sinh năm 1899, Mất năm 1992, Quân nhân Trung Quốc trong Thế chiến thứ hai, Bộ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trung Quốc, Phó Thủ tướng Trung Quốc, Ủy viên Bộ Chính trị Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XII |
Sharran (, cũng đánh vần Sharan hoặc Shiran) là một ngôi làng miền bắc Syria, một phần hành chính của Tỉnh Aleppo, nằm phía tây bắc Aleppo gần biên giới Thổ Nhĩ Kỳ. Các địa phương gần đó bao gồm Azaz và Qatma phía đông và Afrin phía nam. Theo Cục Thống kê Trung ương Syria (CBS), Sharran có dân số 2.596 người trong cuộc điều tra dân số năm 2004. Thị trấn cũng là trung tâm hành chính của Sharran nahiyah của quận Afrin bao gồm 35 ngôi làng với dân số kết hợp là 13.632. Vào ngày tháng năm 2018, thị trấn nằm dưới sự kiểm soát của Quân đội Syria Tự do do Thổ Nhĩ Kỳ hậu thuẫn. Sharran là trung tâm hành chính của Nahiya Sharran của Quận Afrin. | Sharran | |
Taufik Hidayat (sinh ngày 20 tháng năm 1993) là một cầu thủ bóng đá người Indonesia hiện tại thi đấu vị trí hậu vệ cho câu lạc bộ tại Liga Bali United. Câu lạc bộ chuyên nghiệp đầu tiên của Taufik Hidayat là PSIS Semarang. Từ năm đầu tiên, Taufik thường là sự lựa chọn đầu tiên của huấn luyện viên. Trong vụ "Sepak Bola Gajah" năm 2014, Taufik bị cấm thi đấu năm và bị phạt 50 triệu Rp. Nhưng sau đó năm 2017 thông qua Number được ký ngày 10 tháng năm 2017, tình trạng của Taufik và cầu thủ khác và trọng tài được PSSI phục hồi. Ngày 17 tháng 12 năm 2017, anh ký hợp đồng năm với Bali United. | Taufik Hidayat | Sinh năm 1993, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Indonesia |
Bão Bolaven Cơn bão đầu tiên của năm 2018, còn được biết với tên Angaton Philippines hay "Bão số năm 2018" Việt Nam. Cấp bão (Việt Nam): Cấp Bão nhiệt đới. Cấp bão (Nhật Bản): 35kts Bão nhiệt đới, áp suất 1002 hPa (mbar). Cấp bão (Hoa Kỳ): 35kts Áp thấp nhiệt đới. Cấp bão (Hồng Kông Trung Quốc): 65 km/h (18 m/s) Bão nhiệt đới. '''Cấp bão Bão nhiệt đới. Cơn bão này được tính vào cả hai mùa bão 2017 và 2018, trường hợp giống bão Alice năm 1979. Tại Việt Nam đây được xem là bão rớt của mùa bão năm 2017, mặc dù cơn bão Bolaven này tính vào mùa mưa bão năm 2018 (bão số 1). Trường hợp này giống bão Roy (bão số năm 1988) và bão Sonamu (bão số năm 2013). Dù đã suy yếu thành vùng thấp trước khi đi vào đất liền và tan trên địa phận tỉnh Phú Yên, nhưng bão đã gây mưa (tuy với lượng không lớn) cho các tỉnh từ Đà Nẵng đến Khánh Hòa. Đây là một trong những xoáy thuận hiếm hoi mà có tác động đến Việt Nam ngay trong tháng 1. Một khu vực áp suất thấp sau phát triển thành một áp thấp nhiệt đới phía đông bắc của đảo Palau vào ngày 30 tháng 12 năm 2017. Hệ thống di chuyển về phía tây và vào ngày đầu tiên của năm 2018, PAGASA bắt đầu đưa ra các khuyến cáo về hệ thống này và đặt tên nó là Agaton theo tên địa phương. Cả JMA và JTWC đều sau đó chỉ định kí hiệu hệ thống là 01W. Vào ngày tháng 1, hệ thống phát triển thành một cơn bão nhiệt đới và được đặt tên là Bolaven bởi JMA, do đó trở thành cơn bão đầu tiên trong mùa. Tuy nhiên, vài giờ sau, Bolaven bắt đầu suy yếu và nhanh chóng tan đi. Hệ thống được theo dõi lần cuối bởi JMA phía đông Việt Nam vào ngày tháng 1. Tác động gây ra bởi Bolaven (Agaton) là vừa phải với khoảng 2.000 hành khách bị mắc kẹt tại các cảng Visayas. Tính đến ngày 22 tháng 1, ba người đã bị báo cáo thiệt mạng do bão, trong khi tổng thiệt hại lên đến 554,7 triệu peso (10,9 triệu đô la Mỹ) không đáng kể như hai hệ thống bão trước đó là Kai-tak và Tembin. Cơn bão đã gây ra những tác động đối với Quần đảo Caroline, Philippines, Nam Trung Bộ. Bão Sanba (2018) Bão Jelawat (2018) Bão Ewiniar (2018) Bão Prapiroon (2018) Bão Maria (2018) Bão Sơn Tinh (2018) Bão Ampil (2018) Bão Jongdari (2018) Bão Hector (2018) Bão Soulik (2018) Bão Jebi (2018) Bão Mangkhut (2018) | Bão Bolaven | Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 2018 |
Nintendo DSi là một máy chơi trò chơi cầm tay hai màn hình do Nintendo phát hành. Máy chơi trò chơi này ra mắt tại Nhật Bản vào ngày tháng 11 năm 2008 và trên toàn thế giới vào tháng năm 2009. Đây là phiên bản lặp lại thứ ba của Nintendo DS và đối thủ chính của máy là PlayStation Portable (PSP) của Sony. Phiên bản thứ tư, mang tên Nintendo DSi XL, là một phiên bản lớn hơn, đã ra mắt tại Nhật Bản vào ngày 21 tháng 11 năm 2009 và trên toàn thế giới bắt đầu vào tháng năm 2010. Qú trình phát triển của DSi bắt đầu vào cuối năm 2006 và thiết bị cầm tay này đã được công bố trong một hội nghị Nintendo tháng 10 năm 2008 Tokyo. Nhu cầu của người tiêu dùng đã thuyết phục Nintendo sản xuất một thiết bị cầm tay mỏng hơn với màn hình lớn hơn DS Lite. Do đó, Nintendo đã loại bỏ khe cắm băng Game Boy Advance (GBA) để cải thiện tính di động mà không ảnh hưởng đến độ bền. Mặc dù thiết kế của DSi tương tự như DS Lite, nhưng máy có hai máy ảnh kỹ thuật số, hỗ trợ lưu trữ nội dung bên trong và bên ngoài, kết nối với một cửa hàng trực tuyến có tên Nintendo DSi Shop. Nintendo nhấn mạnh việc các gia đình thường chia sẻ máy DS và DS Lite. Chức năng mới này nhằm tạo điều kiện cho việc cá nhân hóa, để khuyến khích mỗi thành viên trong gia đình mua DSi. Thiết bị cầm tay hỗ trợ phương tiện vật lý độc quyền, ngoài các trò chơi DS với các tính năng dành riêng cho DSi và các tựa trò chơi DS tiêu chuẩn. Ngoại lệ duy nhất cho khả năng tương thích ngược của máy là các trò chơi DS yêu cầu khe GBA. Nintendo đã bán được hơn 41 triệu máy DSi và DSi XL cộng lại. Hệ máy kế tục sau đó cũng rất thành công là Nintendo 3DS. Đánh giá về Nintendo DSi nhìn chung là tích cực; Mặc dù IGN và bit-tech phàn nàn về việc thiếu phần mềm độc quyền và loại bỏ khe cắm GBA, nhưng chức năng được thêm vào khiến nhiều nhà báo giới thiệu máy cho những người chưa từng mua DS. Nhiều nhà phê bình đã thất vọng với độ phân giải hạn chế của máy ảnh trên DSi, mặc dù Ars Technica và GameSpot đồng rằng chúng phù hợp với màn hình của thiết bị cầm tay. CNET và PCWorld coi DSi Shop là ưu đãi mua hàng quan trọng nhất đối với các chủ sở hữu DS hiện tại. Một số nhà phê bình tin rằng DSi XL không phải là một bản nâng cấp thiết yếu. GamePro và Wired UK, mặt khác, ca ngợi màn hình lớn hơn của DSi XL vì đã cải thiện trải nghiệm chơi trò chơi và làm sống lại các trò chơi DS cũ hơn. Tập người đàn ông đứng sau bục, nói chuyện với khán giả. Bên cạnh là màn hình trình chiếu hiển thị slide thuyết trình.|nhỏ| Kuwahara thảo luận về sự hình thành của DSi tại Game Developers Conference năm 2009. Qua trình phát triển của Nintendo DSi bắt đầu vào cuối năm 2006. Đây là lần đầu tiên Kuwahara Masato thuộc Development Engineering Department của Nintendo làm lãnh đạo dự án phần cứng. Công việc diễn ra với tốc độ nhanh để đáp ứng thời hạn; nhóm của ông phải đưa ra phiên bản DS mới để trình bày vào cuối tháng 12 và đến tháng năm 2007, hầu hết các thông số kỹ thuật cho một chipset phải được hoàn thành. Kuwahara báo cáo nhóm của ông gặp khó khăn trong việc xác định thị trường tiềm năng cho thiết bị cầm tay trong quá trình thiết kế; ông nói về mục tiêu của họ, "Chúng tôi phải tự mình bán máy mà không có trò chơi gì khi ra mắt. Và máy phải có khả năng hòa nhập vào thị trường DS vốn đã tồn tại." Máy ảnh kỹ thuật số của máy đã được xem xét trước trong quá trình phát triển: Chủ tịch và Giám đốc điều hành của Nintendo là Iwata Satoru mô tả màn hình cảm ứng là giác quan chạm của Nintendo DS và micro là "đôi tai" của máy; một đồng nghiệp đề nghị rằng máy nên có "đôi mắt". Nhóm của Kuwahara ban đầu muốn có một máy ảnh có cơ chế xoay, nhưng đã bị loại bỏ do lo ngại về độ tin cậy, chi phí và sự cần thiết khi máy sẽ làm cho máy dày hơn. Do nhu cầu của người tiêu dùng, Nintendo cũng cải thiện âm lượng và chất lượng âm thanh của thiết bị cầm tay và làm cho máy mỏng hơn, với màn hình lớn hơn so với Nintendo DS Lite. Tuy nhiên, để cải thiện tính di động mà không làm giảm độ bền, khe cắm băng GBA có trên các mẫu trước đó đã bị loại bỏ. Để bù đắp, Nintendo tiếp tục hỗ trợ DS Lite, miễn là người tiêu dùng có nhu cầu về máy. Kích thước của DS được thay đổi giữa chừng trong quá trình phát triển, dẫn đến trì hoãn việc phát hành. Thiết kế ban đầu của máy bao gồm hai khe cắm thẻ DS, do nhu cầu từ cả cộng đồng người hâm mộ và nhân viên Nintendo, do đó máy bị to ra. Khi các thiết kế của máy được tiết lộ cho Nintendo Entertainment Analysis and Development vào tháng 10 năm 2007, họ cảm thấy hài lòng với kích thước đó. Tuy nhiên, kỳ vọng của chính Iwata và Kuwahara đã tạo ra một nguyên mẫu khác. Một cuộc điều tra nhanh đã khiến họ từ bỏ thiết kế khe kép, khiến DSi mỏng hơn xấp xỉ Kể từ khi công ty ra mắt hệ máy cầm tay, các thiết kế bên trong đã được hoàn thiện cùng với thông số kỹ thuật lắp ráp và độ bền. Iwata mô tả việc phải thay đổi kích thước máy quá gần với thời điểm sản xuất, về cơ bản giống như chế tạo một thiết bị cầm tay khác. EharaYui, nhà thiết kế vỏ máy của DS Lite và DSi, đã phải thiết kế lại mọi thứ. Ông ủng hộ việc thay đổi sáu lỗ loa, vì các lỗ tròn của chúng là dư thừa. Ông tin rằng sự thay đổi này phân biệt rõ giữa DSi và những máy tiền nhiệm, trong khi vẫn giữ cho thiết bị "gọn gàng" và "đơn giản". Ehara hy vọng các tính năng được thêm vào cho DSi sẽ không can thiệp vào hình ảnh mang tính biểu tượng về dòng sản phẩm Nintendo DS: hai hình chữ nhật, một hình chữ nhật nằm trên cùng, với một nửa có hình chữ nhật khác bên trong. Mô hình này đã được công khai tại Hội nghị Nintendo tháng 10 năm 2008 tại Tokyo, cùng với giá và ngày phát hành tại Nhật Bản. Trong khi số liệu doanh số hàng năm trên toàn thế giới của dòng sản phẩm DS liên tục vượt qua đối thủ thị trường chính của máy, PlayStation Portable của Sony, nhu cầu tại Nhật Bản đang giảm; Việc ra mắt DSi của Nintendo nhằm mục đích kích thích doanh số. Công ty ít quan tâm đến việc phát hành DSi các lãnh thổ khác, nơi nhu cầu thị trường DS Lite vẫn cao. Việc phát triển một mô hình DS Lite cỡ lớn vào năm 2007 cuối cùng đã dẫn đến việc phát hành DSi XL (được biết đến Nhật Bản với tên ). Nintendo đã thiết kế một mô hình DS Lite lớn hơn với màn hình so với màn hình tiêu chuẩn, việc phát triển thiết bị cầm tay mới này đã tiến xa đến mức máy có thể bắt đầu sản xuất hàng loạt. Tuy nhiên, Iwata đã tạm dừng dự án khi xem xét nhu cầu của người tiêu dùng đối với DS Lite và Wii. Sau đó, ông đã đưa ra tưởng phát hành đồng thời các phiên bản lớn và nhỏ của DSi, nhưng nhóm phần cứng của Nintendo không có khả năng phát triển đồng thời hai mô hình. Sau khi hoàn thành công việc trên DSi, Kuwahara bắt đầu dự án DSi XL và trở thành trưởng nhóm dự án. DSi XL, một mô hình DSi với màn hình được công bố vào ngày 29 tháng 10 năm 2009. Nhiều tên gọi khác nhau đã được xem xét, bao gồm "DSi Comfort", "DSi Executive", "DSi Premium", "DSi Living" và "DSi Deka" (tiếng Nhật có nghĩa là "lớn"). Người tạo ra Mario, Miyamoto Shigeru, nhấn mạnh cái tên "DSi Deka". Thiết bị cầm tay có góc nhìn được cải thiện so với tiền nhiệm, cho phép người xem nhìn dễ dàng hơn. Tính năng này không có trong DS Lite lớn do vấn đề chi phí tại thời điểm đó, điều này cũng hạn chế kích thước màn hình LCD. Chi phí của màn hình LCD được xác định bằng việc có bao nhiêu mảnh được cắt từ một tấm kính lớn. Để giữ các chi phí này trong một ngưỡng nhất định, Nintendo đặt giới hạn kích thước màn hình khoảng sau đó được tăng lên Ngày tháng 11 năm 2008, DSi được phát hành tại Nhật Bản; ngày tháng năm 2009, tại Úc và New Zealand, và ngày tháng Châu Âu, tất cả đều có vỏ màu đen và trắng. Máy ra mắt tại Mỹ và Canada vào ngày tháng 4, cùng với trò chơi Rhythm Heaven. Đó là lần đầu tiên DS ra mắt với nhiều màu sắc khu vực Bắc Mỹ xanh và đen. iQue phát hành một mô hình DSi của Trung Quốc với hai màu đen và trắng, cùng với trò chơi Nintendogs được cài sẵn vào tháng 12 năm 2009; Nikkei Sangyo Shimbun báo cáo các máy của Trung Quốc và Hàn Quốc có tính năng bảo mật được cải thiện, để chống vi phạm bản quyền. Vào ngày 15 tháng năm 2010, DSi được ra mắt tại Hàn Quốc với các màu trắng, đen, xanh và hồng, cùng với trò chơi MapleStory DS. MapleStory DS cũng được đóng gói với DSi phiên bản giới hạn màu đỏ, có các nhân vật trong trò chơi được in xung quanh máy ảnh bên ngoài. Các quốc gia khác bao gồm Brazil, Nga, và Thổ Nhĩ Kỳ. Nintendo đã xuất xưởng 200.000 máy cho lần ra mắt tại Nhật Bản của DSi và chỉ trong hai ngày đầu tiên mở bán, hơn 170.000 máy đã được bán ra —các máy còn lại là đơn đặt hàng trước chưa có người nhận hoặc để bán vào Culture Day. Đến cuối tháng, DSi đã bán được 535.000 máy, so với 550.000 DS Lites được bán trong tháng ra mắt. Trong thời gian hai ngày ra mắt, tổng doanh số bán hàng Châu Âu và Bắc Mỹ đạt tổng cộng 600.000 máy. Doanh số tuần đầu tiên Bắc Mỹ gần như gấp đôi so với 226.000 chiếc của DS Lite, khi bán được tới 435.000 máy. Tại Anh, máy bán ra 92.000 cái trong vòng hai ngày kể từ ngày phát hành, dữ liệu GfK/Chart-Track cho thấy là tuần mở màn tốt thứ tư từ trước đến nay trong khu vực cao hơn các kỷ lục trước đó được thiết lập bởi chính DS. Tập cảnh bên trong của một tòa nhà với các ki-ốt và hàng hóa xếp dọc theo các bức tường.|nhỏ| Nintendo World Store thành phố New York chủ trì một sự kiện ra mắt Các sự kiện ra mắt DSi được tổ chức bờ biển phía tây và phía đông nước Mỹ. Nintendo tài trợ cho một sự kiện ra mắt chính thức tại Universal CityWalk Los Angeles và Nintendo World Store thành phố New York. Bữa tiệc ra mắt vào nửa đêm của LA có một số sự kiện, bao gồm phát tờ rơi, ký hợp đồng và trưng bày hình ảnh từ iam8bit, trình diễn parkour và màn biểu diễn của Gym Class Heroes. Hàng trăm người tham dự và hơn 150 lại đến nửa đêm để mua máy tại GameStop. Một mô hình DSi bằng Lego có kích thước cao bằng người thật của họa sĩ Sean Kenney đã được trưng bày tại Nintendo World Store. Nintendo DSi XL được phát hành tại Nhật Bản vào ngày 21 tháng 11 năm 2009, với màu đồng, đỏ tía và trắng. Hai màu có sẵn để ra mắt tại Châu Âu vào ngày tháng năm 2010, và tại Bắc Mỹ vào ngày 28 tháng 3. Máy ra mắt tại Úc vào ngày 15 tháng năm 2010, với màu đồng và đỏ tía. DSi XL đã được phát hành các quốc gia khác bao gồm Brazil, Nam Phi, và Thổ Nhĩ Kỳ. Hơn 100.500 máy đã được bán trong hai ngày đầu tiên Nhật Bản, và 141.000 máy đã được bán trong ba ngày đầu tiên tại Mỹ. Bản phát hành năm 2011 của Nintendo 3DS, kế thừa của dòng thiết bị cầm tay Nintendo DS, đã được công bố vào ngày 23 tháng năm 2010, nhằm tránh các tin tức rò rỉ bởi báo chí Nhật Bản và thu hút những người tham dự tiềm năng đến Electronic Entertainment Expo. Theo các nhà phân tích ngành công nghiệp, khoảng thời gian này thu hút sự chú từ việc ra mắt của DSi XL Bắc Mỹ. Nhà phân tích cao cấp của M2 Research, Billy Pigeon lập luận rằng "XL là tin cũ... Nhật Bản và Nintendo là một tổ chức rất tập trung vào Nhật Bản. Công ty mẹ Nhật Bản có thể không hành động vì lợi ích cao nhất của Nintendo of America." Iwata đã bác bỏ bất kỳ tác động đáng kể nào khi nói chuyện với các nhà đầu tư liên quan, "những người muốn mua Nintendo 3DS ngay sau khi thông báo thường có xu hướng phản ứng nhanh với bất kỳ thứ gì mới trên thị trường và những người đang mua Nintendo DS ngày nay lại có xu hướng phản ứng tương đối chậm." alt=Biểu đồ đường thẳng nhiều màu.2008–2012 Nintendo DS bán hàng trên toàn thế giới. Dòng sản phẩm Nintendo DS (đen) với DSi (xanh lục), DSi XL (đỏ), và DSi và DSi XL kết hợp (cam). Số liệu bán hàng của Nintendo DSi (tính đến ngày 30 tháng năm 2014) Khu vực Số máy đã xuất xưởng Phát hành đầu tiên Nhật Bản 5,90 triệu Ngày tháng 11 năm 2008 Châu Mỹ 12,35 triệu Ngày tháng năm 2009 Các khu vực khác 10,19 triệu Ngày tháng năm 2009 Tổng 28,44 triệu Số liệu bán hàng của Nintendo DSi (tính đến ngày 30 tháng năm 2014) Nhật Bản 2,35 triệu Ngày 21 tháng 11 năm 2009 Châu Mỹ 5,85 triệu Ngày 28 tháng năm 2010 Các vùng khác 4,74 triệu Ngày tháng năm 2010 Tổng 12,93 triệu Nintendo nhắm mục tiêu nhân khẩu học rộng hơn với Nintendo DS bản đầu (2004) khi máy so với dòng Game Boy. So sánh năm 2008, doanh số DS và DS Lite lọt danh sách máy chơi trò chơi điện tử bán chạy nhất, PlayStation của Sony, cho thấy tiềm năng trong việc tiếp tục mở rộng thị trường người chơi Nintendo DS, đặc biệt là châu Âu và Mỹ. Để tiếp tục quảng bá dòng sản phẩm này trong tham vọng mở rộng thị trường chơi trò chơi, Nintendo đã tạo ra DSi. Iwata nói các gia đình thường phải chia sẻ DS và DS Lite cho nhau, vì vậy để khuyến khích mỗi thành viên trong gia đình mua một thiết bị cầm tay riêng lẻ, Nintendo đã thêm các tính năng cá nhân hóa vào DSi. Chữ "i" trong DSi tượng trưng cho cá nhân (I) và máy ảnh của máy (eyes); tương phản với hai chữ "i" trong Wii, đại diện cho những người chơi tụ tập lại với nhau. Chủ tịch Nintendo of America là Reggie Fils-Aimé nói: "Nếu Wii là máy chơi trò chơi dành cho số đông người chơi, thì hãy nghĩ DSi là sự sáng tạo dành cho số đông." Iwata nói DSi có nghĩa là máy ảnh đầu tiên cho trẻ em và một thiết bị mạng xã hội cho người lớn. Đáp lại bình luận của giới truyền thông sau thông báo của DSi, Iwata khẳng định khả năng âm thanh và camera mới của máy không nhằm cạnh tranh với điện thoại di động, iPod hay PSP. Ông giải thích vai trò của họ trên thị trường: DSi đã giúp duy trì doanh số bán hàng mạnh mẽ cho dòng sản phẩm cầm tay của Nintendo. DSi chiếm 40% doanh số bán hàng năm 2009 của dòng sản phẩm tại Anh và thường xuyên đứng đầu bảng xếp hạng doanh số hàng tuần tại Nhật Bản trong năm đầu tiên có mặt. Tại Mỹ, doanh số ba tháng đầu của máy đã vượt qua cả DS, DS Lite và Wii. Doanh số trung bình hàng tuần của Wii và Nintendo DS giảm nhẹ trong tháng 3; Doanh số phần cứng của Nintendo DS ổn định mức hơn 200.000 máy trong bảy tháng sau khi ra mắt vào tháng Tư, trong khi doanh số Wii giảm. Gamasutra ước tính, vào tháng 10 năm 2009 và tháng năm 2010, 50 phần trăm doanh số của Nintendo DS là các máy DSi. Trong một cuộc phỏng vấn vào tháng 10 năm 2009, Fils-Aimé tuyên bố DSi đã bán được 2,2 triệu máy tại Mỹ. Ông nói: "Nếu bạn mang lại cho người tiêu dùng giá trị lớn về những gì họ phải trả, họ sẵn sàng chi tiêu và chúng tôi nói điều đó dựa trên kinh nghiệm ra mắt DSi". Mỹ có doanh số DS cao nhất năm 2009 với 11,22 triệu máy được bán. DSi và DSi XL chiếm 16,88 triệu trong số 27,11 triệu chiếc được bán trên toàn thế giới của dòng sản phẩm cho năm tài chính 2009 của Nintendo bắt đầu từ ngày tháng năm 2009 và kết thúc vào ngày 31 tháng năm 2010 Gamasutra ước tính doanh số tại Mỹ tháng năm 2010, DSi và DSi XL từng bán chạy hơn DS Lite. Trang web báo cáo doanh số DSi khoảng 300.000 máy vào tháng năm 2009 và tháng năm 2010, vẫn duy trì ổn định đến tháng năm 2010 nếu kết hợp với doanh số DSi XL. Do đó, mức giá trung bình mà người tiêu dùng đã chi cho dòng Nintendo DS đã tăng lên hơn 165 đô la (tính theo năm 2004, đô la điều chỉnh theo lạm phát vào năm 2010), cao hơn 15 đô la so với giá khởi động tháng 11 năm 2004 của Nintendo DS gốc. Nintendo đã thực hiện đợt giảm giá DSi đầu tiên tại châu Âu vào ngày 18 tháng năm 2010, đối với các máy DSi và DSi XL tại Nhật Bản vào ngày 19 tháng và tại Bắc Mỹ vào ngày 12 tháng DSi và DSi XL chiếm 14,66 triệu trong tổng số 17,52 triệu máy được bán trên toàn thế giới trong năm tài chính 2010 Trong một bảng ước tính doanh số tại Mỹ tháng năm 2011 bởi Gamasutra sau khi giá DS Lite giảm một tháng trước đó, khoảng 60 đến 70 phần trăm trong số khoảng 290.000 máy DS được bán là các máy DSi và DSi XL. Doanh số 3DS mờ nhạt buộc Nintendo phải giảm giá để thăng bằngvới DSi XL tại Hoa Kỳ vào ngày 12 tháng 8. Nhật Bản và châu Âu cũng đã giảm giá tương tự. Gamasutra đoán những người mua DS tiềm năng Mỹ đã chọn 3DS; Doanh số DS tháng năm 2011 giảm 45 phần trăm, trong khi doanh số 3DS vẫn ổn định so với tháng trước. Nintendo thực hiện đợt giảm giá DSi và DSi XL thứ hai tại Bắc Mỹ vào ngày 20 tháng năm 2012. Gamasutra gọi những mức giá này sẽ cắt giảm "lần sản xuất cuối cùng" của dòng sản phẩm DS và kỳ vọng "vào thời điểm này năm tới, những đóng góp của máy cho thị trường sẽ rất nhỏ. Sau Giáng sinh, Nintendo thực sự sẽ trở thành một công ty sản xuất máy chơi trò chơi cầm tay duy nhất, dồn tất cả các nỗ lực vào Nintendo 3DS. Kích thước (khi đóng) và trọng lượng Chiều dài Chiều rộng Chiều cao Cân nặng Thiết kế của Nintendo DS tương tự như phiên bản DS thứ hai, Nintendo DS Lite. Ngắn hơn khoảng 12 phần trăm () so với Nintendo DS Lite khi đóng, nhưng hơi rộng và nhẹ hơn. DSi có hai màn hình TFT-LCD lớn hơn so với các mẫu trước đây có khả năng hiển thị 262.144 màu. Màn hình cảm ứng dưới dùng với bút stylus đi kèm. Thiết bị có bốn nút in chữ (X, Y, A, B), nút điều hướng và các nút Start, Select, và Power. Hai nút vai, khe cắm thẻ trò chơi và đầu vào cáp nguồn được đặt dưới bản lề máy. Bộ sạc AC đi kèm theo máy (WAP-002) và không tương thích với bất kỳ mẫu DS nào trước đó. Không giống như các mẫu trước đây, thiết bị cầm tay này có hai máy ảnh kỹ thuật số VGA (0,3 megapixel). Cái đầu tiên là nằm phía bản lề bên trong và hướng về phía người dùng; cái thứ hai nằm vỏ ngoài và mặt trên của bề mặt máy hướng ra bên ngoài. Khe cắm thẻ SD cũng mới xuất hiện, được đặt phía sau nắp bên phải. Trong khi DS Lite sử dụng một nút gạt, DSi, giống như Nintendo DS gốc, có một nút để bật hoặc tắt nguồn. Nút này có các chức năng bổ sung và không giống như nút nguồn của bản gốc, nút này nằm phía dưới bên trái của màn hình cảm ứng. Điều chỉnh độ sáng và âm lượng phía bên trái; có sẵn năm cài đặt độ sáng, nhiều hơn một cài đặt trên DS Lite. Cổng tai nghe phía dưới cùng. DSi có bề mặt bóng để ẩn dấu vân tay. Máy phát hành có nhiều màu sắc, nhưng tùy theo khu vực. Ví dụ, màu xanh chanh là độc quyền của Nhật Bản, trong khi màu đỏ là châu Âu và Bắc Mỹ. Bắc Mỹ lại có một màu xanh khác. Nhiều phiên bản và các gói đặc biệt đã được phát hành, bao gồm cả các phiên bản Ace Attyer Investigations: Miles Edgeworth, Final Fantasy Crystal Chronicles: Echoes of Time, và Black Friday năm 2009. Tập bảng mạch in lớn và nhỏ được kết nối với nhau. Khung kim loại và các thành phần điện tử chính chiếm ưu thế các đầu đối diện của PCB lớn.|nhỏ| Bố trí bảng mạch in chính và phụ DSi có nhiều RAM và CPU chạy nhanh hơn DS Lite. Các nhà phát triển báo cáo máy có chế độ riêng, chạy phần mềm được thiết kế riêng cho phần cứng, truy cập vào tài nguyên bộ nhớ và xử lý bổ sung hệ thống. Việc này bao gồm một mạch tích hợp codec (vi mạch) khuếch đại tín hiệu âm thanh và chuyển đổi chúng từ kỹ thuật số sang analog. Làm tăng âm lượng đầu ra và tùy thuộc vào chế độ, chất lượng âm thanh cao hơn. Không gian không sử dụng trên bo mạch chủ đã được gỡ bỏ; CPU được di dời và vỏ pin được mở rộng. Độ phân giải của máy ảnh cao gấp hai lần rưỡi so với màn hình của thiết bị cầm tay. Tuy nhiên, độ phân giải của chúng thấp hơn đáng kể so với máy ảnh kỹ thuật số và điện thoại di động cùng thời. Điều này là nhằm để giữ giá bán hợp lý và duy trì thời gian phản hồi thích hợp hơn để xem ảnh nhanh, đặc biệt vì nhiều ứng dụng sẽ sử dụng chúng. CPU: DSi có hai CPU kiến trúc ARM: ARM9 tốc độ 133 MHz và ARM7 mức 33 MHz. ARM9 nhanh gấp đôi so với các mẫu trước đó. RAM: 16 MB (gấp bốn lần so với các mẫu trước) Độ phân giải màn hình: 256 192 pixel (giống như các mẫu trước đó) Máy ảnh: 640 480 pixel Lưu trữ: 256 MB bộ nhớ flash trong bằng thẻ SD (tối đa GB) và thẻ SDHC (tối đa 32 GB) khe cắm mở rộng Pin: thời lượng ngắn hơn DS Lite, bất kể cài đặt độ sáng; chẳng hạn, DSi có thời lượng pin -14 giờ cài đặt độ sáng thấp nhất, so với 15-19 giờ của DS Lite trên cùng một cài đặt. Pin dung lượng 840 mAh có thể sạc lại, so với 1000 mAh của DS Lite, và có tuổi thọ tối ưu khoảng 500 chu kỳ; sau thời điểm này, máy có thể được thay thế. Nintendo DSi XL có màn hình và kích thước tổng thể lớn hơn so với DSi gốc. Đây là mô hình DS thứ tư, lần đầu tiên có sẵn dưới dạng biến thể kích thước thuần túy. Iwata cho biết, cho đến lúc đó, đã hạn chế kích thước màn hình và các khía cạnh nhiều người chơi của máy chơi trò chơi cầm tay, và DSi XL cung cấp "góc nhìn được cải thiện ngay trên màn hình", khiến máy trở thành "hệ máy chơi trò chơi di động đầu tiên có thể được chơi cùng với những người xung quanh game thủ." Ông lập luận điều này đem đến một phương pháp mới để chơi các trò chơi di động, trong đó những người "xung quanh người chơi trò chơi cũng có thể tham gia bằng cách này hay cách khác để chơi trò chơi." Mặc dù DSi ban đầu được thiết kế dành riêng cho cá nhân, nhưng đề nghị người mua DSi XL để máy một "vị trí ổn định trên bàn trong phòng khách" để có thể chia sẻ cho nhiều thành viên trong gia đình. DSi XL là mẫu DS dài, rộng và nặng nhất. Lên đến hai màn hình LCD góc nhìn rộng với độ phân giải tương tự như model nhỏ hơn. Cải thiện thời lượng pin so với DSi trên tất cả các cài đặt độ sáng; ví dụ: pin kéo dài 13 17 giờ cài đặt nhỏ nhất. Thiết bị được trang bị loa giống hệt nhau chứa trong thùng loa lớn hơn, cho phép tạo ra âm thanh to hơn. Bản lề dừng màn hình vị trí 120° so với 155° của DSi để có thể được nhìn thấy rõ hơn khi đặt trên bàn. DSi XL được đóng gói với hai bút stylish dài hơn, một trong số đó dày hơn, tròn và giống như bút bình thường, và không vừa với việc nhét bên trong máy. DSi XL có bề mặt mờ và mặt ngoài của bảng trên cùng được phủ một lớp sơn bóng. Máy có tám màu sắc với hai tông màu, thay đổi theo vùng như trắng, xanh lá cây, đỏ, vàng, và hồng. Hai phiên bản đặc biệt đã được phát hành: LovePlus + và phiên bản kỷ niệm 25 năm Super Mario Bros. Flipnote Studio và Nintendo DSi Browser được cài đặt sẵn với DSi XL, cùng với các phần mềm dành riêng cho khu vực. DSi khi gập lại; có thể nhìn thấy máy ảnh thứ hai Giống như Wii, DSi có firmware có thể nâng cấp và giao diện menu hiển thị các ứng dụng dưới dạng biểu tượng có thể chọn. Bảy biểu tượng chính đại diện cho "Card Software", "Nintendo DSi Camera", "Nintendo DSi Sound", "Nintendo DSi Shop", "DS Download Play", "PictoChat", và "System Settings"; các ứng dụng bổ sung có thể được tải xuống từ DSi Shop. Các biểu tượng được đặt trong một khung lưới có thể điều hướng bằng bút stylus hoặc D-pad và có thể được sắp xếp lại thông qua kéo và thả. Nút nguồn có thể khởi động lại máy, quay trở lại menu chính hoặc tắt máy đi. Thẻ trò chơi có thể được hoán đổi nóng khi máy menu chính, cho phép người chơi chuyển đổi thẻ trò chơi mà không cần tắt máy. DSi có nhiều tính năng đa phương tiện hơn so với các mẫu trước đó; âm thanh AAC từ thiết bị, hình ảnh và phần mềm có thể tải xuống khác được lưu trữ vào thẻ SD. Hai cái sau không cần bộ nhớ ngoài và có thể được lưu trữ bên trong. Trước khi chụp ảnh, người dùng có thể sửa đổi hình ảnh trực tiếp của khung ngắm với mười tùy chọn "ống kính". Hình ảnh được chụp có thể được tải lên Photo Channel của Wii, và, đối với các bảng điều khiển có bản cập nhật firmware 1.4 trở lên, lên trang web mạng xã hội Facebook. Trình phát âm thanh tích hợp có chức năng ghi âm giọng nói và phát lại. Ghi âm giọng nói có thể được chỉnh sửa với các bộ lọc âm thanh, thao tác thông qua cao độ và phát lại. Người dùng có thể lưu và sửa đổi tối đa 18 clip âm thanh dài mười giây. Những clip này không thể được xuất sang thẻ SD. Người dùng có thể phát nhạc từ thẻ SD với hình ảnh hiển thị màn hình trên. Âm thanh AAC với các phần mở rộng tên tệp .mp4, .m4a hoặc.3gp được hỗ trợ, nhưng các định dạng không phải AAC, bao gồm MP3, không được hỗ trợ. Âm thanh như tiếng trống và tiếng nhảy của Mario cổ điển có thể được thêm vào bằng cách nhấn nút. Chơi nhạc cũng có các tùy chọn thao tác riêng tương tự như các tùy chọn được sử dụng để ghi âm giọng nói, cũng như một nhóm các bộ lọc âm thanh. Sử dụng tai nghe, nhạc vẫn phát khi gập máy. Người dùng có thể xuất ảnh, âm thanh và cài đặt Internet sang 3DS. Nintendo DSi kết nối với Internet thông qua Wi-Fi 802.11b tích hợp hoặc Đầu nối USB Wi-Fi của Nintendo; cả hai phương pháp đều cấp quyền truy cập vào dịch vụ Nintendo Wi-Fi Connection. DSi hỗ trợ mã hóa không dây WEP, WPA (AES TKIP) và WPA2 (AES TKIP); chỉ phần mềm có hỗ trợ tích hợp mới có thể sử dụng hai loại mã hóa sau, vì chúng không được DS và DS Lite hỗ trợ. Có thể lưu tối đa sáu cấu hình kết nối Internet không dây; sử dụng phương pháp thiết lập truyền thống, ba cấu hình đầu tiên hỗ trợ mã hóa WEP, trong khi ba cấu hình còn lại có thể chọn theo tùy chọn nâng cao hơn, hỗ trợ mã hóa WPA. Trong tùy chọn nâng cao này, người dùng có thể truy cập phương thức Cài đặt Wi-Fi được bảo vệ và cấu hình cài đặt proxy. DSi có thể tự động phát hiện các khu vực dịch vụ của Nintendo Zone, do đó không cần thiết lập thủ công các kết nối Wi-Fi. Dịch vụ này cung cấp bản demo của các trò chơi sắp ra mắt và hiện có, truy cập vào Nintendo Wi-Fi Connection và DSi Shop và có thể có nội dung dành riêng cho từng địa điểm. Tập phụ kiện có bốn nút được kết nối với đáy của thiết bị cầm tay chơi game đã mở. Bàn tay của một người chạy dọc theo mặt sau của thiết bị cầm tay với các ngón tay đặt trên các nút.|nhỏ| Phụ kiện DS đòi hỏi khe GBA, như phím bấm guitar của Guitar Hero: On Tour là không tương thích Tất cả các trò chơi DS đều tương thích với DSi, ngoại trừ những gane yêu cầu khe cắm GBA. Do đó DSi không tương thích ngược với băng trò chơi của GBA hoặc với các phụ kiện yêu cầu khe cắm GBA, chẳng hạn như Nintendo DS Rumble Pak và tay cầm ghi-ta dòng Guitar Hero: On Tour. Thẻ "DSi-enhanced" chứa các tính năng dành riêng cho DSi, nhưng vẫn có thể được sử dụng với các mẫu trước đó; Thẻ trò chơi "dành riêng cho DSi" cũng không được. DSi là thiết bị cầm tay có mã khóa khu vực đầu tiên của Nintendo; ngăn cản việc sử dụng một số phần mềm được phát hành cho khu vực khác. Do sự khác biệt giữa các khu vực trên Internet và phần phụ huynh kiểm soát, phần mềm dành riêng cho DSi bị khóa tùy theo khu vực. Tuy nhiên, phần mềm trên thẻ trò chơi sẽ tương thích với các kiểu máy trước đó, duyệt Internet và chia sẻ ảnh sẽ không bị khóa. Homebrew flash cards được thiết kế cho các máy DS trước không tương thích với DSi, nhưng thẻ mới có khả năng chạy phần mềm DS trên nền DSi. Giống như Wii, DSi có thể kết nối với một cửa hàng trực tuyến. Cửa hàng, được gọi là DSi Shop, cho phép người dùng tải xuống các trò chơi và ứng dụng DSiWare, được thanh toán bằng Nintendo Points Prepaid Card (trước đây được gọi là Wii Points Prepaid Card). Giá ứng dụng tuân theo sơ đồ định giá ba tầng. Dịch vụ này còn có DSi Browser mới, một trình duyệt web miễn phí được phát triển bởi Opera Software và Nintendo. Một chiến dịch quảng cáo cho dùng thử DSiWare, có ngày hết hạn thay đổi theo khu vực, trước đây đã tặng 1.000 Nintendo Points miễn phí cho mỗi máy DSi truy cập vào DSi Shop. Có hơn 500 trò chơi có thể tải xuống, thay đổi theo khu vực. Không thể chuyển DSiWare đã mua trên DSi hoặc DSi XL giữa các máy trừ phi máy đó được sửa chữa hoặc thay thế bởi Nintendo. Hầu hết DSiWare có thể được chuyển sang 3DS, trừ dữ liệu đã lưu Nintendo Points kết thúc đổi điểm vào ngày 30 tháng năm 2016 và Nintendo DSi Shop đã ngừng hoạt động vào ngày 31 tháng năm 2017 +Danh sách các trò chơi độc quyền của Nintendo DSi Tựa Nhà phát triển Nhà bán lẻ Phát hành bán lẻ của khu vực Nhật Bản Bắc Mỹ Châu Âu Châu Úc Face Training: Facial exercises to strengthen and relax from Fumiko Inudo Intelligent Systems Nintendo Không phát hành Không phát hành 24 tháng năm 2010 Không phát hành Foto Showdown Alpha Unit Alpha Unit (JP)Konami (NA) 19 tháng 11 năm 2009 19 tháng 11 năm 2009 tháng năm 2010 Không phát hành Không phát hành Ghostwire: Link to the Paranormal Different Game —(Trước đây là Majesco Entertainment) Không phát hành Không phát hành. Lịch chính thức là 31 tháng 10 năm 2010. Không phát hành Không phát hành Hidden Photo Most Wanted Entertainment PQube Ltd. Không phát hành Không phát hành Đầu năm 2011 Không phát hành Picture Perfect Hair Salon Sonic Powered 505 Games Không phát hành 24 tháng 11 năm 2009 13 tháng 11 năm 2009 31tháng năm 2010 System Flaw Visual Impact Storm City Games (Mỹ) Enjoy Gaming (EU) 27 tháng 10 năm 2009 Không phát hành 27 tháng 10 năm 2009 Không phát hành Không phát hành DS nguyên bản với Lite và DSi Nintendo DSi nhận được đánh giá nhìn chung là tích cực. Các nhà phê bình khen ngợi nhiều thay đổi nhất là về mặt thẩm mỹ và chức năng so với DS Lite, nhưng phàn nàn rằng máy ra mắt thiếu phần mềm độc quyền. Craig Harris của IGN lưu thư viện phần mềm độc quyền của DSi và DSi Shop vẫn thiếu hấp dẫn ngay cả sau năm tháng phát hành trên thị trường Nhật Bản. Jeff Bakalar của CNET nói chủ sở hữu của DS gốc nên cân nhắc mua DSi, nhưng động lực duy nhất khiến chủ sở hữu DS Lite mua máy là vì DSi Shop. Jan Birkeland của PCWorld New Zealand có cùng kiến như Bakalar, nhưng tin còn quá sớm để đánh giá chất lượng của phần mềm DSi Shop. Nhiều nhà phê bình thất vọng với việc loại bỏ khe cắm băng GBA, nhưng một số người trong số họ, chẳng hạn như Darren Gladstone của PCWorld, Joe Martin của Bit-tech, Harris và Lowe của IGN, tin đó là một sự trao đổi hợp lý cho thẻ SD và DSi Shop. Tuy nhiên, Bakalar tuyên bố, "Chúng tôi sẵn lòng từ bỏ mm giảm đi độ dày để có thể chơi bất kỳ trò chơi Game Boy Advance nào." Hầu hết các nhà phê bình chỉ trích chất lượng máy ảnh, đặc biệt là do độ phân giải của chúng so với điện thoại di động đương thời. Tuy nhiên, họ coi chúng là đủ cho màn hình của DS. Harris và Lowe tin rằng công dụng duy nhất của máy ảnh là chụp "những bức ảnh ngớ ngẩn của chính bạn và người khác". Họ phàn nàn về những khó khăn khi chụp ảnh trong môi trường ánh sáng yếu và hình ảnh có màu xanh lục hoặc xanh lam. Những kiến về các công cụ chụp hình-chỉnh sửa của DSi được thay đổi: Martin và Reid của Bit-tech coi đây là một mánh lới quảng cáo, nhưng Bakalar và Cliff Edwards của nghĩ khác. Edwards nói rằng việc sử dụng máy ảnh trong trò chơi là một cơ hội mới cho các nhà phát triển; Martin đã không nghĩ rằng khái niệm này sẽ được chấp nhận rộng rãi, vì ông tin rằng đó là "một mánh lới quảng cáo nên tránh xa đối với ... chủ sở hữu DS Lite ". Tom Bramwell của Eurogamer suy đoán rằng DSi đi theo triết lý của Yokoi Gunpei với Game Watch và Game Boy trong việc sử dụng các nhà phát triển công nghệ nên quen thuộc với các giới thiệu mới về khái niệm thiết kế trò chơi là liệu máy có tốn kém cho việc sản xuất hàng loạt để đạt lợi nhuận hay không. Ông cho rằng các tính năng của máy được thiết kế để "giải trí nhanh gọn" cho những người dùng đầu tiên trong khi khuyến khích "các nhà phát triển coi máy như một giải pháp thay thế của DS Lite" để xây dựng một thư viện trò chơi hấp dẫn trong thời gian dài. Do những bổ sung của DSi dựa trên thiết kế DS Lite, các nhà phê bình đã giới thiệu máy cho những người chưa mua mẫu DS trước đó. Pete Metzger của Los Angeles Times coi DSi "giống với phiên bản 2.5 hơn là hoàn toàn mới", nhưng gọi các tính năng mới của máy là những bổ sung đáng giá cho một sản phẩm vốn đã tuyệt vời." Gladstone đã cho DSi 75/100 điểm và nói rằng Nintendo "đưa vào các thiết bị cầm tay vốn đã mỏng manh của mình một loạt các tính năng đa phương tiện hữu ích." Harris và Lowe định nghĩa thiết kế lại phần cứng của máy là "tiến hóa", chứ không phải "cách mạng". Sau khi DSi được công bố, nhà phân tích Matthew J. Fassler của Goldman Sachs đã gọi DSi Shop là "mối đe dọa sớm hữu hình" đối với các cửa hàng bán lẻ và chuỗi siêu thị lớn. Martin tin rằng máy ảnh và DSi Shop không biện minh cho việc phải mua DSi khi ra mắt, nhưng theo sự đồng thuận chung, đã nhìn thấy tiềm năng trong chính phần mềm của máy. Douglas Rankine của Wired UK và McKinley Noble của GamePro nghĩ rằng các trò chơi Nintendo DS trước đây đã được hồi sinh với màn hình lớn hơn của Nintendo DSi XL; các trò chơi như và The World Ends with You được hưởng lợi từ độ chính xác của màn hình cảm ứng và mức độ dễ đọc của văn bản tương ứng. Mike Jackson của CVG lập luận rằng màn hình lớn hơn, khiến cho độ phân giải không thay đổi, có lẽ sẽ ít được chú hơn đối với nhân khẩu học cũ mà XL lấy làm chủ đạo trong thiết kế. Tuy nhiên, Jackson, Scott Lowe và Chris Burke của IGN đồng màu sắc rõ ràng và sống động của máy bù đắp đáng kể cho việc độ phân giải không thay đổi. Carol Mangis của PC Magazine nghĩ rằng các gia đình muốn chia sẻ thiết bị cầm tay giữa các thành viên nên xem xét DSi XL, nhưng màn hình lớn hơn không đủ khuyến khích các chủ sở hữu DSi hiện tại nâng cấp. Lowe, Burke, Jackson và Bakalar kết luận mô hình DSi lớn hơn không phải là một bản nâng cấp thiết yếu; Jackson giải thích "nếu bạn có xu hướng không mang theo bên mình và chỉ có xu hướng sử dụng máy nhà, thì DSi XL là lựa chọn tốt hơn". Game Boy Micro phiên bản thứ hai của dòng sản phẩm cầm tay trước đây của Nintendo. Trang web chính thức Úc DSi XL Trung Quốc Nhật Bản DSi LL) Nam Triều Tiên Mỹ DSi XL) Các trang web khác DSiBrew | Nintendo DSi | Đồ chơi thập niên 2000, Sản phẩm được giới thiệu năm 2008, Đồ chơi thập niên 2010, Máy chơi trò chơi điện tử IQue, Máy chơi trò chơi điện tử cầm tay ngừng sản xuất |
"What Are You Up To" (; cách điệu "What are you up to") là một bài hát của nam ca sĩ Hàn Quốc Kang Daniel. Nó được phát hành vào ngày 25 tháng năm 2019 bởi Konnect Entertainment và được phân phối bởi Sony Music Korea. Bài hát đóng vai trò là đĩa đơn chính trong EP đầu tay Color on Me của anh ấy với lời bài hát do Daniel đồng sáng tác và dẫn đến chiến thắng trong chương trình âm nhạc đầu tiên của anh ấy với tư cách là nghệ sĩ solo trên Music Bank của KBS2 vào ngày tháng năm 2019. Ngay sau khi Kang thành lập công ty quản lý một người Konnect Entertainment, Konnect xác nhận vào ngày 27 tháng Kang đã hoàn thành việc thu âm các bài hát cho EP đầu tay và sẽ hoàn thiện ca khúc chủ đề, hoàn thành nội dung quảng cáo và vũ đạo để chuẩn bị cho màn ra mắt solo vào cuối tháng 7. "What Are You Up To" đã được xác nhận là ca khúc chủ đề vào ngày 19 tháng và được cho là một bài hát thời thượng như một món quà để thưởng cho những người hâm mộ đã chờ đợi. Khi được hỏi trong một cuộc phỏng vấn với Billboard tại sao anh ấy không chọn một màn ra mắt K-pop đầy năng lượng, Kang đã trả lời rằng "What Are You Up To" được chọn vì anh ấy muốn làm điều gì đó mà anh ấy chưa làm trước đây và muốn nó khác đi như ca khúc chủ đề đầu tiên của anh ấy với tư cách là một nghệ sĩ solo. Anh ấy bày tỏ rằng đây là một bài hát đại diện cho anh ấy tốt và cho thấy những gì anh ấy có thể có khả năng. Teaser video âm nhạc bao gồm những bộ trang phục và trang phục đầy màu sắc đã được tiết lộ vào ngày 24 tháng 7. Video âm nhạc đầy đủ do VM Project Architecture đạo diễn đã được phát hành cùng với bài hát vào ngày 25. Trong suốt video âm nhạc, Daniel bị cắt đứt với những người khác nhưng cố gắng tiếp cận họ thông qua các phương tiện của anh ấy, chẳng hạn như điện thoại bị ngắt kết nối, loa và máy đánh chữ. Đoạn video kết thúc với hình ảnh một cửa nhỏ được chiếu sáng giữa những cánh cửa đóng kín. Biên đạo múa quốc tế Antoine đã làm việc về vũ đạo của ca khúc chủ đề với đội của Kang trong ba ngày, làm nổi bật các rãnh và nhịp điệu. Video âm nhạc đã vượt 10 triệu lượt xem vào ngày tháng trong vòng một tuần sau khi phát hành và sau đó đã giành giải Video âm nhạc xuất sắc nhất tại Melon Music Awards vào ngày 30 tháng 11. Chart (2019) Vị trí cao nhất South Korea (Gaon) 15 South Korea (Kpop Hot 100) Năm Giải Thưởng Hạng Mục Kết Quả Chú Thích 2019 11th Melon Music Awards Best Music Video +Chương trình âm nhạc Chương trình Ngày Chú Thích Music Bank (KBS2) tháng 8, 2019 Khu vực Ngày Cách phát hành Sản xuất Đa dạng July 25, 2019 *List of K-pop Hot 100 number ones *List of Music Bank Chart winners (2019) | What Are You Up To | 2019 songs, 2019 debut singles Thể songs, Billboard Korea K-Pop number-one singles, Sony Music singles |
Kongorikishi được điêu khắc vào thời kỳ Mạc phủ Kamakura khoảng vào thế kỷ 14th Nhật Bản. Ban đầu bức tượng được đặt dùng để gác cổng của Ebara-dera, một ngôi chùa tại Sakai, Osaka. là một thể chế độc tài quân sự của Nhật Bản vào thời kỳ Kamakura từ năm 1185 cho đến năm 1333. Mạc phủ Kamakura được thành lập bởi Minamoto no Yoritomo sau khi chiến thắng trong cuộc chiến tranh Genpei và ông cũng được Thiên hoàng Go-Toba phong chức vị Chinh di Đại Tướng quân không lâu sau đó. Yoritomo thống trị Nhật Bản với tư cách là một nhà độc tài quân sự từ phía đông của thủ phủ Kamakura cùng với Thiên hoàng và chế độ Thái chính quan của ngài tại kinh đô chính thức trên danh nghĩa là Heian-kyō (Kyoto ngày nay) với tư cách là một nguyên thủ quốc gia. Chức vụ Tướng quân Kamakura thuộc về các thành viên của gia tộc Minamoto cho đến năm 1226, chức vụ này lại thuộc về thành viên gia tộc Fujiwara cho đến năm 1252, sáu người cuối cùng giữ chức vụ này đều là các hoàng tử thuộc dòng dõi hoàng thất. Từ năm 1203 thì gia tộc Hōjō mới chính là những người cai trị trên thực tế với tư cách là quan chấp chính cho các Tướng quân của Mạc phủ Kamakura. Mạc phủ Kamakura trải qua loạn Jōkyū vào năm 1221 và cuộc chiến tranh xâm lược của Mông Cổ dưới sự lãnh đạo của Hốt Tất Liệt vào năm 1274 và năm 1281. Mạc phủ Kamakura chính thức bị lật đổ vào thời kỳ Tân chính Kenmu dưới triều của Thiên hoàng Go-Daigo vào năm 1333, thiết lập lại hoàng quyền cai trị của Thiên hoàng cho đến khi Ashikaga Takauji và con cháu của ông ta chính thức lật đổ hoàng quyền và thành lập ra mạc phủ Ashikaga vào năm 1336 (Thời kỳ Nam–Bắc triều). Minamoto no Yoritomo, tại vị từ 1192–1199 Minamoto no Yoriie, tại vị từ 1202–1203 Minamoto no Sanetomo, tại vị từ 1203–1219 Kujō Yoritsune, tại vị từ 1226–1244 (tướng quân nhà Fujiwara) Kujō Yoritsugu, tại vị từ 1244–1252 (tướng quân nhà Fujiwara) Thân vương Munetaka, tại vị từ 1252–1266 (tướng quân hoàng gia) Thân vương Koreyasu, tại vị từ 1266–1289 (tướng quân hoàng gia) Thân vương Hisaaki, tại vị từ 1289–1308 (tướng quân hoàng gia) Thân vương Morikuni, tại vị từ 1308–1333 (tướng quân hoàng gia) Hōjō Tokimasa, tại vị từ 1203–1205 Hōjō Yoshitoki, tại vị từ 1205–1224 Hōjō Yasutoki, tại vị từ 1224–1242 Hōjō Tsunetoki, tại vị từ 1242–1246 Hōjō Tokiyori, tại vị từ 1246–1256 Hōjō Nagatoki, tại vì từ 1256–1264 Hōjō Maramusa, tại vì từ 1264–1268 Hōjō Tokimune, tại vị từ 1268–1284 Hōjō Sadatoki, tại vị từ 1284–1301 Hōjō Morotoki, tại vị từ 1301–1311 Hōjō Munenobu, tại vì từ 1311–1312 Hōjō Hirotoki, tại vì từ 1312—1315 Hōjō Mototoki, tại vì từ 1315–1316 Hōjō Takatoki, tại vị từ 1316–1326 Hōjō Sadaaki, tại vị từ 1326–1326 Hōjō Moritoki, tại vì từ 1326–1333 Hōjō Sadayuki, tại vị từ 1333–1333 Shogun Mạc phủ Lịch sử Nhật Bản Thời kỳ Kamakura | null | Phong kiến Nhật Bản, Mạc phủ Kamakura, Gia tộc Minamoto, Chấm dứt năm 1333, Shogun Kamakura |
Bãi biển Laem Samila Songkhla () là thành phố phía nam Thái Lan, gần biên giới với Malaysia. Tọa độ Dân số năm 2006 là 75.048 người. Sử Việt thế kỷ 19 gọi thị trấn này là Sóng Sẻ. Đây là thành phố lớn thứ tại tỉnh Songkhla, sau Hat Yai. Songkhla là tỉnh lỵ của tỉnh Songkhla và huyện lỵ của huyện Mueang Songkhla (huyện phố Songkhla). Thành phố tọa lạc tại cửa hồ Songkhla ra vịnh Thái Lan, là một nơi đánh bắt cá và bến cảng quan trọng. Songkhla đôi khi được gọi là Singgora (thành phố sư tử). Tháng 12/1941, the Quân đội Đế quốc Nhật Bản đã cập bờ đây từ phía tây trong chiến dịch Malayan mà sau đó dẫn đến chiếm đóng Singapore. | Songkhla | Khu dân cư tỉnh Songkhla |
Vidracco là một đô thị tỉnh Torino trong vùng Piedmont, có vị trí cách khoảng 40 km về phía bắc của Torino, nước Ý. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 541 người và diện tích là 3,2 km². Vidracco giáp các đô thị: Castellamonte, Issiglio, Vistrorio, và Baldissero Canavese. Colors= id:lightgrey value:gray(0.9) id:darkgrey value:gray(0.8) id:sfondo id:barra ImageSize width:455 height:303 PlotArea left:50 bottom:50 top:30 right:30 DateFormat x.y Period from:0 till:1000 TimeAxis AlignBars justify ScaleMajor increment:1000 start:0 ScaleMinor increment:200 start:0 canvas:sfondo BarData= bar:1861 text:1861 bar:1871 text:1871 bar:1881 text:1881 bar:1901 text:1901 bar:1911 text:1911 bar:1921 text:1921 bar:1931 text:1931 bar:1936 text:1936 bar:1951 text:1951 bar:1961 text:1961 bar:1971 text:1971 bar:1981 text:1981 bar:1991 text:1991 bar:2001 text:2001 PlotData= color:barra width:20 align:left bar:1861 from: till:469 bar:1871 from: till:525 bar:1881 from: till:554 bar:1901 from: till:487 bar:1911 from: till:544 bar:1921 from: till:517 bar:1931 from: till:432 bar:1936 from: till:386 bar:1951 from: till:326 bar:1961 from: till:344 bar:1971 from: till:353 bar:1981 from: till:346 bar:1991 from: till:417 bar:2001 from: till:522 PlotData= bar:1861 at:469 fontsize:XS text: 469 shift:(-8,5) bar:1871 at:525 fontsize:XS text: 525 shift:(-8,5) bar:1881 at:554 fontsize:XS text: 554 shift:(-8,5) bar:1901 at:487 fontsize:XS text: 487 shift:(-8,5) bar:1911 at:544 fontsize:XS text: 544 shift:(-8,5) bar:1921 at:517 fontsize:XS text: 517 shift:(-8,5) bar:1931 at:432 fontsize:XS text: 432 shift:(-8,5) bar:1936 at:386 fontsize:XS text: 386 shift:(-8,5) bar:1951 at:326 fontsize:XS text: 326 shift:(-8,5) bar:1961 at:344 fontsize:XS text: 344 shift:(-8,5) bar:1971 at:353 fontsize:XS text: 353 shift:(-8,5) bar:1981 at:346 fontsize:XS text: 346 shift:(-8,5) bar:1991 at:417 fontsize:XS text: 417 shift:(-8,5) bar:2001 at:522 fontsize:XS text: 522 shift:(-8,5) TextData= fontsize:S pos:(20,20) text:Data from ISTAT | Vidracco | Đô thị tỉnh Torino |
personatus' là một loài cá biển thuộc chi Genicanthus trong họ Cá bướm gai. Loài này được mô tả lần đầu tiên vào năm 1975. Từ định danh của loài trong tiếng Latinh có nghĩa là "mặt nạ", hàm đề cập đến vùng màu cam trước đầu của cá đực (màu đen cá cái). G. personatus là một loài đặc hữu của quần đảo Hawaii, đặc biệt khá phổ biến Tây Bắc Hawaii. Chúng sống tập trung gần các rạn đá ngầm gần bờ đến khu vực mặt trước rạn, thường độ sâu khoảng từ 10 đến ít nhất là 174 m; cá con sống độ sâu hơn 60 m. G. personatus có chiều dài cơ thể tối đa được biết đến là 25 cm. G. personatus là loài dị hình giới tính rõ rệt. Cá đực có màu trắng đến xám nhạt. Phần trước của đầu (tính từ mõm đến ngay sau mắt) có màu vàng cam. Vây lưng và vây hậu môn có màu trắng với một dải màu cam rìa. Vây ngực và vây bụng hoàn toàn có màu cam. Nửa trước vây đuôi có màu đen (tương tự như cá cái); hai thùy đuôi của cá đực phát triển dài hơn cá cái. Cá cái tổng thể cũng có màu trắng (hoặc xám nhạt), trừ vùng màu đen trước đầu như vùng màu vàng cam cá đực. Vây bụng có màu cam. Các vây còn lại ánh màu xanh lam nhạt. Cá con có màu sắc tương tự như cá cái, nhưng đuôi và vây bụng hoàn toàn màu trắng. Số gai vây lưng: 14; Số tia vây vây lưng: 17–18; Số gai vây hậu môn: 3–4; Số tia vây vây hậu môn: 16–17; Số tia vây vây ngực: 17. Thức ăn chủ yếu của G. personatus là những loài động vật phù du, bên cạnh đó, chúng cũng ăn cả tảo lục Codium và trứng cá. G. personatus được xem là một loài cá cảnh có giá khá đắt vì chúng hiếm khi được đánh bắt do sống môi trường nước sâu; ngoài ra, chúng cũng khó sống trong môi trường nuôi nhốt do có chế độ ăn đặc biệt. | null | Cá Thái Bình Dương, Cá Hawaii, Động vật được mô tả năm 1975 |
Huyện Sonepur là một huyện thuộc bang Odisha, Ấn Độ. Thủ phủ huyện Sonepur đóng Sonepur. Huyện Sonepur có diện tích 2284 ki lô mét vuông. Đến thời điểm năm 2001, huyện Sonepur có dân số 540659 người. | Huyện Sonepur | Orissa, Huyện của Ấn Độ, Khởi đầu năm 1993 Ấn Độ |
là một xã tỉnh Seine-et-Marne, thuộc vùng Île-de-France miền bắc nước Pháp. Người dân Sainte-Aulde được gọi là Điều tra dân số năm 1999, xã này có dân số là 516. *Xã của tỉnh Seine-et-Marne Official site 1999 Land Use, from IAURIF (Institute for Urban Planning and Development of the région Map of Sainte-Aulde on Michelin | null | Xã của Seine-et-Marne |
Bảng của giải vô địch bóng đá châu Âu 2020 diễn ra từ ngày 13 đến ngày 22 tháng năm 2021 Hampden Park của Glasgow và sân vận động Wembley của Luân Đôn. Bảng này bao gồm chủ nhà Anh, Croatia, chủ nhà Scotland và Cộng hòa Séc. Trận đấu giữa các đội chủ nhà được tổ chức tại sân vận động Wembley Anh. Vị tríbốc thăm Đội tuyển Nhóm Tư cách củavòng loại Ngày củavòng loại Tham dựchung kết Tham dựcuối cùng Thành tích tốtnhất lần trước Bảng xếp hạngvòng loạiTháng 11 năm 2019 Bảng xếp hạng FIFATháng năm 2021 D1 (chủ nhà) Nhất bảng 10 lần 2016 Hạng ba (1968), Bán kết (1996) D2 Nhất bảng lần 2016 Tứ kết (1996, 2008) 10 14 D3 (chủ nhà) Thắng play-off nhánh lần 1996 Vòng bảng (1992, 1996) 29 44 D4 Nhì bảng 10 lần 2016 Vô địch (1976) 18 40 Ghi chú Trong vòng 16 đội, Đội nhất bảng D, Anh, sẽ giành quyền thi đấu với đội nhì bảng F. Đội nhì bảng D, Croatia, sẽ giành quyền thi đấu với đội nhì bảng E. Đội xếp thứ ba của bảng D, Cộng hòa Séc, sẽ giành quyền thi đấu với đội nhất bảng C, Hà Lan với tư cách là một trong bốn đội xếp thứ ba tốt nhất. GK 1 Jordan Pickford RB 2 Kyle Walker CB 5 John Stones CB 15 Tyrone Mings LB 12 Kieran Trippier CM 14 Kalvin Phillips CM 4 Declan Rice RW 10 Raheem Sterling AM 19 Mason Mount LW 20 Phil Foden CF 9 Harry Kane (c) Cầu thủ dự bị: FW 11 Marcus Rashford MF 26 Jude Bellingham FW 18 Dominic Calvert-Lewin Huấn luyện viên: Gareth Southgate 300px GK 1 Dominik Livaković RB 2 Šime Vrsaljko CB 21 Domagoj Vida CB 5 Duje Ćaleta-Car LB 25 Joško Gvardiol DM 11 Marcelo Brozović CM 10 Luka Modrić (c) CM 8 Mateo Kovačić RW 9 Andrej Kramarić LW 4 Ivan Perišić CF 17 Ante Rebić Cầu thủ dự bị: MF 13 Nikola Vlašić FW 7 Josip Brekalo FW 20 Bruno Petković MF 15 Mario Pašalić Huấn luyện viên: Zlatko Dalić Cầu thủ xuất sắc nhất trận: Raheem Sterling (Anh) Trợ lý trọng tài: Alessandro Giallatini (Ý) Fabiano Preti (Ý) Trọng tài thứ tư: Björn Kuipers (Hà Lan) Trợ lý trọng tài dự bị: Sander van Roekel (Hà Lan) Trọng tài VAR: Massimiliano Irrati (Ý) Các trợ lý trọng tài VAR: João Pinheiro (Bồ Đào Nha) Filippo Meli (Ý) Paolo Valeri (Ý) GK 1 David Marshall CB 5 Grant Hanley CB 16 Liam Cooper CB 24 Jack Hendry CM 17 Stuart Armstrong CM 7 John McGinn CM 4 Scott McTominay RW 2 Stephen O'Donnell LW 3 Andrew Robertson (c) CF 9 Lyndon Dykes CF 11 Ryan Christie Cầu thủ dự bị: FW 10 Ché Adams MF 8 Callum McGregor MF 20 Ryan Fraser MF 25 James Forrest FW 19 Kevin Nisbet Huấn luyện viên: Steve Clarke 300px GK 1 Tomáš Vaclík RB 5 Vladimír Coufal CB 3 Ondřej Čelůstka CB 6 Tomáš Kalas LB 18 Jan Bořil CM 15 Tomáš Souček CM 21 Alex Král RW 12 Lukáš Masopust AM 8 Vladimír Darida (c) LW 14 Jakub Jankto CF 10 Patrik Schick Cầu thủ dự bị: DF 9 Tomáš Holeš FW 19 Adam Hložek FW 20 Matěj Vydra MF 13 Petr Ševčík FW 11 Michael Krmenčík Huấn luyện viên: Jaroslav Šilhavý Cầu thủ xuất sắc nhất trận: Patrik Schick (Cộng hòa Séc) Trợ lý trọng tài: Jan Seidel (Đức) Rafael Foltyn (Đức) Trọng tài thứ tư: Georgi Kabakov (Bulgaria) Trợ lý trọng tài dự bị: Martin Margaritov (Bulgaria) Trọng tài VAR: Marco Fritz (Đức) Các trợ lý trọng tài VAR: Christian Dingert (Đức) Christian Gittelmann (Đức) Alejandro Hernández Hernández (Tây Ban Nha) TM 1 Dominik Livaković HV 2 Šime Vrsaljko HV 6 Dejan Lovren HV 21 Domagoj Vida HV 25 Joško Gvardiol TV 10 Luka Modrić (c) TV 8 Mateo Kovačić TV 4 Ivan Perišić TV 9 Andrej Kramarić TĐ 7 Josip Brekalo TĐ 17 Ante Rebić Vào sân thay người: HV 26 Luka Ivanušec TĐ 20 Bruno Petković HV 13 Nikola Vlašić HV 11 Marcelo Brozović Huấn luyện viên: Zlatko Dalić 300px TM 1 Tomáš Vaclík HV 5 Vladimír Coufal HV 6 Tomáš Kalas HV 3 Ondřej Čelůstka HV 18 Jan Bořil TV 9 Tomáš Holeš TV 15 Tomáš Souček TV 12 Lukáš Masopust TV 8 Vladimír Darida (c) TĐ 14 Jakub Jankto TĐ 10 Patrik Schick Vào sân thay người: TĐ 19 Adam Hložek HV 9 Tomáš Holeš TV 13 Petr Ševčík TĐ 11 Michael Krmenčík TV 7 Antonín Barák Huấn luyện viên: Jaroslav Šilhavý Cầu thủ xuất sắc nhất trận: Luka Modrić (Croatia) Trợ lý trọng tài: Juan Carlos Yuste Jiménez (Tây Ban Nha) Roberto Alonso Fernández (Tây Ban Nha) Trọng tài thứ tư: Sandro Schärer (Thụy Sĩ) Trợ lý trọng tài dự bị: Stéphane De Almeida (Thụy Sĩ) Trọng tài VAR: Juan Martínez Munuera (Tây Ban Nha) Các trợ lý trọng tài VAR: Marco Di Bello (Ý) Íñigo Prieto López de Cerain (Tây Ban Nha) Massimiliano Irrati (Ý) TM 1 Jordan Pickford HV 24 Reece James HV 5 John Stones HV 15 Tyrone Mings HV 3 Luke Shaw TV 4 Declan Rice TV 14 Kalvin Phillips TV 20 Phil Foden TV 19 Mason Mount TĐ 10 Raheem Sterling TĐ 9 Harry Kane (c) Vào sân thay người: TV 7 Jack Grealish TĐ 11 Marcus Rashford Huấn luyện viên: Gareth Southgate 300px TM 1 David Marshall HV 4 Scott McTominay HV 5 Grant Hanley HV 6 Kieran Tierney TV 23 Billy Gilmour TV 2 Stephen O'Donnell TV 7 John McGinn TV 8 Callum McGregor TV 3 Andrew Robertson (c) TĐ 9 Lyndon Dykes TĐ 10 Ché Adams Vào sân thay người: MF 17 Stuart Armstrong FW 19 Kevin Nisbet Huấn luyện viên: Steve Clarke Cầu thủ xuất sắc nhất trận: Billy Gilmour (Scotland) Trợ lý trọng tài: Pau Cebrián Devís (Tây Ban Nha) Roberto Díaz Pérez del Palomar (Tây Ban Nha) Trọng tài thứ tư: Cüneyt Çakır (Thổ Nhĩ Kỳ) Trợ lý trọng tài dự bị: Bahattin Duran (Thổ Nhĩ Kỳ) Trọng tài VAR: Alejandro Hernández Hernández (Tây Ban Nha) Các trợ lý trọng tài VAR: José María Sánchez Martínez (Tây Ban Nha) Filippo Meli (Ý) Paolo Valeri (Ý) TM 1 Dominik Livaković HV 22 Josip Juranović HV 6 Dejan Lovren HV 21 Domagoj Vida HV 25 Joško Gvardiol TV 8 Mateo Kovačić TV 11 Marcelo Brozović TV 4 Ivan Perišić TV 10 Luka Modrić (c) TĐ 13 Nikola Vlašić TĐ 20 Bruno Petković Vào sân thay người: TĐ 9 Andrej Kramarić TĐ 3 Borna Barišić TĐ 26 Luka Ivanušec TĐ 17 Ante Rebić Huấn luyện viên trưởng: Zlatko Dalić 300px TM 1 David Marshall HV 4 Scott McTominay HV 5 Grant Hanley HV 6 Kieran Tierney HV 2 Stephen O'Donnell HV 3 Andrew Robertson (c) TV 7 John McGinn TV 17 Stuart Armstrong TV 8 Callum McGregor TĐ 9 Lyndon Dykes TĐ 10 Ché Adams Vào sân thay người: TĐ 26 Scott McKenna TĐ 20 Ryan Fraser TĐ 19 Kevin Nisbet TĐ 22 Nathan Patterson Huấn luyện viên trưởng: Steve Clarke Cầu thủ xuất sắc nhất trận: Nikola Vlašić (Croatia) Trợ lý trọng tài: Juan Pablo Belatti (Argentina) Diego Bonfá (Argentina) Trọng tài thứ tư: Bartosz Frankowski (Ba Lan) Trợ lý trọng tài dự bị: Marcin Boniek (Ba Lan) Trọng tài VAR: Alejandro Hernández Hernández (Tây Ban Nha) Các trợ lý trọng tài VAR: José María Sánchez Martínez (Tây Ban Nha) Íñigo Prieto López de Cerain (Tây Ban Nha) Juan Martínez Munuera (Tây Ban Nha) TM 1 Tomáš Vaclík HV 5 Vladimír Coufal HV 3 Ondřej Čelůstka HV 6 Tomáš Kalas HV 18 Jan Bořil TV 9 Tomáš Holeš TV 15 Tomáš Souček TĐ 12 Lukáš Masopust TV 8 Vladimír Darida (c) TĐ 14 Jakub Jankto TĐ 10 Patrik Schick Vào sân thay người: TV 13 Petr Ševčík TV 21 Alex Král TĐ 19 Adam Hložek TĐ 24 Tomáš Pekhart TĐ 20 Matěj Vydra Huấn luyện viên trưởng: Jaroslav Šilhavý 300px TM 1 Jordan Pickford HV 2 Kyle Walker HV 5 John Stones HV 6 Harry Maguire HV 3 Luke Shaw TV 14 Kalvin Phillips TV 4 Declan Rice TĐ 25 Bukayo Saka TV 7 Jack Grealish TĐ 10 Raheem Sterling TĐ 9 Harry Kane (c) Thay người: TĐ 8 Jordan Henderson TĐ 11 Marcus Rashford TĐ 26 Jude Bellingham TĐ 15 Tyrone Mings TĐ 17 Jadon Sancho Huấn luyện viên trưởng: Gareth Southgate Cầu thủ xuất sắc nhất trận: Bukayo Saka (Anh) Trợ lý trọng tài: Rui Tavares (Bồ Đào Nha) Paulo Soares (Bồ Đào Nha) Trọng tài thứ tư: Srđan Jovanović (Serbia) Trợ lý trọng tài dự bị: Uroš Stojković (Serbia) Trọng tài VAR: João Pinheiro (Bồ Đào Nha) Các trợ lý trọng tài VAR: Paolo Valeri (Ý) Filippo Meli (Ý) Massimiliano Irrati (Ý) Điểm đoạt giải phong cách được sử dụng như một tiêu chí nếu đối đầu và kỷ lục tổng thể của các đội tuyển được cân bằng (và nếu một loạt sút luân lưu không được áp dụng như một tiêu chí). Chúng được tính dựa trên các thẻ vàng và thẻ đỏ nhận được trong tất cả các trận đấu của bảng như sau: *thẻ vàng điểm *thẻ đỏ do hai thẻ vàng điểm *thẻ đỏ trực tiếp điểm *thẻ vàng tiếp theo là thẻ đỏ trực tiếp điểm Chỉ có một trong các khoản khấu trừ trên được áp dụng cho một cầu thủ trong một trận đấu. Đội tuyển Trận Trận Trận Điểm −1 −3 −4 −5 Tổng quan bảng trên UEFA.com | Bảng của giải vô địch bóng đá châu Âu 2020 | Giải vô địch bóng đá châu Âu 2020, Anh tại giải vô địch bóng đá châu Âu 2020, Croatia tại giải vô địch bóng đá châu Âu 2020, Scotland tại giải vô địch bóng đá châu Âu 2020, Cộng hòa Séc tại giải vô địch bóng đá châu Âu 2020 |
'Dasylophus là một loài chim trong họ Cuculidae. BirdLife International 2004. Phaenicophaeus superciliosus. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Downloaded on ngày 24 tháng năm 2007. Head feather pattern | null | Chim Philippines, Động vật đặc hữu Philippines, Động vật được mô tả năm 1823 |
là một đô thị tỉnh Imperia trong vùng Liguria, tọa lạc khoảng 120 km về phía tây nam của Genova và khoảng 30 km về phía tây của Imperia. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 7.264 người và diện tích là 3,6 km². Vallecrosia giáp các đô thị sau: Bordighera, Camporosso, San Biagio della Cima, và Vallebona. Colors= id:lightgrey value:gray(0.9) id:darkgrey value:gray(0.8) id:sfondo id:barra ImageSize width:455 height:303 PlotArea left:50 bottom:50 top:30 right:30 DateFormat x.y Period from:0 till:8000 TimeAxis AlignBars justify ScaleMajor increment:500 start:0 ScaleMinor increment:100 start:0 canvas:sfondo BarData= bar:1861 text:1861 bar:1871 text:1871 bar:1881 text:1881 bar:1901 text:1901 bar:1911 text:1911 bar:1921 text:1921 bar:1931 text:1931 bar:1936 text:1936 bar:1951 text:1951 bar:1961 text:1961 bar:1971 text:1971 bar:1981 text:1981 bar:1991 text:1991 bar:2001 text:2001 PlotData= color:barra width:20 align:left bar:1861 from: till:568 bar:1871 from: till:649 bar:1881 from: till:754 bar:1901 from: till:1208 bar:1911 from: till:1736 bar:1921 from: till:1821 bar:1931 from: till:2302 bar:1936 from: till:2328 bar:1951 from: till:2568 bar:1961 from: till:3677 bar:1971 from: till:7406 bar:1981 from: till:7832 bar:1991 from: till:7464 bar:2001 from: till:7182 PlotData= bar:1861 at:568 fontsize:XS text: 568 shift:(-8,5) bar:1871 at:649 fontsize:XS text: 649 shift:(-8,5) bar:1881 at:754 fontsize:XS text: 754 shift:(-8,5) bar:1901 at:1208 fontsize:XS text: 1208 shift:(-8,5) bar:1911 at:1736 fontsize:XS text: 1736 shift:(-8,5) bar:1921 at:1821 fontsize:XS text: 1821 shift:(-8,5) bar:1931 at:2302 fontsize:XS text: 2302 shift:(-8,5) bar:1936 at:2328 fontsize:XS text: 2328 shift:(-8,5) bar:1951 at:2568 fontsize:XS text: 2568 shift:(-8,5) bar:1961 at:3677 fontsize:XS text: 3677 shift:(-8,5) bar:1971 at:7406 fontsize:XS text: 7406 shift:(-8,5) bar:1981 at:7832 fontsize:XS text: 7832 shift:(-8,5) bar:1991 at:7464 fontsize:XS text: 7464 shift:(-8,5) bar:2001 at:7182 fontsize:XS text: 7182 shift:(-8,5) TextData= fontsize:S pos:(20,20) text:Dữ liệu từ ISTAT | null | Đô thị tỉnh Imperia |
Đám mây sao Nhân Mã (còn gọi là Delle Caustiche, Messier 24, IC 4715) là đám mây sao trong chòm sao Nhân Mã, có đường kính xấp xỉ 600 năm ánh sáng, do Charles Messier phát hiện vào năm 1764. Các sao, cụm sao và các thiên thể trong M24 là một phần của nhánh Nhân Mã hay nhánh Nhân Mã-Thuyền Để trong Ngân Hà. Messier đã miêu tả M24 như "một tinh vân lớn chứa nhiều sao" và ông ước lượng kích cỡ của nó khoảng 1,5° rộng. Một số nguồn, không chính thức coi M24 là cụm sao mở mờ NGC 6603. M24 chiếm một khoảng thể tích không gian khoảng 10.000 đến 16.000 năm ánh sáng. Đây là một trong những vùng tập trung sao đậm đặc mà khi nhìn qua một ống nhóm nó hiện lên như là một ngôi sao đơn lẻ, với khoảng 1000 sao trong trường nhìn. Thiên thể Messier Đại Danh lục Mới Messier 24, SEDS Messier pages | Đám mây sao Nhân Mã | Đám mây sao, Ngân Hà, Chòm sao Nhân Mã |
Hình:Czech city trí của Litomyšl, nơi phát hiện 26328 Litomyšl là một tiểu hành tinh vành đai chính với vận tốc quỹ đạo 1258.7751929 ngày (3.45 năm). Nó được phát hiện ngày 18 tháng 11 năm 1998 Litomyšl, Bohemia, Cộng hòa Séc bởi Miloš Tichý và Zdeněk Moravec. 026328 | 26328 Litomyšl | Được phát hiện bởi Miloš Tichý, Được phát hiện bởi Zdeněk Moravec |
Mùa thứ tư của Giọng hát Việt, một cuộc thi ca hát tương tác truyền hình thực tế, bắt đầu từ ngày 12 tháng năm 2017 trên sóng VTV3, Đài Truyền hình Việt Nam. Chương trình làm theo khuôn mẫu và sản xuất dựa theo bản nhượng quyền từ chương trình truyền hình Hà Lan The Voice of Holland, sáng tạo và phát triển bởi John de Mol lần đầu tiên vào 2010 và tương tự The Voice (Mỹ). Bốn giám khảo cho mùa thứ tư là Tóc Tiên, Thu Minh, Noo Phước Thịnh, Đông Nhi. Họ sẽ dẫn dắt một nhóm gồm 11 người trải qua vòng thi: Giấu mặt, Đối đầu, Đo ván và Biểu diễn trực tiếp để tìm ra quán quân của chương trình. Noo Phước Thịnh và Đông Nhi là những HLV đầu tiên tham gia cả Giọng hát Việt và Giọng hát Việt nhí. Trong đêm chung kết diễn ra vào ngày tháng năm 2017, thí sinh Nguyễn Ngọc Dương của đội Thu Minh đã chiến thắng và trở thành quán quân của Giọng hát Việt mùa thứ tư. Và đây là lần thứ hai Thu Minh trở thành huấn luyện viên chiến thắng. HLV Top 44 thí sinh Tóc Tiên Hồ Thị Hiền Huỳnh Phương Mai Nguyễn Dương Thuận Đào Trọng Tín Hoàng Mỹ Linh Đặng Tuấn Phong Phạm Hải Anh Lê Quốc Đạt Trần Hải Linh Nguyễn Đức Huy Hoàng Ngô Lan Hương Bùi Hoàng Yến Thu Minh Nguyễn Ngọc Dương Trần Anh Đức Trần Tùng Anh Phạm Hải Anh Phạm Thị Mỹ Linh Phạm Văn Minh Đào Trọng Tín Đào Tâm Phương Nguyễn Hồng Ngọc Lương Song Hào Lương Ngọc Hiệp Nguyễn Ngọc Duy Niê Hon Kpă H'Quyên Noo Phước Thịnh Nguyễn Hiền Mai Ngô Anh Đạt Phan Thị Thanh Nga Đặng Thị Thu Hà Lương Minh Trí Nguyễn Anh Phong Han Sara Lê Hồng Phi Huỳnh Thị Ngọc Ny Phạm Chí Huy Nguyễn Ngọc Phát Phan Tuấn Anh Đông Nhi Nguyễn Anh Tú Han Sara Trần Thị Huyền Dung Nguyễn Thạc Giáng My Phan Thị Ngọc Thương Thái Ngọc Bảo Trâm Đặng Thị Thu Hà Ngô Đức Huy Nguyễn Thảo Phương Nguyễn Đoàn Thanh Nguyễn Đức Tài Đỗ Công Linh Trong vòng giấu mặt, các huấn luyện viên sẽ tiến hành "tuyển quân" để tìm cho mình một đội 11 người. Các huấn luyện viên sẽ ngồi quay lưng lại với thí sinh và không được biết bất cứ thông tin gì của thí sinh trừ giọng hát. Khi họ thấy muốn "tuyển" thí sinh đó vào đội thì phải nhấn nút "TÔI CHỌN BẠN" trong khi phần thi của thí sinh chưa kết thúc. Nếu chỉ một huấn luyện viên quay lại, thí sinh sẽ về đội người đó. Nếu có nhiều huấn luyện viên quay lại, thí sinh được phép chọn lựa huấn luyện viên mình thích và huấn luyện viên cũng được phép dùng mọi cách để "chiêu mộ nhân tài" cho đội của mình. Huấn luyện viên đã đầy chỗ sẽ dừng tuyển trong khi các huấn luyện viên khác tiếp tục. Vòng giấu mặt kết thúc ngay khi tất cả các huấn luyện viên dừng tuyển vì đủ chỗ. Chú giải 20px Thứ tự Thí sinh Tuổi Quê quán Bài hát dự thi (Sáng tác) Sự lựa chọn của thí sinh và giám khảo Tóc Tiên Thu Minh Noo Phước Thịnh Đông Nhi Đặng Tuấn Phong 24 Hà Nội Và thế là hết(Soobin Hoàng Sơn) 20px 20px 20px Nguyễn Thạc Giáng My 20 Hà Nội Tìm một người như thế(Phạm Hải Âu) 20px 20px 20px Đặng Thu Hà 25 Nam Định Vì ai vì anh(Đỗ Hiếu) 20px Nguyễn Ngọc Duy 24 know(Nhạc: Irma. Lời Việt: Dũng Hà) 20px Nguyễn Anh Phong 27 Vĩnh Phúc Không còn em nữa(Nhạc ngoại. Lời Việt: Linh Nhi) 20px 20px Han Sara 17 Hàn Quốc Haru haru(Kwon Ji Yong) 20px 20px 20px 20px Ngọc Tân Thùy Trang 42/23 Thanh Hóa Don't you go(Vũ Cát Tường) Phạm Hải Anh 20 Ninh Bình Rise up(Skunk Anansie) 20px 20px Phan Tuấn Anh 24 Phú Thọ Mơ(Vũ Cát Tường) 20px 20px 20px 10 Niê Hon Kpă H'Quyên 48/ 27 Đắk Lắk Con trâu(Đàm Thanh) 20px 11 Nguyễn Anh Tú 25 Thái Bình Ngày mai chuyện đã khác(Hoàng Huy Long) 20px 20px 20px 20px 12 Nguyễn Ngọc Dương 20 Bình Thuận Gương thần(Nhạc: Thanh Bùi, Lời: Viễn Trình) 20px 20px 20px 20px Thứ tự Thí sinh Tuổi Quê quán Bài hát dự thi (Sáng tác) Sự lựa chọn của thí sinh và giám khảo Tóc Tiên Thu Minh Noo Phước Thịnh Đông Nhi Thái Ngọc Bảo Trâm 22 Thành phố Hồ Chí Minh Đã hơn một lần(Tăng Nhật Tuệ) 20px 20px 20px Đào Trọng Tín 22 Tự vấn(Châu Đăng Khoa) 20px 20px 20px Lê Quốc Đạt 19 Thành phố Hồ Chí Minh Em không quay về(Hoàng Tôn) 20px 20px Nguyễn Hồng Ngọc 23 Hà Nội Dream(Nhạc ngoại. Lời Việt: Chử Phương Nam) 20px 20px 20px Hồ Thị Hiền 19 Buôn Ma Thuột Lặng thầm một tình yêu Wrecking ball(Thanh Bùi Miley Cyrus) 20px 20px 20px 20px Đỗ Văn Huy 17 Buôn Ma Thuột Chưa bao giờ(Tiên Tiên) Phan Thị Thanh Nga 23 Bình Định have nothing(David Foster, Linda Thompson) 20px 20px 20px 20px Phan Thị Ngọc Thương 25 Đà Nẵng Keep me in love(Đỗ Hiếu) 20px 20px 20px 20px Lương Song Hào Lương Ngọc Hiệp Hải Phòng Mẹ(Phú Quang) 20px 10 Nguyễn Đức Huy Hoàng 21 Đừng lừa dối(Nhạc Ngoại. Lời Việt: Chu Minh Ký) 20px 11 Lê Hồng Phi Hà Nội Bước đến bên anh 24K Magic(Khắc Hưng, Bruno Mars) 20px 20px 12 Trần Anh Đức 18 Hà Nội Thành phố buồn(Lam Phương) 20px 20px 20px 20px Thứ tự Thí sinh Tuổi Quê quán Bài hát dự thi (Sáng tác) Sự lựa chọn của thí sinh và giám khảo Tóc Tiên Thu Minh Noo Phước Thịnh Đông Nhi Phạm Văn Minh 24 Quảng Ngãi S'il suffisait d'aimer(Jean, Jacques Goldman) 20px 20px Trần Thị Huyền Dung 23 Huế Gửi người yêu cũ(Nguyễn Hồng Thuận) 20px 20px 20px 20px Ngô Lan Hương 18 Thanh Hóa Biệt ly(Dzoãn Mẫn) 20px 20px Hoàng Mỹ Linh 20 Thái Bình Love on top(Beyonce Gisselle Knowles, Roberts Taylor, Terius Youngdell Nash) 20px 20px Lương Minh Trí 26 Hà Nội When we were young(Adele, Tobias Jesso Jr) 20px 20px Dương Mạc Yến My 23 Hà Nội Tội lỗi(Nguyễn Hồng Thuận) Nguyễn Thảo Phương 22 Tuyên Quang Something's got hold on me(Leroy Kirkland, Pearl Woods) 20px Nguyễn Đức Tài Bình Định Nấc thang lên thiên đường(Nhạc ngoại. Lời Việt: Bằng Kiều) 20px Ngô Anh Đạt 16 Hà Nội Halo(Ryan Tedder) 20px 20px 20px 10 Phan Duy Anh 25 Hà Nội Phía sau một cô gái(Tiên Cookie) 20px 20px 20px 11 Trần Hải Linh 19 Thái Bình Quay lưng(Yến Lê) 20px 20px 12 Trần Tùng Anh 21 Bắc Giang Mong anh về(Dương Cầm) 20px 20px 20px 20px Thứ tự Thí sinh Tuổi Quê quán Bài hát dự thi (Sáng tác) Sự lựa chọn của thí sinh và giám khảo Tóc Tiên Thu Minh Noo Phước Thịnh Đông Nhi Phạm Chí Huy 26 Thành phố Hồ Chí Minh Mưa phi trường(Việt Anh) 20px 20px Nguyễn Ngọc Phát 23 Thành phố Hồ Chí Minh Cảm giác(Nguyễn Ngọc Phát) 20px 20px 20px 20px Phạm Thị Mỹ Linh 22 Buôn Ma Thuột No(Meghan Trainor) 20px 20px 20px Đỗ Công Linh She's gone(John Oates, Daryl Hall) 20px Nguyễn Dương Thuận 23 Thanh Hóa Tan(Tú Dưa) 20px 20px 20px 20px Huỳnh Phương Mai 19 Hà Nội Mamma knows best(Jessica Cornish, Ashton Thomas) 20px 20px 20px Huỳnh Thị Ngọc Ny Đà Nẵng Mẹ tôi(Trần Tiến) 20px Nguyễn Hiền Mai 19 Hà Nội House of the rising sun(Dân ca Mỹ) 20px 20px 20px 20px Nguyễn Đoàn Thanh 23 Thành phố Hồ Chí Minh Duyên(Tạ Quang Thắng) 20px 10 Đào Tâm Phương 19 Hà Nội Hello(Adele, Greg Kurstin) 20px 11 Nguyễn Trọng Tín 23 Đồng Nai Million reasons(Lady Gaga, Hillary Lindsey, Mark Ronson) 12 Bùi Hoàng Yến 26 Anh cứ đi đi(Vương Anh Tú) 20px Mỗi Huấn luyện viên sẽ chia 11 thí sinh trong đội của mình làm cặp song ca và nhóm tam ca đồng thời chọn cho nhóm một bài hát. Mỗi nhóm sẽ được chính huấn luyện viên và người cố vấn chuyên môn (của huấn luyện viên đó) hướng dẫn để có phần trình diễn tốt nhất trên sân khấu. Sau thời gian hướng dẫn, vòng đối đầu được ghi hình. Sân khấu sẽ được thiết kế giống như một võ đài và hai thí sinh bước ra cùng trình diễn bài hát đã được tập trước các huấn luyện viên. Sau cuộc thi đấu, các huấn luyện viên đưa ra lời nhận xét. Ba huấn luyện viên còn lại có thể đưa ra dự đoán thí sinh lọt vào vòng trong theo thích, nhưng quyền quyết định thí sinh nào lại và thí sinh nào ra về lại thuộc về huấn luyện viên chủ quản của hai thí sinh đó. Sau khi huấn luyện viên chủ quản nhận xét xong thì sẽ quyết định một người lọt vào vòng Đo ván. Thí sinh còn lại chính thức không còn là người của đội huấn luyện viên chủ quản. Kết thúc phần đối đầu của đội, HLV chủ quản sẽ có quyền được cứu trong số thí sinh đã bị loại trong các trận đối đầu của đội mình để đi vào vòng Đo ván. Sau vòng Đối đầu, mỗi đội sẽ có thí sinh đi vào vòng tiếp theo. Danh sách cố vấn của các đội: Thứ tự Đội HLV Cố vấn Tóc Tiên Mỹ Linh Thu Minh Khắc Hưng, Nguyễn Trần Trung Quân Noo Phước Thịnh Phương Thanh Đông Nhi Thanh Hà, Đỗ Hiếu, Hoàng Tôn Thắng đối đầu trực tiếp do được HLV chọn Thua đối đầu trực tiếp do không được HLV chọn và không được HLV cứu sau cùng Thua đối đầu trực tiếp nhưng được HLV cứu sau cùng Thứ tự Đội Bài hát đối đầu (Sáng tác) Thí sinh Thí sinh Thí sinh Tóc Tiên Ngày hôm qua(Vũ Cát Tường) Nguyễn Đức Huy Hoàng Đặng Tuấn Phong Đông Nhi Cho em một ngày(Dương Thụ) Nguyễn Đức Tài Trần Thị Huyền Dung Thu Minh Nắm lấy tay anh(Tú Dưa) Trần Anh Đức Nguyễn Ngọc Duy Tóc Tiên Lady marmalade(Bob Crewe, Kenny Nolan) Bùi Hoàng Yến Hồ Thị Hiền Ngô Lan Hương Noo Phước Thịnh Perfect illusion(Lady Gaga, Kevin Parker) Nguyễn Ngọc Phát Ngô Anh Đạt Thứ tự Đội Bài hát đối đầu (Sáng tác) Thí sinh Thí sinh Thí sinh Thu Minh Treasure(Bruno Mars, Philip Lawrence) Đào Trọng Tín Phạm Thị Mỹ Linh Noo Phước Thịnh Xinh What is love Em không cần anh Không(Nathan Lee Hồ Ngọc Hà, Kiên Trần Châu Đăng Khoa Nguyễn Ánh 9) Anh Phong Huỳnh Thị Ngọc Ny Phạm Chí Huy Tóc Tiên You and I(Lady Gaga) Hoàng Mỹ Linh Phạm Hải Anh Đông Nhi Xin anh đừng(Đỗ Hiếu) Đặng Thị Thu Hà Nguyễn Thạc Giáng My Thu Minh Khi người mình yêu khóc(Phan Mạnh Quỳnh) Ngọc Dương Lương Song Hào Lương Ngọc Hiệp Thứ tự Đội Bài hát đối đầu (Sáng tác) Thí sinh Thí sinh Thí sinh Đông Nhi Đi về đâu(Tiên Tiên) Nguyễn Thảo Phương Anh Tú Noo Phước Thịnh Lặng thầm(Nguyễn Hoàng Duy) Han Sara Phan Tuấn Anh Thu Minh Lạc(Tăng Tường Anh) Phạm Văn Minh Niê Hon Kpă H'Quyên Đào Tâm Phương Noo Phước Thịnh Thủy thần(Bùi Hoàng Nam Đức Anh) Lương Minh Trí Lê Hồng Phi Tóc Tiên Tình lãng phí(Hứa Kim Tuyền) Lê Quốc Đạt Dương Thuận Thứ tự Đội Bài hát đối đầu (Sáng tác) Thí sinh Thí sinh Thí sinh Đông Nhi Dù tình phôi pha(Đỗ Hiếu) Ngô Đức Huy Thái Ngọc Bảo Trâm Đông Nhi Bài ca tuổi trẻ Price tag(Hoàng Long, Việt Phương, Đăng Khoa, Jessie J) Đỗ Công Linh Phan Thị Ngọc Thương Nguyễn Đoàn Thanh Noo Phước Thịnh Ta chẳng còn ai(Đức Trí) Hiền Mai Phan Thị Thanh Nga Tóc Tiên Buông(Vũ Ngọc Bích) Trần Hải Linh Huỳnh Phương Mai Thu Minh Queen of the night(Wolfgang Amadeus Mozart) Trần Tùng Anh Nguyễn Hồng Ngọc Vòng Đo ván có thể thức gần giống vòng Đối đầu khi các huấn luyện viên tiếp tục chia cặp đấu, chia thành cặp mỗi đội. Nhưng hai người trong cặp được chọn sẽ hát bài khác nhau, sau đó huấn luyện viên sẽ chọn thí sinh đi tiếp. Thí sinh còn lại vẫn còn cơ hội để đi tiếp. đây, cơ hội đi tiếp được hiểu là thí sinh đó không thuộc về đội của huấn luyện viên của mình nữa mà trong huấn luyện viên còn lại sẽ bấm nút để cứu thí sinh đó và thí sinh đó sẽ về đội của HLV đó. Mỗi HLV sẽ chỉ có quyền "cứu" duy nhất. Sau vòng Đo ván, mỗi đội còn lại thí sinh trong đó có thí sinh của mỗi đội chiến thắng và thí sinh cứu được từ đội khác. Danh sách cố vấn âm nhạc của các đội Thứ tự Đội HLV Cố vấn Tóc Tiên Siu Black Thu Minh Hoài Sa Noo Phước Thịnh Hồ Ngọc Hà Đông Nhi Thanh Hà Thắng Thua Thua nhưng được HLV khác cứu Thứ tự Đội Thí sinh 1 Bài hát dự thi (Sáng tác) Thí sinh Bài hát dự thi (Sáng tác) CỨU Tóc Tiên Thu Minh Noo Phước Thịnh Đông Nhi Đông Nhi Thái Ngọc Bảo Trâm Note to God(Diane Warren) Nguyễn Thạc Giáng My Người đàn bà hóa đá(Trần Lập) 16px Tóc Tiên Đặng Tuấn Phong Vì mất đi ánh mặt trời(Đặng Tuấn Phong) Dương Thuận Vội vàng(Tạ Quang Thắng) 16px Noo Phước Thịnh Hiền Mai Rơi(Hồ Hoài Anh) Nguyễn Anh Phong You raise me up(Brendan Graham) 16px Thu Minh Đào Trọng Tín Anh đã quen với cô đơn (Soobin Hoàng Sơn) Ngọc Dương Lạc nhau có phải muôn đời(Triết Phạm) 20px 16px Thứ tự Đội Thí sinh 1 Bài hát dự thi (Sáng tác) Thí sinh Bài hát dự thi (Sáng tác) CỨU Tóc Tiên Thu Minh Noo Phước Thịnh Đông Nhi Noo Phước Thịnh Ngô Anh Đạt Giọt nắng bên thềm(Thanh Tùng) Han Sara Thương ca Tiếng Việt(Đức Trí, Hà Quang Minh) 16px 20px Thu Minh Trần Anh Đức City of stars(Justin Hurwitz) Phạm Văn Minh Chuyện của mùa đông(Phạm Toàn Thắng) 16px Tóc Tiên Hoàng Mỹ Linh Fate(Nhạc Hàn. Lời Việt: Hoàng Anh) Huỳnh Phương Mai Tell me why(Tóc Tiên, Kiên Trần) 16px Đông Nhi Phan Thị Ngọc Thương will show you(Nhạc Hàn, Lời Việt: JC Hưng) Anh Tú Anh ghét làm bạn em(Phan Mạnh Quỳnh) 16px Thứ tự Đội Thí sinh 1 Bài hát dự thi (Sáng tác) Thí sinh Bài hát dự thi (Sáng tác) CỨU Tóc Tiên Thu Minh Noo Phước Thịnh Đông Nhi Tóc Tiên Hồ Thị Hiền Lang thang(Tuấn Thành) Phạm Hải Anh Thăng hoa(Dominik Nghĩa Đỗ, Hoàng Quân) 16px 20px Noo Phước Thịnh Lương Minh Trí Lá diêu bông(Trần Tiến) Phan Thị Thanh Nga Nỗi đau ngự trị(Lương Bằng Quang) 16px Đông Nhi Trần Thị Huyền Dung Tiếng đêm(Hồ Hoài Anh) Đặng Thị Thu Hà Tôi là ai(Bảo Phương) 20px 16px Thu Minh Trần Tùng Anh Gửi anh xa nhớ(Tiên Cookie) Phạm Thị Mỹ Linh Tâm sự với người lạ(Tiên Cookie) 16px Thí sinh có số lượng bình chọn cao nhất trong đội Thí sinh có số lượng bình chọn cao thứ hai trong đội Thí sinh được HLV chọn vào vòng trong Thí sinh bị loại Liveshow của Giọng hát Việt 2017 là các phần thi của đội Tóc Tiên và Đông Nhi. Kết quả các thí sinh đi tiếp hay dừng lại sẽ được công bố ngay sau khi các thí sinh đã trình diễn xong theo quy tắc: thí sinh có số lượng bình chọn tin nhắn của khán giả trường quay cao nhất đội sẽ được vào thẳng vòng tiếp theo. thí sinh được HLV chọn trong thí sinh còn lại sẽ được vào vòng tiếp theo. thí sinh không có lượng bình chọn tin nhắn trong top đội và không được HLV lựa chọn sẽ bị loại. Đội Mã số Tên thí sinh Bài hát dự thi Tác giả Kết quả Tóc Tiên 15 Nguyễn Dương Thuận Chí Phèo Bùi Công Nam 14 Huỳnh Phương Mai Ánh sáng đời tôi Minh Châu HLV chọn 16 Đào Trọng Tín Quá khứ còn lại gì Vũ Minh Tâm Loại 13 Hồ Thị Hiền Mình yêu từ bao giờ Nguyễn Hải Phong 27,9% Đông Nhi 09 Trần Thị Huyền Dung I love you Phương Uyên 10 Nguyễn Anh Tú Ánh nắng của anh Khắc Hưng 33% 11 Nguyễn Thạc Giáng My Chốn thiên đường Bài ca trên núi Hồ Hoài Anh, Nguyễn Văn Thương Loại 12 Han Sara Side to side Max Martin, Ilya Salmanzadeli, Savan Kotecha, Alexander Kronlund, Ariana Grande HLV chọn Liveshow của Giọng hát Việt 2017 là các phần thi của đội Thu Minh và Noo Phước Thịnh. Kết quả các thí sinh đi tiếp hay dừng lại sẽ được công bố ngay sau khi các thí sinh đã trình diễn xong theo quy tắc: thí sinh có số lượng bình chọn tin nhắn của khán giả trường quay cao nhất đội sẽ được vào thẳng vòng tiếp theo. thí sinh được HLV chọn trong thí sinh còn lại sẽ được vào vòng tiếp theo. thí sinh không có lượng bình chọn tin nhắn trong top đội và không được HLV lựa chọn sẽ bị loại. Đội Mã số Tên thí sinh Bài hát dự thi Tác giả Kết quả Thu Minh 05 Phạm Hải Anh Tình 2000 Võ Thiện Thanh Loại 07 Trần Tùng Anh Dệt tầm gai Nhạc: Ngọc Đại. Thơ: Vi Thùy Linh HLV chọn 17 Trần Anh Đức Trái tim em cũng biết đau Mr. Siro 08 Nguyễn Ngọc Dương Tell me why Châu Đăng Khoa Noo Phước Thịnh 04 Nguyễn Hiền Mai I don't want to miss thing Diane Warren 01 Đặng Thị Thu Hà Vì tôi còn sống Tiên Tiên Loại 18 Phan Thị Thanh Nga Love you in silence Nhạc: Dương Khắc Linh. Lời: Hoàng Huy Long HLV chọn 02 Ngô Anh Đạt Não cá vàng Only C, Lou Hoàng 25,3% Liveshow của Giọng hát Việt 2017 là các phần thi của cả 12 thí sinh đến từ đội. Kết quả các thí sinh đi tiếp hay dừng lại sẽ được công bố ngay sau khi các thí sinh đã trình diễn xong theo quy tắc: thí sinh có số lượng bình chọn tin nhắn của khán giả trường quay cao nhất mỗi đội sẽ được vào thẳng vòng tiếp theo. thí sinh được HLV chọn trong thí sinh còn lại của đội sẽ được vào vòng tiếp theo. thí sinh không có lượng bình chọn tin nhắn cao nhất đội và không được HLV lựa chọn sẽ bị loại. Đội Mã số Tên thí sinh Bài hát dự thi Tác giả Kết quả Tóc Tiên 14 Huỳnh Phương Mai Giọt sương trên mí mắt Thanh Tùng HLV chọn 15 Nguyễn Dương Thuận Linh hồn và thể xác Nguyễn Hải Phong Loại 13 Hồ Thị Hiền Đánh thức Tinna Tình Thu Minh 07 Trần Tùng Anh Ngày mai Lưu Thiên Hương Loại 08 Nguyễn Ngọc Dương Chuyện hôm qua đó Kiên Trần 17 Trần Anh Đức Moves like jagger Adam Levine, Benny Blanco, Shellback, Ammar Malik HLV chọn Noo Phước Thịnh 18 Phan Thị Thanh Nga Con ma Nguyễn Hải Phong Loại 02 Ngô Anh Đạt Nắng thủy tinh Trịnh Công Sơn HLV chọn 04 Nguyễn Hiền Mai Ngẫu hứng sông Hồng Trần Tiến 63,6% Đông Nhi 09 Trần Thị Huyền Dung Trò đùa của tạo hóa Nguyễn Hồng Thuận Loại 10 Nguyễn Anh Tú Ngày mai sẽ khác Khắc Hưng 12 Han Sara Lạc trôi Sơn Tùng MTP HLV chọn Liveshow của Giọng hát Việt 2017 là các phần thi của tất cả bốn đội Tóc Tiên, Thu Minh, Noo Phước Thịnh và Đông Nhi. Đây là đêm thi bán kết để chọn ra thí sinh của đội đi vào đêm chung kết. Kết quả các thí sinh đi tiếp hay dừng lại sẽ được công bố ngay sau khi các thí sinh đã trình diễn xong theo quy tắc: Tổng điểm (%) Tỉ lệ bình chọn của khán giả trường quay (%) Điểm số của huấn luyện viên cho (%) Tỉ lệ bình chọn của mỗi thí sinh được quy ra trên tổng số 100% bình chọn của cả hai thí sinh. Huấn luyện viên có 100% điểm số để cho hai thí sinh tùy theo mức độ đánh giá của mình dành cho thí sinh. Tổng hai tỉ lệ bình chọn này của thí sinh nào cao hơn sẽ đi tiếp vào chung kết, thí sinh có tổng điểm thấp hơn sẽ bị loại. Đội Mã số Tên thí sinh Bài hát dự thi Tác giả Điểm thành phần Tổng điểm (%) Kết quả Tỉ lệ bình chọn (%) Điểm HLV cho (%) Tóc Tiên 14 Huỳnh Phương Mai Purple rain Prince Rogers Nelson 43,42% 50% 93,42% Loại 13 Hồ Thị Hiền I'm in love Vũ Đức Thiện 50% Vào CK Thu Minh 08 Nguyễn Ngọc Dương Let me love you DJ Snake, Justin Bieber, Andrew Watt, Ali Tamposi, Brian Lee 55% Vào CK 17 Trần Anh Đức Người ơi người đừng về Dân ca Quan họ Bắc Ninh 24,41% 45% 59,41% Loại Noo Phước Thịnh 02 Ngô Anh Đạt One night only Henry Krieger 32,81% 50% 82,81% Loại 04 Nguyễn Hiền Mai Hold me tonight Hot Đỗ Hiếu Nhạc Ngoại. Lời Việt: Nathan Lee, Da Da 50% Vào CK Đông Nhi 10 Nguyễn Anh Tú Yêu 5 Vũ Đức Thiện 50% Vào CK 12 Han Sara Tuổi đá buồn Trịnh Công Sơn 39,81% 50% 89,81% Loại Liveshow của Giọng hát Việt 2017 là các phần thi của tất cả bốn đội Tóc Tiên, Thu Minh, Noo Phước Thịnh và Đông Nhi. Đây là đêm thi chung kết để tìm ra danh hiệu quán quân của mùa giải. Kết quả sẽ được công bố vào Liveshow và hoàn toàn dựa vào sự bình chọn của khán giả. Thí sinh có lượng tin nhắn bình chọn cao nhất cộng dồn trong chung kết và chung kết trong số thí sinh cuối cùng sẽ trở thành quán quân của mùa giải. Đội Mã số Tên thí sinh Bài hát dự thi Đơn ca Tác giả Song ca cùng khách mời Tác giả Đông Nhi 10 Nguyễn Anh Tú Cứ đi Nguyễn Anh Tú Cát bụi Trịnh Công Sơn Noo Phước Thịnh 04 Nguyễn Hiền Mai Who is loving you Feeling good Smokey Robinson, Leslie Bricusse, Anthony Newley Về đi em Trần Tiến Tóc Tiên 13 Hồ Thị Hiền Chạy đi thôi Lưu Thiên Hương Mùa yêu đầu Đinh Mạnh Ninh Thu Minh 08 Nguyễn Ngọc Dương Let her go Lưu Thiên Hương Đừng để con một mình Trang Pháp Liveshow của Giọng hát Việt 2017 là đêm chung kết công bố kết quả quán quân của chương trình với những tiết mục khách mời đặc sắc. Quán quân của chương trình được xác định hoàn toàn dựa vào lượng tin nhắn của khán giả từ đêm chung kết đến hết đêm chung kết 2. Ngoài thí sinh của đội đã dự thi chung kết 1, thí sinh Ngô Anh Đạt (đội Noo Phước Thịnh) là thí sinh có số bình chọn "Chiếc vé may mắn" cao nhất trên trang điện tử Saostar sẽ chính thức trở lại và là thí sinh thứ tham gia đêm chung kết để tranh danh hiệu quán quân Giọng hát Việt mùa thứ 4. Đội Mã số Tên thí sinh Bài hát dự thi Kết quả Đơn ca Tác giả Song ca với HLV Tác giả Noo Phước Thịnh 02 Ngô Anh Đạt Hương ngọc lan Nhạc: Anh Quân Lời: Dương Thụ Một mình Thanh Tùng 8,5% 04 Nguyễn Hiền Mai Never give up Nguyễn Ngọc Phát 20,69% Tóc Tiên 13 Hồ Thị Hiền Đời Lưu Thiên Hương Hôn Châu Đăng Khoa 13,72% Đông Nhi 10 Nguyễn Anh Tú Tình nhân hay người dưng Đỗ Hiếu Sẽ không quay về Đỗ Hiếu 23,18% Thu Minh 08 Nguyễn Ngọc Dương Trắng đen Hồ Hoài Anh Yêu mình anh Đừng yêu Dada Trang Pháp ;Kết quả chi tiết +Kết quả Liveshow hàng tuần Thí sinh Tuần Tuần Tuần Bán kết Chung kết Nguyễn Ngọc Dương 41,32% 64,04% 130,59% 33,91% Nguyễn Anh Tú 33% 48,62% 110,19% 23,18% Nguyễn Hiền Mai 41,45% 63,6% 117,19% 20,69% Ngô Anh Đạt 25,3% HLV chọn Được cứu bởi "Chiếc vé may mắn" 13,72% Hồ Thị Hiền 27,9% 48,51% 106,58% 8,5% Han Sara HLV chọn HLV chọn Loại Loại (Bán kết) Trần Anh Đức 27,22% HLV chọn Loại Huỳnh Phương Mai HLV chọn HLV chọn Loại Nguyễn Dương Thuận 28,29% Loại Loại (Tuần 3) Trần Tùng Anh HLV chọn Loại Phan Thị Thanh Nga HLV chọn Loại Trần Thị Huyền Dung 41,07% Loại Phạm Hải Anh Loại Loại (Tuần 2) Đặng Thị Thu Hà Loại Đào Trọng Tín Loại Loại (Tuần 1) Nguyễn Thạc Giáng My Loại ;Kết quả chi tiết Thí sinh Tuần 1+2 Tuần Tuần Chung kết Hồ Thị Hiền 27,9% 48,51% 106,58% 8,5% Huỳnh Phương Mai HLV chọn HLV chọn Loại bỏ Nguyễn Dương Thuận 28,29% Loại bỏ Đào Trọng Tín Loại bỏ Nguyễn Ngọc Dương 41,32% 64,04% 130,59% 33,91% Trần Anh Đức 27,22% HLV chọn Loại bỏ Trần Tùng Anh HLV chọn Loại bỏ Phạm Hải Anh Loại bỏ Nguyễn Hiền Mai 41,45% 63,6% 117,19% 20,69% Ngô Anh Đạt 25,3% HLV chọn Được cứu bởi khán giả 13,72% Phan Thị Thanh Nga HLV chọn Loại bỏ Đặng Thị Thu Hà Loại bỏ Nguyễn Anh Tú 33% 48,62% 110,19% 23,18% Han Sara HLV chọn HLV chọn Loại bỏ Trần Thị Huyền Dung 41,07% Loại bỏ Nguyễn Thạc Giáng My Loại bỏ Nguyễn Anh Phong (Top 12, mùa 5, 2014) Nguyễn Anh Tú (Top 5, mùa 6, 2018) Trần Tùng Anh (Top 4, mùa 7, 2019) Lương Minh Trí (Top 14, đội Trần Lập, mùa 1, 2012) Thái Ngọc Bảo Trâm (Top 3, đội Đàm Vĩnh Hưng, mùa 3, 2015) Hồ Thị Hiền (mùa 2, 2016) Phạm Chí Huy (Top 3, đội Thanh Lam, mùa 2, 2016) Trần Tùng Anh (song ca cùng Ngọc Hiếu, đội Đàm Vĩnh Hưng Dương Triệu Vũ, 2018) Phạm Mỹ Linh (song ca cùng Ngọc Việt, Minh Tú, mùa 1, 2018) Huỳnh Phương Mai (nhóm PM, mùa 1, 2018) Han Sara (đội với Lê Nguyễn Thái Sơn, mùa 2, 2018) Trần Tùng Anh (Mùa 2018) Nguyễn Anh Tú (hát hỗ trợ thí sinh Hydra, GDucky, TLinh, Lil Cell tại vòng chinh phục) Thí sinh Đặng Thị Thu Hà sau cuộc thi đã cùng với thí sinh Nguyễn Thạc Giáng My của đội HLV Đông Nhi đã debut nhóm nhạc P.M Band bằng sản phẩm âm nhạc đầu tay mang tên "Cần lắm đấy", vào ngày 14/11/2018. Thu Hà đổi sang sử dụng tên Đặng Ngọc Tuệ Phương. Cho đến thời điểm hiện tại, P.M Band đã nhận được tình cảm từ đông đảo khán giả và còn được ưu ái dành tặng cho cái tên “Davichi của Việt Nam” khi sở hữu hàng loạt các ca khúc cover triệu view trên YouTube. *Danh sách chương trình phát sóng của Đài Truyền hình Việt Nam | Giọng hát Việt | Giọng hát Việt |
Dãy núi Võ Đang là một dãy núi và Di sản thế giới nằm tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc. Võ Đang () cũng có thể là: Bắc Võ Đang, là quần thể đền thờ và dãy núi Đạo giáo nằm tại Lữ Lương, tỉnh Sơn Tây Võ Đang, một thị trấn nằm huyện Long Nam, Giang Tây Võ Đang quyền, võ thuật Trung Quốc xuất phát từ núi Võ Đang Võ Đang phái, là môn phái võ thuật Đại Võ Đang Chi Thiên Địa Mật Mã hay đơn giản là Đại Võ Đang là một bộ phim võ thuật Trung Quốc phát hành năm 2012. Võ Đang, phim truyền hình Trung Quốc ra mắt năm 2003 | Dãy núi Võ Đang | |
Thái Bá (chữ Hán: 太伯) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. Thương Ân Ngô Thái bá Tây Chu Tào Thái bá Việt Nam Trần triều Hoàng Thái bá (truy tôn) Thái Bá cũng là tên tự của Tiền Lương Uy Vương Trương Tộ thời kỳ Ngũ Hồ thập lục quốc. Trang Công Trang Vương Hoài Vương Tương Vương Hiếu Vương Hiếu Bá Thái Công Thái Hầu Thái Vương Thái Đế Thái hoàng hậu | Thái Bá | |
'Asplenium là một loài dương xỉ trong họ Aspleniaceae. Loài này được Baker mô tả khoa học đầu tiên năm 1874. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | null | Asplenium, Unresolved names |
Tập tin:Lenovo western headquarters công ty sở hữu Motorola hiện tại Motorola (phiên âm tiếng Anh: /moʊtɵ'roʊlə/) là một công ty viễn thông đa quốc gia có nguồn gốc từ Hoa Kỳ (tên đầy đủ là Motorola, Inc.), có trụ sở tại Schaumburg, Illinois, Hoa Kỳ. Motorola đã từng là một trong các công ty hàng đầu và có ảnh hưởng lớn nhất trong ngành công nghiệp viễn thông và sản xuất điện thoại di động, với khẩu hiệu "Hello Moto". Motorola tổn thất 1,2 tỷ đô la Mỹ trong quý năm 2007 và mất vị trí thứ thị phần điện thoại di động. Năm 2010, thị phần toàn cầu của Motorola đã giảm xuống đứng vị trí thứ 7. Sau khi đánh mất hào quang và thành công vào các đối thủ mới nổi, ngày 04 tháng năm 2011, công ty Motorola được chia thành hai công ty độc lập: Di động Motorola (Motorola Mobility) chuyên phát triển thiết bị di động và Giải pháp Motorola (Motorola Solutions) tập trung vào các giải pháp về mạng, sau khi thua lỗ 4,3 tỉ đô la trong khoảng thời gian từ 2007 đến 2009. Motorola Solutions được coi là sự kế thừa trực tiếp của công ty Motorola, trong khi Motorola Mobility sau khi được tách ra đã sử dụng giải pháp thương mại hoá sản phẩm công nghệ theo mô hình công ty spin off. Ngày 15 Tháng năm 2011, Google thông báo rằng họ đã đồng mua lại Motorola với giá 12,5 tỷ đô la Mỹ nhằm bảo vệ nền tảng Android đang được Motorola sử dụng, khỏi các vụ kiện bản quyền từ các đối thủ Apple, Microsoft và các công ty khác. Theo đó, Google sẽ sở hữu hệ thống sản xuất điện thoại quy mô toàn cầu với 20.000 nhân viên cùng số lượng bằng sáng chế lên đến 17.000. Ngày 29 tháng năm 2014, Google tuyên bố bán lại Motorola Mobility cho tập đoàn công nghệ Trung Quốc Lenovo với giá 2,91 tỷ USD. Việc mua lại đã được hoàn tất vào ngày 30 tháng 10 năm 2014. Motorola Mobility vẫn đặt trụ sở tại Chicago, Hoa Kỳ và tiếp tục sử dụng thương hiệu Motorola, nhưng Lưu Quân chủ tịch kinh doanh thiết bị di động của Lenovo sẽ trở thành chủ tịch của Motorola. Lenovo từng có định ngừng sản xuất điện thoại di động mang thương hiệu Lenovo mà sử dụng thương hiệu Motorola vì ảnh hưởng của nó đến thị hiếu người dùng. Hiện tại Lenovo vẫn cho ra mắt rất hạn chế các mẫu máy Motorola chạy Android. Mẫu smartphone mới nhất của hãng là thiết bị màn hình gập Motorola Razr, cái tên gợi nhớ lại mẫu feature phone Motorola Razr từng gây ảnh hưởng lớn trong thời hoàng kim của Motorola trong quá khứ. Tập tin:Motorola RAZR V3-4901.jpg Tập tin:Motorola RAZR V3i 01.JPG Tập tin:Motorola RAZR V3i 02.JPG Tập tin:Motorola RAZR V3i 03.JPG Tập tin:Motorola RAZR V3-92003.jpg | Motorola | Nhà sản xuất điện thoại di động, Công ty điện tử Mỹ, Công ty sản xuất điện thoại di động |
Lomello là một đô thị tỉnh Pavia trong vùng Lombardia của Ý, có cự ly khoảng 50 km về phía tây nam của Milan và khoảng 30 km về phía tây của Pavia, bên hữu ngạn sông Agogna. Basilica Santa Maria Maggiore. Lomello giáp các đô thị sau: Ferrera Erbognone, Galliavola, Mede, Ottobiano, San Giorgio di Lomellina, Semiana, Velezzo Lomellina, Villa Biscossi. Colors= id:lightgrey value:gray(0.9) id:darkgrey value:gray(0.8) id:sfondo id:barra ImageSize width:455 height:303 PlotArea left:50 bottom:50 top:30 right:30 DateFormat x.y Period from:0 till:4000 TimeAxis AlignBars justify ScaleMajor increment:1000 start:0 ScaleMinor increment:200 start:0 canvas:sfondo BarData= bar:1861 text:1861 bar:1871 text:1871 bar:1881 text:1881 bar:1901 text:1901 bar:1911 text:1911 bar:1921 text:1921 bar:1931 text:1931 bar:1936 text:1936 bar:1951 text:1951 bar:1961 text:1961 bar:1971 text:1971 bar:1981 text:1981 bar:1991 text:1991 bar:2001 text:2001 PlotData= color:barra width:20 align:left bar:1861 from: till:2635 bar:1871 from: till:2947 bar:1881 from: till:3299 bar:1901 from: till:3317 bar:1911 from: till:3268 bar:1921 from: till:3113 bar:1931 from: till:2881 bar:1936 from: till:3006 bar:1951 from: till:3110 bar:1961 from: till:2864 bar:1971 from: till:2677 bar:1981 from: till:2556 bar:1991 from: till:2392 bar:2001 from: till:2378 PlotData= bar:1861 at:2635 fontsize:XS text: 2635 shift:(-8,5) bar:1871 at:2947 fontsize:XS text: 2947 shift:(-8,5) bar:1881 at:3299 fontsize:XS text: 3299 shift:(-8,5) bar:1901 at:3317 fontsize:XS text: 3317 shift:(-8,5) bar:1911 at:3268 fontsize:XS text: 3268 shift:(-8,5) bar:1921 at:3113 fontsize:XS text: 3113 shift:(-8,5) bar:1931 at:2881 fontsize:XS text: 2881 shift:(-8,5) bar:1936 at:3006 fontsize:XS text: 3006 shift:(-8,5) bar:1951 at:3110 fontsize:XS text: 3110 shift:(-8,5) bar:1961 at:2864 fontsize:XS text: 2864 shift:(-8,5) bar:1971 at:2677 fontsize:XS text: 2677 shift:(-8,5) bar:1981 at:2556 fontsize:XS text: 2556 shift:(-8,5) bar:1991 at:2392 fontsize:XS text: 2392 shift:(-8,5) bar:2001 at:2378 fontsize:XS text: 2378 shift:(-8,5) TextData= fontsize:S pos:(20,20) text:Data from ISTAT | Lomello | Đô thị tỉnh Pavia |
Bồng chanh lam nhỏ (danh pháp hai phần: Alcedo coerulescens) là một loài chim thuộc Họ Bồng chanh. Loài này phân bố một số khu vực Ấn Độ. Với một bộ lông nhìn chung có màu xanh kim loại, trông giống như loài bồng chanh thông thường, nhưng chúng có bụng màu trắng thay vì màu da cam. Loài này đôi khi được gọi là bồng chanh xanh nhỏ nhưng Ấn Độ và một số khu vực khác, tên gọi này được sử dụng cho loài Alcedo atthis. | Bồng chanh lam nhỏ | Động vật được mô tả năm 1818, Động vật đặc hữu Ấn Độ |
Ambulyx japonica là một loài bướm đêm thuộc họ Sphingidae. Nó được tìm thấy miền đông Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan. Sải cánh dài 81–90 mm. There là một broad subbasal band on the forewing upperside. Males are paler than females và less strongly marked. Ambulyx japonica japonica MHNT CUT 2010 59 Foping National Nature Reserve Shaanxi Province, China male japonica japonica Ambulyx japonica japonica MHNT CUT 2010 59 Foping National Nature Reserve Shaanxi Province, China male japonica japonica Ấu trùng ăn Aceraceae species in Trung Quốc. In Nhật Bản, larvae have been recorded on Acer và Carpinus japonica. Furthermore, larvae have been reared on Carpinus laxiflora và Carpinus tschonoskii. *Ambulyx japonica japonica (Nhật Bản) *Ambulyx japonica (Okano, 1959) (Taiwan) *Ambulyx japonica koreana'' Inoue, 1993 (Korea và miền đông Trung Quốc) Ambulyx japonica angustifasciata MHNT CUT 2010 59 Taiwan male japonica Ambulyx japonica angustifasciata MHNT CUT 2010 59 Taiwan male japonica | ''Ambulyx japonica | Ambulyx, Động vật được mô tả năm 1894 |
Tadamichi Machida (sinh ngày 23 tháng năm 1981) là một cầu thủ bóng đá người Nhật Bản. Tadamichi Machida đã từng chơi cho Kashiwa Reysol, Kyoto Purple Sanga, Kawasaki Frontale và Tokyo Verdy. | Tadamichi Machida | Sinh năm 1981, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Nhật Bản, Cầu thủ bóng đá Tokyo Verdy |
Đại Tiến là một xã thuộc huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng, Việt Nam. Xã Đại Tiến nằm phía bắc huyện Hòa An, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp huyện Trùng Khánh *Phía tây giáp xã Nam Tuấn *Phía nam giáp thị trấn Nước Hai và xã Ngũ Lão *Phía bắc giáp huyện Hà Quảng và huyện Trùng Khánh. Xã Đại Tiến có diện tích 49,46 km², dân số năm 2019 là 2.202 người, mật độ dân số đạt 45 người/km². Trên địa bàn xã Đại Tiến có các ngọn núi như Kéo Khao, Lủng Háng và Kéo Tắt. Địa bàn xã Đại Tiến hiện nay trước đây vốn là hai xã Đức Xuân, Đại Tiến và một phần xã Bế Triều. Ngày tháng năm 2019, Hội đồng Nhân dân tỉnh Cao Bằng ban hành Nghị quyết số 27/NQ-HĐND về việc sáp nhập một số xóm thuộc ba xã Đức Xuân, Đại Tiến và Bế Triều. Trước khi sáp nhập, xã Đại Tiến có diện tích 19,93 km², dân số là 1.358 người, mật độ dân số đạt 68 người/km², có xóm: Héc Chang, Má Chang, Nà Khan, Nà Bon. Xã Đức Xuân có diện tích 20,06 km², dân số là 580 người, mật độ dân số đạt 29 người/km², có xóm: Lũng Thốc Pò Rùng, Lũng Rì, Lũng Duốc, Ca Rài. Xã Bế Triều có 12 xóm, gồm 11 xóm từ xóm Bế Triều đến xóm 11 Bế Triều và xóm Quyết Tiến. Ngày 10 tháng năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 864/NQ-UBTVQH14 về việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã thuộc tỉnh Cao Bằng (nghị quyết có hiệu lực từ ngày tháng năm 2020). Theo đó, sáp nhập toàn bộ diện tích và dân số của xã Đức Xuân cùng 9,47 km² diện tích tự nhiên và 264 người của xã Bế Triều vừa giải thể vào xã Đại Tiến. Sau khi sáp nhập, xã Đại Tiến có diện tích 49,46 km², dân số là 2.202 người. Xã Đại Tiến được chia thành xóm: Ca Rài, Héc Chang, Lũng Duốc, Lũng Rì, Lũng Thốc, Má Chang, Nà Bon, Nà Khan, Quyết Tiến. | Đại Tiến | |
Quick Charge là giao thức sạc độc quyền chỉ có trong chip hệ thống của Qualcomm, được sử dụng trong các thiết bị như điện thoại di động, để quản lý nguồn điện được cung cấp qua USB, chủ yếu adapter sẽ đóng vai trò chính tạo ra nguồn điện có điện áp cao, kết hợp với chip Qualcomm trong máy Nó làm tăng điện áp và do đó sạc pin trong các thiết bị nhanh hơn tốc độ USB tiêu chuẩn cho phép. Quick Charge trở đi công nghệ chủ yếu được sử dụng cho adapter tường, nhưng nó cũng được thực hiện trong bộ sạc trong xe hơi và bộ sạc (cho cả đầu vào và công suất đầu ra). Quick Charge cũng là nền tảng của các hệ thống sạc nhanh đặc quyền khác được phát triển bởi các nhà sản xuất khác. Quick Charge là công nghệ đặc quyền cho phép sạc các thiết bị chạy bằng pin, chủ yếu là điện thoại di động, các mức trên và lớn hơn 5V và 2A thông thường mà hầu hết các tiêu chuẩn USB cho phép. Nhiều công ty khác có công nghệ cạnh tranh riêng của họ; bao gồm MediaTek Pump Express và OPPO VOOC (được cấp phép cho OnePlus với tên là"Dash Charge"). Mặc dù là đặc quyền, các hành vi chính xác (ví dụ như thương lượng điện áp giữa thiết bị và bộ sạc) đã được thiết kế ngược. Để tận dụng lợi thế của Qualcomm Quick Charge, cả nguồn cung cấp năng lượng và thiết bị đều phải hỗ trợ nó. Vào năm 2012, USB Implementers Forum (USB IF) đã thông báo rằng tiêu chuẩn USB Power Delivery (USB PD) của họ đã được hoàn thiện, cho phép các thiết bị truyền tải công suất lên tới 100W qua các cổng USB có hỗ trợ. Công nghệ mới này lần đầu tiên được nhìn thấy trong một nguyên mẫu Xiaomi Mi Mix được sạc từ 1% đến 100% trong vòng 17 phút. Quick Charge 2.0 đã giới thiệu một tính năng tùy chọn có tên Dual Charge (ban đầu được gọi là Parallel Charge). Dual Charge sử dụng hai mạch tích hợp quản lý năng lượng (PMIC) để chia nguồn điện thành luồng để giảm nhiệt độ điện thoại. Quick Charge 3.0 đã giới thiệu INOV (Intelligent Negotiation for Optimal Voltage) và Công nghệ tiết kiệm pin. INOV là một thuật toán cho phép các thiết bị hỗ trợ nó có khả năng xác định mức năng lượng truyền vào máy những thời điểm khác nhau để đảm bảo hiệu quả truyền tải điện năng một cách tối ưu. Công nghệ tiết kiệm pin nhằm mục đích duy trì ít nhất 80% công suất sạc ban đầu sau 500 chu kỳ sạc. Cũng như HVDCP+ và Dual Charge+ (tùy chọn). Qualcomm tuyên bố rằng Quick Charge 3.0 mát hơn tới 4-6C, nhanh hơn 16% và hiệu quả hơn 38% so với Quick Charge 2.0. Và Quick Charge 3.0 với Dual Charge+ mát hơn tới 7-8C, nhanh hơn 27% và hiệu quả hơn 45% so với Quick Charge 2.0 với Dual Charge. Quick Charge đã được công bố vào tháng 12 năm 2016 cùng với Snapdragon 835. Quick Charge bao gồm HVDCP++, Dual Charge++ (tùy chọn), INOV 3.0 và Công nghệ tiết kiệm pin thứ 2. Phiên bản thứ tương thích với cả thông số kỹ thuật của USB-C và USB Power Delivery (USB-PD). Do đó, Quick Charge rơi trở lại vào USB-PD nếu bộ sạc hoặc thiết bị không tương thích. Phiên bản cũng có các biện pháp an toàn bổ sung để bảo vệ chống quá áp, quá dòng và quá nhiệt, cũng như phát hiện chất lượng cáp. Qualcomm tuyên bố Quick Charge với Dual Charge++ mát hơn tới 5C, nhanh hơn 20% và hiệu quả hơn 30% so với Quick Charge 3.0 với Dual Charge+. Quick Charge 4+ được công bố vào ngày tháng năm 2017. Quick Charge 4+ giới thiệu Tính năng cân bằng nhiệt độ thông minh và tính năng an toàn tiên tiến để loại bỏ các điểm nóng và bảo vệ chống quá nhiệt và ngắn mạch hoặc hư hỏng của đầu nối USB-C. Và Dual Charge++ là bắt buộc, trong các phiên bản trước, Dual Charge là một tùy chọn. Quick Charge 5 được công bố vào ngày 27 tháng năm 2020. Với công suất lên tới 100W, với trên smartphone có dung lượng pin là 4500mAh, Qualcomm hứa hẹn sạc được từ 0% đến 50% chỉ sau 5 phút sạc. Qualcomm tuyên bố rằng tiêu chuẩn này tương thích chéo với nguồn cung cấp năng lượng lập trình USB PD PPS và công nghệ của nó có thể giao tiếp với bộ sạc khi sạc pin đôi và tăng gấp đôi điện áp và cường độ dòng điện. Ví dụ, một viên pin duy nhất yêu cầu 8,8V năng lượng. Sau đó, tế bào kép có thể yêu cầu bộ sạc PPS tạo ra 17,6V và chia đôi thành hai viên pin riêng biệt, kéo tổng cộng 5,6A để đạt được 100W. Vào ngày 25 tháng năm 2019 Qualcomm đã công bố Sạc nhanh cho nguồn không dây. Sạc nhanh cho Nguồn không dây rơi trở lại tiêu chuẩn Qi của Hiệp hội nguồn không dây (WPC) nếu bộ sạc hoặc thiết bị không tương thích. Công nghệ Điện áp Tối đa hiện tại Công suất tối đa Các tính năng mới Ngày phát hành Ghi chú Sạc nhanh 1.0 lên đến 6,3V 2A 10W AICL (Giới hạn hiện tại đầu vào tự động) APSD (Tự động phát hiện nguồn điện) 2013 Snapdragon 215, 600 Sạc nhanh 2.0 5V, 9V, 12V, (20V) 3A, 2A hoặc 1,67A 18W (9 V* 2A) HVDCP (Cổng sạc chuyên dụng điện áp cao) Dual Charge (tùy chọn) 2014 Snapdragon 200, 208, 210, 212, 400, 410, 412, 415, 425, 610, 615, 616, 800, 801, 805, 808, 810 Sạc nhanh 3.0 3,6V đến 22V, động với gia số 200mV 2.6A hoặc 4.6A 36W (12V 3A) HVDCP+ Dual Charge+ (tùy chọn) INOV 1.0& 2.0 Công nghệ tiết kiệm pin 2016 Snapdragon 427, 430, 435, 450, 617, 620, 625, 626, 632, 650, 652, 653, 665, 820, 821 Sạc nhanh Tăng 3,6V đến 20V, 20mV qua QC 5V, 9V qua USB-PD 3V đến 21V, trong các bước 20mV và 0A đến 3A 50mA bước tăng qua USB-PD 3.0 PPS (Cung cấp năng lượng lập trình) 2.6A hoặc 4.6A qua QC 3A qua USB-PD 100W (20V 5A) qua QC 27W qua phân phối nguồn USB (USB-PD) HVDCP++ Dual Charge++ (tùy chọn) INOV 3.0 Công nghệ tiết kiệm pin thứ Tương thích USB-PD 2017 Snapdragon 630, 636, 660, 710, 835 Sạc nhanh 4+ Dual Charge++ (không bắt buộc) Cân bằng nhiệt thông minh Tính năng an toàn nâng cao Snapdragon 670, 675, 712, 730, 730G, 845.855, 865 Quick Charge 100 W+ 100W+ năng lượng sạc 100% trong 15 phút Quản lý nhiệt tốt hơn (không quá 40 °C) Dual Charge 2020 Snapdragon 865, 865+ Lưu ý: Chúng tương thích với các bộ sạc hỗ trợ sạc nhanh TurboPower (Motorola) Adaptive Fast Charging (Samsung) BoostMaster (Asus) Dual-Engine Fast Charging (Vivo) VOOC (OPPO) SuperCharge (Huawei) Pump Express (MediaTek) Super FlashCharge (Vivo) USB Power Delivery (USB-IF) | Quick Charge | Hàng điện tử gia dụng |
gowersii' là một loài cá thuộc họ Cichlidae. Loài này có Kenya, Tanzania, và Uganda. Môi trường sống tự nhiên của chúng là hồ nước ngọt. Kaufman, L. 1996. Haplochromis gowersi sic. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập tháng năm 2007. Thể | null | Động vật tuyệt chủng châu Phi, Cá tuyệt chủng |
Apus pallidus là một loài chim trong họ Apodidae. Apus pallidus -Greece-8.jpg Apus pallidus nest.jpg Apus pallidus brehmorum MHNT ZOO 2011 11 189 HdB Malaga.jpg| Pallidus | ''Apus pallidus | Chim Bắc Phi, Chim Trung Đông, Chim châu Âu, Động vật được mô tả năm 1870 |
Rajnagar là một thị xã và là một nagar panchayat của quận Chhatarpur thuộc bang Madhya Pradesh, Ấn Độ. Rajnagar có vị trí Nó có độ cao trung bình là 273 mét (895 feet). Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Rajnagar có dân số 12.442 người. Phái nam chiếm 53% tổng số dân và phái nữ chiếm 47%. Rajnagar có tỷ lệ 55% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 63%, và tỷ lệ cho phái nữ là 46%. Tại Rajnagar, 18% dân số nhỏ hơn tuổi. | Rajnagar | |
Quận Nevers là một quận của Pháp, nằm tỉnh Nièvre, vùng Quận này có 13 tổng và 83 xã. Các tổng của quận Nevers là: Decize Dornes Guérigny Imphy La Machine Nevers-Centre Nevers-Est Nevers-Nord Nevers-Sud Saint-Saulge Các xã của quận Nevers, và mã INSEE là: 1. Anlezy (58006) 2. Avril-sur-Loire (58020) 3. Azy-le-Vif (58021) 4. Balleray (58022) 5. (58028) 6. Billy-Chevannes (58031) 7. Bona (58035) 8. Béard (58025) 9. Challuy (58051) 10. Champvert (58055) 11. (58057) 12. Chevenon (58072) 13. Cizely (58078) 14. Cossaye (58087) 15. (58088) 16. Crux-la-Ville (58092) 17. Decize (58095) 18. Devay (58096) 19. Diennes-Aubigny (58097) 20. Dornes (58104) 21. Druy-Parigny (58105) 22. Fertrève (58113) 23. (58115) 24. Fourchambault (58117) 25. Frasnay-Reugny (58119) 26. Garchizy (58121) 27. (58124) 28. Gimouille (58126) 29. Guérigny (58131) 30. Imphy (58134) 31. Jailly (58136) 32. La Fermeté (58112) 33. La Machine (58151) 34. (58137) 35. Langeron (58138) 36. Limon (58143) 37. Livry (58144) 38. Lucenay-lès-Aix (58146) 39. (58148) 40. Magny-Cours (58152) 41. Mars-sur-Allier (58158) 42. Marzy (58160) 43. Montapas (58171) 44. (58176) 45. (58192) 46. Nevers (58194) 47. Nolay (58196) 48. Ourouër (58204) 49. (58207) 50. Poiseux (58212) 51. (58214) 52. Rouy (58223) 53. (58225) 54. (58232) 55. (58233) 56. Saint-Firmin (58239) 57. Saint-Franchy (58240) 58. (58241) 59. (58247) 60. (58250) 61. (58254) 62. Saint-Maurice (58257) 63. (58258) 64. (58259) 65. (58260) 66. (58264) 67. Saint-Saulge (58267) 68. Saint-Sulpice (58269) 69. Saint-Éloi (58238) 70. Sainte-Marie (58253) 71. (58273) 72. Saxi-Bourdon (58275) 73. (58278) 74. Sougy-sur-Loire (58280) 75. Thianges (58291) 76. Toury-Lurcy (58293) 77. Toury-sur-Jour (58294) 78. Tresnay (58296) 79. Trois-Vèvres (58297) 80. Urzy (58300) 81. (58303) 82. Verneuil (58306) 83. Ville-Langy (58311) Nevers trên trang Viện quốc gia Pháp và Nghiên cứu kinh tế (INSEE, tiếng Pháp) Nevers | Quận Nevers | |
Koruna Slovakia (() là đơn vị tiền tệ của Slovakia giữa ngày tháng năm 1993 và 31 tháng 12 năm 2008, và có thể được sử dụng để thanh toán tiền mặt cho đến khi 16 tháng năm 2009. ISO 4217 mã đã SKK và chữ viết tắt cục bộ là Sk. Koruna cũng là tiền tệ của Cộng hòa Slovak Quốc xã thời kỳ giữa năm 1939 và 1945. Cả hai Koruna được chia thành 100 haliere (viết tắt là "hal" hoặc đơn giản là "h", số ít: halier). Viết tắt được đặt sau giá trị số. Slovakia đã đổi tiền tệ từ Koruna sang Euro vào ngày tháng năm 2009, với tỷ lệ 30,1260 Koruna/Euro. Trong tiếng Slovak, danh từ "Koruna" và "halier" đều giả định hai dạng số nhiều. "Koruny" và "haliere" xuất hiện sau các số 2, và và trong bối cảnh chung (không đếm được), với "korún" và "halierov" được sử dụng sau các số khác. Các dạng sau cũng tương ứng với việc sử dụng gen trong số nhiều. Koruna là tiền tệ của Cộng hòa Slovak từ 1939-1945. Koruna Slovak thay thế koros Tiệp Khắc và được thay thế bằng koruna Tiệp Khắc. Viết tắt của nó là Kč. Ban đầu, các Koruna Slovak là ngang bằng với Koruna Bohemian và Moravian, với 10 Koruna=1 Reichsmark. Nó đã bị phá giá, vào ngày tháng 10 năm 1940, với tỷ lệ 11,62 phòng tập thể thao Slovak đến một Reichsmark, trong khi giá trị của đồng tiền Bohemian và Moravian vẫn không thay đổi so với Reichsmark. Năm 1939, tiền xu đã được giới thiệu trong mệnh giá 10 halierov, và 20 Koruna, với 20 và 50 halier và Koruna thêm vào năm 1940. 10 và 20 halier là đồng, 50 halier và Koruna cupronickel, Koruna nickel và 20 Koruna là bạc. Năm 1942, kẽm dây được giới thiệu và nhôm thay thế đồng trong 20 halier. Nhôm 50 halier tiếp theo vào năm 1943. Bạc 10 và 50 Koruna đã được giới thiệu vào năm 1944. So với Koruna Tiệp Khắc trước chiến tranh, tiền xu Koruna của Slovak có thêm 50 K, lượng bạc trong 10 và 20 Ks giảm từ 700 xuống còn 500 và tất cả nhưng lại co lại theo kích thước vật lý. Các nhà thiết kế là Anton Hám, Andrej Peter, Gejza Angyal, Ladislav Majerský và František Štefunko. Tiền xu được đúc trong bạc hà Kremnica. Năm 1939, các ghi chú của Tiệp Khắc cho 100, 500 và 1000 korún được ban hành với SLOVENSKÝ ŠTÁT được in đè lên chúng để sử dụng Slovakia. Năm đó cũng thấy sự ra đời của 10 và 20 ghi chú Koruna của chính phủ. Tỷ giá đối hoại lịch sử năm 1999 Biểu đồ cho thấy giá trị của đồng Euro trong các phòng tắm hơi từ năm 1999 đến tháng 12 năm 2008. Như có thể thấy, tiền tệ được củng cố như nền kinh tế Slovakia đã làm. Các Koruna gia nhập ERM II vào ngày 28 tháng 11 năm 2005 với tỷ lệ €=38.4550 Sk với một ban nhạc 15%. Vào ngày 17 tháng năm 2007, tỷ lệ này đã được điều chỉnh thành 35,4424 Sk với cùng băng tần, mức tăng 8,5% về giá trị của Koruna. Cùng ngày, Euro giao dịch mức 33,959 Sk. Tỷ lệ trung tâm của Koruna sau đó được điều chỉnh một lần nữa vào ngày 28 tháng năm 2008 đến 23,8545 mà không có thay đổi trong ban nhạc. Euro Koruna Séc Koruna Tiệp Khắc | Koruna Slovakia | |
Corana là một đô thị tỉnh Pavia trong vùng Lombardia của Ý, có cự ly khoảng 45 km về phía tây nam của Milan và khoảng 20 km về phía tây nam của Pavia. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 810 người và diện tích là 13 km². Đô thị Corana có các frazione (đơn vị trực thuộc) ghiaie di corana. Corana giáp các đô thị sau: Bastida de' Dossi, Cervesina, Pieve Albignola, Sannazzaro de' Burgondi, Silvano Pietra, Voghera, Zinasco. Colors= id:lightgrey value:gray(0.9) id:darkgrey value:gray(0.8) id:sfondo id:barra ImageSize width:455 height:303 PlotArea left:50 bottom:50 top:30 right:30 DateFormat x.y Period from:0 till:3000 TimeAxis AlignBars justify ScaleMajor increment:1000 start:0 ScaleMinor increment:200 start:0 canvas:sfondo BarData= bar:1861 text:1861 bar:1871 text:1871 bar:1881 text:1881 bar:1901 text:1901 bar:1911 text:1911 bar:1921 text:1921 bar:1931 text:1931 bar:1936 text:1936 bar:1951 text:1951 bar:1961 text:1961 bar:1971 text:1971 bar:1981 text:1981 bar:1991 text:1991 bar:2001 text:2001 PlotData= color:barra width:20 align:left bar:1861 from: till:1082 bar:1871 from: till:1353 bar:1881 from: till:1494 bar:1901 from: till:1807 bar:1911 from: till:2057 bar:1921 from: till:2038 bar:1931 from: till:1745 bar:1936 from: till:1583 bar:1951 from: till:1428 bar:1961 from: till:1308 bar:1971 from: till:1088 bar:1981 from: till:980 bar:1991 from: till:860 bar:2001 from: till:790 PlotData= bar:1861 at:1082 fontsize:XS text: 1082 shift:(-8,5) bar:1871 at:1353 fontsize:XS text: 1353 shift:(-8,5) bar:1881 at:1494 fontsize:XS text: 1494 shift:(-8,5) bar:1901 at:1807 fontsize:XS text: 1807 shift:(-8,5) bar:1911 at:2057 fontsize:XS text: 2057 shift:(-8,5) bar:1921 at:2038 fontsize:XS text: 2038 shift:(-8,5) bar:1931 at:1745 fontsize:XS text: 1745 shift:(-8,5) bar:1936 at:1583 fontsize:XS text: 1583 shift:(-8,5) bar:1951 at:1428 fontsize:XS text: 1428 shift:(-8,5) bar:1961 at:1308 fontsize:XS text: 1308 shift:(-8,5) bar:1971 at:1088 fontsize:XS text: 1088 shift:(-8,5) bar:1981 at:980 fontsize:XS text: 980 shift:(-8,5) bar:1991 at:860 fontsize:XS text: 860 shift:(-8,5) bar:2001 at:790 fontsize:XS text: 790 shift:(-8,5) TextData= fontsize:S pos:(20,20) text:Data from ISTAT | Corana | Đô thị tỉnh Pavia |
là một nhóm nhạc nam gồm thành viên được điều hành bởi Johnny Associates. Được thông báo chính thức vào ngày 24 tháng năm 2007 (gồm 10 thành viên) trong buổi hoà nhạc "Johnny's Jr. Hey! Say! 7" tại Yokohama. Đây là nhóm có độ tuổi trung bình khoảng 15 (năm 2007). Tên của nhóm được viết tắt như: ** Hey! Say! (Đồng âm chữ trong tiếng Nhật (Vì các thành viên đều sinh trong thời đại Heisei, được tính từ ngày 01 tháng 08 năm 1989 ** JUMP ***Viết tắt cho Johnny's Ultra Music Power. ***Còn có một nghĩa khác là bật nhảy thật cao trong thời đại Heisei. *Cũng giống như các nhóm V6 và Hikari GENJI, nhóm được chia thành nhóm nhỏ là Hey! Say! và Hey! Say! BEST. **Với số 7: số cuối của năm 2007, năm nhóm được debut. **Với BEST: viết tắt cho Boys Excellent Selection Team. Tên (Kanji) Tên (Kana) Tên (Roman-ji) Ngày sinh Nhóm máu Nơi sinh 山田涼介 やまだ りょうすけ Yamada Ryousuke 09/05/1993 (27 tuổi) Tokyo, Nhật Bản 知念侑李 ちねん ゆうり Chinen Yuri 30/11/1993 (26 tuổi) AB Shizuoka, Nhật Bản 中島裕翔 なかじま ゆうと Nakajima Yuto 10/08/1993 (26 tuổi) Tokyo, Nhật Bản 岡本圭人 おかもと けいと Okamoto Keito (đã rời nhóm) 01/04/1993 (27 tuổi) Tokyo, Nhật Bản 森本 龍太郞 もりもと りゅうたろう Morimoto Ryutaro (đã rời nhóm) 06/04/1995 (25 tuổi) Ishikawa, Nhật Bản Tên (Kanji) Tên (Kana) Tên (Roman-ji) Ngày sinh Nơi sinh 有岡大貴 ありおか だいき Arioka Daiki 15/04/1991 (29 tuổi) Chiba, Nhật Bản 髙木雄也 たかき ゆうや Takaki Yuya 26/03/1990 (30 tuổi) Osaka, Nhật Bản 伊野尾慧 いのお けい Inoo Kei 22/06/1990 (29 tuổi) Saitama, Nhật Bản 八乙女光 やおとめ ひかる Yaotome Hikaru 02/12/1990 (29 tuổi) Miyagi, Nhật Bản 薮宏太 やぶ こうた Yabu Kota 31/01/1990 (30 tuổi) Kanagawa, Nhật Bản STT Ngày phát hành Tên Hạng Doanh số Giải thưởng 14/11/2007 Ultra Music Power 340,070 21/5/2008 Dreams come true 249,024 23/7/2008 Your Seed 冒険ライダー (Bouken Rider) 208,113 22/10/2008 真夜中のシャドーボーイ (Mayonaka no Shadow Boy) 287,206 24/2/2009 瞳のスクリーン (Hitomi no Screen) 250,206 15/12/2010 ("Arigato" ~Sekai No Doko Ni Itemo~) 188,555 29/6/2011 OVER 297,781 21/9/2011 Magic Power 248,824 22/2/2012 SUPER DELICATE 289,928 10 26/6/2013 Come On My House 217,803. 11 25/12/2013 Ride With Me 12 5/2/2014 AinoArika 愛すればもっとハッピーライフ (Aisureba Motto Happy Life) 13 3/9/2014 ウィークエンダー 明日へのYELL (Weekender Asu no YELL) 14 29/4/2015 Chau# Need You (Wo Need You) 15 21/10/2015 キミアトラクション (Kimi Attraction) 16 11/5/2016 真剣SUNSHINE (Maji SUNSHINE) 17 26/10/2016 Fantastic Time 18 14/12/2016 Give Me Love 19 22/2/2017 OVER THE TOP 20 5/7/2017 Precious Girl Are You There? (A.Y.T) 21 20/12/2017 White Love 22 14/2/2018 マエヲムケ (Mae wo Muke) 23 1/8/2018 COSMIC☆HUMAN 24 22/5/2019 Lucky-Unlucky Oh! my darling (Yamada Ryosuke) 29/5/2019 愛だけがすべて -What do you want?- (Ai Dake ga Subete -What do you want?-) 25 21/8/2019 ファンファーレ! (Fanfare!) 26 26/2/2020 am Muah Muah 27 1/7/2020 Last Mermaid... 28 30/9/2020 Your Song 29 12/5/2021 ネガティブファイター (Negative Fighter) 30 25/8/2021 群青ランナウェイ (Gunjo Runaway) 31 24/11/2021 Sing-along 32 25/5/2022 恋をするんだ 春玄鳥 (Koi wo Surunda Haru Tsubame) STT Ngày phát hành Tên Hạng Doanh số 7/7/2010 JUMP NO.1 188,269 6/6/2012 JUMP WORLD 153,473 18/62014 smart 141,233 10/2/2016 JUMPing CAR 27/7/2016 DEAR. 26/7/2017 Hey! Say! JUMP 2007-2017 I/O 22/8/2018 SENSE or LOVE 30/10/2019 PARADE 16/12/2020 Fab! -Music speaks.- 24/8/2022 FILMUSIC! Johnny's Net Hey! Say! JUMP official website | Hey! Say! | Giải trí Johnny, Nhóm nhạc nam Nhật, Nhóm nhạc trẻ em, Nhóm nhạc pop Nhật Bản, Nhân vật còn sống, Khởi đầu năm 2007 Nhật Bản, Ban nhạc Nhật Bản, Ban nhạc thành lập năm 2007 |
Esfahān hay Isfahan (trong lịch sử cũng được gọi là Ispahan hay Hispahan, tiếng Ba Tư cổ: Aspadana, tiếng Ba Tư trung cổ: Spahān, Esfahān), là một thành phố nằm cách Tehran 340 km về phía nam, là tỉnh lỵ của tỉnh Esfahan và là thành phố lớn thứ ba của Iran (sau Tehran và Mashhad). Thành phố Esfahan có dân số 1.986.542 còn vùng đô thị có dân số 3.430.353 người theo điều tra năm 2006. Đây là vùng đô thị đông dân thứ nhì tại Iran sau Tehran. Các thành phố Najafabad, Khaneh Esfahan, Khomeini-shahr, Shahin-shahr, Zarrinshahr, Mobarakeh, Falavarjan và Fouladshahr tạo thành vùng đô thị Esfahan. Esfahan tọa lạc các tuyến đường chính bắc-nam và đông-tây củaq Iran và đã từng là một trong những thành phố lớn nhất trên thế giới. Thành phố này đã phát triển từ năm 1050 đến năm 1722, đặc biệt là vào thế kỷ 16 dưới triều đại Safavid, khi đây là kinh đô của Ba Tư lần thứ hai trong lịch sử của đế quốc này. Thành phố này nổi tiếng với những kiến trúc Hồi giáo, có nhiều đại lộ, nhà thờ Hồi giáo đehp. Điều này khiến cho thành phố được người Iran mang vào câu thành ngữ Esfahān nesf-e jahān ast: "Esfahan là một nửa của thế giới". Quảng trường Naghsh-i Jahan của Esfahan là một trong những quảng trường lớn nhất thế giới với kiến trúc tiêu biểu của Iran và Hồi giáo đã được UNESCO công nhận là di sản thế giới. treet view Public libraries atlas (Persian) Digital Library of Isfahan Municipality | Esfahān | Cố đô |
Eurycyde diacantha là một loài nhện biển trong họ Ascorhynchidae. Loài này thuộc chi Eurycyde. Eurycyde diacantha được miêu tả khoa học năm 1990 bởi Stock. *Bamber, R. (2010). Eurycyde diacantha Stock, 1990. In: Bamber, R.N., El Nagar, A. (Eds) (2010). Pycnobase: World Pycnogonida Database. Gebaseerd op informatie uit het Cơ sở dữ liệu sinh vật biển, te vinden op | ''Eurycyde diacantha | Eurycyde |
17995 Jolinefan (1999 JF74) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 12 tháng năm 1999 bởi Nhóm nghiên cứu tiểu hành tinh gần Trái Đất phòng thí nghiệm Lincoln Socorro. JPL Small-Body Database Browser ngày 17995 Jolinefan | 17995 Jolinefan | |
Tàu ngầm Hình 091 (tiếng Trung: 091型) là loại tàu ngầm hạt nhân đầu tiên do Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc phát triển. Nó được phát triển từ những năm 1970. Hiện tại còn ba chiếc hoạt động trong chiếc được biên chế từ năm 1974 đến 1990. NATO gọi loại tàu ngầm này là lớp Hán. Chương trình phát triển tàu ngầm hạt nhân của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã được bắt đầu năm 1958 nhưng phải ngừng vào năm 1963 do gặp khó khăn và không có sự giúp đỡ. Năm 1965 Trung Quốc bắt đầu tạo ra các mô hình của các lò hạt nhân trên đất liền để mô phỏng các tàu ngầm hạt nhân trong tương lai. Hải quân Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã lên kế hoạch phát triển hai loại tàu ngầm hạt nhân một là tàu ngầm săn tàu, hai là tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo. Tháng năm 1968 Trung Quốc bắt đầu thiết kế con tàu và bắt đầu đóng con tàu đầu tiên do chính mình thiết kế. Năm 1969 một nhóm các nhà khoa học hàng đầu Trung Quốc đã khởi động lại chương trình tàu ngầm hạt nhân. Ngày 28 tháng năm 1970 lò phản ứng được gắn vào. Ngày 30 tháng thử nghiệm vận hành động cơ hạt nhân được thử nghiệm trên đất liền và đã đáp ứng được yêu cầu của thiết kế. Ngày 26 tháng 12 tàu ngầm hạt nhân đầu tiên được giới thiệu cho công chúng. Từ ngày 26 tháng 01 tháng đến ngày 16 tháng năm 1971 nó được tiếp tục thử nghiệm sau khi hạ thủy và bắt đầu nạp nhiên liệu hạt nhân cho lò phản ứng. Ngày 23 tháng năm 1971 tàu ngầm hạt nhân này chính thức đi vào hoạt động (sau sau này nó có số 401). Ngày 01 tháng năm 1974 nó chính thức đưa vào hoạt động trong quân đội. Từ năm 1974 đến 1990 có chiếc tàu ngầm Hình 091 đã được đóng. Loại tàu ngầm này có vấn đề nghiêm trọng là nó quá ồn khi hoạt động làm cho nó dễ bị phát hiện cũng như hệ thống vũ khí chiến đấu dưới nước hoạt động không ổn định. Nên hai chiếc đầu tiên đã phải mang đi sửa chữa nâng cấp vào cuối những năm 1980 và sau đó cho về hưu năm 2000-2001. Ba chiếc đóng sau được nâng cấp sửa đổi hệ thống vũ khí để hoạt động ổn định hơn và thêm khả năng phóng tên lửa từ dưới mặt nước. Hiện ba chiếc này vẫn còn phục vụ trong quân đội. Do tiếng ồn quá mức nên các chiếc tàu ngầm này thường bị phát hiện khi đi vào vùng biển của nước khác và chính phủ Trung Quốc xin lỗi vì lý do kỹ thuật, nó từng bị phát hiện khi đang đi trong vùng nước ven biển của Nhật Bản tại Ishigaki, Okinawa. Ngoài việc nổi tiếng với độ ồn tương đượng với các tàu ngầm những năm 1950 và 1960 thì còn có các nhược điểm khác như lớp vỏ chống phóng xạ của lò phản ứng quá tệ khiến cho tia phóng xạ bên trong tàu luôn vượt mức an toàn cho thủy thủ đoàn gây ảnh hưởng đến sức khỏe. Cũng như tàu không có khả năng phóng tên lửa từ dưới mặt nước khiến tàu mất đi lợi thế bất ngờ của một tàu ngầm tấn công. Và chỉ có hai trong năm tàu được đóng hoạt động sau khi được nâng cấp để hạn chế tia phóng xạ. | Tàu ngầm Hình 091 | Lớp tàu ngầm |
là bộ sưu tập hình ảnh minh họa được sáng tác bởi ông bắt đầu đăng tranh minh họa của mình trên tài khoản Twitter vào mỗi thứ hai hàng tuần bắt đầu từ tháng năm 2015. Bản chuyển thể anime (ONA) của Pine Jam được phát sóng từ tháng 10 đến tháng 12 năm 2016. Phần thứ hai của bộ phim được công chiếu vào tháng năm 2021. Dự án ban đầu mang tên tuy nhiên sau đó được đổi lại tên như tên hiện nay sau hình minh họa thứ 46, kể từ đó ông đã đăng hơn 200 hình minh họa. Những hình minh họa của ông nổi tiếng vì sử dụng chủ đề màu đơn sắc xanh lam. Mục đích của những hình minh họa này là cung cấp động lực tích cực cho công nhân và học sinh vào buổi sáng thứ Hai, vai trò của sinh viên và công nhân lần lượt được thể hiện thông qua các nhân vật như Ai-chan và người làm công ăn lương. Ngoài Ai-chan, những câu chuyện về những cô gái và người đàn ông khác cũng được minh họa vào mỗi thứ Hai. Đến nay, cuốn sách tổng hợp hình minh họa tập đầu tiên được nhóm lại thành truyện tranh đã được phát hành vào ngày 31 tháng 12 năm 2015 tại Comic Market 89. Tập thứ hai được phát hành tại Comic Market 90 và tập thứ ba được phát hành tại Comic Market 91, tất cả đều được tác giả xuất bản. Mười hai đầu tiên được phát sóng lần đầu vào ngày 10 tháng 10 năm 2016 và được phát trực tuyến miễn phí tập trên kênh YouTube chính thức của NBCUniversal Entertainment Japan và từ tập trở đi vào mỗi thứ Hai trên kênh Niconico, theo thông lệ của hình minh họa ban đầu: Kōsuke Murayama chỉ đạo anime, Hiroyuki Yoshii chuyển thể thiết kế ban đầu của Kiseki Himura và Pine Jam sản xuất sêri. Sayaka Harada hát bài hát chủ đề kết thúc có tiêu đề dưới tên nhân vật của cô ấy và được phát hành kỹ thuật số thông qua iTunes Store, Amazon, Oricon Music Store, mora và Recochoku bắt đầu từ ngày 14 tháng 11 năm 2016. Một đĩa Blu-ray và DVD, tổng hợp tất cả 12 tập, đã được phát hành tại Comic Market 91 (ngày 29 tháng 12 năm 31 tháng năm 2016) tại gian hàng của NBCUniversal. DVD bao gồm tập đặc biệt mới, với mỗi tập phim tập trung vào Kōhai-chan và Ai-chan. Một ngày sau khi NBCUniversal Entertainment Japan đăng tập đầu tiên, video đã bị YouTube gỡ xuống. Họ nói rằng video vi phạm Nguyên tắc cộng đồng của Youtube. Tác giả Kiseki Himura đã xin lỗi người hâm mộ trên Twitter và nói rằng anime sẽ không được tải lại trên YouTube. ngày sau, ông thông báo qua tài khoản Twitter của mình rằng tập đầu tiên đã được khôi phục và tải lên qua cùng một kênh, hiện thuộc tài khoản YouTube NBCUniversal Anime/Music. Bắt đầu từ tập 2, anime được tải lên qua Niconico Channel cùng với tập đầu tiên được tải lại. :Ai là một học sinh trung học. Cô từng tự ti vì bộ ngực của mình thu hút sự chú của những người đàn ông xung quanh và cố gắng che giấu chúng. Vì nhiệm vụ là lớp trưởng, cô phải đến trường sớm hơn vào mỗi thứ hai hàng tuần, và phải đi tàu vào giờ cao điểm. Đó là khi cô gặp một ông anh, người đã bảo vệ cô khỏi đám đông và giúp cô tự tin hơn vào cơ thể của mình. Biệt danh của cô xuất phát từ việc kích cỡ áo ngực của cô ấy là cup. Mặc dù vậy, gần đây nó dường như còn lớn hơn nữa. :Một salaryman, người che chắn cho Ai khỏi chuyến tàu đông đúc vào mỗi sáng thứ Hai. Mỗi tuần, Ai cho anh một nút áo may mắn, chủ yếu là các nút bật ra từ áo sơ mi của cô. :Một nữ sinh trung học đã tốt nghiệp hiện đang sống cùng với giáo viên trong căn hộ của anh ta sau khi tình cảm của cô cuối cùng cũng được đáp lại kể từ lời tỏ tình vào năm nhất. Cô luôn để tóc mái phía trước dài đến mức qua mắt. :Một giáo viên nam mà Tóc mái từng tỏ tình vào năm nhất trung học tuy nhiên anh không tiết lộ cảm xúc thật của mình. Cuối cùng anh không thể kìm nén cảm xúc thật của mình được nữa. Anh và Tóc mái hiện đang sống cùng nhau. :Một nữ nhân viên văn phòng vụng về nhưng đáng tin cậy. :Đồng nghiệp của Hậu bối :Một huấn luyện viên phòng tập thể dục đôi khi đi cùng với Trưởng phòng tại phòng tập thể dục. :Sếp của anh nhân viên làm công ăn lương :Bạn thân của Ai, người nổi tiếng với cả con trai và con gái. Cô thường trêu chọc Ai-chan về bộ ngực của cô ấy. :Em gái của Ai-chan. Cô cũng có một thân hình giống người chị của mình. :Một người làm việc tại một cửa hàng nhỏ. = = *Just Because! Sự hợp tác giữa Kiseki Himura và Hajime Kamoshida, tác giả của Sakurasō no Pet na Kanojo. Tranh web chính thức Tài khoản Twitter của Kiseki Himura Getsuyōbi no Tawawa tại Niconico Channel Trang xuất bản truyện tranh tại Young Magazine | null | Pine Jam, Muse Communication, ONA anime năm 2016 Thể Entertainment Japan, Ra mắt loạt phim trên web năm 2016 |
Định Nam (tiếng Trung: 定南县, Hán Việt: Định Nam huyện) là một huyện của địa cấp thị Cám Châu (赣州市), tỉnh Giang Tây, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa. Huyện này có diện tích 1316 km2, dân số năm 2003 là 198.000 người. Định Nam được chia ra làm đơn vị hành chính cấp hương, toàn bộ đều là các trấn. Ngoài ra huyện này còn quản lí đơn vị tương đương cấp hương khác *Trấn: Lịch Thị (历市镇), Khuy Mỹ Sơn (岿美山镇), Lão Thành (老城镇), Thiên Cửu (天九镇), Long Đường (龙塘镇), Lĩnh Bắc (岭北镇), Nga Công (鹅公镇) Đơn vị ngang cấp hương khác *Khu công nghiệp Định Nam (定南县工业园) | Định Nam | Đơn vị cấp huyện Giang Tây, Cám Châu |
Dưới đây là kết quả các trận đấu trong khuôn khổ bảng vòng loại giải vô địch bóng đá châu Âu 2012. đội bóng châu Âu bao gồm Hà Lan, Thuỵ Điển, Hungary, Moldova, Phần Lan và San Marino thi đấu trong hai năm 2010 và 2011, theo thể thức lượt đi-lượt về, vòng tròn tính điểm, lấy hai đội đầu bảng tham gia vòng chung kết. Lịch thi đấu bảng dã được quyết định sau một cuộc họp giữa các đội trong bảng tại Amsterdam, Hà Lan ngày 17 tháng năm 2010. ---- ---- ---- ---- ---- ---- ---- ---- ---- ---- ---- ---- ;12 bàn Klaas-Jan Huntelaar ;7 bàn Mikael Forssell ;6 bàn Gergely Rudolf Dirk Kuyt Robin van Persie ;5 bàn Zlatan Ibrahimović ;4 bàn Kasper Hämäläinen Ádám Szalai Alexandr Suvorov ;3 bàn Zoltán Gera Vladimir Koman Ibrahim Afellay Wesley Sneijder Kim Källström Sebastian Larsson Christian Wilhelmsson ;2 bàn Balázs Dzsudzsák Imre Szabics Anatolie Doroş Ruud van Nistelrooy Johan Elmander Andreas Granqvist Martin Olsson Ola Toivonen Pontus Wernbloom ;1 bàn Jari Litmanen Roni Porokara Joona Toivio Mika Väyrynen Zoltán Lipták Vilmos Vanczák Serghei Alexeev Gheorghe Andronic Igor Bugaiov Nicolae Josan Denis Zmeu Luuk de Jong John Heitinga Kevin Strootman Rafael van der Vaart Georginio Wijnaldum Emir Bajrami Marcus Berg Alexander Gerndt Tobias Hysén Mikael Lustig ;Phản lưới nhà Aldo Simoncini (trận gặp Thụy Điển) Davide Simoncini (trận gặp Thụy Điển) Igor Armaş (trận gặp Phần Lan) Simone Bacciocchi (trận gặp Moldova) Bảng | null | |
Tuyến số 2A: Cát Linh Hà Đông là một tuyến đường sắt đô thị thuộc hệ thống mạng lưới Đường sắt đô thị Hà Nội, được đầu tư xây dựng bởi Bộ Giao thông Vận tải và vốn vay ODA của Trung Quốc ký năm 2008. Được khởi công xây dựng từ tháng 10 năm 2011, toàn tuyến có tổng chiều dài là 13,05 km với 12 ga trên cao, với hướng tuyến từ ga Cát Linh quận Đống Đa và kết thúc ga Yên Nghĩa quận Hà Đông. Ngoài thiết kế ban đầu, Bộ Giao thông Vận tải còn có dự định kéo dài tuyến thêm 20 km từ ga Yên Nghĩa tới Xuân Mai trong tương lai. Dự án có tổng mức đầu tư ban đầu là 8.770 tỷ đồng. Sau nhiều lần điều chỉnh và đội vốn do chậm trễ tiến độ, dự án có tổng mức đầu tư là 868,04 triệu USD (22.521 tỷ VND), trong đó, phần vốn vay Trung Quốc là 669,62 triệu USD (hơn 15.579 tỷ VND). Do trong quá trình thi công và thử nghiệm còn gặp nhiều rào cản, dự án đã có lần thay đổi tiến độ hoàn thành và khai thác thương mại. Dự kiến bắt đầu khai thác từ 2015, tuy nhiên vì những vấn đề về chậm giải phóng mặt bằng của chính quyền Hà Nội, tính hợp tác với nhà thầu là Tập đoàn Xây dựng đường sắt số Trung Quốc, và tính bất cập trong công tác nghiệm thu (xây dựng theo công nghệ Trung Quốc nhưng Hà Nội lại muốn nghiệm thu theo công nghệ Châu Âu) nên đến tháng 11/2021 tuyến đường sắt này mới chính thức bắt đầu khai thác thương mại. Ngày 29 tháng 10 năm 2021, thành viên Hội đồng kiểm tra Nhà nước đã chấp thuận đồng kết quả nghiệm thu có điều kiện, đưa công trình đường sắt đô thị tuyến 2A vào khai thác giai đoạn đầu. Vào lúc giờ ngày tháng 11 năm 2021, tuyến 2A chính thức bắt đầu khai thác thương mại sáng cùng ngày và sẽ được miễn phí 15 ngày đầu tàu chạy. Tên ga Hình ảnh Tuyến trung chuyển Khu vực Quận Phường Cát Linh 100px Tuyến số 3 Đống Đa Cát Linh La Thành 100px 18, 23, 25, 28, 30, 49, 50, 99 Chợ Dừa Thái Hà 100px Trung Liệt Láng 100px 9B, 16, 24, 27 Thịnh Quang Thượng Đình 100px Tuyến số 2 Thanh Xuân Thượng Đình Vành đai 100px 1, 2, 5, CNG5, 19, 21, 22B/C, 27, 29, 39, 60, 105 Thanh Xuân Trung Phùng Khoang 100px Hà Đông Mộ Lao Văn Quán 100px Văn Quán Hà Đông 100px Quang Trung La Khê 100px BRT Phú La Văn Khê 100px 27x27px Tuyến Bắc Hồng Văn Điển BRT La Khê Yên Nghĩa 100px BRT Yên Nghĩa tưởng thực hiện tuyến đường sắt đô thị Cát Linh Hà Đông xuất hiện từ năm 2003, khi Hà Đông vẫn còn là trung tâm của tỉnh Hà Tây và là thành phố gần Hà Nội nhất, và hướng đi Hà Đông lại khó mở rộng do vướng các công trình hai bên đường Nguyễn Trãi. Dự án đường sắt Cát Linh Hà Đông được kỳ vọng là cầu nối liên kết vùng, để giải quyết áp lực giao thông và áp lực dân số của hai thành phố. Tháng 10 năm 2004, Văn phòng Chính phủ phê duyệt thoả thuận hợp tác xây dựng tuyến đường sắt đô thị thí điểm Hà Nội Hà Đông giữa Cục Đường sắt Việt Nam và Tập đoàn Xây dựng đường sắt số Trung Quốc. Tháng năm 2008, Thủ tướng chính phủ phê duyệt Quy hoạch phát triển giao thông vận tải Thủ đô Hà Nội đến năm 2020, trong đó có tuyến đường sắt đô thị Hà Nội Hà Đông. Tháng 12 cùng năm, Bộ Giao thông Vận tải chấp thuận kế hoạch đấu thầu dự án Cát Linh Hà Đông mà Cục Đường sắt Việt Nam đã đề nghị. Dự án được khởi công xây dựng vào tháng 10 năm 2011, với tổng mức đầu tư 552,86 triệu USD (8.770 tỷ VND), trong đó vốn vay tín dụng ưu đãi của Chính phủ Trung Quốc là 1,2 tỷ RMB (169 triệu USD), vốn vay ưu đãi bên mua là 250 triệu USD và vốn đối ứng của Chính phủ Việt Nam là hơn 2.100 tỷ đồng. Tuy nhiên, những hạng mục đầu tiên của dự án tại hồ Đống Đa và đường Hoàng Cầu đã được tổ chức thi công trước từ tháng năm 2010 nhằm đồng bộ với hạng mục kè hồ, cải tạo thoát nước của thành phố. Dự án dự kiến được hoàn tất vào tháng năm 2014 và đưa vào khai thác thương mại từ tháng năm 2015. Đây là tuyến đường sắt đô thị thứ hai được khởi công, sau khi Tuyến số vừa được khởi công trước đó vào tháng năm 2010. Năm 2014, Ban Quản lý Đường sắt đô thị Hà Nội trình điều chỉnh dự án và tổng mức đầu tư của tuyến đường tăng lên 868,04 triệu USD (18.001,6 tỷ VND) do thay đổi, điều chỉnh, bổ sung phát sinh so với thiết kế cơ sở, biến động giá nguyên, vật liệu, tỷ giá quy đổi, chế độ chính sách và giải phóng mặt bằng kéo dài nên phía tổng thầu Trung Quốc đề nghị điều chỉnh kinh phí. Tháng 11 năm 2014, một tai nạn thi công trên đường Nguyễn Trãi đã khiên dự án phải đẩy lùi thời gian vận hành thương mại xuống cuối tháng 12 năm 2015. Tháng 12 cùng năm, một dàn giáo tại công trường ga Văn Quán bị sập khiến một taxi bị mắc kẹt, Bộ Giao thông Vận tải đình chỉ thi công dự án trong tháng và yêu cầu rà soát các hạng mục về phương án tổ chức thi công. Tháng năm 2015, tiến độ các gói thầu đều chậm và chưa đáp ứng được tiến độ, dự án tiếp tục đẩy lùi thời gian vận hành thưong mại xuống tháng năm 2016. Tới tháng 10 cùng năm, thanh tra của Bộ Lao động Thương binh và Xã hội công bố hàng loạt vi phạm trong hợp đồng lao động và an toàn lao động của Công ty hữu hạn Tập đoàn Cục đường sắt Trung Quốc, đồng thời yêu cầu doanh nghiệp phải thực hiện các kiến nghị của Thanh tra và báo cá sau thời gian tối đa 45 ngày. Tháng năm 2016, với lý do biến động giá và chờ Bộ Tài chính thẩm định nên thời gian vận hành đoàn tàu bị lùi sang tháng 10 năm 2017. Tuy nhiên tới tháng năm 2017, do thiếu vốn và China Eximbank vẫn chưa được giải ngân vốn đầy đủ nên tiến độ thi công dự án vẫn đang bị chậm. Nhiều hạng mục như khu depot, nhà điều hành, nhà xưởng đều chưa xong các hạng mục cơ bản, một số nhà ga chưa xong phần xây dựng. Tháng năm 2018, trên cơ sở đề xuất của Bộ Giao thông Vận tải, Thủ tướng Chính phủ cho phép dự án được vận hành thử nghiệm vào tháng năm 2018 và khai thác thương mại vào cuối năm 2018. Dự án được đóng điện lưới quốc gia từ đầu tháng năm 2018 nhằm phục vụ mục đích chạy thử nghiệm. Tới ngày 20 tháng năm 2018, dự án chính thức vận hành thử liên động toàn toàn tuyến từ ga Yên Nghĩa đến ga Cát Linh và ngược lại, với thời gian chạy thử dự kiến kéo dài từ đến tháng. Ngày khai thác thương mại bị đẩy lùi sang trước tháng năm 2019 (Tết Kỷ Hợi) do còn một số vướng mắc về hoàn thiện hồ sơ để nghiệm thu các hạng mục cũng như toàn bộ dự án. Các vướng mắc này do quy định khác nhau giữa hai nước. Tuy vậy, đến cuối tháng năm 2019, dự án vẫn chưa được nghiệm thu xong và vẫn chưa có chứng nhận an toàn hệ thống. Thàng năm 2019, Thứ trưởng Giao thông Vận tải Nguyễn Ngọc Đông cho biết dự án đi vào vận hành thương mại vào cuối tháng năm 2019. Tuy nhiên đến cuối tháng năm 2019, tuyến đường sắt vẫn chưa thể đi vào hoạt động do còn thiếu sót các hồ sơ kèm theo các hạng mục của dự án. Đầu năm 2020, Đại diện Ban Quản lý dự án đường sắt (Bộ Giao thông Vận tải) thông báo dự án đang được nghiệm thu các hạng mục xây dựng, thiết bị. Bên cạnh việc bị ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, tháng 6/2020, dự án tiếp tục gặp khó khăn khi tổng thầu Trung Quốc đề nghị thanh toán toàn bộ số tiền 50 triệu USD trước khi bàn giao cho phía Việt Nam. Theo Ban Quản lý dự án đường sắt trong báo cáo gửi Bộ Giao thông Vận tải, việc thanh toán phải tuân theo quy định hợp đồng EPC. Vì vậy, hai bên thống nhất sẽ tiếp tục nghiên cứu, rà soát các điều khoản hợp đồng và thống nhất các công việc thực hiện để sớm giải quyết khó khăn, vướng mắc. Từ ngày 12 đến ngày 31 tháng 12 năm 2020, Tổng thầu EPC thực hiện việc chạy thử toàn tuyến trong 20 ngày liên tục. Toàn tuyến đã vận hành hơn 5.700 chuyến tàu an toàn với tổng số trên 70.000 km dưới sự giám sát của các đơn vị tư vấn giám sát, tư vấn độc lập ACT của Pháp, các cơ quan chức năng và Hội đồng nghiệm thu Nhà nước để kiểm tra, đánh giá các chỉ tiêu vận hành phục vụ công tác đánh giá an toàn, nghiệm thu kỹ thuật. Ngày 31 tháng năm 2021, bắt đầu kiểm đếm, tiếp nhận hồ sơ, tài sản để bàn giao cho thành phố Hà Nội tiếp quản điều hành, thời gian dự kiến từ 3-4 tuần. Tuy nhiên, thời gian khai thác thương mại chính thức vẫn chưa được công bố. Ngày 29 tháng 10 năm 2021, tại cuộc họp của Hội đồng kiểm tra Nhà nước, tất cả thành viên của hội đồng đều chấp thuận kết quả nghiệm thu có điều kiện của Bộ Giao thông Vận tải để đưa Dự án đường sắt Cát Linh Hà Đông (Hà Nội) vào khai thác giai đoạn đầu. Ngày tháng 11 năm 2021, Tuyến số 2A chính thức trở thành tuyến đường sắt đô thị đầu tiên tại Việt Nam được đưa vào khai thác thương mại. Tuyến số 2A chạy dọc đường Trần Phú. Khu vực Ga Phùng Khoang vào giờ cao điểm. Ga Cát Linh điểm đầu của tuyến được đặt tại nút giao giữa phố Cát Linh và đường Giảng Võ. Tuyến đường sắt đi dọc theo các phố Hào Nam, Hoàng Cầu, Yên Lãng tới đường Láng, sau đó chạy ngang qua sông Tô Lịch, chạy dọc theo trục đường Nguyễn Trãi Trần Phú Quang Trung và kết thúc tại ga Yên Nghĩa đối diện Bến xe Yên Nghĩa. Depot của Tuyến số 2A được đặt tại phường Phú Lương, quận Hà Đông với diện tích khoảng 19.6 ha, bao gồm các hạng mục chính như: Trung tâm điều hành vận tải OCC, xưởng bảo trì đoàn tàu, bãi tập kết tàu, bãi thử tàu, tòa nhà hành chính, trung tâm đào tạo, nhà kho... Tuyến số 2A được thiết kế đảm bảo sự kết nối hài hòa với các tuyến đường sắt đô thị khác trong tương lai, và các trạm xe buýt dọc tuyến, nhằm tạo điều kiện cho người dân dễ dàng lựa chọn lộ trình và hình thức di chuyển thích hợp. Dọc Tuyến kết nối với Tuyến buýt nhanh số 01 (BRT 01): tại các ga Yên Nghĩa, ga Văn Khê, ga La Khê và ga Cát Linh. *Ga Cát Linh: Kết nối với Tuyến số 3, đoạn Nhổn ga Hà Nội. *Ga Thượng Đình: Kết nối với Tuyến số 2, đoạn Trần Hưng Đạo Thượng Đình Hoàng Quốc Việt. *Ga Yên Nghĩa: Kết nối với bến xe khách Yên Nghĩa (phía Tây Nam của Thủ đô). Trong tương lai, Tuyến số 2A sẽ kết nối với các Tuyến số (Mê Linh Liên Hà) và Tuyến số (Sơn Đồng Dương Xá). Ngoài thiết kế ban đầu, Bộ Giao thông Vận tải còn có dự định kéo dài Tuyến số 2A thêm 20 km qua từ ga Yên Nghĩa tới Xuân Mai. Đoàn tàu toa do BSR (Beijing Subway Rolling Stock) sản xuất trên tuyến 2A Vào ngày 29 tháng 10 năm 2015, Ban Quản lý dự án đường sắt đô thị Hà Nội đã cho trưng bày mẫu tàu điện cho Tuyến số 2A tại Triển lãm Giảng Võ để thăm dò kiến người dân. Tuyến số 2A có 13 đoàn tàu công nghệ cao, mỗi đoàn tàu có toa xe. Tàu chạy bằng điện được cấp đường ray thứ ba để đảm bảo tính an toàn, tính ổn định và mỹ quan đô thị. Tàu có cabin điều khiển hai chiều và có thể đổi chiều cả hai phía. Đoàn tàu có chiều dài 79 m, mỗi toa có chiều dài trung bình 20 m, chiều cao toa tàu tính từ mặt ray đến đỉnh tàu 3.8 m, độ rộng lớn nhất toa tàu 2.8 m, với bốn cửa ra vào mỗi bên thân toa. Sức chứa tối đa là 1,000 hành khách, có nghĩa là hành khách/m². Vận tốc tối đa đạt 80 km/h, vận tốc khai thác trung bình là 35 km/h. Phía ngoài tàu được sơn màu xanh lá cây, đầu tàu được trang trí bằng biểu tượng Khuê Văn Các và dòng chữ trắng ghi rõ tên tuyến Cát Linh Hà Đông. Tàu có hệ thống điều khiển tự động để tự động dừng tàu lại trong trường hợp tốc độ quá cao, từ đó duy trì sự an toàn cho hành khách. Hệ thống thông tin tín hiệu sử dụng công nghệ hiện đại nhất trên thế giới, có khả năng đáp ứng linh hoạt các yêu cầu về tổ chức vận hành tàu, đảm bảo an toàn và độ chính xác cao. Công nghệ đóng đường rộng "Điều khiển tàu dựa trên hệ thống truyền thông" Train Control; CBTC) giúp rút ngắn thời gian giãn cách giữa các tàu. Công nghệ này đang được áp dụng cho các hệ thống metro hiện đại nhất của châu Âu và thế giới. Đường ray có khổ tiêu chuẩn 1,435 mm, sử dụng công nghệ hàn liền để đảm bảo tốc độ chạy tàu cao, chống ồn, chống rung, được lắp đặt các thiết bị chống trật bánh tàu. Hành khách trên tàu Vé tàu cho Tuyến số 2A có loại: Vé tàu một lượt theo quãng đường di chuyển của hành khách, trong đó tối đa 15.000 đồng/lượt với toàn tuyến (ga Cát Linh ga Yên Nghĩa) và thấp nhất là 8.000 đồng với quãng ngắn nhất (2 ga cạnh nhau). Vé tàu trong ngày: 30.000 đồng/người, không giới hạn số lượt đi lại trên tuyến trong ngày. Vé tháng: có các mức 200.000 đồng/người cho hành khách phổ thông; 100.000 đồng/người cho học sinh, sinh viên, người lao động tại các khu công nghiệp. Người lao động tại các văn phòng, công sở, doanh nghiệp ngoài khu công nghiệp mua vé tháng theo hình thức tập thể, được áp dụng mức 140.000 Không giới hạn số lượt đi lại trên tuyến trong ngày. Người có công, người cao tuổi, người khuyết tật, trẻ em dưới tuổi, nhân khẩu thuộc hộ nghèo được miễn vé. Vào giờ 30 phút ngày tháng 11 năm 2014, tại đường Nguyễn Trãi, quận Thanh Xuân, Hà Nội, đoạn đối diện với Viện học cổ truyền Việt Nam, hai thanh sắt "dài hàng chục mét" rơi xuống phương tiện đang lưu thông trên đường, làm người chết và người bị thương. Khoảng giờ ngày 28 tháng 12 năm 2014, tại đường Trần Phú, quận Hà Đông, Hà Nội, đoạn bến xe Hà Đông cũ, hệ thống sàn, đà giáo và bê tông xà mũ của trụ H7 đổ sụp xuống đường, làm một xe taxi chở người mắc kẹt. Lực lượng cứu hộ, đơn vị thi công mất 11 giờ để đưa xe ra khỏi đống đổ nát. Xe taxi bị biến dạng nghiêm trọng, khung xe bị bóp méo, phần đầu bị vỡ nát. Không có thiệt hại về người. Vào cuối năm 2014 cho đến đầu năm 2015, Sở Xây dựng Thành phố Hà Nội tiến hành chặt hơn 400 cây xà cừ và hàng chục cây khác trên tuyến đường Nguyễn Trãi với lý do đảm bảo an toàn cho đường sắt trên cao tuyến Cát Linh Hà Đông và xây dựng nút giao thông tầng Nguyễn Trãi Khuất Duy Tiến Nguyễn Xiển. Trong cuộc họp báo chiều ngày 27 tháng năm 2015, ông Hoàng Dương Tùng, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết dự án trên được đánh giá tác động môi trường từ năm 2008 và không đề cập tới nội dung chặt cây xanh đường Nguyễn Trãi, và dự án chưa có báo cáo đánh giá tác động môi trường bổ sung để chặt hạ số cây trên. Đây là một phần của Vụ thay thế cây Hà Nội 2015. Khoảng 18 giờ 10 phút ngày 16 tháng 10 năm 2016, tại công trường thi công khu vực nhà ga Văn Quán, công nhân rơi xuống đường và tử vong trong bệnh viện ngày sau đó. Khoảng giờ 30 phút sáng ngày tháng năm 2017, tại nhà ga khu vực đường Láng, công nhân rơi xuống đường và bị thương nặng. Vào lúc giờ 43 phút ngày 11 tháng năm 2023, một sự cố cảnh báo tín hiệu ghi đã xảy ra tại khu vực ga Cát Linh, khiến tuyến tàu điện phải tạm dừng đón khách nhà ga. Đến 10 giờ 45 phút cùng ngay, toàn tuyến đã được khôi phục trở lại trạng thái ban đầu. Hệ thống giao thông Việt Nam Đường sắt đô thị Hà Nội Siêu dự án Tuyến 2A Hanoi Metro | Tuyến số 2A: | Đường sắt đô thị Hà Nội, Đường sắt Việt Nam |
Symplocos junghuhnii là một loài thực vật thuộc họ Symplocaceae. Đây là loài đặc hữu của Indonesia. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. World Conservation Monitoring Centre 1998. Symplocos junghuhnii. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 23 tháng năm 2007. | ''Symplocos junghuhnii | |
Rondeletia elegans là một loài thực vật thuộc họ Rubiaceae. Đây là loài đặc hữu của Jamaica. Chúng hiện đang bị đe dọa vì mất môi trường sống. World Conservation Monitoring Centre 1998. Rondeletia elegans. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 23 tháng năm 2007. | ''Rondeletia elegans | Rondeletia |
8097 Yamanishi (1993 RE) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 12 tháng năm 1993 bởi K. Endate và K. Watanabe Kitami. JPL Small-Body Database Browser ngày 8097 Yamanishi | 8097 Yamanishi | |
Erna Brodber (sinh ngày 20 tháng năm 1940) là một nhà văn, nhà xã hội học và nhà hoạt động xã hội người Jamaica. Cô là em gái của nhà văn Velma Pollard. Sinh ra tại làng nông nghiệp Woodside, Giáo xứ Saint Mary, Jamaica, cô đã có bằng cử nhân của Đại học Tây Ấn, sau đó là bằng thạc sĩ và tiến sĩ, và đã nhận được học bổng tiền lâm sàng về nhân học tâm thần. Sau đó, cô làm công chức, giáo viên, giảng viên xã hội học và nhà nghiên cứu tại Viện nghiên cứu kinh tế xã hội tại Đại học West Indies (UWI), Mona, Jamaica. Sau khi làm việc tại trường đại học, cô rời đi làm việc toàn thời gian trong cộng đồng nhà Woodside. Cô là tác giả của năm cuốn tiểu thuyết: Jane và Louisa Will Soon Come Home (1980), Myal (1988), Louisiana (1994), The Rainmaker's Mistake (2007), và nothing's Mat (2014). Brodber làm việc như một nhà văn, nhà nghiên cứu và giảng viên tự do Jamaica. Cô đã nhận được nhiều giải thưởng, trong đó có huy chương vàng Musgrave ba lần: một lần từ Viện Jamaica cho công việc trong văn học, một lần từ chính phủ Jamaica cho công việc cộng đồng, và một lần từ chính phủ Hà Lan cho công việc trong văn học và orature Brodber hiện là Nhà văn đang cư trú tại Đại học West Indies. Cô đã giành giải thưởng Nhà văn Khối thịnh vượng chung khu vực Caribbean và Canada năm 1989 cho Myal. Năm 1999, cô nhận được giải thưởng vàng Musgrave của Jamaica cho Văn học và Orature. Cô đã nhận được giải thưởng văn học Windham hạng Campbell năm 2017. Jane và Louisa sẽ sớm về nhà (Sách Beacon mới, 1980) Myal: Một cuốn tiểu thuyết (Sách Beacon mới, 1988), Louisiana (Sách Beacon mới, 1994) Sai lầm của Rainmaker (Sách Beacon mới, 2007), Không có gì Mat (Nhà xuất bản Đại học West Indies, 2014), Các bài viết cho Viện nghiên cứu kinh tế và xã hội, Jamaica "Bỏ rơi trẻ em Jamaica" (1974) "Bãi trong thành phố Kingston" (1975) "Reggae và bản sắc văn hóa Jamaica" (1981) "Nhận thức của phụ nữ Caribbean: Hướng tới một tài liệu về định kiến" (1982) Phi hư cấu Woodside, Pear Tree Grove PO (Nhà xuất bản Đại học West Indies, 2004), Thế hệ thứ hai của Freemen Jamaica, 1907 19191944 (Nhà xuất bản Đại học Florida, 2004), Lục địa đen có thức: Về lịch sử của cộng đồng người châu Phi từ chế độ nô lệ cho đến ngày nay (Sách Beacon mới, 2003), Đánh giá về Erna Brodber's Jane và Louisa sẽ sớm về nhà "Văn hóa dân gian truyền thống và câu hỏi về lịch sử Erna Brodber's Louisiana" của Jérémie Kroubo Dagnini cho Tạp chí Nghiên cứu Pan Phi trực tuyến, tháng 12 năm 2011. Mel Cooke, "Erna Brodber trình bày bài hát tự do của mình" Jamaica Gleaner, 18 tháng năm 2007. Keshia Abraham, Phỏng vấn Erna Brodber BOMB 86 Mùa đông 2004. Nadia Ellis Russell, "Vượt biên giới Một cuộc phỏng vấn với nhà văn, học giả và nhà hoạt động Erna Brodber" Woodside, Jamaica, ngày tháng năm 2001. | Erna Brodber | Nữ nhà văn thế kỷ 20, Nhân vật còn sống, Sinh năm 1940 |
USS McDougal là một tàu khu trục lớp Porter được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. McDougal đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi xung đột kết thúc, được cải biến thành một tàu phụ trợ AG-126, được cho ngừng hoạt động năm 1946 và bị bán để tháo dỡ năm 1949. Nó là chiếc tàu chiến thứ hai của Hải quân Hoa Kỳ được đặt tên theo Chuẩn đô đốc David Stockton McDougal (1809-1882). McDougal được đặt lườn vào ngày 18 tháng 12 năm 1933 tại xưởng tàu của hãng New York Shipbuilding Corporation Camden, New Jersey. Nó được hạ thủy vào ngày 17 tháng năm 1936, được đỡ đầu bởi cô Caroline McDougal Neilson; và được cho nhập biên chế vào ngày 23 tháng 12 năm 1936 dưới quyền chỉ huy của Hạm trưởng, Trung tá Hải quân Robert C. Starkey. Sau chuyến đi chạy thử máy, McDougal hoạt động trực tiếp dưới quyền Văn phòng Ban Tác chiến Hải quân cho đến giữa năm 1937, khi nó lên đường đi sang khu vực Thái Bình Dương để phục vụ cùng Lực lượng Tuần tiễu, và sau đó là cùng Lực lượng Chiến trận. Hoạt động ngoài khơi San Diego, California, nó phục vụ như là soái hạm của Hải đội Khu trục 9. Là một soái hạm khu trục được vũ trang mạnh, nó tham gia các chuyến đi thực tập cùng các cuộc tập trận hạm đội tại khu vực Đông Thái Bình Dương và vùng biển Caribe. McDougal cùng với đội của nó quay trở lại khu vực Đại Tây Dương vào mùa Xuân năm 1941 để hoạt động dọc theo bờ Đông. Từ ngày đến ngày tháng 8, nó hộ tống tàu tuần dương hạng nặng đưa Tổng thống Franklin D. Roosevelt đi đến vịnh Placentia, Newfoundland, nơi từ ngày đến ngày 12 tháng 8, ông gặp gỡ Thủ tướng Winston Churchill lần đầu tiên để bàn luận về mối đe dọa của phe Trục cũng như những "nguyên tắc chung" về hòa bình trong thế giới sau chiến tranh. Vào ngày 10 tháng 8, McDougal đưa Tổng thống Roosevelt đi đến thiết giáp hạm và quay về trong cuộc gặp gỡ duy nhất của hai nhà lãnh đạo trên chiếc thiết giáp hạm. Tổng thống và Thủ tướng đã hoàn tất những nguyên tắc trong bản tuyên bố gồm tám điểm, thể hiện trong Hiến chương Đại Tây Dương vào ngày 12 tháng 8. Cuối ngày hôm đó, các tàu chiến Anh và Hoa Kỳ đều rời khỏi Argentia; McDougal hộ tống cho Augusta đi đến bờ biển Maine vào ngày 14 tháng trước khi tiếp nối hoạt động dọc theo vùng bờ Đông. Tập tin:USS McDougal (DD-358) alongside HMS Prince of Wales (53) in Placentia Bay, Newfoundland, in August 1941 (NH McDougal đang cặp theo thiết giáp hạm để đưa Tổng thống Franklin D. Roosevelt tham dự cuộc gặp gỡ Hiến chương Đại Tây Dương với Thủ tướng Winston Churchill. Được phân công nhiệm vụ hộ tống vận tải tại khu vực Nam Đại Tây Dương, McDougal khởi hành đi Cape Town, Nam Phi từ vùng biển Caribe vào đầu tháng 12. Nó nhận được tin tức về việc Đế quốc Nhật Bản tấn công Trân Châu Cảng đang khi chống chọi với sóng gió ngoài khơi mũi Hảo Vọng. Nó quay trở về Trinidad vào ngày 30 tháng 12, rồi lên đường làm nhiệm vụ tuần tra ngoài khơi bờ biển Nam Mỹ vào ngày 18 tháng năm 1942. Trong nhiều tháng tiếp theo, nó thực hiện tuần tra và hộ tống các đoàn tàu vận tải đi lại giữa Brazil và các cảng Caribe; và sau khi được đại tu tại Charleston, South Carolina trong tháng và tháng 8, nó đi ngang các cảng Caribe để đến kênh đào Panama, đến nơi vào ngày 31 tháng 8. Được phân về Lực lượng Đông Nam Thái Bình Dương, McDougal bắt đầu tuần tra dọc theo bờ biển Thái Bình Dương của các nước châu Mỹ La Tinh từ ngày tháng 9. Trong hai năm tiếp theo, nó hoạt động ngoài khơi Balboa, Panama, về phía Bắc đến Nicaragua và về phía Nam đến tận eo biển Magellan; tuần tra về phía Tây đến các quần đảo Galápagos và Juan Fernández cũng như ghé qua các cảng Ecuador, Peru và Chile. Nó quay trở về New York vào ngày tháng năm 1944. Tiếp tục nhiệm vụ hộ tống vận tải vào ngày 12 tháng năm 1944, nó khởi hành đi Anh Quốc hộ tống cho Đoàn tàu CU-39. Trong sáu tháng tiếp theo, nó thực hiện bốn chuyến đi khứ hồi giữa New York và các cảng Anh, và sau khi về đến New York vào ngày tháng năm 1945 cùng các con tàu thuộc Đoàn tàu UC-57, nó đi đến Charleston để đại tu. McDougal đi đến vịnh Casco từ ngày 11 đến ngày 15 tháng 9, và bắt đầu hoạt động hỗ trợ cùng Lực lượng Phát triển Chiến thuật (Lực lượng Đặc nhiệm 69) Hạm đội Đại Tây Dương. Được xếp lại lớp như một tàu phụ trợ với ký hiệu lườn AG-126' vào ngày 17 tháng 9, nó tiến hành các hoạt động thử nghiệm nhằm giúp phát triển chiến thuật tác xạ và radar. Nhiệm vụ trong thời gian còn lại của năm 1945 đưa nó đến Boston, Newport và Norfolk. Nó đi đến Boston vào ngày 15 tháng 12, rồi tiếp tục các hoạt động ngoài khơi Norfolk từ ngày 29 tháng năm 1946. Nó đi đến New York vào ngày 15-16 tháng 6, và được cho xuất biên chế tại Tompkinsville, đảo Staten vào ngày 24 tháng năm 1946. Được phân nhiệm vụ như một tàu huấn luyện của Hải quân Dự bị Hoa Kỳ, McDougal'' được cho hoạt động trở lại vào ngày 13 tháng năm 1947, và phục vụ dưới quyền chỉ huy của Quân khu Hải quân trong khi đặt căn cứ tại Brooklyn. Nó được cho ngừng hoạt động vào ngày tháng năm 1949 và bị bán cho hãng H. H. Buncher Company tại Pittsburgh, Pennsylvania vào ngày tháng để tháo dỡ. Tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân vào ngày 15 tháng năm 1949. Bài này có các trích dẫn từ nguồn Dictionary of American Naval Fighting Ships thuộc phạm vi công cộng: | USS ''McDougal'' là một tàu khu trục lớp ''Porter'' được Hải quân Hoa Kỳ chế tạo vào giữa những năm 1930. ''McDougal'' đã phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai cho đến khi xung đột kết thúc, được cải biến thành một tàu phụ trợ | Lớp tàu khu trục Porter |
là một loài động vật giáp xác thuộc họ Đây là loài đặc hữu của Úc. Inland Water Crustacean Specialist Group 1996. Limnocythere porphyretica. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập tháng năm 2007. Thể | null | Động vật giáp xác nước ngọt Úc, Động vật sắp nguy cấp Úc, Động vật được mô tả năm 1981 |
Bujaru là một đô thị thuộc bang Pará, Brasil. Đô thị này có diện tích 1005,16 km², dân số năm 2007 là 22485 người, mật độ 22,37 người/km². Cơ sở dữ liệu các đô thị của Brasil Inwonertallen 2009 | Bujaru | Đô thị bang Pará |
Garrulax maesi là một loài chim trong họ Leiothrichidae. Loài chim này được tìm thấy miền nam Trung Quốc, viễn bắc Lào và Việt Nam. Môi trường sống tự nhiên của chúng là rừng đất thấp ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và rừng trên núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. | ''Garrulax maesi | Động vật được mô tả năm 1890 |
Sông Trới là một con sông nhỏ tại Quảng Ninh. Sông chảy qua phường Hoành Bồ, thành phố Hạ Long. Sông bắt nguồn từ một ngọn núi thuộc dãy núi Đông Triều, chảy theo hướng Tây Nam và đổ ra vịnh Cửa Lục. Trên địa bàn phường Hoành Bồ có cây cầu là Cầu Trới và II bắc qua con sông Trới, có tỉnh lộ 324 đi Ba Chẽ, tỉnh lộ 326 đi Dương Huy, Cẩm Phả, Quốc lộ 279 đi Bắc Giang và có Cao tốc Hạ Long Vân Đồn đi qua. Sông Chanh Sông Cửa Lục Sông Ba Chẽ Sông Voi Lớn | Sông Trới | Sông tại Quảng Ninh |
Acropogon bullatus là một loài thực vật có hoa thuộc họ Sterculiaceae. Loài này chỉ có New Caledonia. Jaffré, T. et al. 1998. Acropogon bullatus. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 19 tháng năm 2007. | ''Acropogon bullatus | Acropogon |
Ba tàu chiến của Hải quân Hoa Kỳ từng được mang cái tên USS Jouett, đặt theo tên Chuẩn đô đốc James Edward Jouett (1826-1902), người tham gia cuộc Chiến tranh Mexico-Hoa Kỳ và Nội chiến Hoa Kỳ: là một tàu khu trục lớp Paulding hạ thủy năm 1912, phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, phục vụ cùng Tuần duyên Hoa Kỳ từ năm 1924 đến năm 1930 và bị bán để tháo dỡ năm 1934 là một tàu khu trục lớp Somers hạ thủy năm 1938, phục vụ trong Chiến tranh Thế giới thứ hai và xuất biên chế năm 1945 là một tàu tuần dương tên lửa điều khiển lớp Belknap hạ thủy năm 1964 và xuất biên chế năm 1994 | USS ''Jouett | |
Quỹ đạo của 2008 KV42. (528219) 2008 KV42 (được chỉ định tạm thời 2008 KV42 và có biệt danh Drac) là một vật thể ngoài sao Hải Vương (TNO) và là vật thể đầu tiên có quỹ đạo ngược được phát hiện. Chuyển động ngược này với độ nghiêng quỹ đạo 103 cho thấy rằng đó là liên kết bị thiếu giữa nguồn của nó trong đám mây Hills và sao chổi kiểu Halley, do đó cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn về sự tiến hóa của Hệ Mặt trời bên ngoài. Các biện pháp đối tượng không quá 90 km (56 dặm) trên. Với trục bán chính là 42 AU, phải mất khoảng 269 năm để hoàn thành một quỹ đạo quanh Mặt trời. Chính thức được phát hiện vào ngày 31 tháng năm 2008, phát hiện này được công bố vào ngày 16 tháng năm 2008, bởi nhóm Khảo sát Máy bay Ecliptic Canada của Pháp do Brett Gladman dẫn đầu. Tên chính thức chưa được chọn vì đối tượng chưa được đánh số;nhóm khám phá có biệt danh 2008 KV42 "Drac" sau Bá tước Dracula. Phát hiện năm 2008 KV42 được công bố vào ngày 16 tháng năm 2008 bởi nhóm Khảo sát Máy bay Ecliptic Canada do Pháp dẫn đầu bởi Brett Gladman từ Đại học British Columbia. Thông báo được đưa ra trong cuộc họp "Tiểu hành tinh, Sao chổi, Thiên thạch" được tổ chức tại Baltimore, Maryland, sau đó là Thông tư Điện tử Hành tinh nhỏ cùng ngày và Thông tư IAU vào ngày 18 tháng 7. Phát hiện này được thực hiện bằng hình ảnh thu được vào ngày 31 tháng từ Kính thiên văn 3,5 mét, tiếp theo là các quan sát xa hơn cho đến ngày tháng từ Đài thiên văn Whíp và Cerro Tololo. Nhóm khám phá đặt biệt danh 2008 KV42 Drac vì độ nghiêng cao của nó liên quan đến mặt phẳng quỹ đạo của nó giống như khả năng của Bá tước Dracula đi trên tường. | (528219) 2008 KV42 | Damocloid |
Odenwald là một thị trấn thuộc Odenwald (huyện) miền nam bang Hessen, Đức giữa Darmstadt và Heidelberg. Nó có dân số khoảng 16.000. Michelstadt là thị trấn lớn nhất huyện Odenwald, có danh giới với huyện lỵ Erbach. Các phường của Michelstadt, bên cạnh thị trấn chính, cũng được gọi là Michelstadt, là Rehbach, Steinbach, Steinbuch, Stockheim, Vielbrunn, Weiten-Gesäß và Würzberg. Michelstadt được đề cập đến đầu tiên vào năm 741. Nó là một trong những khu định cư lâu đời nhất Odenwald. Lâu đài của nó phát triển từ điền trang của một nam tước Franken. Nơi này được xây dựng thành một nơi ẩn náu cho người dân địa phương. Là một gia sản của hoàng gia, Hoàng tử Carloman đã tặng nó vào năm 741 cho học trò của Saint Boniface, Burchard, Giám mục đầu tiên của Würzburg. Nhà khung gỗ chợ với bồn nước. Phố cổ của Michelstadt có nhiều ngôi nhà khung gỗ. Đặc biệt đáng kể đến là các tòa nhà sau đây, một số trong khu phố cổ, một số khác vùng nông thôn xung quanh: Tòa thị chính lịch sử, Diebsturm tại bức tường thị trấn, Kellereihof (một khu phức hợp lâu đài thời kỳ đầu Trung cổ được tân trang lại theo phong cách thời phục hưng) trong vòng tường thành phố, nhà thờ thị trấn với kiến trúc Gothic (cuối thế kỷ 13), cung điện của công tước (Schloss furstenau), lâu đài để đi săn Eulbach với một khu vườn cảnh quan kiểu Anh. = Tòa thị chính Diebsturm tại bức tường thị trấn Vương cung thánh đường Einhard Schloss Fürstenau với cổng vòm (1588) | null | Odenwald (huyện) |
là một chi chim trong họ Emberizidae. Ammodramus aurifrons (Spix, 1825) Ammodramus bairdii (Audubon, 1844) Ammodramus caudacutus (J.F. Gmelin, 1788) Ammodramus henslowii (Audubon, 1829) Ammodramus humeralis (Bosc, 1792) Ammodramus leconteii (Audubon, 1844) Ammodramus maritimus (Wilson, 1811) Ammodramus nelsoni Allen, 1875 Ammodramus savannarum (J.F. Gmelin, 1789) Tập Sparrow.jpg Tập Tập tin:Ammodramus bairdii.jpg Tập tin:Grasshopper Sparrow.jpg Tập tin:Saltmarsh sharp tailed sparrow.jpg | null | Danh sách các chi chim Thể |
Charles Bannister (1879 tháng năm 1952) là một cầu thủ bóng đá người Anh thi đấu Football League cho Manchester City và Lincoln City and tại Southern League cho Swindon Town và Reading., ông sinh ra Burton upon Trent, Staffordshire, và di cư đến Úc sau khi giải nghệ bóng đá. | Charles Bannister | Sinh năm 1879, Vận động viên Burton upon Trent, Mất năm 1952, Cầu thủ bóng đá Anh, Hậu vệ bóng đá, Cầu thủ bóng đá Newtown A.F.C., Cầu thủ bóng đá Manchester City F.C., Cầu thủ bóng đá Oldham County F.C., Cầu thủ bóng đá Lincoln City F.C., Cầu thủ bóng đá Swindon Town F.C., Cầu thủ bóng đá Reading F.C., Cầu thủ bóng đá English Football League, Cầu thủ bóng đá Southern Football League |
'Asplenium là một loài dương xỉ trong họ Aspleniaceae. Loài này được Jenman mô tả khoa học đầu tiên năm 1896. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | null | Asplenium, Unresolved names |
13283 Dahart (1998 QF51) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 17 tháng năm 1998 bởi Nhóm nghiên cứu tiểu hành tinh gần Trái Đất phòng thí nghiệm Lincoln Socorro. JPL Small-Body Database Browser ngày 13283 Dahart | 13283 Dahart | |
Rhagastis velata là một loài bướm đêm thuộc họ Sphingidae. Nó được tìm thấy Nepal, đông bắc Ấn Độ, Thái Lan, miền trung và miền nam Trung Quốc và Đài Loan. Sải cánh dài 66–74 mm. Ấu trùng được ghi nhận ăn các loài Arisaema và Ấn Độ. | ''Rhagastis velata | Rhagastis |
Osen là một đô thị hạt Trøndelag, Na Uy. Nó là một phần của khu vực Fosen. Trung tâm hành chính của đô thị này là làng Steinsdalen. Osen là một trong hai đô thị Na Uy mà không có bất cứ người nhập cư không phải người phương Tây đến thời điểm ngày tháng năm 2008. Đô thị Osen được thành lập ngày 01 tháng năm 1892 khi các đô thị cũ của Bjørnør được chia thành ba khu đô thị. Dân số ban đầu của Osen là 1.575. Ranh giới thành phố không thay đổi từ đó. Đô thị (ban đầu là một giáo khu) được đặt tên theo nông Osen cũ (tiếng Na Uy cổ: OSS), do nhà thờ đầu tiên được xây dựng đó. Cái tên trùng với từ "một cửa" có nghĩa là "miệng của một dòng sông" (ở đây Steinselva). Osen ("các O") là một hình thức sau hữu hạn của óss. | Osen | Đô thị của Trøndelag |
Henriette Dagri Diabaté (sinh ngày 13 tháng năm 1935) là một chính trị gia và nhà văn người Bờ Biển Ngà. Thành viên của đảng Cộng hòa (RDR), Diabaté là Bộ trưởng Bộ Văn hóa bàte d'Ivoire từ 1990 đến 1993 và một lần nữa vào năm 2000; Sau đó, bà là Bộ trưởng Bộ Tư pháp từ năm 2003 đến 2005. Bà trở thành Tổng thư ký của RDR năm 1999 và là Chủ tịch của RDR từ năm 2017. Diabaté sinh ra Abidjan và lấy bằng thạc sĩ năm 1968. Sau khi tốt nghiệp, bà là giáo sư lịch sử của Đại học Abidjan từ năm 1968 đến 1995. Trong khi giảng dạy, Diabaté đã nhận bằng tiến sĩ lịch sử năm 1984. Gần cuối trong sự nghiệp giảng dạy của mình, Diabaté trở thành thành viên sáng lập của RDR vào năm 1994. Một số nhà lãnh đạo RDR, bao gồm Diabaté, đã bị bắt vào ngày 27 tháng 10 năm 1999 với lý do họ chịu trách nhiệm về bạo lực xảy ra trong các cuộc biểu tình do họ tổ chức; vào tháng 11, họ đã bị kết án và bị kết án tù. Khi những người lính nổi dậy vào ngày 23 tháng 12 năm 1999, một trong những yêu cầu của họ là thả các nhà lãnh đạo RDR bị cầm tù; khi Tổng thống Henri Konan Bédié từ chối các yêu cầu, họ đã nắm quyền vào ngày 24 tháng 12 sau đó nhanh chóng thả tù nhân RDR. Sau đó, Diabaté giữ chức Bộ trưởng Bộ Văn hóa và La Francophonie dưới chế độ quân sự chuyển tiếp vào năm 2000. Bà được Tổng thống Alassane Ouattara chỉ định làm Thủ tướng vĩ đại của trật tự quốc gia Ivorian vào ngày 18 tháng năm 2011 và trở thành người phụ nữ đầu tiên tại vị trí cao nhất của đất nước. Tại Đại hội thông thường lần thứ ba của RDR vào ngày 10 tháng năm 2017, người ta hy vọng rằng Ouattara sẽ được bầu làm Chủ tịch của RDR, nhưng thay vào đó, ông đã đề xuất ông Henriette Diabaté cho chức vụ này, và bà đã được bầu một cách hợp lệ. Kandia Camara được chỉ định làm Tổng thư ký và Amadou Gon Coulibaly làm Phó chủ tịch thứ nhất. Diabaté kết hôn với Lamine Diabaté, một cựu Bộ trưởng Nhà nước, và có năm người con. Tiểu sử Cơ sở dữ liệu người châu Phi Tiền nhiệm? Minister of Culture (bàte Kế nhiệm? Tiền nhiệm? Minister of Justice (bàte Succeeded by? | Henriette Dagri Diabaté | Nhân vật còn sống, Sinh năm 1935 |
Chân dung Juliusz Paetz Juliusz Paetz (2 tháng năm 1935 15 tháng 11 năm 2019) là một giám mục của Giáo hội Công giáo người Ba Lan. Ông từng là Giám mục của Łomża từ năm 1982 đến năm 1996 và là Tổng giám mục của Poznań từ năm 1996 đến năm 2002. Năm 2002 ông có đơn từ chức lên Tòa Thánh và được chấp nhận sau những cáo buộc về hành vi tình dục không phù hợp. Sau năm 2002, ông là tổng giám mục danh dự của Poznań. Juliusz Paetz sinh ngày tháng năm 1935 tại Poznań và được Tổng giám mục Antoni Baraniak thụ phong linh mục ngày 28 tháng năm 1959 tại Nhà thờ chính tòa Poznan. Ông làm giám tuyển các giáo xứ Ostrow Wielkopolski và Poznan. Ông sống từ năm 1967 đến năm 1982. Ông làm việc trong Ban Thư ký của Thượng Hội đồng Giám mục. Năm 1976, ông được bổ nhiệm làm giám mục. Ông đã cộng tác với các Giáo hoàng Phaolô VI, Giáo hoàng Gioan Phaolô và Giáo hoàng Gioan Phaolô II. Năm 1981, ông được trao tặng Huân chương Công đức của Bộ Tư lệnh Bồ Đào Nha. Vào ngày 20 tháng 12 năm 1982, Paetz được bổ nhiệm làm Giám mục của Łomża. Ông được Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong làm Giám mục ngày tháng năm 1983 tại Vương cung thánh đường Thánh Phêrô và nắm quyền quản lý giáo phận vào ngày 13 tháng năm 1983. Ngày 11 tháng năm 1996, ông được bổ nhiệm làm Tổng Giám mục của Poznań. Giáo hội Công giáo Công giáo tại Ba Lan Juliusz Paetz | Juliusz Paetz | Sinh năm 1935, Mất năm 2019, Giám mục Ba Lan, Giám mục Công giáo Rôma theo quốc gia, Người Ba Lan |
Agua de Dios là một khu tự quản thuộc tỉnh Cundinamarca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Agua de Dios đóng tại Agua de Dios Khu tự quản Agua de Dios có diện tích ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng năm 2005, Agua de Dios có dân số 11426 người. Agua de Dios | Agua de Dios | Khu tự quản của Colombia |
perennis' là một loài thực vật thuộc họ Gesneriaceae. Đây là loài đặc hữu của Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của chúng là vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới. Clark, J.L., Skog, L.E. Pitman, N. 2004. Gasteranthus perennis. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 21 tháng năm 2007. | null | |
'Cyclosorus là một loài dương xỉ trong họ Loài này được Ching mô tả khoa học đầu tiên năm 1999. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | null | Cyclosorus, Unresolved names |
'Christella là một loài dương xỉ trong họ Loài này được H.L mô tả khoa học đầu tiên năm 1915. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | null | Christella, Unresolved names |
là một thuốc hạ đường máu dùng đường uống sử dụng cho những người bị bệnh tiểu đường loại 2. Nó là một phần của họ sulfonylurea (ATC A10BB). Tổng hợp Tolazemide: para được chuyển đổi thành carbamate của nó với ethyl chloroformate với sự có mặt của một base. Việc đun nóng trung gian với 1- amino azepane dẫn đến sự dịch chuyển của nhóm ethoxy và sự hình thành của tolazemide: Azepane thích hợp sẽ dẫn đến 13078-23-4. NIH Medline | null | |
Helleborus lividus là một loài thực vật có hoa trong họ Mao lương. Loài này được Aiton ex Curtis mô tả khoa học đầu tiên năm 1789. Tập tin:Helleborus Tập tin:IMG 7325-Helleborus lividus.jpg Tập tin:Helleborus lividus corsicus 2.JPG Tập tin:Helleborus lividus corsicus 1.JPG | ''Helleborus lividus | Helleborus |
Catocala piatrix (tên tiếng Anh: Penitent Underwing) là một loài bướm đêm thuộc họ Erebidae. Loài này được tìm thấy khu vực miền đông của Hoa Kỳ và subspecies Catocala piatrix dionyza can be được tìm thấy Arizona. Sâu bướm Catocala piatrix Catocala piatrix Sải cánh dài 68–84 mm. The moths gặp tháng đến tháng 11 tùy theo địa điểm. Ấu trùng ăn Ash, Butternut, Hickory, Pecan, Persimmon, và Walnut trees. *Catocala piatrix piatrix *Catocala piatrix dionyza (Arizona) | ''Catocala piatrix | Catocala |
Colysis spuria là một loài dương xỉ trong họ Polypodiaceae. Loài này được Ching mô tả khoa học đầu tiên năm 1940. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Colysis spuria | Colysis, Unresolved names |