text
stringlengths 0
308k
| title
stringlengths 0
51.1k
⌀ | categories
stringlengths 0
57.3k
|
---|---|---|
endocapna' là một loài bướm đêm thuộc họ Nepticulidae. Nó được tìm thấy dọc theo tây nam bờ biển của Tây Úc. Sải cánh dài 4.7-5.7 mm đối với con đực và about 5.5 mm đối với con cái. Ấu trùng có thể ăn Eucalyptus species. Chúng có thể ăn lá nơi chúng làm tổ. Australian Faunal Directory Australian Nepticulidae (Lepidoptera): Redescription of the named species Thể | null | |
Monterfil (, Gallo: Mósterfiu) là một xã của tỉnh thuộc vùng Bretagne, miền tây bắc nước Pháp. Người dân Monterfil được gọi là *Xã của tỉnh Ille-et-Vilaine Mayors of Ille-et-Vilaine Association INSEE IGN French Ministry of Culture list for Monterfil | Monterfil | Xã của Ille-et-Vilaine |
NXT TakeOver: XXV là một chương trình đấu vật chuyên nghiệp và sự kiện WWE Network do WWE sản xuất cho thương hiệu NXT của họ. Nó diễn ra vào ngày tháng năm 2019, tại Đấu trường Webster Bank Bridgeport, Connecticut. Đó là sự kiện thứ 25 theo niên đại NXT TakeOver. Bảy trận đấu đã được diễn ra tại sự kiện này, bao gồm hai đoạn ghi hình lại cho tập NXT tuần sau. Trong sự kiện chính, Adam Cole đã đánh bại Johnny Gargano để giành chức vô địch NXT. Các trận đấu khác đã chứng kiến Nhà vô địch NXT Women's Shayna Baszler và Nhà vô địch Bắc Mỹ Velveteen Dream đánh bại Io Shirai và Tyler Breeze để giữ các danh hiệu của họ, và Lợi nhuận đường phố (Angelo Dawkins và Montez Ford) đã giành được Giải vô địch đồng đội NXT bỏ trống trong Giải vô địch đồng đội Trận đấu thang. NXT TakeOver là một loạt các chương trình đấu vật chuyên nghiệp bắt đầu vào ngày 29 tháng năm 2014, khi lãnh thổ phát triển WWE NXT tổ chức chương trình phát sóng trực tiếp độc quyền WWE Network thứ hai của họ được quảng cáo là NXT TakeOver. Trong những tháng tiếp theo, biệt danh "TakeOver" đã trở thành thương hiệu được WWE sử dụng cho tất cả các sản phẩm đặc biệt trực tiếp NXT của họ. Thẻ sẽ bao gồm các trận đấu xuất phát từ cốt truyện kịch bản, trong đó các đô vật thể hiện các nhân vật phản diện, anh hùng hoặc các nhân vật ít phân biệt hơn để gây căng thẳng và lên đến đỉnh điểm trong một trận đấu vật hoặc loạt trận đấu, với kết quả được xác định trước bởi các nhà văn của WWE trên thương hiệu NXT.. Cốt truyện được sản xuất trên chương trình truyền hình NXT. Tại NXT TakeOver: New York, Johnny Gargano đã đánh bại Adam Cole trong trận đấu rơi hai phần ba để giành chức vô địch NXT còn trống. Vào ngày 15 tháng năm 2019, tập NXT, một trận tái đấu giữa hai người cho tựa đề đã được lên lịch cho TakeOver: XXV. Trong WWE Superstar Shake-up 2019, NXT Tag Team Champions The Viking Raiders (Erik và Ivar) đã được phác thảo thành Raw. Sau đó, họ đã tự nguyện từ bỏ các danh hiệu vào ngày tháng năm 2019 của NXT (phát sóng ngày 15 tháng 5), mặc dù có một bảo vệ danh hiệu cuối cùng chống lại Lợi nhuận đường phố (Angelo Dawkins và Montez Ford) đã kết thúc trong vòng loại sau The Fogotten Sons (Wesley Blake và Steve Cutler) và Oney Lorcan và Danny Burch đã tham gia. Một trận đấu thang bốn nhóm đồng đội sau đó đã được sắp xếp cho TakeOver: XXV giữa Lorcan và Burch, Street Profits, The Forgotten Sons và The Undisputed Era (Kyle O'Reilly và Bobby Fish). Nhân viên trên màn hình khác Vai trò: Tên: Bình luận viên tiếng Anh Mauro Ranallo Nigel McGuinness Phượng hoàng Phát thanh viên Alicia Taylor Trọng tài Drake Wuertz Eddie Orengo Darryl Sharma Bảng điều khiển trước buổi diễn Charly Sam Roberts Pat McAfee Trong sự kiện chính, Johnny Gargano đã bảo vệ Giải vô địch NXT trước Adam Cole. Gargano đã thực hiện trên Cole, nhưng Cole cuối cùng đã trốn thoát sau khi nhắm vào đầu gối bị thương của Gargano. Cole đã biểu diễn "Panama Sunrise" trên Gargano, sau đó thực hiện "Cú đánh cuối cùng" để trở thành Nhà vô địch NXT mới. Khi chương trình kết thúc, Cole, Kyle O'Reilly, Bobby Fish và Roderick Strong đứng giữa võ đài khi Cole ăn mừng chiến thắng. Số. Kết quả Thể thức Thời gian Keith Lee đánh bại Kona Reeves Trận đấu đơn Không có Mia Yim đánh bại Bianca Belair Trận đấu đơn Không có Matt Riddle đánh bại Roderick Strong Trận đấu đơn 14:45 Street Profits (Angelo Dawkins và Montez Ford) đánh bại Oney Lorcan và Danny Burch, The Undisputed Era (Kyle O'Reilly và Bobby Fish) và The Forgotten Sons (Wesley Blake và Steve Cutler) Trận đấu thang cho NXT Tag Team Championship còn trống 21:30 Velveteen Dream (c) đánh bại Tyler Breeze Trận đấu đơn cho Giải vô địch Bắc Mỹ NXT 16:50 Shayna Baszler (c) đánh bại Io Shirai bằng đòn khóa Trận đấu đơn cho Giải vô địch nữ NXT 12:15 Adam Cole đánh bại Johnny Gargano (c) Trận đấu đơn cho Giải vô địch NXT 32:00 (c) đề cập đến (các) nhà vô địch bước vào trận đấu N cho biết trận đấu đã được ghi để phát trên tập NXT trong tương lai | NXT TakeOver: XXV | |
Lớp tàu hộ tống khu trục Evarts là những tàu hộ tống khu trục được Hoa Kỳ chế tạo trong giai đoạn 1942 1944. Chúng đã phục vụ trong Chiến tranh thế giới thứ hai như những tàu hộ tống vận tải và phòng không. Chúng còn được gọi là GMT hay lớp DE "short hull" (lườn ngắn), với từ GMT: General Motors Tandem Diesel (động cơ diesel GM đặt nối tiếp). chiếc dẫn đầu của lớp, được hạ thủy vào ngày tháng 12 năm 1942; và chiếc đầu tiên hoàn tất được nhập biên chế tại Xưởng đóng tàu Hải quân Boston vào ngày 20 tháng năm 1943 và được chuyển giao cho Hải quân Hoàng gia Anh theo thỏa thuận Chương trình Cho thuê-cho mượn, trở thành chiếc Những chiếc lớp Evarts được vận hành bởi động cơ diesel điện với bốn động cơ diesel được đặt nối tiếp nhau với những máy phát điện. Các con tàu được tiền chế tại nhiều nhà máy khác nhau khắp Hoa Kỳ, và các bộ phận được kết hợp với nhau tại xưởng tàu, nơi chúng được hàn lại trên tàu. Thiết kế nguyên thủy dự định trang bị tám động cơ để đạt được tốc độ nhưng việc phải dành ưu tiên nguồn lực cho các chương trình khác khiến các con tàu chỉ được trang bị bốn động cơ, nên có một lườn tàu ngắn hơn. Tổng cộng có 105 chiếc lớp Evarts được đặt hàng, nhưng chiếc sau đó bị hủy bỏ. Hải quân Hoa Kỳ đưa vào biên chế 65 chiếc trong khi 32 chiếc khác lớp Evarts được chuyển giao cho Hải quân Hoàng gia Anh. Tại Anh chúng được xếp lớp như những tàu frigate và được đặt tên theo các hạm trưởng thời Chiến tranh Napoleon, là một phần của lớp Captain cùng với 46 chiếc thuộc lớp Buckley. Vào tháng năm 1941, tận dụng những lợi điểm của Chương trình Cho thuê-Cho mượn của Hoa Kỳ, chính phủ Hoàng gia Anh đề nghị phía Hoa Kỳ thiết kế, chế tạo và cung cấp một kiểu tàu hộ tống phù hợp cho chiến tranh chống ngầm trong bối cảnh chiến tranh tại Đại Tây Dương. Những đặc trưng cụ thể bao gồm một chiều dài đạt vận tốc tối đa dàn pháo chính lưỡng dụng (chống hạm lẫn phòng không) và một cầu tàu dạng mở. Hải quân Hoa Kỳ đã từng xem xét về triển vọng của một kiểu tàu như vậy từ năm 1939 và khi Đại tá Hải quân Edward L. Cochrane thuộc Văn phòng Tàu chiến Hải quân Hoa Kỳ trong chuyến viếng thăm Anh vào năm 1940 đã xem xét các kiểu tàu corvette và tàu khu trục lớp Hunt, và đã đưa ra một thiết kế cho loại tàu này. Nhu cầu về một kiểu tàu chiến như thế này sẽ rất lớn, nên cần phải giải quyết một "nút thắt cổ chai" trong quá trình chế tạo: sản xuất hộp số giảm tốc xoắn ốc kép cần thiết cho động cơ tuốc bin hơi nước của tàu khu trục. Việc sản xuất hộp số giảm tốc không thể dễ dàng tăng tốc, vì chỉ riêng những máy móc chính xác cần thiết cũng phải mất một năm để chế tạo. Do đó một thiết kế đang sẵn sàng và đã được chứng minh của hệ thống động lực diesel-điện, vốn được sử dụng trên tàu ngầm, sẽ được áp dụng. Khi phía Anh đề đạt những yêu cầu này, Đô đốc Harold Rainsford Stark, Tư lệnh Tác chiến Hải quân Hoa Kỳ, quyết định xúc tiến những kế hoạch này và đề xuất chấp nhận đặt hàng của Anh. Hãng thiết kế hàng hải Gibbs Cox được giao nhiệm vụ thiết kế đã thực hiện nhiều thay đổi cho quy trình chế tạo cũng như trên bản thiết kế gốc cùa Đại tá Cochrane; đáng kể nhất là xóa bỏ một "nút thắt cổ chai" khác: thay thế kiểu hải pháo inch/38 caliber đa dụng đang rất cần cho mọi loại tàu chiến (từ thiết giáp hạm cho đến tàu khu trục hạm đội) bằng kiểu pháo inch/50 caliber, vốn cho phép bố trí thêm một khẩu pháo thứ ba bắn thượng tầng tại vị trí phía trước cầu tàu. Ngoài ra thiết kế gốc yêu cầu có tám động cơ để đạt được tốc độ tối đa nhưng việc phải nhường ưu tiên cho những chương trình khác khiến chỉ sử dụng bốn cụm động cơ diesel, nên rút ngắn chiều dài lườn tàu và làm giảm tốc độ tối đa khoảng Thiết kế có lớp vỏ giáp tương đối nhẹ, ví dụ như những tấm thép sử dụng cho lớp Evarts chỉ có chiều dày từ 1/2 inch đến 7/16 inch, trong khi thép 1/4 inch được sử dụng cho phần lớn lườn tàu và sàn tàu. Kết quả thiết kế là một con tàu có thể chế tạo nhanh chóng (ví dụ Halsted được chế tạo chỉ trong 24,5 ngày) với chi phí chỉ chỉ bằng một nữa so với một tàu khu trục hạm đội, (3,5 triệu Đô la Mỹ so với 10,4 triệu Đô la cho một chiếc tàu khu trục lớp Benson lượng choán nước 1.620 tấn, hoặc 6,4 triệu Đô la cho một chiếc tàu khu trục lớp Hunt.) Vào ngày 15 tháng 8, 1941, Tổng thống Hoa Kỳ Franklin D. Roosevelt chuẩn việc chế tạo 50 chiếc theo thiết kế lớp Evarts mới, số hiệu BDE (British destroyer escort) từ đến 50 như một phần của Chương trình 1799. Hải quân Hoàng gia Anh đã đặt hàng vào tháng 11 cho bốn xưởng tàu: Xưởng đóng tàu Hải quân Boston, Xưởng đóng tàu Hải quân Mare Island, Xưởng đóng tàu Hải quân Puget Sound và Xưởng đóng tàu Hải quân Philadelphia. Khi Hoa Kỳ trực tiếp tham chiến, họ cũng sử dụng thiết kế BDE. Kiểu xếp lớp BDE được duy trì bởi sáu tàu hộ tống khu trục đầu tiên (BDE 1, 2, 3, 4, 12 và 46) chuyển giao cho Anh. Trong số 50 chiếc được đặt hàng đầu tiên, Hải quân Hoàng gia Anh chỉ nhận được một chiếc, số còn lại được xếp lại lớp thành tàu hộ tống khu trục (DE) vào ngày 25 tháng năm 1943 và chuyển cho Hải quân Hoa Kỳ. Lớp Evarts được trang bị hệ thống động cơ diesel-điện theo cách sắp xếp sử dụng cho tàu ngầm. Hai trục chân vịt sẽ được kết nối với bốn động cơ Winton 278A 16 xy-lanh có tổng công suất thông qua bốn máy phát điện General Electric (GE) (4.800 kW), cung cấp năng lượng cho bốn động cơ điện, sản sinh ra công suất trục giúp con tàu đạt được tốc độ tối đa Thiết kế ban đầu dự định có hai hộ thống động lực như vậy để có được công suất trục nhằm đạt được tốc độ thiết kế nhưng việc sản xuất động cơ không theo kịp tốc độ đóng lườn tàu, nên chỉ có một hệ thống động cơ được trang bị. Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo lưỡng dụng /50-caliber trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm lẫn phòng không, dàn pháo hạng hai bốn nòng và chín pháo phòng không Oerlikon 20 mm trên bệ nòng đơn; trên một số tàu pháo được thay bằng pháo Bofors 40 mm hai nòng. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mark 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mark và tám máy phóng K3 Mark để thả bom chìm. Những cảm biến được trang bị bao gồm radar dò tìm mặt biển Type SL và radar dò tìm không trung Type SA. Để hoạt động chống tàu ngầm, các con tàu được trang bị hệ thống sonar Type 128D hoặc Type 144, đặt trong những vòm bên dưới lườn tàu thu vào được. Chúng còn có các hệ thống định vị nhằm dò tìm vị trí phát tín hiệu vô tuyến của tàu đối phương, bao gồm ăng-ten bước sóng trung bình MF bố trí trước cầu tàu và ăng-ten bước sóng cao tần HF/DF Type FH đặt trên cột ăng-ten chính. Trong khuôn khổ của Chương trình Cho thuê-Cho mượn, 32 tàu hộ tống khu trục thuộc lớp Evarts đã được chuyển giao cho Hải quân Hoàng gia Anh. Tại đây chúng được cải biến một số chi tiết cho phù hợp với phương thức hoạt động của Hải quân Hoàng gia Anh, được xếp lớp như những tàu frigate và được đặt tên theo các hạm trưởng thời Chiến tranh Napoleon. Chúng trở thành một phần của lớp Captain, cùng với 46 chiếc khác thuộc lớp Buckley. Tên (số hiệu lườn) Xưởng đóng tàu Đặt lườn Hạ thủy Nhập biên chế Xuất biên chế Số phận Xưởng đóng tàu Hải quân Boston 17 tháng 10 năm 1942 tháng 12 năm 1942 tháng năm 1943 tháng 10 năm 1945 Xuất biên chế tại New York, bán để tháo dỡ 12 tháng năm 1946 17 tháng 10 năm 1942 tháng 12 năm 1942 21 tháng năm 1943 28 tháng năm 1945 Xuất biên chế và cho Đài Loan thuê dưới tên T'ai Kang; chuyển sở hữu cho Đài Loan tháng năm 1948 và xóa đăng bạ 12 tháng năm 1948 27 tháng 11 năm 1942 tháng năm 1943 28 tháng năm 1943 19 tháng 11 năm 1945 Xóa đăng bạ tháng 12 năm 1945; bán để tháo dỡ 27 tháng 11 năm 1946 27 tháng 11 năm 1942 tháng năm 1943 tháng năm 1943 21 tháng 11 năm 1945 Xóa đăng bạ tháng 12 năm 1945 27 tháng 11 năm 1942 tháng năm 1943 10 tháng năm 1943 10 tháng 12 năm 1945 Bán để tháo dỡ 17 tháng 10 năm 1946 27 tháng 11 năm 1942 tháng năm 1943 15 tháng năm 1943 18 tháng 10 năm 1945 Xóa đăng bạ tháng 11 năm 1945; bán để tháo dỡ tháng năm 1947 tháng năm 1942 26 tháng năm 1943 25 tháng năm 1943 30 tháng 11 năm 1945 Bán để tháo dỡ 25 tháng 11 năm 1946 (ex-HMS Bentinck) Xưởng đóng tàu Hải quân Mare Island 28 tháng năm 1942 22 tháng năm 1942 20 tháng năm 1943 tháng 10 năm 1945 Xóa đăng bạ 24 tháng 10 năm 1945; bán để tháo dỡ tháng năm 1946 (ex-HMS Berry) 28 tháng năm 1942 29 tháng năm 1942 tháng năm 1943 14 tháng 12 năm 1945 Bán để tháo dỡ 26 tháng 12 năm 1946 (ex-HMS Blackwood) 14 tháng năm 1942 25 tháng năm 1942 13 tháng năm 1943 21 tháng 12 năm 1945 Xóa đăng bạ tháng năm 1946; tháo dỡ tháng năm 1947 (ex-HMS Burges) 14 tháng năm 1942 26 tháng năm 1942 20 tháng năm 1943 16 tháng 10 năm 1945 Xóa đăng bạ tháng 11 năm 1945; bán để tháo dỡ 18 tháng năm 1947 (ex-HMS Byard) tháng năm 1942 21 tháng 10 năm 1942 tháng năm 1943 20 tháng 12 năm 1945 Xóa đăng bạ tháng năm 1946; bán để tháo dỡ 11 tháng 11 năm 1946 (ex-HMS Calder) tháng năm 1942 22 tháng 10 năm 1942 17 tháng năm 1943 29 tháng 12 năm 1945 Bán để tháo dỡ tháng năm 1947 (ex-HMS Duckworth) 15 tháng năm 1942 20 tháng 11 năm 1942 tháng năm 1943 25 tháng 10 năm 1945 Xóa đăng bạ 13 tháng 11 năm 1945; bán để tháo dỡ tháng năm 1947 (ex-HMS Duff) 15 tháng năm 1942 21 tháng 11 năm 1942 15 tháng năm 1943 25 tháng 10 năm 1945 Bán để tháo dỡ 26 tháng 12 năm 1946 (ex-HMS Essington) 30 tháng năm 1942 18 tháng 12 năm 1942 31 tháng năm 1943 26 tháng 10 năm 1945 Bán để tháo dỡ 25 tháng 11 năm 1946 (ex-HMS Foley) 30 tháng năm 1942 19 tháng 12 năm 1942 11 tháng năm 1943 16 tháng 11 năm 1945 Xóa đăng bạ 28 tháng 11 năm 1945; bán để tháo dỡ tháng năm 1947 tháng năm 1942 18 tháng năm 1943 25 tháng năm 1943 tháng 11 năm 1945 Bán để tháo dỡ tháng năm 1947 tháng năm 1942 19 tháng năm 1943 tháng năm 1943 tháng 11 năm 1945 Xóa đăng bạ 16 tháng 11 năm 1945; bán để tháo dỡ 31 tháng năm 1947 tháng 10 năm 1942 18 tháng năm 1943 10 tháng năm 1943 15 tháng 11 năm 1945 Xóa đăng bạ 28 tháng 11 năm 1945; bán để tháo dỡ 25 tháng năm 1947 tháng 10 năm 1942 19 tháng năm 1943 24 tháng năm 1943 22 tháng 11 năm 1945 Bán để tháo dỡ 18 tháng năm 1947 29 tháng 10 năm 1942 16 tháng năm 1943 tháng năm 1943 tháng 11 năm 1945 Bán để tháo dỡ 16 tháng năm 1947 (ex-Eisner) 29 tháng 10 năm 1942 17 tháng năm 1943 14 tháng năm 1943 15 tháng 11 năm 1945 Bán để tháo dỡ 21 tháng năm 1947 26 tháng 11 năm 1942 17 tháng năm 1943 26 tháng năm 1943 15 tháng 11 năm 1945 Bán để tháo dỡ tháng năm 1947 26 tháng 11 năm 1942 18 tháng năm 1943 tháng năm 1943 19 tháng 11 năm 1945 Xóa đăng bạ tháng 12 năm 1945; Bán để tháo dỡ 15 tháng năm 1946 (ex-Gillette) 24 tháng 12 năm 1942 15 tháng năm 1943 11 tháng năm 1943 15 tháng 11 năm 1945 Xóa đăng bạ 28 tháng 11 năm 1945; bán để tháo dỡ 24 tháng 11 năm 1947 24 tháng 12 năm 1942 16 tháng năm 1943 18 tháng năm 1943 10 tháng 11 năm 1945 Bán để tháo dỡ 29 tháng năm 1948 23 tháng năm 1943 28 tháng năm 1943 11 tháng 10 năm 1943 17 tháng 11 năm 1945 Xóa đăng bạ 28 tháng 11 năm 1945; bán để tháo dỡ tháng năm 1948 23 tháng năm 1943 29 tháng năm 1943 18 tháng 10 năm 1943 16 tháng 11 năm 1945 Bán để tháo dỡ 29 tháng năm 1948 24 tháng năm 1943 27 tháng năm 1943 23 tháng 10 năm 1943 17 tháng 11 năm 1943 Chuyển cho Lục quân Hoa Kỳ 20 tháng năm 1947 24 tháng năm 1943 28 tháng năm 1943 tháng 11 năm 1943 16 tháng 11 năm 1945 Bán để tháo dỡ tháng 12 năm 1947 Xưởng đóng tàu Hải quân Puget Sound tháng năm 1942 20 tháng năm 1943 18 tháng năm 1943 19 tháng 11 năm 1945 Xóa đăng bạ tháng 12 năm 1945; bán để tháo dỡ 10 tháng năm 1946 tháng năm 1942 tháng năm 1943 tháng năm 1943 17 tháng 12 năm 1945 Xóa đăng bạ tháng năm 1946; bán để tháo dỡ 16 tháng năm 1947 tháng năm 1942 18 tháng năm 1943 17 tháng năm 1943 16 tháng 10 năm 1945 Xóa đăng bạ tháng 11 năm 1945; bán để tháo dỡ 31 tháng 12 năm 1946 tháng năm 1942 18 tháng năm 1943 tháng 10 năm 1943 19 tháng 12 năm 1945 Xóa đăng bạ tháng năm 1946; bán để tháo dỡ tháng năm 1947 12 tháng năm 1943 tháng năm 1943 18 tháng 10 năm 1943 23 tháng 11 năm 1945 Xóa đăng bạ tháng 12 năm 1945; bán để tháo dỡ tháng năm 1947 12 tháng năm 1943 tháng năm 1943 tháng 11 năm 1943 tháng 12 năm 1945 Xóa đăng bạ 19 tháng 12 năm 1945; bán để tháo dỡ 28 tháng năm 1947 12 tháng năm 1943 tháng năm 1943 tháng 11 năm 1943 29 tháng 12 năm 1945 Xóa đăng bạ 29 tháng 12 năm 1945; bán để tháo dỡ 11 tháng 12 năm 1946 12 tháng năm 1943 tháng năm 1943 tháng 12 năm 1943 tháng 12 năm 1945 Bán để tháo dỡ tháng năm 1946 (ex-HMS Capel) Xưởng đóng tàu Hải quân Philadelphia 12 tháng năm 1942 24 tháng năm 1942 15 tháng năm 1943 18 tháng 10 năm 1945 Xóa đăng bạ tháng 11 năm 1945; bán để tháo dỡ tháng năm 1946 tháng năm 1942 24 tháng năm 1942 tháng năm 1943 28 tháng năm 1945 Xuất biên chế và cho Đài Loan thuê dưới tên Ta'i Ping; xóa đăng bạ và chuyển sở hữu cho Đài Loan tháng năm 1948; bị tàu pháo Trung Quốc đánh chìm 14 tháng 11 năm 1954 tháng năm 1942 24 tháng năm 1942 17 tháng năm 1943 tháng 10 năm 1945 Bán để tháo dỡ 12 tháng năm 1946 tháng năm 1942 24 tháng năm 1942 10 tháng năm 1943 22 tháng 12 năm 1945 Xóa đăng bạ 21 tháng năm 1946; bán để tháo dỡ tháng năm 1947 tháng năm 1942 24 tháng năm 1942 21 tháng năm 1943 19 tháng 12 năm 1945 Bán để tháo dỡ 26 tháng 12 năm 1946 Xưởng đóng tàu Hải quân Boston 10 tháng năm 1943 22 tháng năm 1943 11 tháng năm 1943 14 tháng 12 năm 1945 Xóa đăng bạ tháng năm 1946; bán để tháo dỡ tháng năm 1947 10 tháng năm 1943 22 tháng năm 1943 18 tháng năm 1943 tháng 10 năm 1945 Xóa đăng bạ 24 tháng 10 năm 1945; bán để tháo dỡ 12 tháng năm 1946 10 tháng năm 1943 22 tháng năm 1943 25 tháng năm 1943 tháng 10 năm 1945 Xóa đăng bạ 24 tháng 10 năm 1945 10 tháng năm 1943 22 tháng năm 1943 tháng năm 1943 21 tháng 12 năm 1945 Xóa đăng bạ tháng năm 1946; bán để tháo dỡ 12 tháng năm 1947 27 tháng năm 1943 10 tháng năm 1943 tháng năm 1943 tháng năm 1946 Bán để tháo dỡ 13 tháng năm 1947 27 tháng năm 1943 10 tháng năm 1943 16 tháng năm 1943 18 tháng năm 1946 Bán để tháo dỡ 12 tháng năm 1947 23 tháng năm 1943 tháng năm 1943 22 tháng năm 1943 21 tháng 12 năm 1945 Bán để tháo dỡ 12 tháng năm 1947 23 tháng năm 1943 tháng năm 1943 29 tháng năm 1943 tháng năm 1946 Bán để tháo dỡ 12 tháng năm 1947 23 tháng năm 1943 tháng năm 1943 tháng năm 1943 18 tháng năm 1946 Bán để tháo dỡ 12 tháng năm 1947 23 tháng năm 1943 tháng năm 1943 10 tháng năm 1943 26 tháng 11 năm 1945 Bán để tháo dỡ 22 tháng năm 1947 Xưởng đóng tàu Hải quân Mare Island 22 tháng năm 1943 18 tháng năm 1943 tháng năm 1944 tháng 12 năm 1945 Bán để tháo dỡ 14 tháng 12 năm 1946 22 tháng năm 1943 18 tháng năm 1943 19 tháng năm 1944 tháng 12 năm 1945 Bán để tháo dỡ 26 tháng 12 năm 1946 24 tháng năm 1943 22 tháng năm 1943 25 tháng năm 1944 tháng 12 năm 1945 Bán để tháo dỡ 21 tháng 12 năm 1946 24 tháng năm 1943 23 tháng năm 1943 tháng năm 1944 11 tháng 12 năm 1945 Xóa đăng bạ tháng năm 1946; bán để tháo dỡ 18 tháng năm 1947 21 tháng năm 1943 14 tháng năm 1944 27 tháng năm 1944 tháng 11 năm 1945 Xóa đăng bạ 28 tháng 11 năm 1945; bán để tháo dỡ tháng năm 1947 21 tháng năm 1943 15 tháng năm 1944 tháng năm 1944 22 tháng 11 năm 1945 Bán để tháo dỡ 20 tháng năm 1946 tháng năm 1943 22 tháng năm 1944 19 tháng năm 1944 27 tháng 11 năm 1945 Xưởng đóng tàu Hải quân Boston 25 tháng năm 1943 tháng 11 năm 1943 22 tháng năm 1944 18 tháng 10 năm 1945 Xóa đăng bạ tháng 11 năm 1945; bán để tháo dỡ tháng năm 1946 25 tháng năm 1943 tháng 11 năm 1943 29 tháng năm 1944 16 tháng 10 năm 1945 Bán để tháo dỡ tháng năm 1946 14 tháng 10 năm 1943 17 tháng 11 năm 1943 20 tháng năm 1944 12 tháng 10 năm 1945 Xóa đăng bạ tháng 11 năm 1945; bán để tháo dỡ 18 tháng năm 1947 14 tháng 10 năm 1943 17 tháng 11 năm 1943 tháng năm 1944 12 tháng 10 năm 1945 Bán để tháo dỡ tháng năm 1946 Danh sách các lớp tàu trong Chiến tranh thế giới thứ hai Danh sách các lớp tàu hải quân đang hoạt động Destroyer Escort Sailors Association (DESA) USS Slater, the Destroyer Escort Historical Museum Captain Class Frigates Association uboat.net | Lớp tàu hộ tống khu trục ''Evarts | Lớp tàu hộ tống khu trục Evarts, Lớp tàu frigate Captain, Lớp khinh hạm |
Microsorum schneideri là một loài dương xỉ trong họ Polypodiaceae. Loài này được Copel. mô tả khoa học đầu tiên năm 1947. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Microsorum schneideri | Microsorum, Unresolved names |
14683 Remy (1999 XG156) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày tháng 12 năm 1999 bởi nhóm nghiên cứu tiểu hành tinh gần Trái Đất phòng thí nghiệm Lincoln Socorro. JPL Small-Body Database Browser ngày 14683 Remy | 14683 Remy | |
Thanh Đông lăng (; là một quần thể lăng mộ hoàng gia của triều đại nhà Thanh nằm Tuân Hóa, Đường Sơn, tỉnh Hà Bắc, cách về phía đông bắc thủ đô Bắc Kinh, Trung Quốc. Đây là quần thể lăng mộ còn tồn tại lớn nhất, đầy đủ nhất và được bảo quản tốt nhất tại Trung Quốc. Đây là nơi chôn cất của vị hoàng đế là Thuận Trị, Khang Hi, Càn Long, Hàm Phong, Đồng Trị cùng 15 hoàng hậu, 136 phi tần, hoàng tử và công chúa triều đại nhà Thanh. Quần thể này được bao quanh bởi các dãy núi và trải dài trên khu vực có diện tích trái Trung tâm của Thanh Đông lăng là Thanh Hiếu lăng, lăng mộ của hoàng đế Thuận Trị (1638-1661), là vị hoàng đế nhà Thanh trị vì Trung Quốc đầu tiên. Ông cũng là người đầu tiên được chôn cất tại Thanh Đông lăng. Chôn cất cùng ông là Hiếu Khang Chương Hoàng hậu (thân mẫu của Khang Hi) và Hiếu Hiến Hoàng hậu. Những lăng mộ lớn nằm phía đông là Thanh Cảnh lăng (lăng mộ của Khang Hi) và Thanh Huệ lăng (lăng mộ của Đồng Trị). Về phía tây là Thanh Dụ lăng (lăng mộ của Càn Long), Thanh Định lăng (lăng mộ của Hàm Phong), Phổ Đà Dục Định Đông lăng (lăng mộ của Từ Hi Thái hậu). Tất cả các lăng mộ hoàng gia tại Thanh Đông lăng đều được dựa theo mô hình được thiết lập bởi hoàng đế Thuận Trị. Bố cục cơ bản gồm phần: Thần đạo (con đường thần linh), cung điện và nhà bếp. Thanh Hiếu lăng là lăng mộ có thần đạo phức tạp nhất với các cấu trúc từ Nam ra Bắc gồm cổng vòm đá, bia đá, cổng cung điện, sảnh thay đồ, vọng lâu đá, điêu khắc đá, cổng rồng phượng, cầu một vòm, cầu bảy vòm, cầu năm vòm, bia đá, cầu thẳng. Tại cung điện cũng chứa rất nhiều các cấu trúc gồm bia tưởng niệm, sảnh, cổng Long Ân, lò đốt lễ, Long Ân điện, phòng chôn cất, trụ cổng, bàn thờ đá, tháp tưởng niệm...Bếp nằm bên trái cung điện gồm có nơi nấu đồ cúng, hai kho và một lò giết mổ. Thanh Cảnh lăng là lăng mộ của hoàng đế Khang Hi đơn giản một cách đáng ngạc nhiên khi ông được đánh giá là vị hoàng đế vĩ đại nhất của triều đại nhà Thanh nhưng lại phù hợp so với tính cách được biết về ông. Thần đạo dẫn đến ngôi mộ của ông đi qua một cây cầu năm vòm thanh nhã và hai bên là những tượng giám hộ. Thanh Dụ lăng là lăng mộ của hoàng đế Càn Long là một trong những ngôi mộ lộng lẫy nhất trong số tất cả các lăng mộ hoàng gia Trung Quốc. Buồng lăng mộ rất đẹp với một loạt hầm được ngăn cách bởi bốn cửa đá cẩm thạch độ sâu 54 mét (177 ft). Sau cánh cổng đá đầu tiên, tại các bức tường và vòm trần nhà được phủ đầy những hình ảnh Phật giáo gồm vị Thiên đế, vị Bồ tát, 24 vị Phật, sư tử, Bát bảo (8 bảo vật), nhiều dụng cụ nghi lễ cùng hơn 30.000 lời kinh điển Tây Tạng và tiếng Phạn. Hoàng đế Càn Long đã chọn vị trí lăng mộ của mình vào năm 1742 và việc xây dựng bắt đầu vào năm sau đó. Việc xây dựng được hoàn thành vào năm 1752, nhưng lăng được mở rộng hơn nữa trong những năm từ 1755 đến 1762. Trong thời gian này, quảng trường, tháp tưởng niệm, thành quách, cũng như hai sảnh bên được xây dựng. Năm 1928, nơi này bị quân đội của Tôn Điện Anh tiến hành một cuộc phá mộ của quy mô lớn. Nhiều lăng mộ của hoàng đế, hoàng hậu nhà Thanh bị tàn phá để cướp châu báu. Đến năm 1945, nơi đây lại có vụ trộm mộ quy mô lớn của bọn Vương Thiệu Nghĩa. Hai vụ phá mộ đã gây tổn hại nặng nề cả về kiến trúc lẫn giá trị khảo cổ của khu di tích. Danh sách Lăng mộ của Hoàng Đế Thanh Đông lăng Hoàng Đế Tên lăng Thời gian hạ táng Thanh Thế Tổ Thuận Trị Đế Thanh Hiếu lăng (孝陵) 1662 Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế Thanh Cảnh lăng (景陵) 1723 Thanh Cao Tông Càn Long Đế Thanh Dụ lăng (峪陵) 1799 Thanh Văn Tông Hàm Phong Đế Thanh Định lăng (定陵) 1865 Thanh Mục Tông Đồng Trị Đế Thanh Huệ lăng (惠陵) 1879 Hoàng hậu An táng Lăng mộ Thời gian hạ táng Ghi chú Hiếu Trang Văn Hoàng hậu Chiêu Tây lăng (昭西) 1687 Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu Hiếu Đông lăng (孝东) 1717 Bên trong lăng còn an táng Phi, Phúc tấn và 17 Cách cách. Hiếu Khang Chương Hoàng hậu Thanh Hiếu lăng (清孝) 1662 Bà được Khang Hi Đế tôn làm Thái hậu Hiếu Hiến Đoan Kính Hoàng hậu Thanh Hiếu lăng (清孝) 1662 Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu Thanh Cảnh lăng (清景) 1681 Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu Thanh Cảnh lăng (清景) 1681 Hiếu Nhân Hoàng hậu Thanh Cảnh lăng (清景) 1689 Hiếu Cung Nhân Hoàng hậu Thanh Cảnh lăng (清景) 1723 Bà được Ung Chính Đế tôn làm Thái hậu Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu Thanh Dụ lăng (清裕) 1752 Hoàng Hậu Na Lạp thị Phi viên tẩm của Thanh Dụ lăng 1766 Bà được an táng trong Phi viên tẩm của Thanh Dụ lăng, quan tài nằm phía bên phải của Thuần Huệ Hoàng quý phi, không có thần vị. Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu Thanh Dụ lăng (清裕) 1775 Bà được Càn Long Đế truy tặng làm Hoàng hậu lúc ông chọn Vĩnh Diễm làm Trữ quân. Hiếu Đức Hiển Hoàng hậu Thanh Định lăng (清定) 1865 Bà mất trước khi Hàm Phong Đế lên ngôi tháng, được Hàm Phong truy phong làm Hoàng hậu. Hiếu Trinh Hiển Hoàng hậu Phổ Tường Dục Định Đông lăng (普祥峪定東陵) 1879 Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu Bồ Đà Dục Định Đông lăng (菩陀峪定東陵) 1908 Bà được Đồng Trị Đế tôn làm Thái hậu và Tuyên Thống Đế tôn làm Thái hoàng thái hậu Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu Thanh Huệ lăng (清惠) 1879 Lăng mộ Chủ lăng Cha An táng Vinh Thân vương Viên tẩm Tứ ca Vinh Thân vương Thuận Trị Tứ ca Vinh Thân vương Dụ Hiến Thân vương Viên tẩm Dụ Hiến Thân vương Phúc Toàn Thuận Trị Thuần Tĩnh Thân vương Viên tẩm Thuần Tĩnh Thân vương Long Hi Thuận Trị Thất ca Long Hi, Đích Phúc tấn Thượng Giai thị và con trai duy nhất Thuần Thân vương Phú Nhĩ Hỗ Luân Trực Quận vương Viên tẩm Trực Quận vương Dận Thì Khang Hi Đại ca Dận Thì Lý Mật Thân vương Viên tẩm Lý Mật Thân vương Dận Nhưng Khang Hi Nhị ca Dận Nhưng, Đích Phúc tấn Thạch thị Tuân Cần Quận vương Viên tẩm Tuân Cần Quận vương Dận Trinh Khang Hi Thập tứ ca Dận Trinh và con trai thứ hai Cung Cần Bối lặc Hoằng Minh Thanh Cao Tông Thái Từ lăng Đoan Tuệ Hoàng thái tử Vĩnh Liễn Càn Long Đoan Tuệ Hoàng thái tử Vĩnh Liễn Điệu Mẫn Hoàng tử Vĩnh Tông, Cửu ca, Thập ca, Thập tam ca Vĩnh Cảnh, Thập tứ ca Vĩnh Lộ, Thập lục ca, Bát Công chúa Thanh Tuyên Tông Công chúa lăng Đoan Mẫn Cố Luân Công chúa Đạo Quang Tam ca Dịch Kế, Nhị ca Dịch Cương, Đoan Mẫn Cố Luân Công chúa, Nhị Công chúa. Lăng mộ An táng Ghi chú Phụng Thánh Phu nhân Viên tẩm Phụng Thánh Phu nhân Phác thị và chồng là Nhị đẳng Cáp Đạt Cáp Cáp Phiên Cung Tương Cáp Lạt Phu nhân là Nhũ mẫu của Thuận Trị Hữu Thánh Phu nhân Viên tẩm Hữu Thánh Phu nhân Lý thị và chồng là Nhị đẳng Cáp Đạt Cáp Cáp Phiên Mãn Đô Lễ Phu nhân là Nhũ mẫu của Thuận Trị Tá Thánh Phu nhân Viên tẩm Tá Thánh Phu nhân Diệp Hắc Lặc thị Phu nhân là Nhũ mẫu của Thuận Trị Bảo Thánh Phu nhân Viên tẩm Bảo Thánh Phu nhân Qua Nhĩ Giai thị và chồng là Đồ Khắc Thiện Phu nhân là Nhũ mẫu của Khang Hi Trinh Quan mộ Phó Đạt Lễ Mục Công mộ Lang trung Tha Sa Lạt Cáp Phiên Mục Công Chưởng quan trú phòng Hiếu lăng Bố cục của Thanh Đông lăng Bên trong mộ của hoàng gia Nhà Thanh được xây cất như sau: Mỗi lăng mộ đều có một trục đường chính đi vào, và được coi là con đường thiêng liêng. Đường này được xây dựng để phục vụ lễ tang của các vị hoàng đế. Các hoàng đế kế vị khi đến thực hiện nghi lễ tế tổ hàng năm cũng đều đi qua đây. *Đường hầm dẫn vào những ngôi mộ của họ lát đá hoa trắng, xuyên qua bốn cái cổng được chạm trổ rất công phu bằng đá. Nơi để quan tài yên nghỉ của họ là một khuôn hình bát giác, trên vòm trần khắc chín con rồng bằng vàng lóng lánh. Khu vực yên nghỉ khá rộng, lớn bằng điện Trung Hoà trong Tử Cấm Thành. Càn Long được chôn trong hai lần quan tài. Quan tài bên trong và bên ngoài được làm bằng một loại gỗ đặc biệt quý. Những báu vật trong hai ngôi mộ này gồm rất nhiều ngọc ngà châu báu cực kỳ quý giá và đắt tiền, ngoài ra còn có những hoạ phẩm, kiếm báu, sách quý, ngà voi và các tượng Phật. Các đồ quý làm bằng lụa và gấm thì chỉ một thời gian là bị mục rã. Chiêu Tây lăng Chiêu Tây lăng (昭西陵, nằm xa nhất về phía Nam, bên ngoài khu vực chủ lăng, ngay phía dưới ngọn núi chính Xương Thụy sơn, là lăng mộ tôn quý nhất trong tất cả các lăng mộ Thanh Đông lăng. Vị trí của lăng được xác định vào năm Khang Hi thứ 26 (1687). Năm Ung Chính thứ (1725), tháng 2, bắt đầu từ cơ sở có sẵn Tạm an Phụng điện để xây dựng thêm, đến cuối năm thì hoàn thành. Kết cấu của nó có những điểm khác biệt so với Lăng mộ của các Hoàng hậu khác: Trong ngoài có hai bức tường vây, là một trường hợp đặc biệt trong các lăng tẩm nhà Thanh, hơn nữa trước sau cách nhau không quá 10 mét. Kiến trúc chủ yếu của Long Ân điện là đỉnh điện Trọng Diêm Vũ, kiến trúc này là kiểu mái nhà có cấp bậc cao nhất. Cổng của Lăng tẩm được đặt trước Long Ân điện, khác biệt so với cách truyền thống đặt sau Long Ân điện. Mà đằng sau Long Ân điện vốn xây dựng "Tam tọa môn" thì nay đổi thành "Tạp tử môn", nằm hai bên Đại điện. Trước đây, Hiếu Đông lăng cũng không có hình dạng và cấu tạo như vậy. Cấu tạo như vậy sau này cũng trở thành nguyên mẫu cho kiến trúc của Dụ lăng Phi viên tẩm. Có xây dựng một tòa Bia đình Thần đạo Thanh Hiếu lăng Hiếu lăng (孝陵, là trung tâm của khu vực chủ lăng, có kế hoạch xây dựng từ năm Thuận Trị thứ 18 (1661) đến năm Khang Hi nguyên niên (1662). Năm Khang Hi thứ thì chính thức bắt đầu xây dựng. Đến tháng năm sau thì cơ bản hoàn thành. Năm thứ (1668), hoàn thành tất các các kiến trúc liên quan. Đây là một lăng tẩm tương đối đặc thù của nhà Thanh, bởi Thuận Trị Đế và hai vị Hoàng hậu của ông là Hiếu Khang Chương hoàng hậu và Hiếu Hiến Hoàng hậu đều hỏa táng, vì vậy trong địa cung chỉ có ba hũ tro cốt. Lúc còn sống Thuận Trị Đế tỏ vẻ không muốn an táng long trọng, lại thêm phòng ngự địa cung nghiêm mật, những điều này khiến cho Thanh Hiếu lăng trở thành Hoàng lăng được bảo tồn hoàn hảo nhất của Thanh Đông lăng trong thời Dân Quốc. Hiếu Đông lăng là tòa "Hoàng hậu lăng" đầu tiên được xây dựng của Thanh Đông lăng, cũng là lăng tẩm Hoàng hậu đầu tiên của nhà Thanh, mộ chủ là Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu Hoàng hậu thứ hai của Thuận Trị Đế. Thần đạo của Hiếu Đông lăng giao nhau với Thần đạo của Thanh Hiếu lăng. Mặc dù nơi đây là "Hoàng hậu lăng", nhưng cũng đồng thời an táng vị Phi, 17 vị Cách cách và vị Phúc tấn đều là tần ngự của Thuận Trị Đế. Hiếu Huệ Chương Hoàng hậu được an táng vào Phương thành Minh lâu, trung tâm của Lăng viên. Phía bên trái Phương thành Minh lâu (nhìn từ trong ra) có hai hàng Bảo đính, từ trong ra ngoài lần lượt là: Hàng thứ nhất: ## Điệu phi Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị ## Khác phi Thạch thị ## Cung Tĩnh phi Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị ## Đoan Thuận phi Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị Hàng thứ hai: ## Bút Thập Ngạch Niết Phúc tấn, Ba Nhĩ Phúc tấn, Bút Phúc tấn hoặc Ba Phúc tấn (Thứ phi Bút Thập Hách thị, Ba Nhĩ thị, Bút thị hoặc Ba thị) ## Đường Cảnh Phúc tấn hoặc Đường Phúc tấn (Thứ phi Đường thị) ## Kinh Cập Cách cách hoặc Kinh Cách cách ## Niết Cập Ni Cách cách hoặc Niết Cách cách ## Trại Bảo Cách cách hoặc Trại Cách cách ## Mại Cập Ni Cách cách hoặc Mại Cách cách ## Ách Âm Châu Cách cách hoặc Ách Cách cách ## Ngạch Luân Châu Cách cách hoặc Ngạch Cách cách ## Mai Cách cách ## Lan Cách cách. Phía bên phải Phương thành Minh lâu có hai hàng Bảo đính, từ trong ra ngoài lần lượt là: Hàng thứ nhất: ## Trinh phi Đổng Ngạc thị ## Thục Huệ phi Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị ## Ninh Khác phi Đổng Ngạc thị. Hàng thứ hai: ## Nữu Phúc tấn, Nữu Hỗ Lộc Phúc tấn hoặc Ngưu Phúc tấn (Thứ phi Nữu Hỗ Lộc thị) ## Tái Mẫu Khẳng Ngạch Niết Phúc tấn hoặc Mục Khắc Đồ Phúc tấn (Thứ phi Mục Khắc Đồ thị) ## Minh Châu Cách cách hoặc Minh Cách cách ## Lô Gia Cách cách hoặc Lô Cách Cách ## Bố Tam Châu Cách cách hoặc Bố Cách cách ## Mẫu Ba Thiên Cách cách hoặc Mẫu Cách cách ## Kỷ Thiên Ngũ Cách cách hoặc Kỷ Cách cách ## Đan Thiên Cách cách hoặc Đan Cách cách ## Thu Cách cách ## Thụy Cách cách ## Chu Nãi Cách cách hoặc Chu Cách cách. Tất cả có 29 vị. Ngoài ra, có các vị phi tần khác của Thuận Trị Đế không được an táng đây là: Thanh Thế Tổ Phế hậu Tĩnh phi Bác Nhĩ Tế Cát Đặc thị, danh Ngạch Đức Ni Bổn Ba (Bị phế làm Tĩnh phi) Hiếu Hiến Hoàng hậu Đổng Ngạc thị (Hợp táng) Hiếu Khang Chương Hoàng hậu Đông Giai thị (Phụ táng) Trần Đồ Tắc Nhĩ Phúc tấn hoặc Trần Phúc tấn (Thứ phi Trần thị) Dương Lạt Hợi Nương Phúc tấn hoặc Dương Phúc tấn (Thứ phi Dương thị) Khắc Lý Nạp Lạt Phúc tấn hoặc Nạp Lạt Phúc tấn (Thứ phi Khắc Lý Nạp Lạt thị hoặc Nạp Lạt thị) Nhã Phúc tấn (Thứ phi Nhã thị) Thứ phi Tô thị. Năm 1945, bị bọn trộm do Vương Thiệu Nghĩa cầm đầu khai quật trộm đi không còn gì. Toàn cảnh Cảnh lăng nhìn từ trên xuống Cảnh lăng (景陵, là lăng mộ của Khang Hi Đế, cách Hiếu Đông lăng chừng dặm về phía Đông Nam. Nơi này bắt đầu được xây dựng vào năm Khang Hi thứ 15 (1676), đến năm thứ 20 (1681) thì hoàn thành. Đây là Đế lăng "thổ táng" đầu tiên của nhà Thanh, cũng là tòa Đế lăng đầu tiên an táng Hoàng hậu vào trước rồi mới đến Hoàng Đế, đồng thời cũng là Hoàng lăng đầu tiên phụ táng Hoàng Quý phi. Những công trình kiến trúc chủ yếu của Cảnh lăng từ nam đến bắc có thể kể đến: Thánh Đức thần công bi đình, Ngũ khổng kiều, Vọng trụ, Thạch tượng sinh, Hạ mã bài, Thần trù khố, Bài lâu môn, Thần đạo Bi đình, Đông Tây triêu phòng, Tam lộ Tam khổng củng khoán kiểu, Đông Tây ban phòng, Long Ân môn, Đông Tây liệu lô, Đông Tây phối điện, Long Ân điện, Lăng tẩm môn, Nhị trụ môn, Thạch ngũ cung, Phương thành, Minh lâu, Bảo thành, Bảo đính và Địa cung.Bên ngoài Cảnh lăngTrong địa cung tổng cộng an táng sáu người, gồm Thanh Thánh Tổ Khang Hi Đế, Hiếu Thành Nhân Hoàng hậu, Hiếu Chiêu Nhân Hoàng hậu, Hiếu Nhân Hoàng hậu, Hiếu Cung Nhân Hoàng hậu và Kính Mẫn Hoàng quý phi. Năm Quang Tự thứ 31 (1905), Long Ân điện của Thanh Cảnh lăng bị lửa lớn thiêu hủy, sự kiện này chỉ được xử lý qua loa trong 20 ngày rồi chấm dứt, lý do xảy ra hỏa hoạn đến nay vẫn không rõ, về sau lại được tu sửa trở lại. Năm 1945, Thanh Cảnh lăng lọt vào đợt khai quật quy mô lớn của Trương Tẫn Trung và Vương Thiệu Nghĩa, trương truyền trong nhóm đào mộ có kẻ lúc mở nắp quan tài Khang Hi Đế đã gặp phải chấn thương. Đường vào địa cung của Thanh Cảnh lăng luôn luôn trong trạng thái mở suốt năm sau đó. Mãi đến năm 1952, Thanh Đông lăng thiết lập Sở bảo quản Văn vật mới phong bế Địa cung trở lại. Cũng trong năm này, một phần Bia lâu được đại trùng tu năm Gia Khánh thứ 16 (1811) đã bị sét đánh thiêu hủy hoàn toàn. Từ 1995 đến 1996, nơi đây đã được đại trùng tu, khôi phục cấu trúc ban đầu. = Thanh Cảnh lăng Phi viên tẩm nằm phía Đông của Cảnh lăng, bắt đầu xây dựng vào năm Khang Hi thứ 20 (1681), ban đầu được xưng là "Phi nha môn", đến năm Ung Chính thứ (1727) mới được tôn là "Phi viên tẩm". Phía sau cổng Viên tẩm là nơi an táng các vị Phi tử, một người một tòa Bảo đính, phía dưới Bảo đính là Địa cung, trước sau chia làm hàng, tổng cộng 50 cái, trong đó có cái là trống không. Trong các Mộ chủ, ngoại trừ một vị ca là Thập bát ca Dận Giới, còn lại đều là Phi tần của Khang Hi. Địa vị cao thì được xếp trung tâm phía trước, địa vị thấp hơn sẽ xếp phía sau hoặc hai bên. Cụ thể như sau (trái phải tính từ phía trong nhìn ra cổng), theo thứ tự từ trái sang phải: Hàng thứ nhất (hai bên cổng vào): bên trái là Quý nhân Mã thị, bên phải là Hy tần Hàng thứ hai (hai bên cổng vào): bên trái là Đoan tần và Định phi, bên phải là Hi tần và Lương phi Hàng thứ ba (hai bên cổng vào): bên trái là Thập bát ca Dận Giới, Thành phi và Tương tần, bên phải là Nghi phi, Bình phi Hàng thứ tư (lần lượt từ trái sang): Thuần Dụ Cần phi, Huệ phi, Ôn Hi Quý phi, Thuận Mật phi, Tuệ phi, Vinh phi, Tuyên phi. Hàng thứ năm: Quý nhân Doãn thị, Cẩn tần, Bảo đính trống, Quý nhân, Bố Quý nhân, Quý nhân Tân thị, Thông tần, Tĩnh tần, Mục tần, Sắc Thường tại Hàng thứ sáu: Quý nhân Văn thị, Quý nhân Lam thị, Thường Thường tại, Thụy Thường tại, Quý nhân Viên thị, Quý thường tại, Từ Thường tại, Thạch Thường tại, Quý nhân Trương thị, Quý nhân Lạc thị, Thọ Thường tại Hàng cuối cùng: Doãn Thường tại, Lộ Thường tại, Diệu Đáp ứng, Tú Đáp ứng, Khánh Đáp ứng, Linh Đáp ứng, Xuân Đáp ứng, Hiểu Đáp ứng, Trì Đáp ứng, Nữu Đáp ứng, Song Đáp ứng = Thanh Cảnh lăng Song Phi viên tẩm nằm phía đông của Cảnh lăng Phi viên tẩm, bởi vì bên trong an táng hai vị Hoàng quý phi là Khác Huệ Hoàng quý phi và Đôn Di Hoàng quý phi mà được gọi là "Song Phi viên tẩm". Hai vị Hoàng quý phi lúc còn sống từng chăm sóc Càn Long, lại lần lượt qua đời trong những năm Càn Long trị vì. Sau khi Càn Long thương lượng với các đại thần, liền quyết định đặc biệt an táng hai vị Hoàng quý phi tại một nơi phụ cận khác của Cảnh lăng. Dụ lăng (裕陵, là lăng tẩm của Thanh Cao Tông Càn Long Đế. Trong lăng chôn cất tất cả sáu người gồm: Càn Long Đế, Hiếu Hiền Thuần Hoàng hậu, Hiếu Nghi Thuần Hoàng hậu, Tuệ Hiền Hoàng quý phi, Triết Mẫn Hoàng quý phi, Thục Gia Hoàng quý phi, điều này làm cho Dụ lăng là nơi có Địa cung chôn cất nhiều người nhất của Đông lăng. Năm 1928, địa cung bị viên tướng Tôn Điện Anh phá phá hoại để cướp châu báu. Thi hài trong lăng bị ném lẫn lộn, phần lớn vật bồi táng bị cướp đi. = 349x349px Thanh Dụ lăng Phi viên tẩm là lăng tẩm của các Phi tần của Càn Long Đế, nằm phía Tây của Dụ lăng. Trong lăng viên, các Bảo đính của phi tần chia làm hàng, tổng cộng 34 tòa. Đến năm Càn Long thứ 25 (1760), sau khi Thuần Huệ Hoàng quý phi nhập táng, bỏ ra năm để đại trùng tu, bỏ bức tường giữ để xây dựng Đông Tây phối điện, Phương thành, Minh lâu, Bảo thành. Sau sự kiện của Kế Hoàng hậu Na Lạp thị, Càn Long Đế cho táng thi hài của Hoàng hậu vào Minh lâu cùng với Thuần Huệ Hoàng quý phi. Như vậy, Dụ lăng Phi viên tẩm an táng Hoàng hậu, Hoàng quý phi (Thuần Huệ Hoàng quý phi và Khánh Cung Hoàng quý phi), vị Quý phi, vị Phi, vị Tần, 12 vị Quý nhân cùng vị Thường tại, tổng cộng 36 người. Từ Đông qua Tây, lấy Minh lâu làm trung tâm, thì theo thứ tự hàng trên dưới, các vị phi tần có vị trí mộ như sau: Hàng 1: Dĩnh Quý phi, Minh lâu (Thuần Huệ Hoàng quý phi, Na Lạp Hoàng hậu) Uyển Quý phi. Hàng 2: Dung phi, Dự phi, Hãn Quý phi, Khánh Cung Hoàng quý phi, Thư phi, Du Quý phi, Tuần Quý phi. Hàng 3: Đôn phi, Phương phi, Tuân tần, Thận tần, Nghi tần, Thành tần, Di tần, Cung tần, Bạch Quý nhân. Hàng 4: Kim Quý nhân, Ninh Thường tại, Tân Quý nhân, Phúc Quý nhân, Trương Thường tại, Tú Quý nhân, Quỹ Thường tại, Thụy Quý nhân, Thận Quý nhân, Võ Quý nhân, Bình Thường tại. Hàng 5: Thọ Quý nhân, Thuận Quý nhân, Lục Quý nhân, Ngạc Quý nhân, Tấn phi. Tính từ khi an táng Nghi tần Hoàng thị năm Càn Long thứ 17 (1752) đến khi Tấn phi Phú Sát thị được an táng vào năm Đạo Quang thứ (1823), Phi viên tẩm đã trải qua ra vào an táng suốt 71 năm. Định lăng (定陵, nằm xa nhất về phía Tây của Thanh Đông lăng, là lăng tẩm của Thanh Văn Tông Hàm Phong Đế, tổng cộng chôn cất hai người là Hàm Phong Đế và Hiếu Đức Hiển Hoàng hậu. Bởi vì trước đó, Thanh Tuyên Tông Đạo Quang Đế đã hủy bỏ lăng tẩm của mình Đông lăng để chuyển sang Thanh Tây lăng, hủy bỏ chế độ "triệu táng" thời Càn Long, không chỉ làm Hàm Phong Đế buộc phải đem lăng tẩm của mình từ Tây lăng chuyển sang Đông lăng, mà còn phải sử dụng lại phần lớn nguyên liệu từ phế lăng cũ của Đạo Quang Đế trong quá trình xây dựng. Tòa Đế lăng này được định ra vào năm Hàm Phong thứ (1852), dự định bắt đầu khởi công vào năm thứ (1858). Tuy nhiên, trước khi động công, hư hư thực thực phát hiện dấu vết còn lại của bức tường miếu thờ địa phương, cần thời gian kiểm tra xử lý, vì vậy việc xây dựng lăng kéo dài đến năm sau. Hơn nữa còn phải tuyển chọn Đại thần phụ trách xây dựng lăng, nhưng vì phát sinh án trường thi khoa Mậu Ngọ và Chính biến Tân Dậu, những người phụ trách xây lăng là Bách Tuấn, Tái Hoàn, Đoan Hoa trước sau bị giết hoặc tự sát, điều này làm cho kì hạn công trình lại kéo dài, mãi đến cuối năm Đồng Trị thứ (1866) mới hoàn thành. Cả tòa Lăng tẩm đều tương tự với những Đế lăng khác, gồm địa cung, bảo đính, Phương thành, Minh lâu, cây cối ao hồ, chuồng ngựa rãnh mương, Long Ân điện, Long Ân môn, Bài Lâu môn, Đại môn. Năm 1928, Tôn Điện Anh từng có định trộm mộ, tuy nhiên chỉ đào được vài mét thì ngưng, không rõ nguyên nhân. Năm 1945, nơi đây cũng không thoát khỏi cuộc trộm mộ quy mô lớn của bọn Vương Thiệu Nghĩa, chúng mở nắp quan tài của Hàm Phong Đế và Hoàng hậu, trộm sạch những đồ bồi táng bên trong đi. = Thanh Định lăng Phi viên tẩm nằm phía Đông của Định lăng, được xây dựng vào năm Đồng Trị thứ (1865), người cuối cùng được an táng vào năm Tuyên Thống thứ (1910). Tất cả chôn cất 15 vị Phi tần, trước sau chia làm hàng, cụ thể như sau: Hàng thứ nhất: Mân Quý phi, Uyển quý phi, Trang Tĩnh Hoàng quý phi, Đoan Khác Hoàng quý phi, Vân tần Hàng thứ hai: Cát phi, Thục tần, Lục phi, Dung tần, Ngọc tần, Hi phi Hàng thứ ba: Xuân Thường tại, Khánh phi, Hâm Thường tại, Bình Thường tại Phổ Tường Dục Định Đông lăng là lăng tẩm của Từ An Thái hậu, tức Hiếu Trinh Hiển Hoàng Hậu. Lăng này nằm phía Đông của Định lăng Phi viên tẩm, là một trong hai tòa Hoàng Hậu lăng của Hàm Phong Đế. Nơi này bắt đầu xây dựng vào năm Đồng Trị thứ 12 (1873), đến năm Quang Tự thứ (1879) thì hoàn thành, tổng cộng hao tổn hơn 266,5 vạn lượng bạc trắng. Thần đạo của lăng này giao với Thần đạo của Định lăng. Tổng diện tích kiến trúc là 2265 mét vuông, các công trình kiến trúc chủ yếu có thể kể đến là Thần đạo Bi đình, Thần trù khố, Tam khổng Thần lộ kiều, Đông Tây triêu phòng, Long Ân môn, Long Ân điện, Đông Tây phối điện, Minh lâu, Phương thành, Bảo thành, Bảo đính và Địa cung. Chỉnh thể của lăng rất tương tự với Chiêu Tây lăng. Năm 1945, nơi đây cũng bị bọn Vương Thiệu Nghĩa đào mộ trộm sạch. Minh lâu của Bồ Đà Dục Định Đông lăng Bồ Đà Dục Định Đông lăng là lăng tẩm của Từ Hi Thái hậu, tức Hiếu Khâm Hiển Hoàng hậu. Lăng này nằm phía Đông của Phổ Tường Dục Định Đông lăng, là một trong hai tòa Hoàng Hậu lăng của Hàm Phong Đế. Thông thường, nơi đây và Phổ Tường Dục Định Đông lăng thường được gọi chung là Định Đông lăng, hơn nữa cấu tạo của cả hai đều không khác biệt nhiều, tổng cộng sử dụng 227 vạn lượng bạc trắng. Năm Quang Tự thứ 21 (1895), Từ Hi Thái hậu lấy lý do "lâu năm không tu sửa", đã tiến hành một cuộc tổng trùng tu quy mô lớn đối với Bồ Đà Dục Định Đông lăng, sau khi xây dựng lại, nơi đây đã vượt xa quy chế của một "Hoàng hậu lăng". Việc xây dựng lại này, chỉ riêng việc thiếp vàng đã tiêu tốn hơn 4592 lượng bạc. Chỉ riêng khoảng thời gian từ năm thứ 21 đến năm thứ 25 (1899), liền dùng hết 150 vạn lượng. Còn những khoảng chi tiêu những khoảng thời gian khác không cách nào thống kê được Toàn bộ Long Ân điện và Đông Tây phối điện đều dùng gỗ Hoàng Hoa Lê xây dựng. Trong điện sơn son thiếp vàng, chỉ riêng Kim Long đã vẽ hơn 2400 con; trên vách tường khảm nạm hơn 30 viên gạch khắc hoa lớn nhỏ không đều nhau, tổng cộng 237 mét vuông. Bên trong Long Ân điện có 64 cột thiếp vàng, đây là số lượng lớn nhất trong tất cả các Đế lăng và Hoàng Hậu lăng của nhà Thanh. Còn lại những kiến trúc khác, về cơ bản đều tương tự Phổ Tường Dục Định Đông lăng, nhưng tương đối quy mô xa hoa hơn. Năm 1928, nơi này bị quân đội của Tôn Điện Anh tiến hành một cuộc trộm mộ quy mô lớn, địa cung bị thuốc nổ oanh tạc, quan tài của Từ Hi bị khai quật, toàn bộ đồ bồi táng đều bị lấy đi toàn bộ, Kim Long trong Long Ân điện gần như đều bị cạy đi. Cũng từ sự kiện này mà truyền ra tin đồn thi thể của Từ Hi được bảo quản tốt, không hề bị thối rữa, mặc dù Tôn Điện Anh hoàn toàn không thừa nhận điều này. Huệ lăng (惠陵, ), là lăng tẩm của Thanh Mục Tông Đồng Trị Đế, cách Cảnh lăng km về phía Đông Nam, là tòa lăng tẩm xa về phía Nam nhất của Thanh Đông lăng. Huệ lăng là tòa Đế lăng kiến tạo muộn nhất, cũng là nơi có quy mô nhỏ nhất, tuy nhiên lại là nơi kiên cố nhất của Thanh Đông lăng. Tòa lăng này bắt đầu xây dựng vào năm Quang Tự nguyên niên (1875), năm sau thì hoàn thành. Nhưng đến năm sau khi hoàn thành, Đồng Trị Đế và Hiếu Triết Nghị Hoàng hậu mới được an táng vào đây. Tòa lăng tẩm này vốn dựa vào kiến trúc của Định lăng để xây dựng, nhưng Từ An và Từ Hi Thái hậu là yêu cầu không xây dựng Thánh Đức thần công bi lâu, Nhị trụ môn, Thạch tượng sinh và Thần đạo không được thông với Thần đạo của Hiếu lăng, vì vậy trong Huệ lăng vẻn vẹn chỉ có lan can Bài Lâu môn nam mới có Vọng trụ. Các kiến trúc chính của nơi đây có thể kể đến: Ngũ khổng kiều, Vọng trụ, Bài Lâu môn, Thần đạo Bi đình, Thần trù khố, Tam lộ Tam khổng củng khoán kiều, Phòng nghỉ, phòng trực ban, Long Ân môn, Liệu lô, Phối điện, Long Ân điện, Lăng tẩm môn, Thạch ngũ cung, Phương thành, Minh lâu, Bảo đính, Bào thành và Địa cung. Năm 1945, nơi đây bị bọn Trương Tẫn Trung, Vương Thiệu Nghĩa tiến hành một cuộc trộm mộ quy mô lớn. Theo lời đương sự khi đó, thi hài của Đồng Trị Đế và Hoàng hậu không còn gì nhiều, quần áo cũng đã bị hư hại nghiêm trọng. = Thanh Huệ lăng Phi viên tẩm là lăng tẩm của các Phi tần của Đồng Trị Đế, nằm phía Tây của Huệ lăng, bắt đầu xây dựng vào năm Quang Tự thứ (1878), tổng cộng dùng hết 517775 lượng bạc trắng. Nơi này vốn dĩ kế hoạch xây dựng theo Cảnh lăng Song Phi viên tẩm, nhưng về sau lại sửa lại xây dựng theo quy chế của Định lăng Phi viên tẩm. Trong lăng viên an táng vị Hoàng quý phi, bảo đính chia làm hàng như sau: Hàng thứ nhất: Thục Thận Hoàng quý phi Hàng thứ hai: Cung Túc Hoàng quý phi, Hiến Triết Hoàng quý phi, Vinh Huệ Hoàng quý phi Thanh Cao Tông Thái Từ lăng hay còn được gọi là Đoan Tuệ Hoàng thái tử Viên tẩm, nằm phía Tây của Thanh Đông lăng, là lăng mộ của Đoan Tuệ Hoàng thái tử Vĩnh Liễn đích tử của Càn Long Đế. Đây là tòa "Thái tử lăng" duy nhất của Thanh Đông lăng và của cả nhà Thanh. Nơi này bắt đầu lên kế hoạch xây dựng vào năm Càn Long thứ (1738), đích thân Càn Long Đế yêu cầu mọi quy chuẩn của lăng tẩm đều chiếu theo lệ của Thái tử. Toàn bộ lăng tẩm chiếm diện tích 27389 mét vuông, hao phí 168235 lượng bạc trắng, gần 380 lượng vàng. Chính thức bắt đầu xây dựng vào tháng năm Càn Long thứ (1743), đến tháng năm sau thì hoàn thành. Bên trong lăng viên an táng không chỉ Vĩnh Liễn mà còn có các Hoàng tử chết yểu của Càn Long, tình hình cụ thể như sau: Chính giữa: Đoan Tuệ Hoàng Thái tử Phía Tây: Điệu Mẫn Hoàng tử Vĩnh Tông, Cửu ca (an táng bên trái Vĩnh Tông) và Thập ca (an táng bên phải Vĩnh Tông) Phía Đông: Thập tam ca Vĩnh Cảnh, Thập tứ ca Vĩnh Lộ (an táng bên trái Vĩnh Cảnh), Thập lục ca (an táng bên phải Vĩnh Cảnh) Thiên lạc trì: Bát Công chúa Thanh Tuyên Tông Công chúa lăng hay còn được gọi là Đoan Mẫn Cố Luân Công chúa Viên tẩm, là tòa "Công chúa lăng" duy nhất của Thanh Đông lăng, là lăng mộ Đoan Mẫn Cố Luân Công chúa đích trưởng nữ của Đạo Quang Đế. Nơi này ngoại trừ Đoan Mẫn Công chúa, còn an táng người con khác của Đạo Quang, cụ thể thứ tự bảo đính từ Đông sang Tây như sau: Hoàng tam tử Dịch Kế, Hoàng nhị tử Dịch Cương, Đoan Mẫn Cố Luân Công chúa, Hoàng nhị nữ. Vinh Thân vương Viên tẩm là lăng tẩm của con trai thứ tư của Thuận Trị Đế, nằm phía Tây Bắc của Định lăng. Vinh Thân vương sinh vào năm Thuận Trị thứ 14 (1657), tháng sau liền qua đời, chưa kịp đặt tên. Nhưng vì đây là người con duy nhất của Thuận Trị Đế và Hiếu Hiến Hoàng hậu mà tháng sau, Thuận Trị Đế đã truy phong làm Vinh Thân vương, lại xây dựng riêng lăng tẩm, tháng liền hoàng thành. Cả tòa lăng tẩm có các kiến trúc chủ yếu là: Địa cung, Bảo đính, Viên tẩm môn, Hưởng điện, Cung môn, bên ngoài có tường lớn vây quanh, phía trên lợp ngói lưu ly lục sắc. Bên ngoài Cung môn có Trị ban phòng và Đông Tây sương phòng, không có Bi đình. Lý Mật Thân vương Viên tẩm là lăng tẩm của Phế thái tử Dận Nhưng đích tử của Khang Hi Đế, cách Vinh Thân vương Viên tẩm 500 mét về phía Tây. Thời gian xây dựng lăng và thời gian nhập tán Lý Mật Thân vương đều không rõ ràng, chỉ ước chừng là sau năm Ung Chính thứ (1724). Nơi này an táng người, là Lý Mật Thân vương Dận Nhưng cùng với Chính thê Phế Thái tử phi Thạch thị. Bên trong lăng tẩm có Địa cung, Bảo đính, Viên tẩm môn, Hưởng điện, Cung môn, Trị ban phòng, Sương phòng, Bi đình, được tường đỏ cao vây lại, bên trên lợp ngói lưu ly lục sắc. Hiện tại nơi này đã hoàn toàn bị hủy hoại, không rõ nguyên nhân. Dụ Hiến Thân vương viên tẩm là lăng tẩm của Dụ Hiến Thân vương Phúc Toàn con trai thứ hai của Thuận Trị Đế, nằm phía Tây của Lý Mật Thân vương Viên tẩm. Nơi này bắt đầu xây dựng vào năm Khang Hi thứ 42 (1703), vì lúc sinh thời quan hệ giữa Phúc Toàn và Khang Hi Đế rất tốt nên Khang Hi đã đích thân chọn người đi xây dựng lăng tẩm cho Phúc Toàn, đến năm thứ 44 (1705) thì hoàn thành. Quy cách của lăng này tương tự với lăng của Lý Mật Thân vương. Nhưng đến sau năm 1995, nơi đây chỉ còn Bia đá trong Bi đình được bảo tồn tương đối hoàn hào, Hưởng điện chỉ còn lại một bệ đá, còn lại đều bị phá hủy hoàn toàn, cụ thể nguyên nhân không rõ. Thuần Tĩnh Thân vương Viên tẩm là lăng tẩm của Thuần Tĩnh Thân vương Long Hi con trai thứ bảy của Thuận Trị Đế, nằm phía Tây của Dụ Hiến Thân vương Viên tẩm. Thời gian xây dựng lăng không rõ, chỉ biết Long Hi mất vào năm Khang Hi thứ 18 (1679) và hạ táng vào ngày tháng năm thứ 20 (1681). Quy chế của Lăng không rõ, hiện nay tại di chỉ đã bị nhà dân bao trùm xung quanh, mà những nhà dân này chính là con cháu của những người thủ lăng khi xưa. Trực Quận vương Viên tẩm là lăng tẩm của Trực Quận vương Dận Thì con trai trưởng (trong số con trai sống đến tuổi trưởng thành) của Khang Hi Đế, nằm phía Tây của Thuần Tĩnh Thân vương Viên tẩm. Dận Thì ban đầu được phong làm Trực Quận vương, nhưng sau vì "Cửu tử đoạt đích", mưu hại Thái tử Dận Nhưng mà bị cách tước, cuối cùng tang lễ dựa theo quy chế của Bối tử. Thời gian xây dựng lăng không rõ, toàn bộ viên tẩm nay cũng đã bị san bằng nên quy cách cũng không rõ. Chỉ có thể xác nhận là không có Bi đình, kiến trúc còn sót lại chỉ có cửa đá của địa cung, thời gian viên tẩm bị phá hủy đến nay vẫn không rõ. Địa cung của Viên tẩm từng bị đào quật, lại bị sử dụng làm hầm trú ẩn vào những năm 60 của TK 20, hài cốt bên trong đều bị phân tán ra bên ngoài, cuối cùng được hậu duệ của những người thủ lăng thu thập lại, mai táng đơn giản. Trong suốt thời kỳ Nhà Thanh nắm quyền cai trị, Thanh Đông lăng luôn được thiết lập hệ thống quan binh đồn trú bảo vệ, có cơ cấu của Tông Nhân Phủ, Lễ công bộ thường trực xử lý các công việc trong lăng tẩm. Nhưng từ năm 1914 sau khi Nhà Thanh sụp đổ, Bộ Nội vụ giao việc bảo quản lăng tẩm cho tôn thất Nhà Thanh quản lý, nhân viên giữ lăng không còn lương bổng nên bỏ việc, chuyển sang khai khẩn đất rừng quanh lăng làm sinh kế. Từ đó về sau, rừng và đất Đông lăng bị xâm hại ngày càng nghiêm trọng. Dưới thời kỳ Dân sơ, sau khi Đông lăng nằm trong sự quản lý của nhóm quân phiệt Bắc Dương thì những đền đài lộ thiên trong Đông lăng luôn bị trộm viếng, gỡ hết các chữ bằng đồng, biển sơn son thếp vàng… Năm 1927, lăng của Huệ phi (vợ vua Khang Hi, mẹ Dận Thì) bị đào trộm, đồ tuẫn táng bị lấy sạch còn thi thể bị lôi ra ngoài quan tài. Năm 1928, quân phiệt Tôn Điện Anh đã đem quân vào khu vực lăng tẩm Nhà Thanh Hà Bắc, quật mộ của Càn Long và Từ Hi Thái hậu, lấy đi rất nhiều báu vật tùy táng theo, trong đó có chiếc mũ phụng hoàng gắn trân châu của Từ Hi trên đó có viên ngọc trân châu cực lớn và thanh Cửu Long bảo kiếm của Càn Long. Chỉ có lăng của Khang Hi là còn toàn vẹn, vì khi bẩy mở được cửa lăng thì một khối nước màu vàng khè từ bên trong tuôn tràn ra rất mạnh, quân sĩ sợ hãi quá phải bỏ chạy. Tin các lăng tẩm của Càn Long và Từ Hi bị khai quật để lấy của đã gây chấn động và căm phẫn sâu sắc cho Phổ Nghi và các thành viên hoàng tộc, cựu thần Nhà Thanh. *Tây Thanh Mộ *Lăng tẩm hoàng gia Minh Thanh | Thanh Đông lăng | Lăng mộ Trung Quốc, Địa điểm khảo cổ Trung Quốc, Nhà Thanh, Hà Bắc, Di sản thế giới tại Trung Quốc |
Trạng cờ Quý Tỵ là một game show truyền hình chuyên biệt của Việt Nam do Đài Truyền hình Kỹ thuật số VTC, Công ty Cổ phần Quốc tế Truyền thông (IMC) và Liên đoàn cờ Việt Nam phối hợp tổ chức năm 2013. Đây là trò chơi truyền hình về cờ tướng đầu tiên Việt Nam. Phạm Quốc Hương trở thành Trạng cờ sau khi vượt qua Nguyễn Anh Quân 1,5-0,5 trận chung kết. Tại game show này, các kỳ thủ, không phân biệt chuyên nghiệp hay nghiệp dư, đều được đăng ký tham dự. Các kỳ thủ có thể đăng ký theo câu lạc bộ hoặc tự do. Kỳ thủ thi đấu tranh giải cá nhân gồm vòng: Vòng loại chia ra hai bảng đấu khu vực phía Bắc và phía Nam, thi đấu theo hệ Thụy Sĩ. Dựa vào số lượng kỳ thủ, phía Bắc với 288 kỳ thủ thi đấu 11 ván, phía Nam 68 kỳ thủ thi đấu ván. Các ván đấu cờ nhanh, mỗi bên 25 phút không có lũy tiến. Vòng loại chọn ra 16 đấu thủ chính thức và đấu thủ dự bị khu vực phía Bắc và 16 đấu thủ khu vực phía Nam vào vòng chung kết. Bốc thăm và thi đấu loại trực tiếp giữa 32 kỳ thủ đã qua vòng loại. Vòng 1/32, mỗi trận gồm ván cờ nhanh, mỗi bên 25 phút. Nếu hòa nhau thì sẽ bốc thăm chọn màu quân cho đấu thủ thi đấu một ván cờ chớp, bên đi trước có phút, bên đi sau phút. Bên đi sau là người giành chiến thắng nếu kết quả hòa hoặc thắng ván cờ này. Các trận đấu vòng chung kết sẽ được ghi hình trực tiếp tại Đài truyền hình VTC vào hai ngày cuối tuần. Từ vòng 1/16 trở đi, mội trận chỉ gồm ván cờ nhanh 25 phút không lũy tiến. Hai kỳ thủ bốc thăm chọn tiên hậu. Nếu hòa sẽ đánh ván cờ chớp phút, phút, kỳ thủ đi sau ván cờ nhanh được quyền chọn tiên hậu ván cờ chớp. Nếu vẫn hòa thì kỳ thủ đi sau ván cờ chớp chiến thắng và lọt vào vòng sau. Nhà vô địch sẽ được tôn vinh tấn phong "Trạng cờ". các kỳ thủ hạng nhì và hạng ba lần lượt được nhận danh hiệu Bảng nhãn và Thám hoa. 32 kỳ thủ lọt vào vòng chung kết hai bảng phía Bắc và phía Nam (xếp theo thứ tự thành tích vòng loại). Trần Văn Ninh Phạm Quốc Hương Đào Cao Khoa Nguyễn Hoàng Chiến Nguyễn Khánh Ngọc Trần Trung Kiên Đinh Quang Hưng Phùng Quang Điệp Hoàng Văn Linh Lê Linh Ngọc Trần Quyết Thắng Đỗ Như Khánh Nguyễn Văn Quảng Võ Văn Hùng Nguyễn Anh Quân Phạm Đình Huy Ngô Ngọc Minh Võ Minh Nhất Trần Cẩm Long Trần Thanh Tân Tôn Thất Nhật Tân Nguyễn Anh Hoàng Diệp Khai Nguyên Phan Phúc Trường Nguyễn Trần Đỗ Ninh Nguyễn Thanh Tùng Nguyễn Hữu Hùng Nguyễn Hoàng Lâm Lê Minh Trí Nguyễn Phúc Lợi Lê Minh Nguyễn Phùng Xuân Tại vòng chung kết, ván đấu cờ nhanh thứ hai và ván đấu cờ chớp (nếu có) sẽ được tường thuật trực tiếp, với một bình luận viên của đài, một bình luận viên chuyên môn và một bình luận viên văn hóa (nhà văn Nguyễn Khắc Phục, nhà báo Nguyễn Lưu...). Hai kỳ thủ thi đấu với trang phục truyền thống, bối cảnh chốn bồng lai tiên cảnh có cỏ, cây, hoa, lá... trên một bàn cờ lớn rộng 4m², có các "tiên nữ" hỗ trợ đi cờ. Từ vòng thứ hai trở đi các cặp đấu chỉ có ván cờ nhanh, bốc thăm người đi trước. Nếu hòa thì người đi sau có quyền chọn màu quân trong ván cờ chớp (hòa thì người đi sau trong ván cờ chớp thắng chung cuộc). Vòng đấu đầu tiên của vòng chung kết diễn ra từ 20 tháng đến tháng 9. 32 kỳ thủ vào vòng chung kết có kết quả bốc thăm và thi đấu như sau. Danh hiệu Kỳ thủ Trạng cờ Phạm Quốc Hương Bảng nhãn Nguyễn Anh Quân Thám hoa Nguyễn Trần Đỗ Ninh | Trạng cờ Quý Tỵ | Cờ tướng Việt Nam |
Ngân hàng thương mại đã hình thành tồn tại và phát triển hàng trăm năm gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống Ngân hàng Thương mại (NHTM) đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế hàng hoá, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở thành những định chế tài chính không thể thiếu được. Thông qua hoạt động tín dụng thì ngân hàng thương mại tạo lợi ích cho người gửi tiền, người vay tiền và cho cả ngân hàng thông qua chênh lệch lãi suất mà thu được lợi nhuận cho ngân hàng. Cho đến thời điểm hiện nay có rất nhiều khái niệm về NHTM: Mỹ: Ngân hàng thương mại là công ty kinh doanh tiền tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp dịch vụ tài chính. Đạo luật ngân hàng của Pháp (1941) cũng đã định nghĩa: "Ngân hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính". Việt Nam, Định nghĩa Ngân hàng thương mại: là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật các Tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật (Nghị định số 59/2009/NĐ-CP của chính phủ về tổ chức và hoạt động NHTM) Từ những nhận định trên có thể thấy NHTM là một trong những định chế tài chính mà đặc trưng là cung cấp đa dạng các dịch vụ tài chính với nghiệp vụ cơ bản là nhận tiền gửi, cho vay và cung ứng các dịch vụ thanh toán. Ngoài ra, NHTM còn cung cấp nhiều dịch vụ khác nhằm thoả mãn tối đa nhu cầu về sản phẩm dịch vụ của xã hội. Chức năng trung gian tín dụng được xem là chức năng quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại. Khi thực hiện chức năng trung gian tín dụng, NHTM đóng vai trò là cầu nối giữa người thừa vốn và người có nhu cầu về vốn. Với chức năng này, ngân hàng thương mại vừa đóng vai trò nhận tiền gửi, vừa đóng vai trò là người cho vay và hưởng lợi nhuận là khoản chênh lệch giữa lãi suất nhận gửi và lãi suất cho vay và góp phần tạo lợi ích cho tất cả các bên tham gia: người gửi tiền và người đi vay... Cho vay luôn là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng thương mại, nó mang đến lợi nhuận lớn nhất cho ngân hàng thương mại. đây NHTM đóng vai trò là thủ quỹ cho các doanh nghiệp và cá nhân, thực hiện các thanh toán theo yêu cầu của khách hàng như trích tiền từ tài khoản tiền gửi của họ để thanh toán tiền hàng hóa, dịch vụ hoặc nhập vào tài khoản tiền gửi của khách hàng tiền thu bán hàng và các khoản thu khác theo lệnh của họ. Các NHTM cung cấp cho khách hàng nhiều phương tiện thanh toán tiện lợi như séc, ủy nhiệm chi, ủy nhiệm thu, thẻ rút tiền, thẻ thanh toán, thẻ tín dụng… Tùy theo nhu cầu, khách hàng có thể chọn cho mình phương thức thanh toán phù hợp. Nhờ đó mà các chủ thể kinh tế không phải giữ tiền trong túi, mang theo tiền để gặp chủ nợ, gặp người phải thanh toán dù gần hay xa mà họ có thể sử dụng một phương thức nào đó để thực hiện các khoản thanh toán. Do vậy các chủ thể kinh tế sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí, thời gian, lại đảm bảo thanh toán an toàn. Chức năng này vô hình trung đã thúc đẩy lưu thông hàng hóa, đẩy nhanh tốc độ thanh toán, tốc độ lưu chuyển vốn, từ đó góp phần phát triển kinh tế. Là chức năng quan trọng, phản ánh rõ bản chất của NHTM. Mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận chẳng hạn như yêu cầu chính cho sự tồn tại và phát triển của mình, các NHTM với nghiệp vụ kinh doanh mang tính đặc thù của mình đã vô hình trung thực hiện chức năng tạo tiền cho nền kinh tế. Chức năng tạo tiền được thực thi trên cơ sở hai chức năng khác của NHTM là chức năng tín dụng và chức năng thanh toán. Thông qua chức năng trung gian tín dụng, ngân hàng sử dụng số vốn huy động được để cho vay, số tiền cho vay ra lại được khách hàng sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ trong khi số dư trên tài khoản tiền gửi thanh toán của khách hàng vẫn được coi là một bộ phận của tiền giao dịch, được họ sử dụng để mua hàng hóa, thanh toán dịch vụ… Với chức năng này, hệ thống NHTM đã làm tăng tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế, đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả của xã hội. Ngân hàng thương mại tạo tiền phụ thuộc vào tỉ lệ dự trữ bắt buộc của ngân hàng trung ương đã áp dụng đối với NHTM. Do vậy ngân hàng trung ương có thể tăng tỉ lệ này khi lượng cung tiền vào nền kinh tế lớn. Ngày nay, các ngân hàng đang mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ tài chính mà họ cung cấp cho khách hàng. Quá trình mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ đã tăng tốc trong những năm gần đây dưới áp lực cạnh tranh gia tăng từ các tổ chức tài chính khác, từ sự hiểu biết và đòi hỏi cao hơn của khách hàng, và từ sự thay đổi công nghệ. Sự cạnh tranh trong lĩnh vực dịch vụ tài chính đang ngày càng trở nên quyết liệt khi ngân hàng và các đối thủ cạnh tranh mở rộng danh mục sản phẩm dịch vụ. Các ngân hàng địa phương cung cấp tín dụng, kế hoạch tiết kiệm, kế hoạch hưu trí, dịch vụ tư vấn tài chính cho các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Đây là những dịch vụ đang phải đối mặt với sự cạnh tranh trực tiếp từ các ngân hàng khác, các hiệp hội tín dụng, ngân hàng đầu tư Merrill Lynch, các công ty tài chính như GE Capital và các tổ chức bảo hiểm như Prudential. Áp lực cạnh tranh đóng vai trò như một lực đẩy tạo ra sự phát triển dịch vụ cho tương lai. Sự nới lỏng luật lệ kết hợp với sự gia tăng cạnh tranh làm tăng chi phí trung bình thực tế của tài khoản tiền gửi nguồn vốn cơ bản của ngân hàng. Với sự nới lỏng các luật lệ, ngân hàng buộc phải trả lãi do thị trường cạnh tranh quyết định cho phần lớn tiền gửi. Đồng thời, Chính phủ yêu cầu các ngân hàng phải sử dụng vốn sở hữu nhiều hơn một nguồn vốn đắt đỏ để tài trợ cho các tài sản của mình. Điều đó buộc họ phải tìm cách cắt giảm các chi phí hoạt động khác như giảm số nhân công, thay thế các thiết bị lỗi thời bằng hệ thống xử lý điện tử hiện đại. Các ngân hàng cũng buộc phải tìm các nguồn vốn mới như chứng khoán hóa một số tài sản, theo đó một số khoản cho vay của ngân hàng được tập hợp lại và đưa ra khỏi bảng cân đối kế toán; các chứng khoán được đảm bảo bằng các món vay được bán trên thị trường mở nhằm huy động vốn mới một cách rẻ hơn và đáng tin cậy hơn. Hoạt động này cũng có thể tạo ra một khoản thu phí không nhỏ cho ngân hàng, lớn hơn so với các nguồn vốn truyền thống (như tiền gửi). Các quy định của Chính phủ đối với công nghiệp ngân hàng tạo cho khách hàng khả năng nhận được mức thu nhập cao hơn từ tiền gửi, nhưng chỉ có công chúng mới làm cho các cơ hội đó trở thành hiện thực. Và công chúng đã làm việc đó. Hàng tỷ USD trước đây được gửi trong các tài khoản tiết kiệm thu nhập thấp và các tài khoản giao dịch không sinh lợi kiểu cũ đã được chuyển sang các tài khoản có mức thu nhập cao hơn, những tài khoản có tỷ lệ thu nhập thay đổi theo điều kiện thị trường. Ngân hàng đã phát hiện ra rằng họ đang phải đối mặt với những khách hàng có giáo dục hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Các khoản tiền gửi "trung thành" của họ có thể dễ tăng cường khả năng cạnh tranh trên phương diện thu nhập trả cho công chúng gửi tiền và nhạy cảm hơn với thích thay đổi của xã hội về vấn đề phân phối các khoản tiết kiệm. Đối mặt với chi phí hoạt động cao hơn, từ nhiều năm gần đây các ngân hàng đã và đang chuyển sang sử dụng hệ thống hoạt động tự động và điện tử thay thế cho hệ thống dựa trên lao động thủ công, đặc biệt là trong công việc nhận tiền gửi, thanh toán bù trừ và cấp tín dụng. Những ví dụ nổi bật nhất bao gồm các máy rút tiền tự động ATM, cho phép khách hàng truy nhập tài khoản tiền gửi của họ 24/24 giờ; Máy thanh toán tiền POS được lắp đặt các bách hóa và trung tâm bán hàng thay thế cho các phương tiện thanh toán hàng hóa dịch vụ bằng giấy; và hệ thống máy vi tính hiện đại xử lý hàng ngàn giao dịch một cách nhanh chóng trên toàn thế giới. Thương mại | Ngân hàng thương mại | |
Pristimera indica là một loài thực vật có hoa trong họ Dây gối. Loài này được (Willd.) A.C. Sm. miêu tả khoa học đầu tiên năm 1941. Tập tin:Reissantia indica 02.JPG Tập tin:Reissantia indica 03.JPG Tập tin:Reissantia indica 04.JPG Tập tin:Reissantia indica 05.JPG | ''Pristimera indica | Pristimera |
"Rhythm Is Dancer" là một bài hát của nhóm nhạc nước Đức Snap! nằm trong album phòng thu thứ hai của họ, The Madman's Return (1992). Nó được phát hành như là đĩa đơn thứ hai trích từ album vào ngày 30 tháng năm 1992 bởi Arista Records. Bài hát được thể hiện bởi giọng ca chính Thea Austin và rap bởi Turbo B, những người đồng viết lời nó với nhà sản xuất của bài hát là Benito Benites và John "Virgo" Garrett III (nghệ danh của Michael Münzing và Luca Anzilotti, những người đồng sáng lập Snap!). Đây là một bản Eurodance với nội dung thể hiện tầm quan trọng của giai điệu trong việc giúp mọi người nhảy múa, trong đó họ so sánh nó như là một "vũ công". Sau khi phát hành, "Rhythm Is Dancer" đa phần nhận được những phản ứng tích cực từ các nhà phê bình âm nhạc, trong đó họ đánh giá cao giai điệu bắt tai của nó, nhưng cũng đưa ra nhiều kiến trái chiều về nội dung bài hát. Nó cũng lọt vào danh sách những bản nhạc Dance hay nhất mọi thời đại bởi nhiều ấn phẩm và tổ chức âm nhạc, bao gồm vị trí thứ 36 trong danh sách 100 Bài hát Dance xuất sắc nhất của VH1. "Rhythm Is Dancer" đã gặt hái những thành công vượt trội về mặt thương mại, đứng đầu các bảng xếp hạng nhiều quốc gia trên toàn cầu như Áo, Bỉ, Pháp, Đức, Ireland, Ý, Hà Lan, Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và Vương quốc Anh, và lọt vào top 10 hầu hết những thị trường nó xuất hiện, bao gồm vươn đến top Úc, Đan Mạch, Na Uy và Thụy Điển. Tại Hoa Kỳ, bài hát đạt vị trí thứ năm trên bảng xếp hạng Billboard Hot 100, trở thành đĩa đơn thứ hai của họ vươn đến top tại đây, và được chứng nhận đĩa Vàng từ Hiệp hội Công nghiệp ghi âm Mỹ (RIAA). Video ca nhạc cho "Rhythm Is Dancer" được đạo diễn bởi Howard Greenhalgh với bối cảnh một công xưởng, trong đó Austin trình diễn bài hát trên một thang máy, với một nhóm vũ công dưới hình tượng người máy đang nhảy múa phía dưới. Được ghi nhận là bài hát trứ danh trong sự nghiệp của Snap!, nó đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm điện ảnh và quảng cáo thương mại, và được đưa vào nhiều album tổng hợp của họ, bao gồm Snap! Attack: The Best of Snap! (1996) và The Cult of Snap! (2003). Ngoài ra, bài hát cũng được nhóm thu âm lại và phát hành trong nhiều giai đoạn khác nhau, trong đó bản hát lại năm 2003 "Rhythm is Dancer 2003" đã vươn đến top 10 Áo và Đức. ;Đĩa 7" tại châu Âu *A. "Rhythm Is Dancer" (7" chỉnh sửa) 3:41 *B. "Rhythm Is Dancer" (Purple Hazed 7" chỉnh sửa) 4:31 ;Đĩa CD maxi tại châu Âu "Rhythm Is Dancer" (7" chỉnh sửa) 3:41 "Rhythm Is Dancer" (12" phối) 5:12 "Rhythm Is Dancer" (Purple Hazed phối) 6:49 ;Đĩa CD tại châu Âu và Anh quốc "Rhythm Is Dancer" (7" chỉnh sửa) 3:41 "Rhythm Is Dancer" (12" phối) 5:12 "Rhythm Is Dancer" (Purple Hazed phối) 6:49 "Rhythm Is Dancer" (Tee's Choice phối) 6:18 Bảng xếp hạng (1992-93) Vị trícao nhất Canada (RPM) 19 Canada Dance/Urban (RPM) Đan Mạch (Tracklisten) Châu Âu (European Hot 100 Singles) Phần Lan (Suomen virallinen lista) Đức (Official German Charts) (FIMI) Tây Ban Nha (AFYVE) Bảng xếp hạng (1992) Vị trí Australia (ARIA) 15 Austria (Ö3 Austria Top 40) Belgium (Ultratop 50 Flanders) Denmark (Tracklisten) Europe (European Hot 100 Singles) Germany (Official German Charts) Italy (FIMI) Netherlands (Dutch Top 40) Netherlands (Single Top 100) Norway Summer Period (VG-lista) Switzerland (Schweizer Hitparade) UK Singles (Official Charts Company) US Billboard Hot 100 75 US Hot Dance Club Songs (Billboard) Bảng xếp hạng (1993) Vị trí US Billboard Hot 100 25 Bảng xếp hạng (2003) Vị trí Germany (Official German Charts) 65 Bảng xếp hạng (1990–99) Vị trí Austria (Ö3 Austria Top 40) 13 France (SNEP) 100 Netherlands (Dutch Top 40) 35 UK Singles (Official Charts Company) 95 | Rhythm Is Dancer | Đĩa đơn năm 1992, Đĩa đơn năm 1996, Đĩa đơn năm 2003, Đĩa đơn năm 2008, Bài hát năm 1992, Đĩa đơn của Snap!, Đĩa đơn quán quân Billboard Hot Dance Club Songs, Đĩa đơn quán quân tại Áo, Đĩa đơn quán quân tại Bỉ, Đĩa đơn quán quân European Hot 100 Singles, Đĩa đơn quán quân tại Pháp, Đĩa đơn quán quân tại Đức, Đĩa đơn quán quân tại, Đĩa đơn quán quân Dutch Top 40, Đĩa đơn quán quân tại Thụy Sĩ, Đĩa đơn quán quân UK Singles Chart, Đĩa đơn quán quân tại Vương quốc Liên hiệp Anh, Đĩa đơn quán quân tại Israel |
Đại hội thể thao các quốc gia mới nổi (GANEFO) là một đại hội thể thao được thành lập bởi Indonesia. Đại hội này dành cho các quốc gia mới nổi (hầu như là các quốc gia xã hội chủ nghĩa). GANEFO tổ chức lần đầu tiên tại Jakarta, Indonesia vào năm 1963. GANEFO cuối cùng dự kiến diễn ra tại Cairo, Ai Cập vào năm 1967 nhưng đã bị hủy bỏ. Trước đó, một kì "GANEFO châu Á" được tổ chức tại Phnôm Pênh vào năm 1966. GANEFO như là một Thế vận hội dành cho các quốc gia đặc biệt. Indonesia thành lập GANEFO vào năm 1962 vì Ủy ban Olympic quốc tế (IOC) cấm Indonesia do để chính trị thâm nhập quá nhiều vào ASIAD 1962 khi Indonesia từ chối cấp thị thực cho Trung Hoa Dân Quốc và Israel. Mười quốc gia (Campuchia, Trung Quốc, Guinea, Iraq, Mali, Indonesia, Pakistan, Bắc Việt Nam và Liên Xô) tham gia kỳ GANEFO 1963. Từ sau năm 1963, GANEFO có thêm 36 thành viên. GANEFO nêu rõ trong bản ký kết giữa các thành viên rằng GANEFO là nơi chính trị và thể thao kết hợp vào nhau. Tổng thống Indonesia Sukarno nói rằng IOC là một tổ chức chính trị do nó không có Trung Quốc và Bắc Việt Nam là thành viên. Vì vậy, IOC lệnh rằng các vận động viên tham gia GANEFO sẽ không được tham gia thế vận hội. Kỳ GANEFO đầu tiên diễn ra tại Jakarta, Indonesia vào ngày 10 đến ngày 22 tháng 11 năm 1963, với 2.700 vận động viên từ 51 quốc gia. Một số quốc gia không đem những vận động viên chuẩn Olympic đến GANEFO vì sợ không có vận động viên tham gia thế vận hội. Ví dụ, Liên Xô và Nhật Bản chỉ đưa những vận động viên không đạt chuẩn Olympic đến GANEFO. Huy chương đồng Ganefo cho Đội bóng nước Argentina. Do Héctor Ernesto Urabayen quyên góp Huy chương đồng Ganefo cho Đội bóng nước Argentina. Do Héctor Ernesto Urabayen quyên góp GANEFO 1967 ban đầu được dự định tổ chức tại Bắc Kinh, Trung Quốc nhưng đã bị từ chối. Sau đó quyền đăng cai thuộc về Bình Nhưỡng, Bắc Triều Tiên. Nhưng nó không diễn ra và GANEFO sụp đổ. GANEFO châu lần đầu tiên được tổ chức tại Phnôm Pênh, Campuchia từ 25 tháng 11 đến tháng 12 năm 1966. 2.000 vận động viên đến từ 17 quốc gia (Campuchia, Sri Lanka, Trung Quốc, Indonesia, Iraq, Nhật Bản, Bắc Triều Tiên, Lào, Liban, Mông Cổ, Nepal, Pakistan, Palestine, Singapore, Syria, Bắc Việt Nam, Nam Yemen). Hoàng tử Norodom Sihanouk là người tuyên bố khai mạc GANEFO châu 1966. Athletics Records at the 1st GANEFO YouTube Video of the 1st Asian GANEFO GANEFO I: Sports and Politics in Djakarta, Ewa T. Pauker | Đại hội thể thao các quốc gia mới nổi | Sự kiện thể thao đa môn không còn tồn tại, Sự kiện thể thao đa môn, Chính trị và thể thao, Chủ nghĩa thế giới thứ ba, Sự kiện thể thao đa môn châu, Giải đấu thể thao quốc tế tổ chức bởi Campuchia, Giải đấu thể thao quốc tế tổ chức bởi Indonesia, Khởi đầu năm 1963 |
Liên minh Latinh () là một tổ chức quốc tế của các nước sử dụng ngôn ngữ Roman. Tiêu chí của tổ chức này giữ gìn, phát huy cũng như giới thiệu di sản văn hóa chung này và các chỉnh thể đồng nhất của cộng đồng các nước nói và ảnh hưởng của tiếng Latin. Liên minh Latin được thành lập năm 1954 tại Madrid, Tây Ban Nha và tồn tại như một thể chế chức năng cho đến năm 1983. Sau đó, số lượng thành viên của tổ chức này từ 12 tăng lên 37 thành viên bao gồm các quốc gia châu Mĩ, châu Âu, châu Phi và một số ít các nước khu vực châu Thái Bình Dương. Những tên gọi chính thức của Liên minh Latin (được đề nghị bởi các quốc gia thành viên) là: Unión Latina trong tiếng Tây Ban Nha, União Latina trong tiếng Bồ Đào Nha, Union latine trong tiếng Pháp, Unione Latina trong tiếng Ý, Uniunea Latină trong tiếng România, và Unió Llatina trong tiếng Catalan. Thành viên Liên minh Latin: Theo website chính thức của Liên minh Latin, việc kết nạp thành viên tuân theo các tiêu chuẩn sau: Ngôn ngữ: ** Ngôn ngữ chính thức có nguồn gốc từ tiếng Latin ** Latin-derived language used in education ** Latin-derived language commonly used in the mass media or in daily life Ngôn ngữ/Văn hóa: ** Existence of significant literature in Latin-derived language ** Press và publication in Latin-derived language ** Television with strong proportion of the programming in Latin-derived language ** Radio widely broadcast in Latin-derived language Văn hóa: ** Direct or indirect inheritance of the legacy of Ancient Rome, to which the state remains faithful and which it perpetuates mainly through the education of Latin ** Cultural education of Latin-derived foreign languages ** Exchange programmes with other Latin countries ** Societal organization, particularly in the legal plane, based on respect for fundamental liberties, the general principles of human rights và democracy, tolerance and freedom of religion Các quốc gia thành viên của Liên minh Latin bao gồm các nước cả năm châu lục Ngôn ngữ chính thức của Liên minh Latin bao gồm tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng România và nhóm ngôn ngữ Catalan. Tiếng Tây Ban Nha, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Pháp, tiếng được sử dụng khi làm việc. Tất cả văn bản được công bố đều được dịch ra thứ tiếng nói trên. Trang chính thức | Liên minh Latinh | Mỹ Latinh, Hệ thống phân loại quốc gia |
Lindsaea havicei là một loài dương xỉ trong họ Lindsaeaceae. Loài này được Copel. mô tả khoa học đầu tiên năm 1906. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Lindsaea havicei | Lindsaea, Unresolved names |
Sao ba Algol Algol (Beta Per, β Persei, β Per), được biết với tên thông dụng là Demon Star, là một ngôi sao sáng trong chòm sao Anh Tiên. Nó là một trong những sao đôi che nhau nổi tiếng được biết, và cũng là một trong những ngôi sao biến quang (không phải nova) đầu tiên được phát hiện. Algol thật ra là một hệ ba ngôi sao (Beta Persei A, B, and C), trong đó ngôi sao lớn và sáng nhất là Beta Persei thường bị che bởi ngôi sao Beta Persei tối hơn. Do đó, cấp sao biểu kiến của Algol hầu như không đổi mức 2,1, nhưng thường giảm xuống mức 3,4 mỗi hai ngày, 20 giờ và 49 phút trong khoảng thời gian 10 giờ bị che nhau một phần. Một trường hợp che nhau khác ("cực tiểu thứ hai") khi sao sáng hơn che khuất sao mờ hơn. Sự che nhau thứ hai chỉ có thể phát hiện bằng phương pháp quang điện. | Algol | Sao dãy chính nhóm, Sao gần mức khổng lồ nhóm, Chòm sao Anh Tiên, Nhánh Lạp Hộ, Sao dãy chính nhóm, Hệ ba sao |
Kotso petiti') là một loài cá thuộc họ Cichlidae. Nó là loài đặc hữu của Madagascar. Môi trường sống tự nhiên của nó là các con sông. Nó bị đe dọa do mất môi trường sống. Loiselle, P. participants of the CBSG/ANGAP CAMP "Faune de Madagascar" workshop 2004. Paretroplus petiti. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập ngày tháng năm 2007. Thể | Kotso | Động vật được mô tả năm 1929 |
Colubrina greggii là một loài thực vật có hoa trong họ Táo. Loài này được S.Watson mô tả khoa học đầu tiên năm 1882. | ''Colubrina greggii | Colubrina, Cây Quintana Roo |
(en gascon Mau Còrn Haut) là một xã, thuộc tỉnh Landes trong vùng Xã này có diện tích 18,64 kilômét vuông, dân số năm 2006 là người. Xã này nằm khu vực có độ cao trung bình 85 mét trên mực nước biển. Haut-Mauco trên trang mạng của Viện địa lý quốc gia Haut-Mauco | ''Mau Còrn Haut | |
'Blechnum là một loài dương xỉ trong họ Blechnaceae. Loài này được Sw. mô tả khoa học đầu tiên năm 1800. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | null | Blechnum, Unresolved names |
Dưới đây là danh sách diễn viên quốc tịch Litva, tên được sắp xếp theo bảng chữ cái trong tiếng Latinh. Regimantas Adomaitis Unė Babickaitė Donatas Banionis Artūras Barysas Vytautas Pranas Bičiūnas Cornell Borchers Lina Braknytė Juozas Budraitis Agnia Ditkovskyte Laurence Harvey Inga Jankauskaitė Jurgita Jurkutė Rolandas Kazlas Vytautas Kernagis Andrius Mamontovas Algimantas Masiulis Aurelija Mikušauskaitė Juozas Miltinis Saulius Mykolaitis Kristina Orbakaite Nijolė Živilė Raudonienė Vytautas Šapranauskas Jacques Sernas Antanas Škėma) Rimantė Valiukaitė Adolfas Večerskis | danh sách diễn viên quốc tịch Litva | Danh sách nhân vật Litva, Diễn viên Litva |
Quốc lộ 61 là tuyến đường huyết mạch nối tỉnh Hậu Giang và tỉnh Kiên Giang, dài 96 km. Quốc lộ 61 bắt đầu từ ngã ba Cái Tắc giao với Quốc lộ thuộc thị trấn Cái Tắc, huyện Châu Thành A, đi qua các huyện Châu Thành A, Phụng Hiệp, Vị Thủy, thị xã Long Mỹ, thành phố Vị Thanh (tỉnh Hậu Giang), Gò Quao, Giồng Riềng, Châu Thành và thành phố Rạch Giá (tỉnh Kiên Giang) và kết thúc tại ngã ba Rạch Sỏi, phường Rạch Sỏi, thành phố Rạch Giá. Độ dài một số tuyến đường: *Ngã ba Cái Tắc Cầu Cái Tư: 52 km *Vị Thanh Cầu Cái Tư: 14 km. *Cầu Cái Tư Gò Quao: 14 km Rạch Sỏi Bến Nhất Gò Quao Vĩnh Thuận (thuộc dự án đường Hồ Chí Minh). Quốc lộ 61 giao với Quốc lộ 63 tại ngã ba Tắc Cậu, thị trấn Minh Lương, huyện Châu Thành, tỉnh Kiên Giang. Quốc lộ 61 đoạn thuộc địa phận tỉnh Kiên Giang bắt đầu từ cầu Cái Tư (huyện Gò Quao) đến ngã ba Rạch Sỏi (thành phố Rạch Giá) với chiều dài 44,1 km (từ Km 51+900 Km 96), trong đó đã hoàn thành 19,65 km theo tiêu chuẩn đường cấp III đồng bằng (đoạn qua cầu Cái Tư và đoạn Bến Nhứt đến Rạch Sỏi); còn lại 24,45 km hiện là đường cấp V, cấp VI đồng bằng gồm: đoạn Cái Tư Gò Quao có chiều dài 13,93 km đã phê duyệt trong dự án nâng cấp Quốc lộ 61 đoạn Cái Tư Gò Quao và đoạn Gò Quao Bến Nhứt có chiều dài 10,52 km đã phê duyệt trong dự án đường Hồ Chí Minh đoạn Rạch Sỏi Bến Nhứt Gò Quao Vĩnh Thuận dài 65,3 km.. Đoạn từ Bến Nhứt đi Gò Quao rất hẹp và xấu, do ngân sách hạn hẹp nên nhiều năm qua địa phương chỉ có thể duy tu, dặm vá mặt đường. Còn đoạn từ cầu Cái Tư đi Gò Quao mặt đường rất hẹp, có nguy cơ sạt lở. Ngày 27 tháng 12 năm 2002, cầu Cái Tư nằm trên Quốc lộ 61 thuộc địa phận xã Hỏa Tiến, thị xã Vị Thanh, tỉnh Cần Thơ (nay là xã Hỏa Tiến, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang) và xã Vĩnh Hòa Hưng Nam, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang được khởi công. Cầu Cái Tư có tổng chiều dài 1.326 m; phần cầu chính dài 514 m, rộng 12 m; xây dựng theo tiêu chuẩn cầu vĩnh cửu bê tông cốt thép và bê tông dự ứng lực, với vốn đầu tư 59 tỉ đồng. Đây là cây cầu được đánh giá có vị trí chiến lược, nối liền hai khu công nghiệp Rạch Sỏi (Kiên Giang) và Vị Thanh (Cần Thơ), phá thế độc đạo của Quốc lộ 80 và góp phần mở mang kinh tế cho các địa phương vùng sâu tỉnh Kiên Giang, Cà Mau và Cần Thơ. Ngày 21 tháng 12 năm 2006, hai tỉnh Hậu Giang và Kiên Giang đã làm lễ thông xe cầu Cái Tư nối liền xã Vĩnh Hòa Hưng Nam, huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang và xã Tân Tiến, thị xã Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang (nay là xã Tân Tiến, thành phố Vị Thanh, tỉnh Hậu Giang) đã thay thế phà Cái Tư. Cầu Cái Tư được khởi công vào năm 2003 với quy mô vĩnh cửu bằng bêtông cốt thép dự ứng lực, chiều dài thân cầu 514 m, đường dẫn 812 m, khổ cầu rộng 12 m. 61 | Quốc lộ 61 | Giao thông Hậu Giang, Giao thông Kiên Giang |
Regulus ignicapilla 'Regulus là một loài chim trong họ Regulidae. Loài chim này sinh sản trong hầu hết ôn đới châu Âu và tây bắc châu Phi, và là một phần di cư, với các con chim từ Trung Âu trú đông phía nam và phía tây của phạm vi sinh sản của chúng. Loài chim này trong quần đảo Balearic và phía bắc châu Phi được công nhận rộng rãi như là một phân loài riêng biệt, nhưng nhóm Madeira, trước đây cũng được coi là một phân loài, hiện đang được xem là một loài riêng biệt, regulus madeirensis. | null | Regulus, Chim châu Âu, Chim châu Phi |
Asplenium shimurae là một loài dương xỉ trong họ Aspleniaceae. Loài này được Nakaike mô tả khoa học đầu tiên năm 1992. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Asplenium shimurae | Asplenium, Unresolved names |
Châu Pha là một xã thuộc thị xã Phú Mỹ, tỉnh Bà Rịa Vũng Tàu, Việt Nam. Xã Châu Pha nằm phía đông thị xã Phú Mỹ, có vị trí địa lý: *Phía đông giáp huyện Châu Đức *Phía tây giáp các xã Tóc Tiên, Tân Hòa và Tân Hải *Phía nam giáp thành phố Bà Rịa *Phía bắc giáp xã Sông Xoài. Xã có diện tích 32,53 km², dân số năm 2005 là 10.916 người, mật độ dân số đạt 336 người/km². Dưới thời Pháp thuộc, địa bàn xã Châu Pha ngày nay thuộc làng Hắc Dịch, thuộc tổng An Trạch, tỉnh Bà Rịa. Ngày tháng 12 năm 1982, Hội đồng Bộ trưởng ban hành Quyết định 192-HĐBT. Theo đó, thành lập xã kinh tế mới Châu Pha trên cơ sở tách một phần diện tích và dân số của hai xã Hắc Dịch và Long Hương. Khi mới thành lập, xã Châu Pha thuộc huyện Châu Thành. Ngày tháng năm 1994, Chính phủ ban hành Nghị định 45-CP. Theo đó: *Điều chỉnh 800 ha diện tích tự nhiên của thôn Phước Tân thuộc thị trấn Bà Rịa về xã Châu Pha quản lý *Chuyển xã Châu Pha về huyện Tân Thành mới thành lập. Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, xã Châu Pha có 3.448 ha diện tích tự nhiên và 6.082 người. Ngày 27 tháng năm 2005, Chính phủ ban hành Nghị định 83/2005/NĐ-CP. Theo đó, điều chỉnh 28,53 ha diện tích tự nhiên và 122 người của xã Châu Pha về thị xã Bà Rịa quản lý (nay là một phần xã Tân Hưng, thành phố Bà Rịa). Sau khi điều chỉnh địa giới hành chính, xã Châu Pha còn lại 3.253,21 ha diện tích tự nhiên và 10.916 người. Từ ngày 12 tháng năm 2018, xã Châu Pha trực thuộc thị xã Phú Mỹ. | Châu Pha | |
Pernegg an der Mur là một đô thị thuộc huyện Bruck an der Mur thuộc bang Steiermark, nước Áo. Đô thị có diện tích 86,05 km², dân số thời điểm cuối năm 2005 là 2429 người. Tại đây có hang động Drachenhöhle. Người chơi cờ nổi tiếng Laurenz Gierer sống Zlatten. | Pernegg an der Mur | |
Spixworth F.C. là một câu lạc bộ bóng đá đến từ Spixworth, gần Norwich, Norfolk, Anh, hiện tại đang thi đấu Anglian Combination Premier Division trên sân nhà Village Hall. Trước đây có tên Norwich Union F.C. (đến năm 2008), AFC Norwich (đến năm 2009), và Spixworth United (đến năm 2010) câu lạc bộ vẫn thi đấu Anglian Combination từ khi thành lập năm 1964, vô địch Premier Division một lần duy nhất mùa giải 1988–89. Câu lạc bộ thi đấu FA Vase trong hai mùa giải cuối thập niên 1970, nhưng không thắng bất kì trận nào trong lần tham gia này. | Spixworth F.C. | Câu lạc bộ bóng đá Anh |
Chalakudy là một thành phố và khu đô thị của quận Thrissur thuộc bang Kerala, Ấn Độ. Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Chalakudy có dân số 48.371 người. Phái nam chiếm 49% tổng số dân và phái nữ chiếm 51%. Chalakudy có tỷ lệ 85% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 86%, và tỷ lệ cho phái nữ là 84%. Tại Chalakudy, 10% dân số nhỏ hơn tuổi. | Chalakudy | |
Edward Albert Hathway là một cầu thủ bóng đá người Anh. Ông sinh ra Bristol, Anh. Hathway khởi đầu sự nghiệp cùng với Bristol City năm 1930, nhưng gia nhập Bristol Rovers năm 1931 sau khi không ra sân trận nào giải vô địch cho City. Sau đó ông chuyển đến Bolton Wanderers năm 1932 sau khi không được ra sân giải vô địch cho Rovers. He gia nhập York City vào tháng năm 1933. Ông có tổng cộng 239 lần ra sân và ghi 40 bàn cho câu lạc bộ và trở lại Bristol sau khi chiến tranh bùng nổ. Ông nhận được lợi thế từ câu lạc bộ khi công nhận công việc của ông năm 1943. | Edward Albert Hathway | Năm sinh thiếu, Năm mất thiếu, Cầu thủ bóng đá từ Bristol, Cầu thủ bóng đá Anh, Cầu thủ bóng đá Bristol City F.C., Cầu thủ bóng đá Bristol Rovers F.C., Cầu thủ bóng đá Bolton Wanderers F.C., Cầu thủ bóng đá York City F.C., Cầu thủ bóng đá English Football League |
Sân bay Heide-Büsum là một sân bay Heide, Đức Sân bay này có đường băng dài 2362 bề mặt nhựa đường. Hiện có các hãng hàng không sau đang hoạt động tại sân bay này: *Ostfriesische Lufttransport (Helgoland) | Sân bay Heide-Büsum | Sân bay Đức |
Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội là cơ quan thuộc hệ thống các Ban Đảng trực thuộc Thành ủy, có chức năng tham mưu giúp Thành ủy, trực tiếp là giúp Ban Thường vụ và Thường trực Thành ủy, lãnh đạo, chỉ đạo công tác Dân vận, công tác tôn giáo, dân tộc của Đảng bộ thành phố. Ban Dân vận còn là cơ quan chuyên môn, nghiệp vụ về công tác dân vận của Thành ủy; chịu sự quản lý về mọi mặt của Ban Thường vụ Thành ủy; sự hướng dẫn và kiểm tra về chuyên môn của Ban Dân vận Trung ương. Ban Dân vận Thành ủy có nhiệm vụ và quyền hạn sau: #Nghiên cứu, đề xuất: #*Những chủ trương, giải pháp về công tác dân vận của cấp ủy và Ban Thường vụ. Chuẩn bị, tham gia các dự thảo nghị quyết đại hội, các nghị quyết, quyết định, chỉ thị, quy định, quy chế, chương trình công tác dân vận của Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Thành ủy. #*Tham mưu cho Ban Chấp hành, Ban Thường vụ Thành ủy thể chế hoá các chủ trương, nghị quyết, quyết định, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng; chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác dân vận, công tác dân tộc, tôn giáo. #*Sơ kết, tổng kết các chủ trương, các chỉ thị, nghị quyết về công tác dân vận. #Theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra, giám sát: #*Việc thực hiện chủ trương, chính sách, nghị quyết, quyết định, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng về công tác dân vận. Tình hình tư tưởng, tâm trạng, nguyện vọng của nhân dân để kịp thời báo cáo Ban Thường vụ, Thường trực Thành ủy. #*Hướng dẫn, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ về công tác dân vận cho các cấp uỷ và cán bộ làm công tác dân vận các cấp trong Đảng bộ thành phố. #*Tham gia kiến với cơ quan chính quyền trong việc thể chế hoá nghị quyết, quyết định, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng về công tác dân vận, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. #Phối hợp: #*Phối hợp với Ban Tổ chức Thành ủy trong quản lý tổ chức bộ máy, biên chế ban dân vận các cấp ủy trực thuộc. Tham gia kiến về công tác cán bộ đối với đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận theo phân cấp quản lý. #*Chủ trì, phối hợp với các ban, ngành liên quan trong công tác vận động quần chúng, trong công tác nghiên cứu, kiểm tra, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, thông tin, tuyên truyền… về công tác dân vận địa phương, đơn vị. #*Phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội, hội quần chúng của thành phố trong công tác vận động quần chúng, tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền. #Thẩm định, thẩm tra: #*Các đề án về công tác dân vận trước khi trình Ban Thường vụ Thành ủy. #*Tham gia thẩm định các đề án, dự án của Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân, các ngành thuộc lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng… có liên quan đến công tác dân vận, quyền làm chủ của nhân dân. #Thực hiện một số nhiệm vụ do Ban Thường vụ, Thường trực Thành ủy giao: #*Nắm tình hình hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội, hội quần chúng. #*Thực hiện công việc khác do Ban Thường vụ Thường trực Thành ủy giao. Ban Dân vận Thành ủy gồm: Trưởng ban Phó trưởng ban Văn phòng Phòng Đoàn thể và các hội. Phòng Dân vận các cơ quan Nhà nước. Phòng Dân tộc và Tôn giáo. Ban Dân vận Thành ủy hiện nay (2010-2015): Trưởng ban: Nguyễn Lan Hương Phó trưởng ban: *# Nguyễn Trường Sơn *# Phạm Sơn (thường trực) *# Bùi Tuấn Ngọc Quan hệ giữa Ban Dân vận Thành ủy với Thành ủy, Ban Thường vụ Thành ủy, Thường trực Thành ủy: Ban Dân vận Tỉnh ủy chịu sự lãnh đạo và chỉ đạo về mọi mặt của Thành ủy, trực tiếp và thường xuyên là Ban Thường vụ và Thường trực Thành ủy; thực hiện chế độ báo cáo, tham mưu đề xuất các vấn đề thuộc trách nhiệm của lĩnh vực được phân công với Ban Thường vụ và Thường trực Thành ủy. Định kỳ báo cáo, thống kê cơ bản về nhiệm vụ công tác với Ban Dân vận Trung ương; chịu sự hướng dẫn, kiểm tra về chuyên môn, nghiệp vụ của Ban Dân vận Trung ương theo quy định. Quan hệ giữa Ban Dân vận Thành ủy với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội thành phố là quan hệ phối hợp: Trong phạm vi lĩnh vực công tác, Ban Dân vận Tỉnh ủy chủ trì, phối hợp với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội triển khai thực hiện các nghị quyết, quyết định, chỉ thị, quy định, quy chế, kết luận của Trung ương và của Thành ủy. Phối hợp nghiên cứu, hướng dẫn triển khai nghị quyết, quyết định, chỉ thị, quy định, quy chế, kết luận và kiểm tra theo chức năng, nhiệm vụ được Thành ủy giao. Quan hệ giữa Ban Dân vận Thành ủy với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố là quan hệ phối hợp: Khi triển khai thực hiện nhiệm vụ tham mưu có gắn với công tác quản lý Nhà nước, Ban Dân vận Tỉnh ủy có trách nhiệm phối hợp với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, các cơ quan Đảng, Nhà nước, tạo điều kiện, hỗ trợ lẫn nhau để cùng hoàn thành nhiệm vụ được giao. Tại kỳ họp Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân thành phố bàn chủ trương, quyết định, chính sách, chế độ… có liên quan đến lĩnh vực chuyên môn của Ban Dân vận Thành ủy thì đại diện Lãnh đạo Ban Dân vận Thành ủy được mời dự, tham gia kiến. Những nội dung cần thiết, Lãnh đạo Ban Dân vận Tỉnh ủy có trách nhiệm làm việc trực tiếp với Thường trực Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân để phối hợp thực hiện nhiệm vụ của mỗi bên. Quan hệ giữa Ban Dân vận Thành ủy với cấp ủy, tổ chức Đảng trực thuộc Thành ủy là quan hệ phối hợp, trao đổi, hướng dẫn, góp trong thực hiện về công tác chuyên môn, công tác tổ chức và cán bộ theo phân cấp. Quan hệ giữa Ban Dân vận Thành ủy ủy với Ban Dân vận các Huyện ủy, Thị ủy là quan hệ hướng dẫn, kiểm tra trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn được phân công về chuyên môn, nghiệp vụ; đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. | Ban Dân vận Thành ủy Hà Nội | Chính trị Hà Nội, Đảng Cộng sản Việt Nam |
là một chi bướm đêm thuộc họ Crambidae. Tất cả các loài đều là loài đặc hữu của Hawaii. *Orthomecyna albicaudata Butler, 1883 *Orthomecyna alloptila Meyrick, 1899 *Orthomecyna amphilyca Meyrick, 1899 *Orthomecyna aphanopis Meyrick, 1888 *Orthomecyna chrysophanes Meyrick, 1899 *Orthomecyna crossias Meyrick, 1899 *Orthomecyna epicausta Meyrick, 1899 *Orthomecyna exigua Butler, 1879 **Orthomecyna exigua cupreipennis **Orthomecyna exigua exigua *Orthomecyna heterodryas Meyrick, 1899 *Orthomecyna mesochasma Meyrick, 1899 *Orthomecyna metalycia Meyrick, 1899 *Orthomecyna phaeophanes Meyrick, 1899 *Orthomecyna picrodes Meyrick, 1899 Natural History Museum Lepidoptera genus database | null | Crambinae, Loài đặc hữu của Hawaii |
Tào Vũ (chữ Hán: 曹宇, 278), tên tự là Bành Tổ, người huyện Tiếu, nước (quận) Bái, là hoàng thân nhà Tào Ngụy thời Tam Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Tào Vũ là con trai của Tào Tháo, mẹ là Hoàn phu nhân, các anh em cùng mẹ là Tào Xung, Tào Cư. Vợ ông là con gái của Trương Lỗ. Năm Kiến An thứ 16 thời Hán Hiến đế (211), ông được phong Đô hương hầu. Năm 217, ông được đổi phong Lỗ Dương hầu. Năm 221 thời Tào Ngụy Văn đế, Tào Vũ được tiến tước làm tước công. Năm thứ (222), ông được phong làm Hạ Bì vương. Năm 224, Tào Vũ được đổi phong huyện Thiện Phụ Năm 232 thời Tào Ngụy Minh đế, ông được cải phong là Yên vương. Tào Vũ cùng lớn lên với Minh đế, nên được sủng ái hơn hẳn chư vương. Năm Thanh Long thứ (235), ông được trưng vào triều. Năm 238, ông được trở về Nghiệp Thành. Mùa hạ năm 239, ông lại được triệu về kinh đô Lạc Dương. Tháng 12 ÂL năm ấy, Minh đế bị bệnh nặng, phong Tào Vũ làm Đại tướng quân, muốn giao phó hậu sự. Tào Vũ tính tình cung thuận, ôn hòa, nên sau ngày thì cố từ không nhận. Minh đế nghe theo cận thần Lưu Phóng, Tôn Tư, chọn Tào Sảng, Tư Mã làm phụ chính, miễn chức của Tào Vũ. Sau đó Tào Vũ ra khỏi cung, trở về phủ đệ đất phong. Trong những niên hiệu Cảnh Sơ thời Minh đế, Chính Nguyên thời Phế đế, Cảnh Nguyên thời Nguyên đế, ông đều được tăng thêm thực ấp, lên đến 5500 hộ. Sang đời Tây Tấn, ông bị giáng làm Yên công. Năm Hàm Ninh thứ (278) thời Tấn Vũ đế, ông mất. Không rõ Tào Vũ bao nhiêu tuổi. Tính từ khi được phong tước Đô hương hầu đến khi mất, Tào Vũ hoạt động trong gần 70 năm từ thời Đông Hán sang thời Tây Tấn. Con trai của Tào Vũ là Tào Hoán được quyền thần Tư Mã Chiêu đưa lên ngôi thay cho Cao Quý hương công Tào Mao, tức là Ngụy Nguyên đế. Vì Tào Hoán được tính là con kế tự của Minh đế Tào Duệ (theo đúng thế phả là em họ Tào Duệ), nên theo tông pháp phải gọi Tào Vũ là ông chú (tòng tổ phụ), còn Tào Vũ khi đó dẫu còn sống nhưng không được tôn là Thái thượng hoàng mà vẫn làm Yên vương. Khi Tào Vũ mất, Tào Hoán (đã bị giáng) làm Trần Lưu vương, dâng biểu thỉnh cầu được kế tự Tào Vũ (đã bị giáng làm Yên công), nhưng triều đình nhà Tấn từ chối. Vũ là nhân vật nhỏ trong tác phẩm, xuất hiện hồi 106. Tào Duệ Tào Xung Tào Hoán TQC: Tam quốc chí quyển 20, Ngụy thư 20 Ngụy Vũ đế chư tử truyện: Yên vương Tào Vũ TTTG: Tư trị thông giám quyển 74 Ngụy kỷ 6 TĐ: Thông điển quyển 93 Lễ điển 53 | Tào Vũ | Nhân vật chính trị Tào Ngụy, Người An Huy, Năm sinh không rõ, Mất năm 278, Nhân vật Tam quốc diễn nghĩa |
Asplenium silvaticum là một loài dương xỉ trong họ Aspleniaceae. Loài này được F.Muell. mô tả khoa học đầu tiên năm 1865. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Asplenium silvaticum | Asplenium, Unresolved names |
Daewoo K5 là một loại súng ngắn bán tự động được sản xuất bởi Daewoo Precision Industries. Nơi thiết kế: Daewoo Precision Industries Thiết kế: 1984-1988 Nhà sản xuất: S&T Daewoo Sản xuất: 1989 đến nay Cân nặng: 800 Chiều dài: 190 mm Chiều dài nòng súng: 105 mm Loại đạn: 9x19mm Parabellum Khoảng cách hiệu quả: 50 Sức chứa đạn: 12 viên Các phiên bản khác: DP-51,DP-51C và DH-40 (dùng loại đạn .40 S&W) | Daewoo K5 | Súng ngắn, Vũ khí Hàn Quốc, Súng Hàn Quốc, Vũ khí dùng đạn 9mm Parabellum |
Havok là một bộ ứng dụng tích hợp middleware được phát triển bởi công ty Ireland Havok. Havok cung cấp engine vật lý và các tính năng khác cho các trò chơi điện tử. Tháng năm 2007, Intel công bố là đã ký thỏa thuận để mua lại Havok Inc. Năm 2008, Havok được vinh danh tại lễ trao giải Technology Engineering Emmy Awards thường niên lần thứ 59 vì đã thúc đẩy sự phát triển của các engine vật lý được sử dụng trong ngành giải trí điện tử. Tháng 10 năm 2015, Microsoft công bố là đã mua lại Havok. Bộ ứng dụng tích hợp middleware Havok bao gồm các thành phần sau: *Havok Physics: Được thiết kế chủ yếu dành cho các trò chơi điện tử. *Havok AI: được phát hành vào năm 2009, nó cung cấp khả năng tìm đường tiên tiến cho các trò chơi. *Havok Cloth: được phát hành vào năm 2008, nó xử lý việc mô phỏng trang phục của nhân vật. *Havok Destruction: cũng được phát hành vào năm 2008, nó cung cấp các công cụ để tạo ra các yếu tố môi trường có thể bị phá hủy hoặc biến dạng. *Havok Animation Studio (đã dừng cung cấp) *Havok Script (đã dừng cung cấp): *Havok Vision Engine (đã dừng cung cấp) Kể từ khi được ra mặt vào năm 2000, Havok đã được sử dụng trong hơn 600 trò chơi điện tử. | Havok | Phần mềm năm 2000, Phần mềm của Microsoft, Phần mềm phát triển trò chơi máy tính |
Bìa cuốn sách Homotopy Type Theory: nền tảng thống nhất của toán học. Trong logic toán và khoa học máy tính, lý thuyết hình thái đồng luân (tiếng Anh: homotopy type theory, HoTT đề cập đến các dòng phát triển khác nhau của lý thuyết hình thái trực giác, dựa trên việc diễn giải các hình thái như là các đối tượng mà lý thuyết đồng luân trừu tượng có thể áp dụng được. Ngày xửa ngày xưa, trong cộng đồng toán học lan truyền tưởng rằng các hình thái trong lý thuyết hình thái tăng cường cùng với các hình thái đẳng thức của chúng có thể được coi là các groupoid. tưởng này được chính xác hóa lần đầu tiên vào năm 1998 bởi Martin Hofmann và Thomas Strerich trong bài báo "The groupoid interpretation of type theory", trong đó họ cho thấy rằng lý thuyết hình thái tăng cường có một mô hình trong phạm trù các nhóm. Đây là mô hình đồng luân đầu tiên của lý thuyết hình thái, mặc dù chỉ là "1 chiều" (các mô hình truyền thống trong phạm trù tập hợp là "0 chiều đồng luân"). Các mô hình cao chiều đầu tiên của lý thuyết hình thái tăng cường được xây dựng bởi Steve Awodey và sinh viên Michael Warren vào năm 2005 bằng cách sử dụng các phạm trù mô hình Quillen. Những kết quả này lần đầu tiên được trình bày trước công chúng tại hội nghị FMCS 2006 trong đó Warren đã có một bài nói với tiêu đề "Homotopy models of intensional type theory", cũng đóng vai trò là bản cáo bạch luận án tiến sỹ của ông (hội đồng luận án là Awodey, Nicola Gambino và Alex Simpson). Một bản tóm tắt được lưu trong bản tóm tắt luận án của Warren. Lý thuyết hình thái tăng cường Lý thuyết đồng luân các hình thái các không gian các đối tượng các điểm hình thái phụ thuộc thành thớ hình thái đẳng thức không gian đường dẫn đường đồng luân HoTT sử dụng một phiên bản sửa đổi của diễn giải mệnh đề là hình thái của lý thuyết hình thái (diễn giải mà theo đó một hình thái là một mệnh đề và một đối tượng là một chứng minh của mệnh đề). Trong HoTT, không giống như trong diễn giải "mệnh đề là hình thái" tiêu chuẩn, "các mệnh đề đơn thuần" đóng một vai trò đặc biệt: đó là các hình thái có nhiều nhất một đối tượng, xê xích một đẳng thức mệnh đề. Khái niệm cơ bản của lý thuyết hình thái đồng luân là đường dẫn. Trong HoTT, hình thái là hình thái của tất cả các đường dẫn từ điểm đến điểm (Do đó, một chứng minh cho thấy một điểm bằng một điểm cũng là một đường dẫn từ điểm đến điểm .) Với mọi điểm tồn tại một đường dẫn với hình thái tương ứng với tính chất phản xạ của đẳng thức. Một đường dẫn với hình thái có thể được nghịch đảo, tạo thành một đường dẫn với hình thái tương ứng với tính chất đối xứng của đẳng thức. Hai đường dẫn với các hình thái và. có thể được nối, tạo thành một đường dẫn với hình thái điều này tương ứng với tính chất bắc cầu của đẳng thức. Sau đây, ta sẽ dùng đường thay cho đường dẫn và loại thay cho hình thái. Quan trọng nhất, cho trước một đường và một chứng minh cho thuộc tính chứng minh đó có thể được chuyển dịch dọc theo đường để cho ta một chứng minh của thuộc tính (Nói một cách tương đương, một đối tượng loại có thể được biến thành một đối tượng loại .) Điều này tương ứng với tính chất thay thế của đẳng thức. đây, một sự khác biệt quan trọng giữa HoTT và toán học cổ điển xuất hiện. Trong toán học cổ điển, một khi đẳng thức giữa hai giá trị và đã được thành lập, và có thể được sử dụng thay thế cho nhau và sau đó không còn bất kỳ sự phân biệt nào giữa chúng. Tuy nhiên, trong lý thuyết hình thái đồng luân, có thể có nhiều đường khác nhau cùng có hình thái và chuyển dịch một đối tượng dọc theo hai đường khác nhau sẽ mang lại hai kết quả khác nhau (tức là ta có hai chứng minh khác nhau cho thuộc tính ). Do đó, trong lý thuyết hình thái đồng luân, khi áp dụng thuộc tính thay thế, cần phải nêu đường dẫn nào đang được sử dụng. Nói chung, một "mệnh đề" có thể có nhiều chứng minh khác nhau. (Ví dụ, hình thái tất cả các số tự nhiên, khi được coi là một mệnh đề, có một chứng minh tương ứng với mỗi số tự nhiên.) Ngay cả khi một mệnh đề chỉ có một chứng minh không gian các đường dẫn loại có thể không tầm thường theo một cách nào đó. Một "mệnh đề đơn thuần" là bất kỳ hình thái nào hoặc là rỗng, hoặc là chỉ chứa một điểm với không gian đường dẫn tầm thường.. Lưu rằng ta viết cho do đó ngầm hiểu có một hình thái cho các đối tượng Đừng nhầm lẫn với biểu thị hàm đồng nhất trên Hai hình thái và thuộc một vũ trụ được định nghĩa là tương đương nếu tồn tại sự tương đương giữa chúng. Một sự tương đương là một hàm có cả nghịch đảo trái và nghịch đảo phải, theo nghĩa với việc lựa chọn và phù hợp, các hình thái sau đây đều là inhabited: tức là HoTT cho phép các chứng minh toán học được dịch sang ngôn ngữ lập trình máy tính dễ dàng hơn nhiều so với trước đây. Cách tiếp cận này cung cấp tiềm năng cho máy tính để kiểm tra các chứng minh khó. Phép tính xây dựng Tương ứng Curry-Howard Lý thuyết hình thái trực giác Giả thuyết đồng luân Univalent foundations The Univalent Foundations Program (2013). Homotopy Type Theory: Univalent Foundations of Mathematics. Princeton, NJ: Institute for Advanced Study. Awodey, S.; Warren, M. A. (January 2009). "Homotopy Theoretic Models of Identity Types". Mathematical Proceedings of the Cambridge Philosophical Society. 146 (1): 45–55. arXiv:0709.0248 Awodey, Steve (2012). "Type Theory and Homotopy" (PDF). In Dybjer, P.; Lindström, Sten; Palmgren, Erik; et al. (eds.). Epistemology versus Ontology. Logic, Epistemology, and the Unity of Science. Springer. pp. 183–201. Awodey, Steve (2014). "Structuralism, Invariance, and Univalence". Philosophia Mathematica. 22 (1): 1–11. Hofmann, Martin; Streicher, Thomas (1998). "The groupoid interpretation of type theory". In Sambin, G.; Smith, J.M. (eds.). Twenty Five Years of Constructive Type Theory. Clarendon Press. pp. 83–112. Rijke, Egbert (2012), Homotopy Type Theory (PDF) (Master's). Voevodsky, Vladimir (2006), Very Short Note on Homotopy Lambda Calculus Voevodsky, Vladimir (2010), The Equivalence Axiom and Univalent Models of Type Theory, arXiv:1402.5556 Warren, Michael A. (2008). Homotopy Theoretic Aspects of Constructive Type Theory David Corfield (2020), Modal Homotopy Type Theory: The Prospect of New Logic for Philosophy, Oxford University Press. Homotopy type theory in nLab Homotopy type theory wiki Vladimir Voevodsky's webpage on the Univalent Foundations Homotopy Type Theory and the Univalent Foundations of Mathematics by Steve Awodey "Constructive Type Theory and Homotopy" Video lecture by Steve Awodey at the Institute for Advanced Study #hott connect Homotopy Type Theory IRC channel | lý thuyết hình thái đồng luân | Phương pháp hình thức, Lý thuyết đồng luân, Lý thuyết kiểu |
Bão nhiệt đới Cecil (Việt Nam gọi là bão số 2) là một cơn bão thảm khốc đã gây lũ lụt tàn phá miền Trung Việt Nam trong hạ tuần tháng năm 1989. Cơn bão phát triển từ một áp thấp nhiệt đới trên Biển Đông trong ngày 22. Ban đầu hệ thống di chuyển theo hướng Bắc Tây Bắc, mạnh dần lên và đạt cường độ tối đa với sức gió 70 dặm/giờ. Tuy nhiên, Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp (JTWC) đánh giá vận tốc gió của Cecil lớn hơn, đạt 85 dặm/giờ (140 km/giờ). Cơn bão đã đổ bộ lên địa điểm gần Hội An, Việt Nam vào cuối ngày 24 tháng và suy yếu nhanh chóng trước khi tan trên địa phận Lào trong ngày 26. Tại Việt Nam, những trận mưa lớn đi kèm cơn bão, với lượng lên tới hơn 510 mm một số khu vực, đã kích hoạt nên lũ lụt thảm khốc và chết chóc. Bên cạnh thiệt hại nghiêm trọng về người là tổn thất trên diện rộng đến ngành nông nghiệp và các công trình, với con số ước tính khoảng 300 tỉ đồng (71,1 triệu USD). Trong bối cảnh cơn bão, đã có một vài sự viện trợ từ quốc tế được gửi đến Việt Nam; dù vậy hầu hết các công đoạn cứu trợ cứu nạn, khắp phục hậu quả được tiến hành bởi chính quyền, các tổ chức địa phương, và Hội Chữ thập đỏ Việt Nam. Vào ngày 20 tháng 5, không lâu sau khi cơn bão Brenda di chuyển qua Biển Đông, một rãnh gió mùa mở rộng từ vùng biển này đến vịnh Bengal đã nhận được dòng thổi Tây Nam tăng cường mực thấp. Một môi trường có độ đứt gió yếu đã cho phép hình thành nên một vùng áp suất thấp mới trong phạm vi dòng thổi Tây Nam vào ngày 21 tháng 5. Sang ngày hôm sau, với việc đối lưu trở nên bền bỉ và diện mạo tổng quan của hệ thống đã có tổ chức hơn, Trung tâm Cảnh báo Bão Liên hợp (JTWC) đã ban hành "Cảnh báo về sự hình thành của xoáy thuận nhiệt đới" vào thời điểm 0300 UTC. Cũng trong khoảng thời gian đó, Cơ quan Khí tượng Nhật Bản (JMA) phân loại hệ thống là một áp thấp nhiệt đới. Đến cuối ngày, đối lưu đã bao bọc toàn bộ xung quanh tâm hoàn lưu; sự cải thiện cấu trúc, cộng với những quan trắc bề mặt gần đó, đã thúc đẩy JTWC chỉ định tên gọi cho hệ thống là bão nhiệt đới Cecil. Ban đầu, Cecil được dự báo sẽ duy trì hướng di chuyển chủ yếu là Bắc, đi vào phần suy yếu của áp cao cận nhiệt do cơn bão Brenda để lại. Tuy nhiên, vào ngày 23 Cecil đã chuyển hướng do sự tác động của một áp cao khác trên khu vực Trung Quốc. Với những điều kiện khí quyển thuận lợi, cơn bão tiếp tục tăng cường cho đến ngày 24. Vào thời điểm 0600 UTC, một con mắt không sắc nét có bề rộng 45 dặm (75 km) đã phát triển phía trên tâm hoàn lưu, điều này chỉ ra Cecil đã trở thành bão cuồng phong. Cơn bão đạt đỉnh với vận tốc gió 85 dặm/giờ (140 km/giờ) khi nó nằm trên vùng biển ngoài khơi ngay sát miền Trung Việt Nam. Tuy nhiên, JMA báo cáo cường độ của Cecil thấp hơn, họ phân loại nó là bão nhiệt đới dữ dội với vận tốc gió duy trì 10 phút đạt 70 dặm/giờ (110 km/giờ). Vào khoảng 1800 UTC, cơn bão đổ bộ lên địa điểm gần Hội An với sức gió 80 dặm/giờ (130 km/giờ). Khi đã trên đất liền, Cecil suy yếu nhanh chóng xuống thành áp thấp nhiệt đới trước khi tan trên vùng Đông Lào trong sáng sớm ngày 26. Bão nhiệt đới Cecil được xem là một trong những thiên tai thảm khốc nhất tại Việt Nam trong vòng 50 năm. một số khu vực, lượng mưa đã vượt quá 510 mm. Đã có xấp xỉ 105.600 hecta lúa và các loại cây trồng bị phá hủy cùng 78.300 hecta khác bị ngập nước. Khoảng 7.500 tấn lúa giống cũng đã bị mất. Khu vực chịu thiệt hại nặng nhất là tỉnh Quảng Nam, với con số ước đạt 300 tỉ đồng (71,7 triệu USD). Cơn bão đã phá hủy ít nhất 10.000 ngôi nhà và làm hư hại 27.000 ngôi nhà khác, khiến 336.000 người lâm vào tình cảnh mất nhà cửa. Khoảng xấp xỉ 60% diện tích rừng và vườn ươm lâm nghiệp tại tỉnh này đã bị hủy hoại. Đến ngày tháng 6, có 151 người được xác nhận đã chết và 600 người khác mất tích trên toàn đất nước. Cuối cùng, tổng thiệt hại nhân mạng được điều chỉnh con số 751 khi toàn bộ người mất tích được cho là đã thiệt mạng. Trong bối cảnh cơn bão, quân đội Việt Nam đã được triển khai nhằm tìm kiếm và giải cứu những người còn sống sót. Lực lượng cảnh sát địa phương cũng được tăng cường để ngăn chặn nạn cướp bóc. Vào ngày tháng 6, chính quyền Việt Nam đã yêu cầu viện trợ quốc tế để đối phó với cấp độ của thiên tai. Tuy nhiên, yêu cầu này đã được rút lại vào ngày 16 tháng 6, mặc dù vậy những sự quyên góp tự nguyện được đánh giá cao. Chính phủ Australia và Pháp đã cung cấp số tiền tương ứng là 75.188 và 73.964 USD. Bên cạnh đó, Hội Chữ thập Đỏ Thụy Điển cũng đã quyên góp quần áo, sau này chúng được phân phối bởi Hội Chữ thập Đỏ địa phương cùng với thuốc men và hàng cứu trợ. Tổng cộng có 124.000 USD tiền mặt và hàng cứu trợ, trong đó bao gồm 1.600 vải và hai tấn quần áo đã được gửi đến tỉnh Quảng Nam. Bên cạnh những tổn thất nghiêm trọng xảy ra Việt Nam, Cecil còn gây mưa lớn tại Lào và vùng Đông Bắc Thái Lan, dẫn đến lũ lụt và thiệt hại về mùa màng. *Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1989 *Những xoáy thuận nhiệt đới khác tác động đến Việt Nam trong năm 1989: **Bão Angela (1989) **Bão Dan (1989) **Bão Elsie (1989) *Bão Doksuri (2017) Japan Meteorological Agency Joint Typhoon Warning Center | Bão nhiệt đới Cecil | Mùa bão Tây Bắc Thái Bình Dương 1989, Bão tại Việt Nam, Bão tại Thái Lan |
Bộ bài gồm 22 lá lấy cảm hứng từ Tarot of Marseilles, nhưng với phong cách vẽ tranh của tác giả. Tarot (, đầu tiên được gọi là và sau đó là hoặc tarock) là một bộ bài dùng để chơi, được sử dụng từ giữa thế kỷ 15 nhiều vùng khác nhau của Châu Âu để chơi các trò chơi như tarocchini của Ý, tarot của Pháp và Königrufen của Áo, nhiều trong số đó vẫn được chơi cho đến ngày nay. Vào cuối thế kỷ 18, một số bộ bài tarot bắt đầu được sử dụng để bói toán thông qua việc đọc bài tarot và xem bói bài, dẫn đến các bộ bài tùy chỉnh được phát triển cho những mục đích huyền bí như vậy. Giống như những cách chơi bài thông thường, tarot có bốn chất khác nhau trong bộ bài tùy theo khu vực: các chất của bộ bài mang phong cách Pháp Bắc Âu, phong cách Latinh Nam Âu và Đức Trung Âu. Mỗi chất có 14 lá bài: mười lá pip đánh số từ một (hoặc Ace) đến mười, và bốn lá bài hình (King, Queen, Knight và Ngoài ra, tarot có một bộ bài gồm 21 lá bài riêng biệt và một lá bài duy nhất được gọi là The Fool. Tùy thuộc vào trò chơi, the Fool có thể đóng vai trò là con át chủ bài hàng đầu hoặc có thể để tránh làm theo. Những lá bài tarot này vẫn được sử dụng trên khắp Châu Âu để chơi các trò chơi bài thông thường mà không có các liên tưởng huyền bí. Tại một số các quốc gia nói tiếng Anh, nơi những trò chơi này không được chơi thường xuyên, các lá bài tarot được sử dụng chủ yếu cho các mục đích tìm tòi và tiên đoán, thường sử dụng các bộ bài được thiết kế đặc biệt. Một số người sử dụng tarot để xem bói bài tin rằng các lá bài có mối liên hệ bí truyền với Ai Cập cổ đại, Kabbalah, Mật tông Ấn Độ hoặc Kinh Dịch, mặc dù nghiên cứu học thuật đã không tìm thấy bằng chứng tài liệu về nguồn gốc như vậy hoặc về việc sử dụng tarot để bói toán trước thế kỷ 18. Bói bài Milan, khoảng năm 1500. Chơi bài lần đầu tiên du nhập vào châu Âu vào cuối thế kỷ 14, rất có thể là từ Mamluk Ai Cập khi bắt người do thái làm nô lệ đã tham khảo vào tri thức của Kinh Thánh.. Ghi chép đầu tiên xuất hiện từ năm 1367 Berne và chúng dường như đã lan truyền rất nhanh trên toàn châu Âu, như có thể thấy từ các tài liệu còn sót lại, chủ yếu là các trò chơi bài bị cấm. Người ta biết rất ít về sự xuất hiện và số lượng của những lá bài này; thông tin quan trọng duy nhất được cung cấp bởi một văn bản của John of Rheinfelden vào năm 1377 từ Freiburg im Breisgau, người, ngoài các phiên bản khác mô tả gói cơ bản chứa quân bài gồm 13 lá bài vẫn còn tồn tại, các quần thần thường là Vua, Ober và Unter ("thống chế"), mặc dù Dames và Queens đã được biết đến vào thời điểm đó. Một kiểu chơi bài ban đầu đã phát triển là kiểu bài với các quân bài như Batons hoặc Clubs, Coins, Swords và CupsNhững bộ quần áo này vẫn được sử dụng trong các ván bài truyền thống của Ý, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha, nhưng cũng đã được điều chỉnh thành các bộ được sử dụng đặc biệt cho các bộ bài bói toán tarot xuất hiện lần đầu vào cuối thế kỷ 18. Florence, một ván bài mở rộng được gọi là Minchiate được sử dụng. Ván bài 97 lá này bao gồm các biểu tượng chiêm tinh và bốn nguyên tố, cũng như các mô típ tarot truyền thống. Mặc dù một nhà thuyết giáo người Đa Minh đã khắc sâu chống lại cái ác vốn có trong các lá bài (chủ yếu là do việc sử dụng chúng trong đánh bạc) trong một bài giảng vào thế kỷ 15, không có sự lên án thường xuyên nào về tarot trong suốt lịch sử ban đầu của nó. Vì những lá bài tarot sớm nhất được vẽ bằng tay nên số lượng bộ bài được sản xuất được cho là rất ít. Chỉ sau khi phát minh ra máy in thì việc sản xuất hàng loạt lá bài mới có thể thực hiện được. Sự lan tỏa của tarot ra ngoài nước Ý, đầu tiên là Pháp và Thụy Sĩ, xảy ra trong Các cuộc chiến tranh Ý. Mẫu tarot quan trọng nhất được sử dụng hai quốc gia này là Tarot of Marseilles có nguồn gốc từ Milan. Hiện tồn tại rất nhiều loại bài Tarot, và không có tiêu chuẩn nào về số lượng hay hình thức bộ bài. Mặc dù các quân bài, chất và nghĩa là như nhau, nhưng hình minh hoạ thì lại rất khác nhau. Chủ đề của mỗi bộ bài cũng khác nhau, có thể là về thiên nhiên, động vật, rồng,... Cỗ bài Tarot phổ biến nhất tại Mỹ hiện nay là bộ Rider-Waite, được tạo ra vào năm 1909 bởi A.E.Waite, một nhân vật xuất chúng thuộc Hermetic Order of the Golden Dawn, và được sản xuất bởi công ty Rider Company. Họa sĩ vẽ bài là Pamela Colman Smith. Cỗ bài 78 quân này là cỗ bài phổ biến và dễ mua nhất tại Mỹ. Dù sao thì, theo The Hermitage: Tarot History Site thì không có bộ bài Tarot nào được coi là "tuyệt đối" cả. Một cỗ bài Tarot bao gồm Bộ Ẩn Phụ Minor Arcana và Bộ Ẩn Chính Major Arcana. Giống như những cỗ bài Tây khác, bộ ẩn phụ gồm "chất", nhưng thay vì rô-cơ-bích-tép, thì chất bộ ẩn phụ là: Wands, Swords, Cups và Circles (hay Pentacles). Mỗi chất đều có một nghĩa tương ứng với một khía cạnh nào đó của cuộc sống. Những quân bài chứa chất này được đánh số từ đến 10, và thêm các quân bài Hoàng gia: The King, Queen, Knight và Page. Bộ ẩn phụ cho biết những điều "phụ", tức là những khía cạnh nhỏ và thường ngày trong cuộc sống. Bộ ẩn chính không có chất. Chúng bao gồm những quân bài có hình riêng và thể hiện những nguyên tắc, quan niệm và lý tưởng. Chúng được đánh số từ đến 21, và quân bài thứ 22 The Fool được đánh số 0. Bộ ẩn chính thể hiện năng lượng mạnh, lâu dài hay những sự kiện lớn trong cuộc sống. nhỏ Nhóm này gồm khoảng 15 bộ bài được sưu tập rải rác. Đa số các bộ đều chỉ giữ lại được vài lá. Bộ đầy đủ nhất cũng thiếu mất lá trong tổng 78 lá. Hình vẽ trong các bộ này hoàn toàn làm thủ công và sản suất với số lượng cực kỳ ít. Các bộ này xuất xứ chủ yếu từ Milan, và được các gia đình quý tộc Visconti và Sfroza đặt làm. Hai gia đình này cai trị Milan suốt trong thế kỷ 13 đến 15. Hình vẽ trên các bộ này khác nhau dù mang đặc điểm chung thống nhất. Đây được xem là nguồn gốc cơ bản của bộ bài Tarot dùng để tiên tri. nhỏ Nhóm này là tiền thân của hệ thống tiên tri bằng Tarot tại Châu Âu. Cái tên Marseille được đặt cho bộ bài vì nó được sản xuất đầu tiên tại thành phố Marseille Pháp. Các bộ bài này được xem là kinh điển nhất cho các bộ Tarot mang phong cách Pháp. Nó được xem như là một trong những bộ bài chuẩn cho việc bói toán. Các dẫn chứng sách Gebelin, Esteilla, hay Levi đều sử dụng bộ bài này. Lịch sử của dòng bài Tarot này được xem như là lịch sử của Tarot nói chung và lịch sử tiên tri bằng Tarot từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 19. Từ thế kỷ 19, sự phát triển hệ thống bài Tarot của nhóm Anh ngữ do Golden Dawn dẫn đầu bởi sự huyền bí đã khiến cho nhiều người biết đến nhiều hơn là Tarot De Marseille. Dù vậy, về những điều căn bản thì De Marseille vẫn luôn là lựa chọn hàng đầu mỗi khi một ai đó cần tham chiếu lại, chứ không phải là Raider Waite như mọi người vẫn hiểu lầm. Nguyên do bởi Raider Waite đã có một bước cải cách khiến cho việc xem Tarot trở nên có vẻ đơn giản hơn và khiến Raider Waite trở nên phổ biến hơn mà thôi. Cơ mà chỉ là nhìn có vẻ đơn giản nhưng nếu tìm hiểu kỹ thì… Hãy nghĩ lại đi. Có một điều đặc biệt là ngay tại các quan điểm sử dụng bộ De Marseille, cũng chia thành quan điểm đó là một quan điểm chỉ chấp nhận 22 lá ẩn chính, và quan điểm chấp nhận cả bộ ẩn chính lẫn bộ ẩn phụ Không có nhiều sự khác biệt (tức là vẫn có) so với dòng De Marseille. Giữa Tarot và Pháp đất nước gần như là một trong những nước lâu đời nhất biết đến Tarot, với những bộ bài cổ nhất liên quan đến huyền học thuộc về có sự giao thoa và trao đổi giữa những bộ bài huyền học của và Pháp. Tuy nhiên những hệ thống Tarot của vẫn mang những nét đặc trưng rất riêng và đa phần các bộ bài của có số lượng bài khác hoặc đúng hơn là lớn hơn con số 78 lá bài. nhỏ Là dòng Tarot được vẽ vào thế kỷ 18 mang phong cách Đức, chỉ đơn giản là vẽ con vật và cũng không ứng dụng gì trong bói toán hết…. được phát triển mạnh mẽ vào cuối thể kỷ 18 và đầu thế kỷ 19; đa số lấy tưởng từ dòng De Marseille nhưng đã được sửa chữa lại cho phù hợp với tôn giáo, tín ngưỡng thần bí học mà hội Golden Dawn hay các hội kín theo. Các bộ theo dòng Golden Dawn hay nói các khác là các hội kín thì hình vẽ mang tính biểu tượng huyền học cao. Ta có thể rất dễ dàng nhận thấy hầu hết các biểu tượng đều là một biểu tượng phổ biến trong tín ngưỡng, tôn giáo nào đó mà tại đây mình phải quy hết về Golden Dawn cho dễ bởi thời kỳ này là thời kỳ nở rộ của các hội kín Huyền Bí Học, như Hội Thập Tự Hoa Hồng (Rose Croix), hay Hội Tam Điển (Freemasonry). Có những người vừa là thành viên của hội kín này nhưng cũng là thành viên của một hội kín khác. Đặc điểm chung thì mình thấy khá giống nhau và đều đi theo hướng huyền bí khơi gợi trí tò mò của người xem nếu xét về các dòng Tarot tại thời kỳ này. Tại đây mình phân chia theo nhóm Tarot nữa dù nằm trong Golden Dawn nhưng lại tạo nên lịch sử ảnh hưởng hầu hết đến các bộ Tarot hiện đại. = nhỏ do nhà huyền học S.L. MacGregor Mathers tạo ra, và là bộ bài được sử dụng chính tại các buổi lễ của hội. Tuy nhiên bộ bài không được đánh giá cao bởi các nhà huyền học vì bộ này mang ảnh hưởng khá lớn của văn minh Ai Cập và vì Ai Cập không phải là một nền huyền học phổ biến nên vô tình đã tạo ra sự khó khăn cho việc hiểu rõ bộ bài này. = do A. E. Waite tư vấn với phần minh họa bởi Pamela Colman Smith, và được xuất bản bởi Raider Company. Phải nói rằng Waite đã rất thành công khi bộ bài của ông vừa mang sự đơn giản, và bằng thủ pháp sử dụng các hình ảnh hoạt động của con người để miêu tả cho các bộ ẩn phụ. Sự thay đổi lớn nhất của bộ bài này là tráo đổi vị trí của lá ẩn chính số 11 và số so với các bộ trước đó từ Marseille trở đi, kèm theo chỉnh sửa một số nghĩa gốc trong bộ ẩn phụ. Tuy sự thay đổi này không bao hàm việc khiến bộ bài này phải nói rằng nổi tiếng toàn thế giới, nhưng việc bộ bài này trở nên nổi tiếng toàn thế giới và gây ra sức ảnh hưởng rộng lớn đến mức các bộ bài hiện đại đều theo phong cách của Waite và hệ thống của Waite chính là vì việc sử dụng hình ảnh chuyển động miêu tả cho bộ ẩn phụ. Hơn nữa, sự phổ biến và tầm ảnh hưởng của khối Anh-Mỹ thời kỳ đó, kèm theo sức ảnh hưởng của hội kín Golden Dawn trên toàn thế giới cũng góp phần không kém tạo nên sức ảnh hưởng của bộ bài này. Tuy vậy, cho đến hiện nay thì đa số Reader Châu Âu vẫn tham chiếu Marseille là chủ yếu. = nhỏ được sự tư vấn bởi Aleyster Crowley và minh họa bởi Frieda Harris. Bộ bài viết dựa theo hệ thống của Book of Thoth. Aleyster Crowley cũng là một trong những thành viên danh tiếng của Golden Dawn, tuy nhiên về sau chính Crowley lại bị khai trừ khỏi hội (tiểu sử và nguyên nhân mọi người có thể search google). Bộ bài Thoth Tarot là một trong những bộ bài đánh dấu cột mốc đầu tiên trong trường phái biểu tượng học trong Tarot. Đặc điểm dễ nhận thấy nhất đó là mặc dù có cái tên Thoth là tên của vị thần trí tuệ Ai Cập, nhưng bộ bài được vẽ tổng hợp bởi nhiều biểu tượng huyền bí khác nhau, từ các nền văn hóa Châu Âu, cho đến Châu Á, Bắc Âu, Ai cập.. v.v.. nhỏ Tác giả Etteilla là một nhà huyền học người Pháp thể kỷ 17, và cũng là một trong số các nhà huyền học hiếm hoi mà kiếm sống chính bằng Tarot. Etteilla cũng là một trong những người đầu tiên đề xuất một hệ thống dựa theo sự tương ứng giữa chiêm tinh, số học và bốn nguyên tố. Và ông cũng là người đầu tiên đưa ra một bộ Tarot đã được chỉnh sửa rất nhiều so với các bộ De Marseille trước đó cho phù hợp với hệ thống của riêng Etteila (1791), với xác nhận rằng bộ bài của ông được hệ thống bởi một nhà huyền học Ý. Tuy nhiên không ai tìm thêm được thông tin gì về điều này. Được vẽ bởi rất nhiều tác giả khác nhau, đa số bị ảnh hưởng bởi Raider Waite, một số ảnh hưởng bởi Thoth, đôi khi kết hợp thêm cả tâm lý học Carl Jung cùng nhiều trường phái khác, và một số chỉ đơn thuần là theo một kiểu chỉ của riêng tác giả đó… Nhìn chung phần nhiều các tác giả hiện đại lấy sự tổng hợp của nhiều hệ thống, hoặc cái riêng của họ và làm một bộ Tarot, tất nhiên nhờ công nghệ 3D và kỹ thuật số thì việc vẽ và tạo một bộ Tarot nhiều màu sắc bằng công nghệ là không khó. Vì thế, chúng ta cũng không thể loại trừ khả năng có một số bộ Tarot mà tác giả chỉ đơn thuần là một anh họa sĩ đồ họa có chút cảm hứng với huyền học, hoặc một số chỉ đơn thần là một tay chơi ngoại hạng và nhìn thấy món lời từ việc vẽ và sản xuất một bộ Tarot để bán. Một số bộ Tarot hiện đại được sinh ra mang tính sưu tầm và giải trí như mấy bộ bài 18+ hoặc một số bộ in hình các ngôi sao ca nhạc, in hình nhân vật của các bộ truyện tranh..v.v… Đặc điểm của dòng Tarot hiện đại là mang giá trị sưu tầm, hình ảnh đẹp. Tuy nhiên, ngay đến cả những người nghiên cứu Tarot lâu năm thỉnh thoảng cũng mua một vài bộ giải trí về sưu tầm vì sở thích. Bước đầu tiên của bói Tarot, là người được bói sẽ bốc một số lượng bài nhất định từ bộ bài. Vài kiến cho rằng làm vậy để "truyền năng lượng" từ người đó cho bộ bài. Người được bói cần phải tập trung vào câu hỏi hoặc vấn đề mà họ cần lời khuyên trong lúc rút các lá bài. Theo truyền thống thì còn có nhiều bước phức tạp hơn nữa. Khi các lá bài được rút xong, thầy bói sẽ xếp những lá bài đó theo thứ tự thành một khuôn mẫu gọi là spread. Mỗi vị trí trên spread đều có nghĩa nhất định, và hiện tại có rất nhiều cách để xếp spread, từ một lá bài đơn lẻ trong bộ đến cách xếp toàn bộ 78 lá bài. Việc sử dụng spread nào phụ thuộc vào người đọc bài và kiểu câu hỏi hay vấn đề của người được bói. Một số spread tập trung nhiều hơn đến một vài loại thông tin nhất định. Ví dụ, một spread có thể chuyên để bói về chuyện tình cảm, spread khác lại tập trung vào mối quan hệ với người khác. Một trong số những spread phổ biến nhất là Celtic Cross. Thực tế tồn tại rất nhiều spread thường dùng, và đặc biệt người đọc bài còn có thể tự tạo spread của riêng mình. Ví dụ trong spread Celtic Cross, bạn có thể thấy có một trật tự nhất định trong spread này, và mỗi lá bài mỗi vị trí đều thể hiện một nghĩa nào đó. Và mỗi vị trí lại có nhiều nghĩa khác nhau, điều này phụ thuộc vào người hỏi. Và còn nữa, nghĩa mỗi lá bài còn có thể được kết hợp với các lá bài khác, chúng ảnh hưởng lẫn nhau và tạo ra sự thay đổi trong nghĩa mỗi lá bài. Hiện nay có hai phương pháp bói Tarot khác nhau: bói qua câu hỏi và bói mở. Với cách bói qua câu hỏi question readings bạn phải có một câu hỏi cụ thể nào đó. Tarot sẽ không đưa ra câu trả lời chính xác; nhưng qua những lá bài Tarot, bạn có thể định hướng và tự đưa ra quyết định cho chính bản thân mình. Quá trình bói Tarot qua câu hỏi phải làm đúng trình tự, điều này rất quan trọng. Bạn phải: - Sử dụng những câu hỏi "mở": nếu câu hỏi của bạn là câu hỏi "đóng", thì bộ bài Tarot sẽ không giúp thêm được gì cho bạn cả. Ví dụ với câu hỏi sau: "Làm thế nào để mẹ chồng tôi đồng với việc vợ chồng tôi sẽ chuyển ra riêng" khác hẳn với việc hỏi "Làm thế nào để chung sống hoà bình với mẹ chồng". Hãy bắt đầu từ nguồn gốc của vấn đề (chung sống hoà bình) chứ không phải là từ những lựa chọn (chuyển ra riêng) của bạn. - Tìm mức độ cụ thể phù hợp: Câu hỏi của bạn cần phải đủ để định hướng, nhưng không được quá cụ thể. Thay vì việc tìm hiểu về một mặt nào đó cụ thể, bạn cần tìm cách nhìn rộng hơn, bao quát hơn về vấn đề. Ví dụ, thay vì hỏi ‘làm thế nào để cuộc sống gia đình bớt lộn xộn hơn", thì hãy hỏi rằng "làm thế nào để cân bằng thời gian biểu của con trẻ và thời gian biểu của người lớn". Rõ ràng câu hỏi sau tập trung vào vấn đề "thời gian biểu", và vậy là hợp lý. Nhưng đừng đặt câu hỏi theo kiểu "Làm thế nào để sắp xếp lịch chơi bóng rổ, bóng đá, cầu lông... mà vẫn có thời gian quan tâm tới gia đình" câu hỏi này thì lại quá cụ thể về "lịch chơi thể thao" rồi. Thông tin trong câu hỏi phải một mức độ phù hợp, không chung chung quá nhưng cũng đừng cụ thể quá. - Tập trung vào bản thân bạn: nếu là bói cho bạn, hãy đảm bảo rằng câu hỏi này tập trung vào bạn nhiều hơn là tập trung vào những đối tượng khác, ngay cả khi đó là chủ thể của vấn đề. Ví dụ, câu hỏi "tại sao con trai bạn lại hút thuốc lá" là tập trung vào con bạn, chứ không phải là bạn. Hãy hỏi là "bạn có vai trò gì, bạn có làm gì khiến con bạn hút thuốc lá hay không" sẽ là câu hỏi chuẩn. - Trung lập: hãy đặt câu hỏi một cách trung lập, đừng quá thiên về một mặt hay một hướng giải quyết nào đó. Như vậy lá bài Tarot sẽ giúp bạn có được định hướng tốt. Ví dụ, "Tại sao tôi lại phải làm việc nhà nhiều hơn vợ tôi" không phải là câu hỏi trung lập, thay vì đó, hãy hỏi "Làm thế nào để vợ chồng tôi có thể chia sẻ việc nhà với nhau" mới là tốt. - Khách quan: Đảm bảo rằng câu hỏi của bạn mang tính khách quan, mong chờ điều gì đó. Thay vì hỏi tại sao may mắn không đến như mong đợi, hãy hỏi rằng làm thế nào để may mắn đến với bạn. Phương pháp thứ 2, bói mở Open Readings hướng đến các mặt rộng hơn của cuộc sống chứ không gói gọn trong các câu hỏi như question readings. Thường thì những vấn đề này đều có mốc của nó, ví dụ như khi bạn lập gia đình, khi bạn tốt nghiệp đại học,... Bạn có thể hướng đến một mảng nào đó, ví dụ như sức khoẻ, hay sự nghiệp... và kết quả của lần bói này cũng sẽ tương ứng với chúng... Người bói bài tarot thường được gọi là tarot reader (trong khi người xem hay người có thắc mắc cần giải quyết được gọi là querent). Mặc dù tarot là một hình thức tiên tri, người bói bài không nhất thiết phải có một khả năng đặc biệt nào về tâm linh hay năng lượng. Để học được nghệ thuật bói bài Tarot, bạn có thể đọc sách, tham gia các khoá học và thậm chí có thể được cấp chứng chỉ. Các khoá học được dạy online hoặc offline bởi các giáo viên dạy Tarot hoặc các tổ chức Tarot. Có tất cả bảy mức độ chứng chỉ được cung cấp bởi Tarot Certification Board of America. Để được cấp các chứng chỉ này, bạn cần phải có kinh nghiệm bói Tarot cũng như vượt qua các bài kiểm tra tiêu chuẩn. Dưới đây là các loại chứng chỉ: Certified Apprentice Tarot Reader (CATR) Certified Tarot Reader (CTR) Certified Professional Tarot Reader (CPTR) Certified Tarot Consultant (CTC) Certified Tarot Master (CTM) Certified Tarot Instructor (CTI) Certified Tarot Grandmaster (CTGM) Ngoài ra còn có các chứng chỉ được cấp bởi American Board for Tarot Certification bao gồm cấp độ: Tarot Associate (TA) Tarot Professional (TP) Tarot Masters (TM) Tarot Education (TE) Tarot Sage (TS) Một vài quốc gia khác có hệ thống chứng chỉ Tarot riêng của mình. Giordano Tarot, Lo Scarabeo, Turin, 2002. Giordano Berti, The Sola Busca Tarot, with M. Chiesa and S. Di Vincenzo (Turin 1995; English edition: Stamford 1998). Paul Huson Mystical Origins of the Tarot: From Ancient Roots to Modern Usage, at Google Book Search Nichols, Sallie, Jung and Tarot: an Archetypal Journey, York Beach: Weiser, 1980 Robert M. Place The Tarot: History, Symbolism, and Divination, at Google Book Search Douglas Alfred The Tarot Penguin Books 1972 Robert Mazlo, A la recherche du Tarot perdu. Les tablettes d'Hermès, Ramuel Ed., 1998, ISBN 2910401863 Frank Shanti, EXSTATICA Self-Help Essentials: Unleash the Transformative Sparkles of the Renaissance Mantegna Tarot'', EXSTATICA Ed., 2021, ISBN 978-0578842783 Trang Tarot, Sơ Lược Hệ Thống Lịch Sử Tarot | Tarot | Bói toán, Bộ bài Tây |
Kiêu Kỵ là một xã nằm phía nam huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội, Việt Nam. Xã Kiêu Kỵ có diện tích 5,88 km², dân số năm 2022 là 13.340 người, mật độ dân số đạt người/km². Xã Kiêu Kỵ nằm phía Nam huyện gia lâm có vị trí ranh giới: Phía Bắc giáp với xã Dương Xá Phía Tây giáp với xã Đa Tốn Phía Đông giáp xã Tân Quang, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên Phía Nam giáp với xã Cửu Cao, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên. Xã Kiêu Kỵ gồm các thôn: Trung Dương, Kiêu Kỵ, Gia Cốc, Xuân Thụy, Chu Xá, Hoàng Xá và Báo Đáp. Khu dân cư Z176, Liên Cơ. Xã Kiêu Kỵ nằm trên trục đường tỉnh lộ 179, đường cao tốc Hà Nội Hải Phòng chạy qua xã, đường liên tỉnh từ Bát Tràng đi thị trấn Như Quỳnh chạy qua địa bàn xã, đường trong khu đô thị Vinhomes Ocean Park... Hệ thống xe buýt: tuyến 47B, 69, E01, E02, E03. Cụm di tích đình, chùa, nghè Kiêu Kỵ đã được Bộ văn hóa thông tin xếp hạng cấp quốc gia năm 1996. Nghề dát quỳ vàng bạc là nghề truyền thống của thôn Kiêu Kỵ. Tổ nghề là Nguyễn Quý Trị người Hải Dương truyền dạy. Nghề dát quỳ vàng bạc Kiêu Kỵ đã được tôn vinh là di sản văn hóa phi vật thể cấp quốc gia năm 2021. Nguyễn Chế Nghĩa (1265 1341) người Cối Xuyên, nay thuộc tỉnh Hải Dương được phân cai quản vùng đất này đã bị ám sát ngày 27 tháng năm Tân Tỵ tại quán Ninh Kiều, nay thuộc xã Kiêu Kỵ do phản đối Trần Dụ Tông lên ngôi. Hàng năm vào ngày 27 28 tháng Tám âm lịch dân làng Kiêu Kỵ vẫn thường mở hội để tướng nhớ công lao của Nguyễn Chế Nghĩa. Xã có nghề dát quỳ vàng bạc làng nghề truyền thống thôn Kiêu Kỵ. Nghề nấu keo da trâu làm mực nho nay đã thất truyền. Nghề may và may da có nhiều thôn như Gia Cốc, Xuân Thụy, Trung Dương... nhưng tập trung nhiều nhất là thôn Kiêu Kỵ. Khu đô thị Vinhomes Ocean Park. | Kiêu Kỵ | |
là một xã, thuộc tỉnh Landes trong vùng Xã này có diện tích 132,13 kilômét vuông, dân số năm 2006 là 939 người. Xã này nằm khu vực có độ cao trung bình 39 mét trên mực nước biển. trên trang mạng của Viện địa lý quốc gia | null | |
Anton Bubnow (; sinh 23 tháng 11 năm 1988) là một cầu thủ bóng đá Belarus. Hiện tại, anh thi đấu cho Isloch Minsk Raion. Sinh ra Slonim, Bubnow bắt đầu chơi bóng hệ thống trẻ FC MTZ-RIPO. Anh gia nhập đội chính (bây giờ là FC Partizan Minsk) và ra mắt tại Giải bóng đá ngoại hạng Belarus năm 2007. Bubnow từng đá cho Belarus tại Giải bóng đá U-17 vô địch châu Âu 2005. MTZ-RIPO Minsk *Vô địch Cúp bóng đá Belarus: 2007–08 | Anton Bubnow | Sinh năm 1988, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Belarus, Cầu thủ bóng đá FC Partizan Minsk, Cầu thủ bóng đá FC Gorodeya, Cầu thủ bóng đá FC Isloch Minsk Raion |
Sông Tambo tại Puerto Prad Sông Tambo (tiếng Tây Ban Nha: Río Tambo) nằm tại Peru và chảy trên sườn đông của dãy Andes. Tambo là một phần của đầu nguồn sông Amazon, khởi nguồn từ sông Apúrimac tại Nevado Mismi và sau đó trở thành sông Ene trước khi tạo thành sông Tambo. Sông Tambo được tạo thành tại nơi hợp lưu giữa sông Perené và sông Ene, tại thị trấn Puerto Prado, 400 trên mực nước biển. Sông chảy 70 km theo hướng đông phía đông nam của Gran Pajonal và sau đó chuyển hướng bắc, tổng chiều dài của sông là 159 km. Tại sông Tambo hợp dòng với sông Urubamba, tại thị trấn Atalaya, 287 trên mực nước biển, và sau đó được gọi là sông Ucayali. Tambo Tambo | Sông Tambo | |
Mueang Satun () là huyện thủ phủ (Amphoe Mueang) của tỉnh Satun, miền nam Thái Lan. Các huyện giáp ranh (từ phía tây bắc theo chiều kim đồng hồ) là: Tha Phae, Khuan Don của tỉnh Satun, bang Perlis của Malaysia và biển Andaman. Vườn quốc gia đại dương Tarutao gồm các quần đảo Tarutao và Adang nằm huyện này. Một phần của khu vực biên giới của Thái Lan giáp Malaysia nằm Vườn quốc gia Thale Ban. Huyện này được chia thành 12 phó huyện (tambon), các đơn vị này lại được chia ra thành 67 làng (muban). The town (thesaban mueang) Satun nằm trên toàn bộ tambon Phiman. Có thị trấn (thesaban tambon) Chalung và Che Bi Lang, both nằm trên một phần của tambon cùng tên, và Khlong Khut nằm trên toàn bộ tambon Khlong Khut. Có 10 Tổ chức hành chính tambon. STT. Tên Tên Thái Số làng Dân số 1. Phiman 21,498 2. Khlong Khut คลองขุด 16.790 3. Khuan Khan ควนขัน 6.702 4. Ban Khuan บ้านควน 9.684 5. Chalung ฉลุง 14 11.989 6. Ko Sarai เกาะสาหร่าย 4.848 7. Tanyong Po ตันหยงโป 2.829 8. Che Bilang เจ๊ะบิลัง 9.032 9. Tam Malang ตำมะลัง 4.850 10. Puyu ปูยู 2.869 11. Khuan Pho ควนโพธิ์ 5.099 12. Ketri เกตรี 5.367 amphoe.com | Mueang Satun | Huyện của Satun |
Thôi Trữ (chữ Hán: 崔杼; ?-546 TCN), tức Thôi Vũ tử (崔武子), là tướng quốc nước Tề thời Xuân Thu trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã thao túng chính sự nước Tề một thời gian và cuối cùng bị diệt cả gia tộc. Theo Sử ký, Thôi Trữ làm đại phu từ thời Tề Huệ công (608 TCN-599 TCN) và được lòng vua Tề. Ông vốn là dòng dõi quý tộc nước Tề được phong đất Thôi nên lấy Thôi làm họ. Sau khi Tề Huệ công mất, đại phu Cao Quốc dòng họ có thế lực lâu đời nước Tề sợ Thôi Trữ chèn ép mình nên tìm cách đuổi Thôi Trữ. Ông phải bỏ chạy sang nước Vệ. Đến thời Tề Linh công, mâu thuẫn lắng xuống, Thôi Trữ được trở về nước Tề và dùng làm đại phu như trước. Trong nước Tề xảy ra việc tranh chấp thừa kế giữa công tử lớn Khương Quang và công tử nhỏ Khương Nha. Tề Linh công yêu con nhỏ bèn điều Khương Quang đi trấn thủ nơi xa để lập Nha làm thế tử. Năm 554 TCN, Tề Linh công ốm nặng. Thôi Trữ ủng hộ công tử Khương Quang bèn đón Quang về lập làm thế tử, Linh công nằm trên giường bệnh không thể ngăn cản. Khương Quang giết chết mẹ kế Nhung Cơ. Đến tháng năm 554 TCN, Tề Linh công qua đời. Khương Quang giết chết Khương Nha và lên nối ngôi, tức là Tề Trang công. Ba tháng sau, người giúp Nha là Cao Hậu cũng bị Thôi Trữ giết chết. Thôi Trữ có người vợ lẽ là Đường Cơ vốn là em gái Đông Quách Yển, vợ cũ của Đường công. Sau khi Đường công mất, dù có người can ngăn nhưng Thôi Trữ thấy Đường Cơ đẹp nên lấy làm vợ. Tề Trang công thấy Đường đẹp nên thường lén lút đến tư thông. Thôi Trữ biết chuyện rất tức giận, nảy định giết Trang công. Năm 548 TCN, nhân dịp Trang công mở tiệc đãi vua nước Cử, Thôi Trữ giả ốm không dự. Trang công nghe tin, bèn nhân danh đến thăm Thôi Trữ để gặp Đường Cơ. Khi Trang công vào nhà gặp Đường Cơ, Thôi Trữ sai thủ hạ vây bắt. Tề Trang công vội bỏ chạy, trèo qua tường trốn nhưng không thoát và bị giết. Thôi Trữ an táng Trang công tại xóm Sĩ Tôn. Tả truyện mô tả đám tang Trang công được Thôi Trữ cử hành không trang trọng như nghi lễ cho vua chư hầu: không dẹp người đi đường, số quạt ít hơn và số cỗ xe kéo cũng ít hơn quy định nghi lễ. Thôi Trữ lập người em khác mẹ của Trang công là Khương Chử Cữu lên làm vua, tức là Tề Cảnh công. Vụ án Tề Trang công bị giết được quan Thái sử nước Tề chép: "Thôi Trữ giết vua là Quang". Thôi Trữ bắt quan thái sử chép khác đi, thái sử không chịu nên bị Thôi Trữ giết chết. Người em quan thái sử chép lại như anh mình vào quốc sử nước Tề. Thôi Trữ nổi giận lại giết người đó. Đến người em thứ chép nguyên cũng bị giết. Tới khi người em thứ tư vẫn chép như vậy, không chịu thay đổi theo lệnh của Thôi Trữ. Ông đành thôi không giết người chép sử nữa. Thôi Trữ lập vua mới, được phong làm tướng quốc, mời Khánh Phong cùng dự triều chính. Hai người chuyên quyền, muốn chèn ép các quan nước Tề, bắt họ thề theo mình. Quan đại phu Án Anh không chịu theo, chỉ thề trung thành với nước Tề và vua Tề. Khánh Phong định giết Án Anh nhưng Thôi Trữ cản lại vì Án Anh rất có uy tín với người trong nước. Khánh Phong mưu trừ Thôi Trữ để một mình chuyên quyền. Thôi Trữ có hai con lớn là Thôi Thành và Thôi Cương là con người vợ cả. Mẹ của Thành và Cương qua đời, Thôi Trữ lấy Đường cơ, tức là Đông Quách Thị và sinh ra Thôi Minh. Thôi Trữ yêu Thôi Minh, định lập Minh kế vị. Hai người con lớn là Thôi Thành, Thôi Cương bất bình. Theo lời Đông Quách thị, em bà là Đông Quách Yển và con chồng cũ là Đường Vô Cữu đến làm gia nhân cho Thôi Trữ. Nhân lúc Thôi Thành có tội, Đông Quách Yển và Vô Cữu trị tội, phế truất quyền thừa kế và lập Thôi Minh làm người thừa kế. Thôi Thành và Thôi Cương thấy tình hình bất lợi bèn xin Thôi Trữ được rút đi ấp Thôi. Thôi Trữ bằng lòng, nhưng Đông Quách Yển và Vô Cữu không nghe, cho rằng ấp Thôi là ấp tổ tông họ Thôi, chỉ có người thừa kế là Thôi Minh được ở. Vì vậy Thôi Trữ nghe theo lời Yển và Vô Cữu. Thôi Thành và Thôi Cương sợ hãi chạy sang nhà Khánh Phong cầu cứu. Khánh Phong theo lời lực sĩ Lư Bồ Miết, nhân nhà họ Thôi có loạn bèn cấp quân cho Thành và Cương trở về đánh giết Vô Cữu và Yển. Cả nhà họ Thôi chạy tán loạn, Thôi Trữ cùng một người vợ lẽ họ Thôi chạy thoát ra ngoài. Thôi Trữ không biết vụ Thôi Thành và Thôi Cương do Khánh Phong tiếp tay, lại sai một viên hoạn quan đánh xe đến gặp Khánh Phong cầu cứu, trị tội hai người con lớn. Khánh Phong giả cách nhiệt tình giúp đỡ, lại sai lực sĩ Lưu Bồ Miết mang quân sang nhà họ Thôi diệt trừ Thành và Cương. Lư Bồ Miết theo lệnh Khánh Phong, đi giết Thôi Thành và Thôi Cương, nhân thể diệt toàn bộ gia quyến họ Thôi. Hai vợ chồng Thôi Trữ trở về nhà thấy nhà cửa tan hoang, cả họ bị giết không còn ai, mới nhận ra mưu đồ của Khánh Phong. Ông cùng vợ tự sát. Đến đêm, con nhỏ Thôi Minh đào một hố giữa khu lăng tẩm tổ tiên, vùi xác ông xuống đó rồi bỏ trốn sang nước Lỗ. Thôi Trữ làm quan nước Tề hơn 50 năm qua đời vua Tề. Sau khi ông qua đời, quyền hành nước Tề lọt vào tay Khánh Phong. Thôi Trữ xuất hiện trong tiểu thuyết Đông Chu liệt quốc của Phùng Mộng Long từ hồi 65 tới hồi 66. Tác giả tập trung mô tả Thôi Trữ trong vụ giết Tề Trang công và mắc mưu Khánh Phong. Tề (nước) Tề Trang công Khánh Phong Tề Linh công Sử ký Tư Mã Thiên, thiên: **Tề Thái công thế gia Khổng Tử (2002), Xuân Thu tam truyện, tập 4, Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh Chu Thiệu Hầu (2003), Tổng tập lược truyện các Tể tướng trong lịch sử Trung Quốc, tập 1, Nhà xuất bản Văn hóa thông tin | Thôi Trữ | Nhân vật chính trị Xuân Thu, Người tự sát, Mất năm 546 TCN |
Into the Wild là một bộ phim của điện ảnh Mỹ năm 2007 được đạo diễn bởi Sean Penn. Nó được chuyển thể từ cuốn sách cùng tên được viết vào năm 1996 bởi Jon Krakauer kể một câu chuyện có thật về chuyến đi xuyên Bắc Mỹ của Christopher McCandless cùng với cuộc sống của anh vùng hoang dã Alaska vào đầu những năm 1990. Bộ phim có sự góp mặt của Emile Hirsch trong vai McCandless, Marcia Gay Harden và William Hurt trong vai cha mẹ của anh, ngoài ra còn có Catherine Keener, Vince Vaughn, Kristen Stewart, và Hal Holbrook. Bộ phim lần đầu được công chiếu tại liên hoan phim Rome 2007 và sau đó được chiếu Fairbanks, Alaska ngày 21 tháng năm 2007. Bộ phim sau đó được đề cử hai giải Quả Cầu vàng và chiến thắng trong hạng mục bài hát gốc hay nhất cho bài "Guaranteed" của Eddie Vedder. Bộ phim cũng được đề cử hai giải Oscar, trong đó có Hal Holbrook cho hạng mục Nam diễn viên phụ xuất sắc nhất. Bộ phim dựa trên một câu chuyện có thật về hành trình xuyên quốc gia của McCandless, với hai mốc thời gian kể chuyện đan xen nhau: một là khi anh đang bị mắc kẹt tại một vùng hẻo lánh Alaska, hai là chuyến hành trình hai năm của anh qua nhiều vùng đất trước khi đến Alaska. Các tóm tắt cốt truyện đây được viết theo trình tự thời gian. Trong tháng năm 1992, một chàng thanh niên trẻ có tên Christopher McCandless (Emile Hirsch) đã đặt chân đến một vùng đất hẻo lánh xa xôi tại phía Bắc của Công viên Bảo tồn Quốc gia Denali Alaska. Anh đã cắm trại trong một chiếc xe buýt bị bỏ lại đó, thứ mà anh gọi là Chiếc xe buýt Kì diệu. Khoảng thời gian đầu của McCandless đó thật là tuyệt vời: đó là sự cô lập với thế giới bên ngoài, vẻ đẹp của thiên nhiên hoang dã và một cuộc sống thật an nhàn. Buổi sáng anh chuẩn bị một khẩu súng trường cỡ nòng 22 để săn bắt thú. Tối đến anh ngồi đọc sách và viết vào cuốn nhật ký của mình về suy nghĩ của mình trong trong ngày tháng sống đây và sự chuẩn bị cho một cuộc sống hòa mình với thiên nhiên. Vào khoảng năm trước tháng năm 1990, McCandless tốt nghiệp đại học với tấm bằng danh dự của trường Đại học Emory Atalanta, Georgia. Ngay sau hôm đó, McCandless đã quyết định từ bỏ cuộc sống mà anh cho là tầm thường của mình bằng cách tiêu xài hết toàn bộ số tiền của mình trong thẻ tín dụng. Anh đã tặng toàn bộ số tiền tiết kiệm 24,000 USD tới Oxfam và nảy ra tưởng lái xe đường dài xuyên quốc gia, với chiếc xe thân thuộc Datsun B210 để trải nghiệm cuộc sống nơi thiên nhiên hoang dã. Tuy nhiên McCandless đã không tiết lộ với cha mẹ là Walt (William Hurt) và Billie McCandless (Marcia Gay Harden), hay thậm chí cả người em gái thân thiết Carine (Jena Malone) về kế hoạch táo bạo của mình và ngắt đường liên lạc với họ. Đến khi gia đình biết anh đã rời đi thì họ ngày càng trở nên lo lắng và tuyệt vọng tột cùng. Tại hồ Mead, Arizona, xe của McCandless bị một cơn lũ quét tràn qua phá hỏng khiến anh phải bỏ lại nó và buộc phải đi bộ tiếp tục cuộc hành trình. Sau khi đốt hết toàn bộ số tiền trong người, anh đã lấy một cái tên mới là "Alexander Supertramp". phía Bắc California, McCandless gặp hai người hippie là Jan Burres (Catherine Keener) và Rainey (Brian H.Dieker). Rainey đã kể cho anh về mối quan hệ thất bại của mình với Jan, và sau đó McCandless đã giúp anh phấn chấn lên. Tháng Mc Candless đến Carthage, Nam Dakota và làm việc cho một công ty kinh doanh thuộc sở hữu của Wayne Westerberg (Vince Vaughn), nhưng anh đã buộc phải ra đi sau khi Westerberg bị bắt vì vi phạm bản quyền vệ tinh. | ''Into the Wild | Phim lấy bối cảnh năm 1990, Phim lấy bối cảnh năm 1992, Phim lấy bối cảnh California, Phim quay tại California, Phim quay tại México, Phim độc lập của Mỹ, Phim chính kịch thập niên 2000, Phim Mỹ, Phim lấy bối cảnh năm 1991, Phim đường phố, Phim tiểu sử của Mỹ, Phim chính kịch Mỹ, Phim chính kịch dựa trên sự kiện có thật |
Tập tin:TJS 200 2010 px|Chân dung Nusratullo Maksum trên tờ 200 somoni Tajikistan Nusratullo Maksum (; tháng năm 1881 tháng 11 năm 1937) còn được biết đến với tên Nusratullo Lutfullayev là một chính trị gia Xô viết người Tajikistan. Nusratullo Maksum là thủ tướng Tajikistan từ năm 1925 đến năm 1926. Từ tháng năm 1931 đến tháng năm 1934, ông phục vụ trong Ban Chấp hành Trung ương đảng Cộng sản Liên Xô với tư cách là đại diện của Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tajikistan. Ông đã bị xử bắn trong thời kỳ đại thanh trừng. Maksum từng được trao huân chương cờ đỏ cũng như chân dung ông được in lên tờ 200 somoni sau khi Tajikistan độc lập. | Nusratullo Maksum | |
Giới Hưu () là một thành phố cấp huyện của địa cấp thị Tấn Trung, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc. Thành phố được nâng cấp từ huyện vào năm 1992. Thành phố có trữ lượng tan dồi dào và là một nguồn cung cấp than cố chính của Trung Quốc. Bắc Quan (北关街道) Tây Quan (西关街道) Đông Nam (东南街道) Tây Nam (西南街道) Bắc Đàm (北坛街道) Nghĩa An (义安镇) Trường Lan (张兰镇) Liên Phúc (连福镇) Hồng Sơn (洪山镇) Long Cương (龙凤镇) Miên Sơn (绵山镇) Nghĩa Đường (义棠镇) Thành Quan (城关乡) Chu Cổ (宋古乡) Tam Giai (三佳乡) Trang thông tin chính thức | Giới Hưu | Đơn vị cấp huyện Sơn Tây |
là một khu tự quản thuộc tỉnh Valle del Cauca, Colombia. Thủ phủ của khu tự quản Bugalagrande đóng tại Bugalagrande Khu tự quản Bugalagrande có diện tích 374 ki lô mét vuông. Đến thời điểm ngày 28 tháng năm 2005, khu tự quản Bugalagrande có dân số 20838 người. | null | Khu dân cư tỉnh Valle del Cauca, Khu tự quản của tỉnh Valle del Cauca |
Jandaia do Sul là một đô thị thuộc bang Paraná, Brasil. Đô thị này có diện tích 187,6 km², dân số năm 2007 là 20131 người, mật độ 109,2 người/km². Cơ sở dữ liệu các đô thị của Brasil Inwonertallen 2009 | Jandaia do Sul | Đô thị bang Paraná |
Greenbush là một thành phố thuộc quận Roseau, tiểu bang Minnesota, Hoa Kỳ. Năm 2010, dân số của thành phố này là 719 người. *Dân số năm 2000: 784 người. *Dân số năm 2010: 719 người. American Finder | Greenbush | Quận Roseau, Minnesota |
Magnus Carlsen, vô địch hai năm liên tiếp 2011 và 2012 Giải Cờ vua Tưởng niệm Tal là một giải cờ vua thường niên được tổ chức Moskva từ năm 2006, để tưởng niệm cựu vô địch cờ vua thế giới Mikhail Tal, người đã qua đời năm 1992. Giải thường được tổ chức vào nửa đầu tháng 11, với sự tham gia của các kì thủ hàng đầu thế giới. Ba giải đấu đầu tiên (2006 2008) thuộc nhóm 20. Giải 2009, 2010 thuộc nhóm 21. Đến giải 2011 là giải đầu tiên trong lịch sử quy tụ 10 kỳ thủ thuộc nhóm 22. Giải năm 2012 cũng thuộc nhóm 22. Năm Elo trung bình Nhà vô địch Quốc gia Điểm 2006 2727 Levon Aronian Peter Leko Ruslan Ponomariov 5½ 2007 Vladimir Kramnik 6½ 2008 2738 Vassily Ivanchuk 2009 Vladimir Kramnik 2010 Levon AronianSergey Karjakin 5½ 2011 Magnus Carlsen 5½ 2012 Magnus Carlsen 5½ Giải năm 2009 tổ chức từ đến 14 tháng 11, với sự tham dự của 10 trong top 13 tay cờ hàng đầu thế giới là Viswanathan Anand (đương kim vô địch thế giới), Levon Aronian, Vladimir Kramnik, Magnus Carlsen, Peter Leko, Vassily Ivanchuk, Boris Gelfand, Alexander Morozevich, Ruslan Ponomariov và Peter Svidler. Elo trung bình lên tới 2764, là giải đấu mạnh nhất năm 2009 (theo một cách đánh giá thì đây là giải cờ mạnh nhất trong thời gian 10 năm từ 2000 đến 2009 và xếp thứ trong lịch sử). Vladimir Kramnik vô địch với thắng hoà, hơn người về nhì Ivanchuk và Carlsen điểm Giải năm 2012 tổ chức từ đến 18 tháng 6. Giải quy tụ 10 kỳ thủ, với kỳ thủ nằm trong top 11 kỳ thủ hàng đầu theo bảng xếp hạng FIDE (Carlsen, Aronian, Kramnik, Radjabov, Nakamura, Caruana, Morozevich, Grischuk) cùng Tomashevsky và một kỳ thủ qua bình chọn của khán giả là McShane Đây là năm đầu tiên của giải có một kỳ thủ được tham dự qua bình chọn của khán giả. Ban đầu, Lê Quang Liêm có tên và dẫn đầu danh sách bầu chọn nhưng bị loại vì ban tổ chức nghi ngờ khán giả Việt Nam bỏ phiếu không trung thực Do thi đấu vòng tròn một lượt ván nên có kỳ thủ cầm trắng nhiều hơn ván và kỳ thủ còn lại cầm đen nhiều hơn. Thay vì bốc thăm như những giải khác, giải năm 2012 tổ chức một vòng đấu cờ chớp vào ngày đầu tiên. kỳ thủ xếp đầu sẽ được quyền cầm trắng nhiều hơn Sau vòng đấu, Morozevich dẫn đầu với điểm Tuy nhiên anh bất ngờ thua trận liên tiếp. Đến trước vòng cuối, Caruana có cơ hội vô địch khi hơn các tay cờ còn lại nửa điểm. Anh chỉ cần hoà ván cuối là vô địch vì có số ván cầm đen nhiều hơn hai kỳ thủ xếp sau (tiêu chí đầu tiên để xếp hạng khi bằng điểm) Tuy nhiên vòng cuối Caruana thất bại, trong khi đó Carlsen thắng. Tay cờ số thế giới Carlsen là đấu thủ duy nhất bất bại (2 thắng hoà) giành 5,5 điểm, bảo vệ được ngôi vô địch = Tưởng niệm Tal 2012 Kỳ thủ Rating 10 Tổng 2835 5½ 2770 2784 2801 4½ 2769 4½ 2825 4½ 2761 4½ 2706 2775 10 2738 3½ Aronian, đồng vô địch năm 2006, 2010 File:Peter Leko 06 08 2006.jpg|Peter Leko, đồng vô địch năm 2006 File:Ponomariov Ponomariov, đồng vô địch năm 2006 File:Vladimir Kramnik Kramnik, vô địch năm 2007, 2009 Ivanchuk, vô địch năm 2008 Karjakin, đồng vô địch năm 2010 Trang chủ giải đấu Tưởng niệm Tal | Giải Cờ vua Tưởng niệm Tal | |
Araceli Edith González (; sinh ngày 19 tháng năm 1967) là một nữ diễn viên, người mẫu thời trang và người dẫn chương trình truyền hình người Argentina. González được sinh ra Buenos Aires, Argentina. Cô bắt đầu biểu diễn nghệ thuật từ khi còn nhỏ sau khi chiến thắng một giải thi khiêu vũ tại nhà hát "el Globo Rojo" khu vực Buenos Aires. Khi chỉ mới chín tuổi, cô đã được Cơ quan Cohen mời tham gia sản xuất quảng cáo thương mại. Khi cô đến tuổi thành niên, sự nghiệp của cô bắt đầu tham gia vào ngành công nghiệp thời trang, trở thành gương mặt đại diện cho nhiều sản phẩm thời trang và trình diễn trên sàn catwalk tại nhiều chương trình thời trang Argentina và Châu Âu. Ban đầu, khuôn mặt của cô được biết đến Buenos Aires trong một chiến dịch tóc khổng lồ của Llongueras, hiển thị hình ảnh mái tóc đen thẳng của cô trái ngược với mái tóc đỏ xoăn của nam người mẫu Vito. Sau đó, ngôi sao người mẫu của Araceli đã nổi bật với các bài báo ảnh toàn thân của cô cho chiến dịch Caro Coure ". Hình tượng của González được liên kết với các nhãn hiệu thương mại khác nhau trên khắp thế giới vào cuối những năm 1980 và 1990. Sau khi làm việc như một nữ diễn viên châu Âu, và sau đó trở về Argentina, vào năm 2006-2007, cô đóng vai Gabriela Solís trong Amas de Casa Desesperadas. Cô cũng tham gia vào nhiều bộ phim và sản phẩm sân khấu. González đã kết hôn năm 20 tuổi với nam diễn viên Rubén Torrente năm 1988 và sinh đứa con đầu lòng, một cô con gái tên Florencia Torrente, vào đầu năm đó; Cuộc hôn nhân của cô kéo dài đến năm 1991. Cô cũng có một cậu con trai Tomás Kirzner, từ cuộc hôn nhân của cô với Adrián Suar, người cô kết hôn năm 1996. Họ ly dị năm 2002. Cô đã kết hôn với người chồng hiện tại Fabián Mazzei, kể từ năm 2008. Araceli González trong quảng cáo Citroën C4 của Argentina Trang web không chính thức | Araceli Edith González | Nữ diễn viên truyền hình Argentina, Nữ người mẫu Argentina, Nữ diễn viên điện ảnh Argentina, Nhân vật còn sống, Sinh năm 1967 |
là chi thực vật có hoa trong họ Acanthaceae. *Mackaya bella *Mackaya indica *Mackaya atroviridis: Có lẽ là đồng nghĩa của Asystasiella atroviridis. *Mackaya macrocarpa: Có lẽ là đồng nghĩa của Asystasia macrocarpa. *Mackaya neesiana: Ruellia neesiana? *Mackaya populifolia: Có lẽ là đồng nghĩa của Erythropalum scandens. Mackaya tapingensis Eranthemum tapingense. Tập tin:Mackaya bella.JPG | null | Họ rô |
Vùng cấm có thể hiểu là: *Vùng cấm (quân sự) là khu vực thuộc quản lý của quân đội. Người và phương tiện không phận sự hoặc dân thường không được phép lai lãng những khu vực này. *Vùng cấm (chất bán dẫn) (Forbidden band) là vùng năng lượng trong chất bán dẫn nằm giữa vùng hóa trị và vùng dẫn, không có mức năng lượng nào do đó điện tử không thể tồn tại trên vùng cấm. *Khu bảo tồn (Protected areas) là khu vực đặc biệt được dành để bảo vệ và duy trì tính đa dạng sinh học, các nguồn tài nguyên thiên nhiên hoặc các giá trị văn hoá, lịch sử. | Vùng cấm | |
Ôn Hy Vương (chữ Hán: 溫僖王) hoặc Ôn Hi Vương (chữ Hán: 溫禧王) là thụy hiệu của một số vị quân chủ. Minh triều Dĩnh Xuyên Ôn Hy Vương Minh triều An Khâu Ôn Hy Vương Minh triều Vĩnh Phúc Ôn Hi Vương Minh triều Phong Lâm Ôn Hy Vương Minh triều Tích Dương Ôn Hy Vương Minh triều Vệ Huy Ôn Hy Vương Minh triều Phương Thành Ôn Hy Vương Ôn Vương Hy Vương An Hy Vương Trang Hy Vương Cung Hy Vương Khang Hy Vương Hoài Hy Vương Điệu Hy Vương Chiêu Hy Vương Vinh Hy Vương Đoan Hy Vương Hòa Hy Vương Thuận Hy Vương Hi Thuận Vương Tĩnh Hy Vương | Ôn Hy Vương | |
Samantha Paxinos (sinh ngày 25 tháng năm 1988) là một vận động viên bơi lội Botswana, chuyên về các sự kiện tự do chạy nước rút. Cô trở thành một trong những người bơi Botswana đầu tiên, cùng với John Kamyuka, thi đấu tại Thế vận hội Mùa hè 2008, và là người phụ nữ đầu tiên mang cờ quốc gia trong lễ khai mạc. Tại các trò chơi, cô đã bơi trong vòng ba nóng bỏng, nhưng đã tụt lại phía sau Olivia Aya Nakitanda của Uganda hơn nửa giây, không thể tiến vào bán kết. Paxinos được dạy kèm môn bơi dưới Darrell Morton từ năm tuổi, theo học trường Bơi lội của mình. Vào thời điểm đó, bơi lội trong nước chưa phát triển. Vào cuối những năm 1990, Morton đã gặp Hội đồng Thể thao Quốc gia Botswana để thành lập Liên đoàn bơi lội tại Botswana. Hiệp hội thể thao bơi Botswana được thành lập và Trường dạy bơi Darrell Morton được thành lập vào năm 1999. Trường đã phát triển lên đến hơn 900 người bơi. Cô được huấn luyện bởi Allison La Grange. Paxinos đã tham dự Đại hội Thể thao toàn châu Phi năm 2007 tại Algeria và tham dự giải vô địch Sub-Sahara Malawi và Giải vô địch thế giới Manchester năm 2008 Paxinos nhận được lời mời toàn cầu từ FINA để thi đấu với tư cách là một nữ vận động viên bơi lội đơn độc cho đội Botswana nội dung 50 tự do tại Thế vận hội Mùa hè 2008 Bắc Kinh. Cô chỉ là một trong hai nữ vận động viên Botswana để thi đấu tại các trò chơi, người còn lại là người vượt rào Amantle Montsho. Vào thời điểm Bộ trưởng Thanh niên, Thể thao và Văn hóa, Gladys Kokorwe, bày tỏ lo ngại về việc thiếu sự tham gia của phụ nữ từ đất nước. Paxinos được trích dẫn khi nói: "Đã có lúc tôi nghĩ rằng tôi sẽ không đến Thế vận hội, nhưng tôi đã rất phấn khích khi được phục hồi đội. Nhưng ngay bây giờ, tôi lo lắng vì không dễ để thi đấu tại Thế vận hội. Nhưng đồng thời, tôi rất vinh dự được ra khỏi đó để đại diện cho đất nước của tôi. Bơi như một người nhanh nhất trong ba nhiệt, Paxinos thiêu mình lên đỉnh của lĩnh vực, nhưng tụt lại phía sau người chiến thắng Olivia Aya Nakitanda của Uganda hơn nửa giây với vị trí thứ hai vào 29.91. Paxinos đã thất bại trong trận bán kết, khi cô xếp thứ bảy mươi trong tổng số chín mươi hai người bơi trong các màn dạo đầu. Hồ sơ Thế vận hội NBC | Samantha Paxinos | Nhân vật còn sống, Sinh năm 1988 |
Malcolm McDowell (tên khai sinh: Malcolm John Taylor, sinh ngày 13 tháng năm 1943) là một diễn viên người Anh, nổi tiếng với các vai diễn náo nhiệt và đôi khi là vai phản diện, với sự nghiệp kéo dài hơn bốn thập kỷ. Ông được đào tạo như một diễn viên tại Học viện Âm nhạc và Nghệ thuật kịch London. McDowell được biết đến với những bộ phim gây tranh cãi If...., Lucky Man!, Caligula and Clockwork Orange, bộ phim ông được đề cử cho giải Quả cầu vàng cho vai diễn Alex DeLarge. Ông đã đóng các vai khác nhau trong các bộ phim và phim truyền hình thể loại khác nhau, bao gồm cả The Employer, Tank Girl, Franklin and Bash, Time After Time, Star Trek Generations, các bộ phim truyền hình Our Friends in the North, Entourage, Heroes, Metalocalypse. Ông đã lồng tiếng cho một số vai hoạt hình như Arkady Duvall trong Batman the Animated Series và như Metallo trong Superman The Animated Series và bộ phim hoạt hình Bolt. Ông đóng Tiến sĩ Sam Loomis trong bộ phim làm lại năm 2007 của Halloween. Ông xuất hiện trong video âm nhạc cho bài hát Slipknot 2009 "Snuff". Ông đọc bình luận cho bộ phim tài liệu The Compleat Beatles năm 1982. Ông đã nhận được một ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng Hollywood vào năm 2012. | Malcolm McDowell | Sinh năm 1943, Nhân vật còn sống, Nam diễn viên điện ảnh Anh, Nam diễn viên sân khấu Anh, Nam diễn viên truyền hình Anh, Nam diễn viên Anh thế kỷ 20, Nam diễn viên Anh thế kỷ 21 |
pugnax' là một loài ếch trong họ Nó được tìm thấy Colombia và Ecuador. Môi trường sống tự nhiên của nó là các khu rừng vùng núi ẩm nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới và sông. Loài này đang bị đe dọa do mất môi trường sống. Castro, F., Herrera, M.I., Ron, S., Coloma, L.A. Lynch, J. 2004. pugnax. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập 22 tháng năm 2007. pugnax | null | Động vật lưỡng cư Ecuador, Động vật lưỡng cư Colombia |
Strembo là một đô thị tỉnh Trento vùng Trentino-Alto Adige/Südtirol của Ý, tọa lạc cách 30 km về phía tây của Trento. Tại thời điểm ngày 31 tháng 12 năm 2004, đô thị này có dân số 490 người và diện tích là 38,3 km². Strembo giáp các đô thị: Vermiglio, Giustino, Spiazzo, Caderzone, Massimeno, Daone và Bocenago. Colors= id:lightgrey value:gray(0.9) id:darkgrey value:gray(0.8) id:sfondo id:barra ImageSize width:455 height:303 PlotArea left:50 bottom:50 top:30 right:30 DateFormat x.y Period from:0 till:1000 TimeAxis AlignBars justify ScaleMajor increment:1000 start:0 ScaleMinor increment:200 start:0 canvas:sfondo BarData= bar:1861 text:1861 bar:1871 text:1871 bar:1881 text:1881 bar:1901 text:1901 bar:1911 text:1911 bar:1921 text:1921 bar:1931 text:1931 bar:1936 text:1936 bar:1951 text:1951 bar:1961 text:1961 bar:1971 text:1971 bar:1981 text:1981 bar:1991 text:1991 bar:2001 text:2001 PlotData= color:barra width:20 align:left bar:1861 from: till:0 bar:1871 from: till:0 bar:1881 from: till:0 bar:1901 from: till:0 bar:1911 from: till:0 bar:1921 from: till:720 bar:1931 from: till:481 bar:1936 from: till:376 bar:1951 from: till:383 bar:1961 from: till:355 bar:1971 from: till:364 bar:1981 from: till:406 bar:1991 from: till:407 bar:2001 from: till:452 PlotData= bar:1861 at:0 fontsize:XS text: shift:(-8,5) bar:1871 at:0 fontsize:XS text: shift:(-8,5) bar:1881 at:0 fontsize:XS text: shift:(-8,5) bar:1901 at:0 fontsize:XS text: shift:(-8,5) bar:1911 at:0 fontsize:XS text: shift:(-8,5) bar:1921 at:720 fontsize:XS text: 720 shift:(-8,5) bar:1931 at:481 fontsize:XS text: 481 shift:(-8,5) bar:1936 at:376 fontsize:XS text: 376 shift:(-8,5) bar:1951 at:383 fontsize:XS text: 383 shift:(-8,5) bar:1961 at:355 fontsize:XS text: 355 shift:(-8,5) bar:1971 at:364 fontsize:XS text: 364 shift:(-8,5) bar:1981 at:406 fontsize:XS text: 406 shift:(-8,5) bar:1991 at:407 fontsize:XS text: 407 shift:(-8,5) bar:2001 at:452 fontsize:XS text: 452 shift:(-8,5) TextData= fontsize:S pos:(20,20) text:Data from ISTAT | Strembo | Đô thị Trentino |
Hình phạt tử hình là một hình phạt nằm trong quy định pháp lý Sau đây là danh sách không đầy đủ một số vụ tử hình nhà nước do Chính phủ Afghanistan thực hiện: Tháng năm 2004 Abdullah Shah bị xử tử bên trong nhà tù Pul-e-Charkhi bên ngoài thủ đô Kabul. Tháng 10 năm 2007 Mười lăm tù nhân đã bị xử tử bằng cách bắn bên trong nhà tù Pul-e-Charkhi Kabul, bao gồm Reza Khan. Tháng năm 2011 Hai kẻ giết người hàng loạt đã bị xử tử bằng cách treo cổ trong nhà tù Pul-e-Charkhi. Một trong những kẻ giết người là Zar Ajam, 17 tuổi đến từ Waziristan, Pakistan, người đã bắn chết 40 người ngẫu nhiên trong một chi nhánh của Ngân hàng Kabul Jalalabad, Afghanistan. Tháng 11 năm 2012 Mười bốn tù nhân đã bị treo cổ trong nhà tù Pul-e-Charkhi. Tháng 10 năm 2014 Năm người đàn ông đã bị xử tử bằng cách treo cổ trong nhà tù Pul-e-Charkhi. Những người đàn ông bị buộc tội cướp và hiếp dâm tập thể. Danh sách các nhà tù Afghanistan | Hình phạt tử hình | |
là một họ cá vây tia trong bộ Gymnotiformes. Những con cá này sinh sống các vùng nước ngọt của Panama và Nam Mỹ. Chúng được phân biệt với các loài cá khác trong gymnotiformes bởi sự hiện diện của một vây đuôi (tất cả các họ khác thiếu vây đuôi) cũng như một bộ phận lưng thịt đại diện bởi một dải dọc theo tuyến giữa lưng. Loài cá dài nhất trong họ là Apteronotus magdalenensis, đạt 1,3 mét. Những con cá hoạt động ban đêm có đôi mắt nhỏ. Ngoài ra, tính dị hình lưỡng tính tồn tại trong một số chi ơt hình dạng mũi và hàm. | null | Cá Nam Mỹ |
Hürriyet Gücer (sinh 25 tháng 10 năm 1981) là một cầu thủ bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ, chơi vị trí tiền vệ phòng ngự cho Eskişehirspor. İlhan Parlak olaymedya.com, tháng năm 2016 | Hürriyet Gücer | Sinh năm 1981, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá Ankara, Cầu thủ bóng đá Thổ Nhĩ Kỳ, Cầu thủ đội tuyển bóng đá trẻ quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ, Cầu thủ bóng đá Osmanlıspor, Cầu thủ bóng đá MKE Ankaragücü, Cầu thủ bóng đá Gaziantepspor, Cầu thủ bóng đá Eskişehirspor, Cầu thủ bóng đá Süper Lig |
là một bộ trong Triều đình Nhật Bản thời kỳ phong kiến. Nó được thành lập trong cuộc Cải cách Taika và hệ thống Luật lệnh (Ritsuryō) trong thời kỳ Asuka và được chính thức hóa trong thời kỳ Heian. Tính chất của bộ này thay đổi theo thời gian. Nhiệm vụ, quyền hạn của bộ này thay đổi theo thời gian. Hệ thống cấp bậc của bộ này: hai vị trí. Có ba chức vị phụ trợ cho vị trí này. Thái chính quan Titsingh, Isaac. (1834). Siyun-sai Gahō, 1652, Nipon daï itsi ran; ou, Annales des empereurs du Japon. Paris: Oriental Translation Fund of Great Britain and Ireland. | null | Phong kiến Nhật Bản, Minh Trị Duy Tân, Bộ tư pháp |
Jeremy Strong (sinh ngày 25 tháng 12 năm 1978) là một nam diễn viên Mỹ. Anh được biết đến với vai diễn chính trong loạt phim HBO Succession (2018 nay), mà anh đã giành được Giải thưởng Primetime Emmy cho vai chính xuất sắc Diễn viên trong phim truyền hình dài tập vào năm 2020. Strong cũng tham gia diễn xuất trong nhiều phim khác, như Lincoln (2012), Zero Dark Thirty (2012), Selma (2014), The Big Short (2015), Molly's Game (2017), và The Gentlemen (2019). Strong kết hôn với Emma Wall, một bác sĩ tâm thần người Đan Mạch, vào năm 2016. Họ có hai con gái: Ingrid (sinh tháng năm 2018 tại Copenhagen) và Clara (sinh tháng 11 năm 2019 tại New York). Strong và gia đình của anh sinh sống Copenhagen. | Jeremy Strong | Nam diễn viên Mỹ thế kỷ 21, Nam diễn viên điện ảnh Mỹ, Nam diễn viên truyền hình Mỹ, Nam diễn viên sân khấu Mỹ, Cựu sinh viên Đại học Yale, Cựu sinh viên Học viện Nghệ thuật Sân khấu Hoàng gia |
Canoas là một đô thị thuộc bang Rio Grande do Sul, Brasil. Đô thị này có diện tích 131,097 km², dân số năm 2007 là 333322 người, mật độ 2542,56 người/km². Cơ sở dữ liệu các đô thị của Brasil Inwonertallen 2009 | Canoas | Đô thị bang Rio Grande do Sul |
Ngày 19 tháng 3 là ngày thứ 78 trong mỗi năm thường (ngày thứ 79 trong mỗi năm nhuận). Còn 287 ngày nữa trong năm. *1279 Quân Nguyên thắng Nam Tống trận Nhai Môn, Thừa tướng Lục Tú Phu ôm Tống Đế Bính nhảy xuống biển tự vẫn; triều Nguyên thống nhất Trung Quốc. *1644 Minh Tư Tông Sùng Trinh Đế thắt cổ tự tử tại núi Môi Sơn khi Lý Tự Thành đánh vào Bắc Kinh. 1873 Quân Pháp đánh chiếm Hưng Trung doanh, kết thúc Khởi nghĩa Bảy Thưa diễn ra trên địa bàn An Giang, Nam Kỳ. 1915 Sao Diêm Vương được chụp ảnh lần thứ nhất, nhưng không được công nhận là hành tinh. 1918 Quốc hội Mỹ lập giờ tiêu chuẩn và chấp nhận chế độ kéo dài giờ làm việc ban ngày. 1932 Cầu cảng Sydney, kiến trúc cầu vòm cao nhất thế giới, chính thức thông xe. *1945 Chiến tranh thế giới thứ hai: Máy bay của Nhật Bản tấn công tàu sân bay USS Franklin (hình) của Hoa Kỳ đang di chuyển gần bờ biển Nhật Bản, khiến 724 người tử vong và 265 người bị thương. 1946 Guyane thuộc Pháp, Guadeloupe, Martinique và Réunion trở thành các Tỉnh hải ngoại của Pháp. *1950 ngày Toàn quốc chống Mỹ. *1967 thành lập Binh chủng Đặc công. 1972 Ấn Độ và Bangladesh ký hiệp ước hữu nghị. *1975 Chiến tranh Việt Nam: giải phóng Quảng Trị. *2011 Nội chiến Lybia: Sau khi lực lượng quân đội của Muammar Gaddafi thất bại trong việc đánh chiếm Benghazi, không quân Pháp triển khai chiến dịch Harmattan, bắt đầu sự can thiệp của lực lượng quân đội nước ngoài vào quốc gia Bắc Phi này. 2013 Giáo hoàng Phanxicô đăng quang bằng Lễ khai mạc Sứ vụ. *2013 Một loạt các vụ tấn công xảy ra đồng loạt tại Iraq làm 98 người thiệt mạng và 240 người bị thương. *2016 Chuyến bay 981 của Flydubai rơi khi tìm cách hạ cánh xuống sân bay Rostov–on–Don, Nga làm toàn bộ 62 người trên máy bay thiệt mạng. *2016 Một vụ nổ xảy ra tại quảng trường Taksim, Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ làm người thiệt mạng và 36 người bị thương. Chính phủ cáo buộc ISIS có liên quan đến vụ việc. 2018 Cá thể đực cuối cùng của phân loài tê giác trắng phương bắc chết. 1434 Ashikaga Yoshikatsu, tướng quân shogun người Nhật Bản (m. 1443) 1684 Jean Astruc, thầy thuốc, học giả người Pháp (m. 1766) 1721 Tobias Smollett, tiểu thuyết gia người Scotland (m. 1771) 1778 Edward Pakenham, tướng người Anh (m. 1815) 1813 David Livingstone, người truyền giáo, nhà thám hiểm người Scotland (m. 1873) 1821 Richard Francis Burton, nhà thám hiểm, nhà ngoại giao, tác gia người Anh (m. 1890) 1824 1828 William Allingham, tác gia người Ireland (m. 1889) 1829 Carl Frederik Tietgen, nhà tài chính, nhà tư bản công nghiệp người Đan Mạch (m. 1901) 1861 Lomer Gouin, chính khách Quebec (m. 1929) 1864 Charles Marion Russell, nghệ sĩ người Mỹ (m. 1926) 1871 SchoHaigh, cầu thủ cricket người Anh (m. 1921) 1873 Max Reger, nhà soạn nhạc người Đức (m. 1916) 1883 Walter Haworth, nhà hóa học, giải thưởng Nobel người Anh (m. 1950) 1883 Joseph Stilwell, tướng Mỹ (m. 1946) 1888 Josef Albers, nghệ sĩ người Đức (m. 1976) 1888 Léon Scieur, vận động viên xe đạp người Bỉ (m. 1969) 1892 James Van Fleet, tướng người Mỹ (m. 1992) 1894 Moms Mabley, diễn viên hài người Mỹ (m. 1975) 1900 Frédéric Joliot, nhà vật lý, giải thưởng Nobel người Pháp (m. 1958) 1904 John Sirica, quan tòa người Mỹ (m. 1992) 1905 Albert Speer, công chức quốc xã (m. 1981) 1906 Adolf Eichmann, công chức quốc xã (m. 1962) 1909 Louis Hayward, diễn viên người Anh (m. 1985) 1909 Attilio Demaria, cầu thủ bóng đá người Argentina (m. 1990) 1914 Leonidas Alaoglu, nhà toán học người Hy Lạp (m. 1981) 1914 Jay Berwanger, cầu thủ bóng đá người Mỹ (m. 2002) 1914 Fred Clark, diễn viên người Mỹ (m. 1968) 1916 Eric Christmas, diễn viên người Anh (m. 2000) 1916 Irving Wallace, tiểu thuyết gia người Mỹ (m. 1990) 1917 Dinu Lipatti, nghệ sĩ dương cầm người România (m. 1950) 1917 Laszlo Szabo, đấu thủ cờ vua người Hungary (m. 1998) 1920 Tige Andrews, diễn viên người Mỹ (m. 2007) 1920 Kjell Aukrust, tác gia người Na Uy (m. 2002) 1921 Tommy Cooper, hài kịch Magician Wales (m. 1984) 1921 Giuse Maria Trịnh Văn Căn Hồng Công giáo thứ người Việt Nam (m. 1990) 1923 Pamela Britton, nữ diễn viên người Mỹ (m. 1974) 1923 Henry Morgentaler, bác sĩ phụ khoa người Canada 1924 Mary Wimbush, nữ diễn viên người Anh (m. 2005) 1927 Richie Ashburn, vận động viên bóng chày người Mỹ (m. 1997) 1928 Hans Küng, nhà thần học Thụy Sĩ 1928 Patrick McGoohan, diễn viên người Mỹ 1930 Ornette Coleman, nhạc công saxophon người Mỹ 1932 Gay Brewer, vận động viên golf người Mỹ (m. 2007) 1933 Philip Roth, tác gia người Mỹ 1933 Renée Taylor, nữ diễn viên người Mỹ 1936 Ursula Andress, nữ diễn viên Thụy Sĩ 1936 Birthe Wilke, ca sĩ người Đan Mạch 1937 Clarence "Frogman" Henry, nhạc sĩ người Mỹ 1939 Joe Kapp, cầu thủ bóng đá người Mỹ 1942 Richard Dobson, ca sĩ, người sáng tác bài hát người Mỹ 1943 Mario J. Molina, nhà hóa học, giải thưởng Nobel người México 1943 Mario Monti, chính khách người 1943 Vern Schuppan, người đua xe người Úc 1944 Said Musa, thủ tướng Belize 1944 Sirhan Sirhan, kẻ ám sát người Palestine 1945 Stefanos Kiriakidis, diễn viên người Hy Lạp 1946 Bigas Luna, đạo diễn phim người Tây Ban Nha 1947 Glenn Close, nữ diễn viên người Mỹ 1947 Marinho Peres, cầu thủ bóng đá người Brasil 1952 Harvey Weinstein, nhà sản xuất phim người Mỹ 1955 Bruce Willis, diễn viên người Mỹ 1955 Simon Yam, diễn viên người Hồng Kông 1962 Ivan Calderón, vận động viên bóng chày người Puerto Rican (m. 2003) 1964 Yoko Kanno, nhà soạn nhạc người Nhật Bản 1964 Jake Weber, diễn viên người Anh 1966: ** Andy Sinton, cầu thủ bóng đá người Anh ** Tần Cương, chính trị gia người Trung Quốc 1967 Vladimir Konstantinov, vận động viên khúc côn cầu trên băng người Nga 1968 Mots'eoa Senyane, nhà ngoại giao người Lesotho 1969 Gary Jules, ca sĩ, người sáng tác bài hát người Mỹ 1969 Connor Trinneer, diễn viên người Mỹ 1971 Nadja Auermann, siêu người mẫu người Đức 1971 Sébastien Godefroid, Sailor người Bỉ 1973 Simmone Jade Mackinnon, nữ diễn viên người Úc 1975 Từ Nhược Tuyên, ca sĩ, nữ diễn viên, người mẫu, người Đài Loan 1975 Brann Dailor, nhạc công đánh trống người Mỹ 1976 Andre Miller, cầu thủ bóng rổ người Mỹ 1976 Rachel Blanchard, nữ diễn viên người Canada 1976 Alessandro Nesta, cầu thủ bóng đá người 1977 Jorma Taccone, nhà văn, diễn viên hài người Mỹ 1979 Hee–Seop Choi, vận động viên bóng chày người Hàn Quốc 1979 Ivan Ljubičić, vận động viên quần vợt người Croatia 1979 Christos Patsatzoglou, cầu thủ bóng đá người Hy Lạp 1979 Hedo Türkoğlu, cầu thủ bóng rổ Thổ Nhĩ Kỳ 1980 Mikuni Shimokawa, ca sĩ người Nhật Bản 1980 Don Sparrow, người minh họa người Canada 1981 Kim Rae Won, diễn viên, người mẫu, người Hàn Quốc 1982 Brad Jones, cầu thủ bóng đá người Úc 1982 Matt Littler, diễn viên người Anh 1982 Jonathan Fanene, cầu thủ bóng đá người Mỹ 1983 Matt Sydal, đô vật Wrestling chuyên nghiệp người Mỹ 1984 Tanushree Dutta, nữ diễn viên Ấn Độ 1985 Ernesto Viso, người đua xe người Venezuela 1987 Michal Švec, cầu thủ bóng đá người Séc *1996 Dế Choắt, rapper Việt Nam *1998 Miyawaki Sakura nữ thần tượng người Nhật Bản (HKT48, AKB48&IZ*ONE) *1263 Hugh of St Cher, giáo chủ hồng người Pháp 1637 Péter Pázmány, giáo chủ hồng y, chính khách người Hungary (s. 1570) *1648 Nguyễn Phúc Lan, chúa Nguyễn thứ ba của Đàng Trong (s. 1601). 1649 Gerhard Johann Vossius, nhà học giả kinh điển, nhà thần học người Đức (s. 1577) 1683 Thomas Killigrew, nhà viết kịch người Anh (s. 1612) 1687 Robert Cavelier de La Salle, nhà thám hiểm người Pháp (s. 1643) 1697 Nicolaus Bruhns, người chơi đàn organ, nhà soạn nhạc người Đức (s. 1665) *1721 Giáo hoàng Clement XI (s. 1649) 1796 Hugh Palliser, sĩ quan hải quân, người quản lý người Anh (s. 1722) 1816 Philip Mazzei, thầy thuốc người (s. 1730) *1847 Nguyễn Phúc Trang Tĩnh, phong hiệu Hòa Mỹ Công chúa, công chúa con vua Minh Mạng (s. 1825) 1873 Trần Văn Thành, thủ lĩnh cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa trong lịch sử Việt Nam. 1897 Antoine Thomson d'Abbadie, nhà địa lý người Pháp (s. 1810) 1900 John Bingham, chính khách, luật sư người Mỹ (s. 1815) 1900 Charles–Louis Hanon, nhà soạn nhạc người Pháp (s. 1819) 1916 Vasily Surikov, họa sĩ người Nga (s. 1848) 1930 Arthur Balfour, thủ tướng Anh (s. 1848) 1939 Lloyd L. Gaines, nhà đấu tranh cho nhân quyền người Mỹ 1942 Clinton Hart Merriam, nhà động vật học người Mỹ (s. 1855) 1943 Frank Nitti, găngxtơ người Mỹ (s. 1883) 1944 William Hale Thompson, thị trưởng Chicago người Mỹ (s. 1869) 1945 Friedrich Fromm, quốc xã công chức người Đức (s. 1888) 1950 Edgar Rice Burroughs, tác gia người Mỹ (s. 1875) 1950 Walter Haworth, nhà hóa học, giải thưởng Nobel người Anh (s. 1883) 1974 Anne Klein, thời trang nhà thiết kế người Mỹ (s. 1923) 1974 Edward Platt, diễn viên người Mỹ (s. 1916) 1976 Albert Dieudonné, diễn viên, tiểu thuyết gia người Pháp (s. 1889) 1978 Gaston Julia, nhà toán học người Pháp (s. 1893) 1979 Richard Beckinsale, diễn viên người Anh (s. 1947) 1984 Garry Winogrand, nhà nhiếp ảnh người Mỹ (s. 1928) 1995 Yasuo Yamada, diễn viên lồng tiếng người Nhật Bản (s. 1932) 1997 Willem de Kooning, họa sĩ người Đức (s. 1904) 1999 Jaime Sabines, nhà thơ người México (s. 1926) 2003 Michael Mathias Prechtl, người minh họa người Đức (s. 1926) 2003 Émile Genest, diễn viên người Canada (s. 1921) 2004 Mitchell Sharp, chính khách người Canada (s. 1911) 2005 John De Lorean, kĩ sư tô người Mỹ (s. 1925) 2007 Calvert DeForest, diễn viên người Mỹ (s. 1921) 2007 Luther Ingram, ca sĩ nhạc soul, người sáng tác bài hát người Mỹ (s. 1937) *2008 Hugo Claus, nhà văn người Bỉ (s. 1929) *2022 Đỗ Xuân Công, một tướng lĩnh và chính khách Việt Nam. (s. 1943) Công giáo Rôma và Anh giáo Lễ kính thánh Giuse cho thánh Giuse từ Na–gia–rét, chồng của Đức Mẹ Ngày của Cha tại Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Bỉ, Ý, và Honduras. | Ngày 19 tháng 3 | Ngày trong năm |
Chu Hữu Trinh (, 20 tháng 10 năm 888–18 tháng 11 năm 923), sau đổi tên thành Chu Trấn (), cũng gọi là Chu Hoàng (朱鍠) từ 913 đến 915, trong sử sách gọi là Hậu Lương Mạt Đế (後梁末帝), là hoàng đế thứ ba của triều Lương thời Ngũ Đại Thập Quốc trong lịch sử Trung Quốc. Năm 923, khi Hậu Đường Trang Tông Lý Tồn Úc đánh chiếm kinh thành Đại Lương của Hậu Lương, Hậu Lương Mạt Đế đã lệnh cho đô tướng Hoàng Phủ Lân giết chết mình, triều Hậu Lương diệt vong. Chu Hữu Trinh sinh năm 888 tại Biện châu (汴州, nay thuộc Khai Phong, Hà Nam) của Đại Đường, là con trai thứ tư của Chu Toàn Trung khi đó đang là Tuyên Vũ tiết độ sứ (trị sở đặt tại Biện châu). Mẹ của Chu Hữu Trinh là Trương phu nhân, và ông là con đẻ duy nhất được ghi nhận của bà. Ông được mô tả là dung mạo tuấn tú, tính trầm hậu ít nói, và nhã hảo với nho sĩ. Năm Quang Hóa thứ (900), ông nhậm chức Hà Nam phủ tham quân (thẩm quyền khu vực Lạc Dương, Hà Nam). Năm 907, Chu Toàn Trung buộc Đường Ai Đế phải thiện nhượng cho mình, trở thành Hậu Lương Thái Tổ. Hậu Lương Thái Tổ phong vương cho các hoàng tử, Chu Hữu Trinh được phong là Quân vương. Khoảng thời gian này, Hậu Lương Thái Tổ vừa lập ra một đội cấm quân gọi là Thiên Hưng quân (天興軍), Thái Tổ đã bổ nhiệm Chu Hữu Trinh là tả Thiên Hưng quân sứ. Năm 910, Hậu Lương Thái Tổ ban cho Chu Hữu Trinh chức vụ 'kiểm giáo tư không', ngoài chức Thiên Hưng quân sứ, còn bổ nhiệm ông là Đông Kinh mã bộ quân đô chỉ huy sứ, tại Đại Lương tức Biện châu lúc trước. Năm 912, Hậu Lương Thái Tổ lâm bệnh nặng, song Thái Tổ lại yêu mến con nuôi là Bác vương Chu Hữu Văn nhất. Khi nghĩ mình sắp chết, Hậu Lương Thái Tổ đã phái Vương thị (vợ của Chu Hữu Văn) đến Đại Lương để triệu Chu Hữu Văn hồi kinh. Điều này đã khiến hoàng tử thứ là Dĩnh vương Chu Hữu Khuê tức giận và lo sợ, đặc biệt là khi Hậu Lương đồng thời cũng bổ nhiệm Chu Hữu Khuê làm thứ sử Lai châu (萊州, nay thuộc Yên Đài, Sơn Đông). Chu Hữu Khuê vì thế đã tiến vào hoàng cung và sát hại vua cha, sau đó giữ bí mật về việc hoàng đế băng hà và phái hoạn quan Đinh Chiêu Phổ (丁昭溥) đem thánh chỉ giả nhân danh Thái Tổ lệnh cho Chu Hữu Trinh giết Chu Hữu Văn. Sau khi Chu Hữu Trinh làm theo thánh chỉ giả, Chu Hữu Khuê tuyên bố Thái Tổ qua đời, đổ tội giết vua cho Chu Hữu Văn. Sau khi tức vị, Chu Hữu Khuê bổ nhiệm Chu Hữu Trinh là Khai Phong doãn, Đông Đô lưu thủ. Tuy nhiên, Chu Hữu Khuê nhanh chóng khiến quần thần bất mãn do các hành động phù phiếm của mình. Hơn nữa, tin đồn rằng chính Hữu Khuê mới là người giết chết Thái Tổ lan truyền trong quân đội. Không lâu sau đó, phò mã của Thái Tổ là Triệu Nham và Viên Tượng Tiên đã bí mật lập mưu lật đổ Chu Hữu Khuê. Triệu Nham báo việc này cho Chu Hữu Trinh, Chu Hữu Trinh đồng tham gia vào âm mưu, ông còn phái thuộc hạ thân cận của mình là Mã Thận Giao (馬慎交) đến Thiên Hùng (天雄, trị sở nay thuộc Hàm Đan, Hà Bắc) để thuyết phục Thiên Hùng tiết độ sứ Dương Sư Hậu cùng tham gia chính biến, Dương Sư Hậu chấp thuận. Chu Hữu Trinh còn thuyết phục các binh sĩ Long Tương quân (龍驤軍) tinh nhuệ khi đó đang Đại Lương cũng cùng tham gia vào âm mưu, sau đó chuẩn bị nổi dậy và tiến công kinh đô Lạc Dương. Tuy nhiên, trước khi Chu Hữu Trinh phát động tiến công, Viên Tượng Viên và Triệu Nham đã nổi dậy tại Lạc Dương và giết chết Chu Hữu Khuê. Sau đó, họ đề xuất trao hoàng vị cho Chu Hữu Trinh, Chu Hữu Trinh chấp thuận song cho dời đô đến Đại Lương và tức vị tại đó. Sau khi tức vị, Chu Hữu Trinh đổi tên thành Chu Hoàng, rồi Chu Trấn. Ông đã chiêu hàng được tướng Chu Hữu Khiên trước đó, vị tướng này khi hay tin Thái Tổ bị ám sát thì đã đem Hộ Quốc (護國, trị sở nay thuộc Vận Thành, Sơn Tây) đầu hàng Tấn. Tuy nhiên, việc Chu Hữu Khiên quy phục đã không giảm bớt mối đe dọa từ Tấn, thế lực mà Hậu Lương Thái Tổ đã rất quan ngại trước khi qua đời. Chu Trấn cũng phải chống lại hai nước kình địch khác là Kỳ (thủ đô nay thuộc Phượng Tường, Thiểm Tây) và Ngô (thủ đô nay thuộc Dương Châu, Giang Tô). Chu Trấn bổ nhiệm Lưu Nham Quảng Châu làm tiết độ sứ của Thanh Hải quân và Kiến Vũ quân, phong tước Nam Bình vương cho Lưu Nham. Năm 914, Chu Trấn sai tướng Khang Hoài Anh (康懷英) đến đóng quân tại Vĩnh Bình quân (永平, trị sở nay thuộc Tây An, Thiểm Tây), để chống Kỳ. Trong khi đó, Chu Trấn bổ nhiệm em trai là Phúc vương Chu Hữu Chương (朱友璋) làm Vũ Ninh tiết độ sứ (武寧, trị sở nay thuộc Từ Châu, Giang Tô), thay thế tiết độ sứ Vương Ân (王殷) do Chu Hữu Khuê bổ nhiệm. Vương Ân lo sợ và đã đầu hàng Ngô. Chu Trấn phái các tướng Ngưu Tồn Tiết và Lưu Tầm đi đánh Vũ Ninh, quân Hậu Lương đã đẩy lui quân Ngô của Chu Cẩn, chiếm được trị sở Từ châu của Vũ Ninh. Vương Ân tự sát. Năm 915, Dương Sư Hậu qua đời. Do Chu Trấn từ lâu đã lo ngại về binh quyền của Dương Sư Hậu, nên mặc dù bề ngoài tỏ vẻ thương tiếc song thực tế là hài lòng. Triệu Nham và Thiệu Tán (邵贊) đã đề nghị hãy nhân cơ hội này làm suy yếu Thiên Hùng quân, nguyên là một quân cát cứ và khó kiểm soát. Chu Trấn chấp thuận, và lệnh cho Thiên Hùng quân chia làm hai quân, ba trong số sáu châu của Thiên Hùng quân được tách ra để hình thành Chiêu Đức quân (昭德, trị sở đặt tại Tương châu (相州), nay thuộc Hàm Đan). Các binh sĩ Thiên Hùng bất mãn vì việc phân chia này nên đã tiến hành binh biến dưới sự lãnh đạo của Trương Ngạn (張彥), giữ tiết độ sứ Hạ Đức Luân (賀德倫) do triều đình Hậu Lương phái đến làm con tin. Chu Trấn phái một hoạn quan là Hỗ Dị (扈異) đi vỗ về các binh sĩ Thiên Hùng, song không chấp thuận yêu sách hủy bỏ phân chia Thiên Hùng của Trương Ngạn. Do đó, Trương Ngạn đã quyết định dâng Thiên Hùng quân cho Tấn, Lý Tồn Úc tiến đến Thiên Hùng và nắm quyền kiểm soát quân này. Quân Tấn sau đó liên tục chiến thắng quân Hậu Lương, hai cuộc tập kích của Hậu Lương vào quốc đô Thái Nguyên của Tấn cũng bị đẩy lui. Năm 916 Thanh Hải-Kiến Vũ tiết độ sứ kiêm Trung thư lệnh Lưu Nham không hài lòng trước việc chỉ được Chu Trấn phong tước Nam Bình vương, trong khi Tiền Lưu được phong làm Ngô Việt quốc vương. Do vậy, Lưu Nham dâng biểu cầu được phong tước Nam Việt vương, thăng làm đô thống. Khi Chu Trấn từ chối, Lưu Nham nói với quan lại dưới quyền: :Nay Trung Quốc phân tranh, ai là Thiên tử?. Sao ta có thể khiển sứ leo trèo, đi thuyền hàng vạn lý để tôn thờ ngụy đình?. Sau đó, Lưu Nham chấm dứt việc gửi cống phẩm và sứ giả đến triều đình Hậu Lương. Vào mùa thu năm 916, gần như toàn bộ lãnh thổ bờ bắc Hoàng Hà đã rơi vào tay Tấn. Sĩ khí quân Hậu Lương càng thêm suy sụp khi tại Đại Lương, Lý Bá (李霸) đã lãnh đạo một cuộc binh biến chống lại Chu Trấn, Chu Trấn đích thân dẫn quân trấn thủ cổng hoàng cung, song bộ tướng Vương Yến Cầu sau đó đã dập tắt cuộc binh biến. Trong chiến dịch, vợ của Chu Hữu Trinh là Trương đức phi đã qua đời. Chu Hữu Trinh từng muốn lập bà làm hoàng hậu, song bà liên tục từ chối do ông chưa tiến hành tế tự thiên địa theo đúng nghi thức. Khang vương Chu Hữu Kính (朱友敬) có dã tâm muốn thay thế Chu Hữu Trinh làm hoàng đế, vì thế đã cố nhân dịp tổ chức tang lễ cho Trương đức phi để ám sát Chu Trấn. Tuy nhiên, Chu Trấn đã kịp biết được âm mưu này và sau khi chạy trốn, ông đã lệnh cho cấm quân giết chết quân phục kích, sau đó xử tử Chu Hữu Kính. Sau sự kiện này, Chu Hữu Trinh chỉ còn tin tưởng Triệu Nham, cũng như những ngoại thích bên đằng Trương đức phi là Trương Hán Đỉnh (張漢鼎), Trương Hán Kiệt (張漢傑), Trương Hán Luân (張漢倫) và Trương Hán Dung (張漢融). Ông chỉ nghe lời năm người này, bỏ ngoài tai lời của những người khác, bao gồm cả Kính Tường và Lý Chân- những người từng rất được Thái Tổ tin cậy. Cũng vào năm 917, sau một thời gian từ chối báo cáo về Đại Lương sau khi thất bại dưới tay Lý Tồn Úc, Lưu Tầm cuối cùng đã đến Đại Lương yết kiến Chu Hữu Trinh. Chu Hữu Trinh bãi chức thống soái quân sĩ chống Tấn của Lý Tầm, cho Hạ Côi thay thế. Hạ Cô là người đã có công ngăn chặn một cuộc binh biến tại Khánh châu (慶州, nay thuộc Khánh Dương, Cam Túc) vào năm 916. Cũng trong năm đó, theo đề xuất của Triệu Nham, Chu Hữu Trinh chuẩn bị đại lễ tế trời đất tại Lạc Dương, rời khỏi Đại Lương bất chấp lời khuyên can của Kính Tường. Tuy nhiên, sau khi Chu Hữu Trinh rời khỏi Đại Lương, quân Tấn đã tiến công và chiếm được Dương Lưu (楊劉, nay thuộc Liêu Thành, Sơn Đông), bờ nam Hoàng Hà. Khi tin tức Dương Lưu thất thủ truyền đến Lạc Dương, nó đã khiến cho các quan lại sửng sốt, và xuất hiện các tin đồn rằng Tấn tiếp tục chiếm Đại Lương. Chu Hữu Trinh hoảng loạn và đã quyết định hoãn buổi lễ và trở về Đại Lương để dập tắt các tin đồn. Sau sự kiện này, Kính Tường đã dâng biểu nói về mối quan tâm trong cuộc chiến với Tấn phía bắc, và đề xuất trao binh quyền cho mình; Chu Hữu Trinh nghe theo lời của Triệu Nham và bốn vị ngoại thích nên đã từ chối đề nghị của Kính Tường. Vào mùa thu tháng năm 917, Lưu Nham lên ngôi hoàng đế Phiêng Ngung, đặt quốc hiệu là "Đại Việt", tách khỏi nhà Hậu Lương. Lưu Nham bổ nhiệm sứ giả Hậu Lương Triệu Quang Duệ làm Binh bộ thượng thư, tiết độ phó sứ; bổ nhiệm Tiết độ phán quan Lý Ân Hành làm Lễ bộ thị lang; bổ nhiệm Tiết độ phó sứ Dương Đỗng Tiềm làm Binh bộ thị lang; cả ba đều là Đồng bình chương sự. Năm 918, Lý Tồn Úc tập hợp các tinh binh và quyết định phát động tổng tiến công Hậu Lương. Tháng 11 ÂL năm 918, Lưu Nham tế Nam Giao, cải quốc hiệu từ Đại Việt sang Đại Hán, quốc gia của ông ta do vậy được gọi là Nam Hán, bản thân ông ta được gọi là Nam Hán Cao Tổ. Một thời gian ngắn sau tết năm 919, quân Tấn vượt sông Hoàng Hà và tiến về Đại Lương. Hạ Côi đã chặn quân Tấn tại Hồ Liễu pha (胡柳陂, nay thuộc Hà Trạch, Sơn Đông). Thoạt đầu, quân Hậu Lương đại thắng trước quân Tấn, song sau đó quân Tấn đã phản công và khiến quân Hậu Lương tổn hại nặng nề, cuộc chiến xét về tổng thể là hòa, có đến hai phần ba binh sĩ hai bên thương vong. Một thời gian sau đó, không bên nào dám tiến công đối phương, quân Hậu Lương được mô tả là đã tan rã hoàn toàn đến nỗi phải mất một tháng để tái tổ chức. Cùng năm 919 Chu Trấn lệnh cho vua Tiền Lưu nước Ngô Việt tấn công vua Nam Hán Cao Tổ nước Nam Hán do Nam Hán Cao Tổ tự xưng đế, nhưng vua Tiền Lưu đã không có hành động quân sự nào chống lại Nam Hán. Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ là Khúc Thừa Mỹ chủ trương kết thân với nhà Hậu Lương Trung nguyên mà gây hấn với nước Nam Hán liền kề. Cũng trong năm 919, Khúc Thừa Mỹ sai sứ sang Biện Kinh xin tiết việt của nhà Hậu Lương. Chu Trấn bấy giờ bận đối phó với các nước lớn Trung nguyên nên ban tiết việt cho Khúc Thừa Mỹ và phong ông ta làm Tĩnh Hải quân Tiết độ sứ. Được sự hậu thuẫn của Hậu Lương, Khúc Thừa Mỹ chủ quan cho rằng uy thế của nhà Hậu Lương rộng lớn Trung nguyên có thể kìm chế được Nam Hán nhỏ hơn Quảng Châu. Khúc Thừa Mỹ công khai gọi nước Nam Hán là "ngụy đình" (triều đình tiếm ngôi, không chính thống). Sử không chép rõ biểu hiện cụ thể của việc này ra sao, không rõ Khúc Thừa Mỹ tuyên bố việc này với sứ giả Nam Hán sang Tĩnh Hải quân hay theo như một tài liệu nói rằng ông ta sai sứ sang Nam Hán tỏ thái độ bất phục và gọi vua Nam Hán Cao Tổ là "ngụy đình". Năm 920, Chu Trấn tức giận trước việc Chu Hữu Khiêm cho con là Chu Lệnh Đức (朱令德) cai quản Trung Vũ (忠武, trị sở nay thuộc Vị Nam, Thiểm Tây). Chu Hữu Khiêm thấy vậy đã nổi dậy, bỏ Hậu Lương và theo Tấn. Chu Trấn phái Lưu Tầm đi đánh Chu Hữu Khiêm, song Lưu Tầm bị tướng Tấn là Lý Tồn Thẩm và Lý Tự Chiêu đánh bại. Sau đó, Chu Trấn nghi ngờ rằng Lưu Tầm cố không đánh bại Chu Hữu Khiêm (do Tầm và Hữu Khiêm là thông gia), nên đã hạ độc giết Lưu Tầm. Năm 921, một đồng minh lớn của Lý Tồn Úc là Triệu vương Vương Dung đã bị con nuôi là Trương Đức Minh ám sát. Trương Đức Minh đoạt quyền kiểm soát nước Triệu và đổi tên lại thành Trương Văn Lễ. Thoạt đầu, Trương Văn Lễ giả bộ tiếp tục quy phục Lý Tồn Úc, song lại lo sợ rằng Lý Tồn Úc sẽ có hành động chống lại mình, vì thế Trương Văn Lễ đã bí mật thượng lượng với Hậu Lương và Khiết Đan để chuẩn bị đánh Tấn. Kính Tường chỉ ra rằng đây là một cơ hội tốt để phản công chống Tấn, thuyết phục đưa quân cứu viện Trương Văn Lễ, song Triệu Nham và bốn vị ngoại thích lại chống đối vì cho rằng quân Hậu Lương cần bảo vệ lãnh thổ Hậu Lương. Chu Trấn rốt cuộc đã không cứu viện Trương Văn Lễ, Trương Văn Lễ sau đó qua đời và con là Trương Xử Cẩn kế nhiệm. Xử Cẩn tiếp tục kháng Tấn cho đến cuối năm 922 song thất bại. Lý Tồn Úc thôn tính lãnh thổ nước Triệu. Khi Tấn đánh Triệu, Bắc diện chiêu thảo sứ Đái Tư Viễn của Hậu Lương đã thừa cơ tiến công Vệ châu (衛州, nay thuộc Bộc Dương, Hà Nam) tập kích quân Tấn đồn trú, chiếm được châu này; Hậu Lương lại đứng chân trên bờ bắc Hoàng Hà, khôi phục sĩ khí chiến đấu. Sau khi Lý Tự Chiêu tử chiến trong chiến dịch diệt Triệu vào năm 922, con ông là Lý Kế Thao đã tự đoạt lấy Chiêu Nghĩa quân (昭義, trị sở nay thuộc Trường Trị, Sơn Tây) do cha cai quản. Còn Lý Tồn Úc thì không muốn để tiến hành một chiến dịch chống Lý Kế Thao nên đã bổ nhiệm Lý Kế Thao là 'lưu hậu', đổi tên quân thành An Nghĩa do kiêng húy Lý Tự Chiêu. Tuy nhiên, vào mùa xuân năm 923, do lo sợ rằng Lý Tồn Úc ruốt cuộc cũng sẽ có hành động chống lại mình, Lý Kế Thao đã dâng quân hàng Hậu Lương. Chu Trấn bổ nhiệm Lý Kế Thao làm tiết độ sứ và đổi tên quân thành Khuông Nghĩa. Ngay sau đó, Lý Tồn Úc xưng đế, lập ra nhà Hậu Đường, sau đó đã phái Lý Tự Nguyên xuất quân tập kích Thiên Bình quân (天平, trị sở nay thuộc Thái An, Sơn Đông) của Hậu Lươmg bờ nam Hoàng Hà, chiếm được phủ thành Vận châu (鄆州). Lo sợ và tức giận trước việc Vận châu thất thủ, Chu Hữu Trinh giáng chức Đái Tư Viễn và trao quyền cho Vương Ngạn Chương thống soái quân lĩnh chống Hậu Đường. Vương Ngạn Chương nhanh chóng tiến công và chiếm được thành biên giới Đức Thăng (德勝, nay thuộc Bộc Dương), mục đích là nhằm cắt đường tiếp tế cho Vận châu. Tuy nhiên, trong các trận chiến kế tiếp với Lý Tồn Úc, Vương Ngạn Chương đã không quyết đoán, ngoài ra ông còn mâu thuẫn với Triệu Nham và bốn vị ngoại thích. Năm người này do đó đã gièm pha Vương Ngạn Chương trước mặt Chu Hữu Trinh. Chu Hữu Trinh sau đó loại bỏ Vương Ngạn Chương và cho Đoàn Ngưng thay thế. Trong khi đó, Chu Hữu Trinh cũng cho phá đê Hoàng Hà tại Hoạt châu (滑州, nay thuộc An Dương, Hà Nam), khiến khu vực bị ngập lụt, mục đích là để cản trở quân Hậu Đường tiến sâu hơn nữa. Khang Diên Hiếu sau đó đã đào ngũ sang Hậu Đường, tiết lộ kế hoạch tác chiến của Đoàn Ngưng cho hoàng đế Hậu Đường. Lý Tồn Úc đã quyết định tiến về Vân châu hợp binh, sau đó đánh bại quân Hậu Lương tại Trung Đô (中都, nay thuộc Tế Ninh, Sơn Đông), rồi tiến thẳng về Đại Lương đang không được phòng bị. Do quân của Đoàn Ngưng bị chặn lại bờ bắc Hoàng Hà và không thể về ứng cứu, Chu Hữu Trinh nhận thấy tình thế vô vọng. Vì thế, Chu Hữu Trinh đã lệnh cho đô tướng Hoàng Phủ Lân giết mình; Hoàng Phủ Lân ra tay và sau đó cũng tự sát. Hậu Lương diệt vong. Lý Tồn Úc lệnh cho Hà Nam doãn thu táng Chu Hữu Trinh, song giữ thủ cấp của Chu Hữu Trinh trong Thái Xã. Sau này, Hậu Tấn Cao Tổ Thạch Kính Đường cho phép thân thuộc và cựu quan lại thu táng thủ cấp của các "tội nhân" trong Thái Xã Hậu Đường. Tả vệ thượng tướng quân An Sùng Nguyễn thu táng thủ cấp của Chu Hữu Trinh. | Chu Hữu Trinh | Vua Ngũ đại Thập quốc, Sinh năm 888, Mất năm 923, Hậu Lương (Ngũ đại) |
Tập tin:Praça dos três poderes (5944395105) phần của Quảng trường với Quốc kỳ Brasil và tác phẩm điêu khắc Os Candangos. Praça dos Três Poderes (; Quảng trường Ba Quyền lực) là một quảng trường nằm thủ đô Brasília của Brasil. Cái tên của nó xuất phát từ sự hiện diện của ba cơ quan quyền lực cao nhất của Chính phủ xung quanh quảng trường. Đó là Văn phòng Tổng thống đại diện cho cơ quan hành pháp; Văn phòng Quốc hội đại diện cho cơ quan lập pháp; và Tòa án Liên bang Tối cao đại diện cho cơ quan tư pháp. Quảng trường được kiến trúc Lúcio Costa và Oscar Niemeyer thiết kế hài hòa ngày này trở thành một địa điểm thu hút khách du lịch ghé thăm Brasília. Quảng trường cũng là một khu vực rất gần các địa danh nổi tiếng khác như Bảo tàng Espaço Lúcio Costa, Cung điện Itamaraty, đại lộ Monumental Axis, tháp Thượng viện Brasil, tháp truyền hình.. Ngoài ra, quảng trường cũng là nơi hiện diện lá cờ được treo thường xuyên lớn nhất thế giới. Đó là quốc kỳ của Brasil nặng 600 kg và nó chưa bao giờ được hạ xuống (không tính những lần thay thế cờ mới) kể từ khi thủ đô được khánh thành vào ngày 21 tháng năm 1960. Lá cờ được thay thế hàng tháng trước sự hiện diện của Tiểu đoàn Bảo vệ Tổng thống, Vệ binh Dragoons và đôi khi là Tổng thống Brasil. Danh sách các công trình của Oscar Niemeyer Photos 360° of Square of the Three Powers GUIABSB Changing of the Flag Ceremony in Three Powers Plaza. From YouTube | Praça dos Três Poderes | Quảng trường Brasil, Kiến trúc Tân thời Brasil |
610 TCN là một năm trong lịch La Mã. Naucratis, một thành phố Ai Cập, được thành lập, cuối cùng trở thành một trong những thành phố nổi bật hơn của quốc gia đó. Necho II kế vị Psamtik làm vua của Ai Cập. | 610 TCN | Năm 610 TCN |
22912 Noraxu (1999 TF31) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày tháng 10 năm 1999 bởi nhóm nghiên cứu tiểu hành tinh gần Trái Đất phòng thí nghiệm Lincoln Socorro. JPL Small-Body Database Browser ngày 22912 Noraxu | 22912 Noraxu | |
Argiagrion leoninum là một loài chuồn chuồn kim thuộc họ Coenagrionidae. Đây là loài đặc hữu của Sierra Leone. Nó là loài duy nhất được tìm thấy có mẫu nêu vẫn trong tình trạng nghi ngờ. Dijkstra, K.-D.B. 2005. Argiagrion leoninum. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập tháng năm 2007. | ''Argiagrion leoninum | Động vật được mô tả năm 1876, Argiagrion, Động vật đặc hữu Sierra Leone, Côn trùng Sierra Leone |
Louannec () là một xã của tỉnh Côtes-d’Armor, thuộc vùng Bretagne, tây bắc Pháp. *Xã của tỉnh Côtes-d’Armor Official website Profile for Louannec at ''Géographie de Bretagne The coat of arms of Louannec (copyrighted) French Ministry of Culture list for Louannec | Louannec | Xã của Côtes-d'Armor |
Héctor Miguel Herrera López (; sinh ngày 19 tháng năm 1990) là một cầu thủ bóng đá chuyên nghiệp người México hiện thi đấu vị trí tiền vệ cho câu lạc bộ Houston Dynamo tại Major League Soccer và đội tuyển quốc gia México. Club Season League National cup League cup Continental Other Total Division Apps Goals Apps Goals Apps Goals Apps Goals Apps Goals Apps Goals Pachuca 2011–12 Mexican Primera División 27 28 2012–13 Liga MX 25 27 Total 52 55 Porto 2013–14 Segunda Liga Porto 2013–14 Primeira Liga 17 31 2014–15 Primeira Liga 33 11 46 2015–16 Primeira Liga 29 38 2016–17 Primeira Liga 23 35 2017–18 Primeira Liga 29 42 2018–19 Primeira Liga 33 53 Total 164 26 19 13 48 245 35 Atlético Madrid 2019–20 La Liga 21 30 2020–21 La Liga 16 21 2021–22 La Liga 21 27 Total 58 15 78 Houston Dynamo 2022 MLS 10 10 Career total 292 28 23 13 64 396 38 Năm Trận Bàn 2012 2013 2014 14 2015 14 2016 11 2017 13 2018 2019 2020 2021 17 2022 11 Tổng 104 10 Ngày Địa điểm Đối thủ Bàn thắng Kết quả Giải đấu 1. tháng năm 2015 Sân vận động Rio Tinto, Sandy, Hoa Kỳ 3–3 3–3 Giao hữu 2. tháng năm 2015 Sân vận động AT&T, Arlington, Hoa Kỳ 2–0 2–2 3. 13 tháng 11 năm 2015 Sân vận động Azteca, Mexico City, México 2–0 3–0 Vòng loại FIFA World Cup 2018 4. tháng năm 2016 Sân vận động Đại học Phoenix, Glendale, Hoa Kỳ 3–1 3–1 Copa América Centenario 5. tháng 10 năm 2017 Sân vận động Alfonso Lastras, San Luis Potosí, México 3–1 3–1 Vòng loại FIFA World Cup 2018 6. 11 tháng 10 năm 2019 Sân vận động quốc gia Bermuda, Devonshire Parish, Bermuda 5–1 5–1 CONCACAF Nations League 2019–20 7. tháng năm 2021 Los Angeles Memorial Coliseum, Los Angeles, Hoa Kỳ 1–0 4–0 Giao hữu 8. 3–0 9. 29 tháng năm 2021 Sân vận động NRG, Houston, Hoa Kỳ 2–1 2–1 CONCACAF Gold Cup 2021 10. 16 tháng 11 năm 2021 Sân vận động Thịnh vượng chung, Edmonton, Canada 1–2 1–2 Vòng loại FIFA World Cup 2022 Héctor Herrera tại Goal.com | Héctor Miguel Herrera López | Sinh năm 1986, Nhân vật còn sống, Cầu thủ bóng đá México, Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia México, Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2014, Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2018, Cầu thủ Giải vô địch bóng đá thế giới 2022 |
Sympistis amenthes là một loài bướm đêm thuộc họ Noctuidae. Nó được tìm thấy Washington tới Oregon và từ phía đông slope của dãy núi Cascade tới tây bắc Nevada at altitudes of 2,600 to 5,600 foot. Sải cánh dài 28–36 mm. Con trưởng thành bay vào tháng 9. Images at | ''Sympistis amenthes | Sympistis |
Just Dance 2 là một trò chơi nhịp điệu được phát triển bởi Ubisoft Paris và Ubisoft Milan và được phát hành bởi Ubisoft. Trò chơi được phát hành độc quyền cho Wii vào ngày 12 tháng 10 năm 2010 tại Bắc Mỹ và Úc và Châu Âu vào ngày 14 tháng 10 năm 2010, dưới dạng phần tiếp theo của Just Dance 1. Phiên bản PlayStation ban đầu được kế hoạch tạo ra nhưng sau đó đã bị hủy bỏ. Just Dance 2 chủ yếu tập trung vào việc cải tiến đối với phiên bản ban đầu, bao gồm cả việc bổ sung các bài nhảy đôi (Duet), chế độ nhảy ngẫu nhiên không điểm dừng "Non-Stop Shuffle", chế độ thi đấu "Dance Battle" theo nhóm, chế độ tập thể dục mới "Just Sweat" và nội dung mở rộng có thể tải xuống (DLC) Just Dance 2 nhận được đánh giá tích cực, các nhà phê bình ca ngợi trò chơi có những cải tiến chất lượng và đáng chú hơn so với Just Dance ban đầu bởi các tính năng và chế độ chơi mới của nó, và tiếp tục khẳng định là một "trò chơi tiệc tùng" bằng cách cho phép nhiều người chơi và tiếp cận với đối tượng khán giả phổ thông. Tính đến tháng năm 2011, Just Dance 2 đã bán được hơn triệu bản, trở thành tựa game Wii của bên thứ ba bán chạy thứ và là phiên bản bán chạy thứ trong series, sau phiên bản kế nhiệm, Just Dance tựa game Wii bên thứ ba bán chạy nhất. Tập Just Dance 2 tại San Diego Comic-Con 2010.Gameplay của Just Dance với Gold Moves lần đầu xuất hiện trong series Lối chơi của Just Dance 2 vẫn giống với bản gốc, khi cầm Wii Remote trên tay, người chơi phải bắt chước theo chuyển động của vũ công trên màn hình với bài hát đã chọn. Người chơi được đánh giá dựa trên độ chính xác, và hệ thống tính điểm của họ. Khác với bản đầu tiên khi sử dụng biểu tượng, phiên bản trở về sau sử dụng tên để thể hiện người chơi. Cấp độ chấm điểm cũng có sự thay đổi, trong khi điểm "X" và "Ok" vẫn giữ nguyên thì điểm "Great" đã bị loại bỏ, thay vào đó là thêm điểm mới "Good" cao hơn "Ok" và "Perfect" cao hơn "Good". "Shake Moves" cũng đã được thay thế bằng "Gold Moves", thay vì lắc Wii Remote, tất cả người chơi phải làm theo chuyển động trên màn hình có màu vàng và hiệu ứng vàng xung quanh. Nếu người chơi làm không làm tốt "Gold Moves" sẽ nhận "X", còn nếu làm tốt sẽ nhận được điểm "Yeah", đem lại lượng lớn điểm. Đây cũng là phiên bản đầu tiên giới thiệu cơ chế đánh giá tổng kết đến sao dựa trên điểm của người chơi. Điểm số đánh giá được dựa trên yếu tố, điểm bình thường nhận trong bài hát, số "Gold Moves" đạt được và "On Fire" (đạt chuỗi Good hoặc Perfect liên tục không đứt đoạn). Hệ thống đánh giá điểm tiếp tục được sử dụng và hoàn thiện hơn các phiên bản về sau. Các bài hát được thiết kế với chế độ nhảy đôi có tính năng vũ đạo được thiết kế cho hai người chơi. Một chế độ mới được gọi là "Dance Battle" cũng được giới thiệu, trong đó người chơi phải nhảy trên một loạt các bài hát và minigame để kiếm điểm cho đội của họ. Chế độ có thể được chơi với tối đa tám người chơi, được chia thành hai đội bốn người. Minigames trong chế độ này bao gồm "Simon Says" và "Race". "Medleys" là video chiếu phân đoạn nhỏ từ bài hát ngẫu nhiên và chuyển đổi liên tục từng bài một. Một chế độ chơi ngẫu nhiên được biết với tên "Non-Stop Shuffle" cũng được giới thiệu, đây là chế độ các bài hát được chơi ngẫu nhiên liên tục mà không cần phải chọn bài từ danh sách bài hát. Một chế độ chơi tập trung vào việc tập thể dục mới được gọi là "Just Sweat" cũng đã được thêm vào. Chế độ này được thiết kế để người chơi tập thể dục hàng ngày, cho phép người chơi chọn các bài hát dựa trên cường độ. Mọi hoạt động trong chế độ "Just Sweat" được tính bằng "sweat points". Trò chơi bao gồm 48 bài hát, và cả những nội dung mở rộng có thể tải xuống (DLC): Ghi chúː Tất cả DLC đã không còn có thể mua được do cửa hàng Wii Shop Channel đã ngưng hoạt động vào ngày 30 tháng năm 2019 và loại bỏ Wii Points vào ngày 26 tháng năm 2018. Tuy nhiên, hầu hết bài hát vẫn sẽ có được nếu người chơi sỡ hữu Just Danceː Summer Party. Tên bài hát Nghệ sĩ Chế độ Độ khó Độ tốn sức Năm "A-Punk" Vampire Weekend Đôi 2008 "Alright" Supergrass Đôi 1995 "American Boy" (DLC) Estelle và Kanye West Đôi 2008 "Baby Girl" Reggaeton Đơn 2003 "Barbie Girl" (DLC) Countdown Dee's Hit Explosion (bản gốc bởi Aqua) Đôi 1997 "Big Girl (You Are Beautiful)" Mika Đơn 2007 "Body Movin'" (Fatboy Slim Remix) Beastie Boys Đơn 1998 "Born To Be Wild" (DLC) Steppenwolf Đơn 1968 "Call Me" Blondie Đơn 1980 "Chessy Cha Cha" APM Music Đơn 2010 "Chicken Payback" (DLC) Band of Bees Đơn 2004 "Come On Eileen" (DLC) Dexys Midnight Runners Đôi 1982 "Cosmic Girl" Jamiroquai Đơn 1996 "Crazy in Love" Studio Musicians (bản gốc bởi Beyoncé và Jay-Z) Đơn 2003 "Crazy Christmas" (DLC) Santa Clones Đơn 2010 "Crying Blood" (DLC) Brown Đơn 2008 "D.A.N.C.E." Justice Đơn 2007 "Dagomba" Sorcerer Đơn 2010 "Down By The Riverside" (DLC) The Reverend Horatio Duncan và Amos Sweets Đơn 1918 "Firework" (DLC) Katy Perry Đơn 2010 "Funkytown" Sweat Invaders (bản gốc bởi Lipps Inc.) Đơn 1979 "Futebol Crazy" (DLC) Paul J. Borg (The World Cup Girls) Đơn 2006 "Girlfriend" Avril Lavigne Đôi 2007 "Hey Ya!" Outkast Đơn 2003 "Holiday" The Hit Crew (bản gốc bởi Madonna) Đơn 1983 "Hot Stuff" Donna Summer Đôi 1979 "Here Comes the Hotstepper" (DLC) The Hit Crew (bản gốc bởi Ini Kamoze) Đơn 1994 "Idealistic" Digitalism Đơn 2007 "I Got You (I Feel Good)" James Brown Đơn 1965 "Iko Iko" Mardi Gras (bản gốc bởi Captain Jack) Đơn 1953 "It's Raining Men" Đơn 1983 "It's Not Unusual" (DLC) Tom Jones Đơn 1965 "I Want You Back" Đơn 1969 "Jai Ho! (You Are My Destiny)" A. R. Rahman, The Pussycat Dolls và Nicole Scherzinger Đơn 2008 "Jump" Studio Allstars (bản gốc bởi Kris Kross) Đôi 1992 "Jump in the Line" Harry Belafonte Đôi 1961 "Jungle Boogie" Studio Musicians (bản gốc bởi Kool the Gang) Đơn 1973 "Katti Kalandal" Bollywood Đôi 2004 "Kung Fu Fighting" (DLC) Carl Douglas Đôi 1974 "Mambo No. 5" (DLC) Lou Bega Đôi 1999 "Maniac" (DLC) Studio Allstars (bản gốc bởi Michael Sembello) Đơn 1983 "Monster Mash" The Frighteners (bản gốc bởi Bobby "Boris" Pickett) Đơn 1962 "Move Your Feet" Junior Senior Đơn 2002 "Moving On Up" (DLC) People Đơn 1993 "Mugsy Baloney" Charleston Đôi 2002 "Nine In The Afternoon" (DLC) Panic! At The Disco Đôi 2008 "Pon De Replay" (DLC) Rihanna Đơn 2005 "Professor Pumplestickle" (DLC) Nick Phoenix and Thomas J. Bergersen Đôi 2009 "Proud Mary" Ike and Tina Turner Đơn 1971 "Pump Up The Volume" (DLC) M/A/R/R/S Đơn 1987 "Rasputin" Boney M. Đơn 1978 "Rockafeller Skank" Fatboy Slim Đơn 1998 "S.O.S." Rihanna Đơn 2006 "Satisfaction" (Issak Original Extended) Benny Benassi The Biz Đơn 2002 "Should Stay or Should Go" Đơn 1982 "Skin-To-Skin" (DLC) Sweat Invaders Đơn 2008 "Song 2" (DLC) Blur Đơn 1997 "Soul Bossa Nova" Quincy Jones and His Orchestra Đôi 1962 "Spice Up Your Life" (DLC) (NM) Spice Girls Đôi 1997 "Sway (Quien Sera)" Marine Band (bản gốc bởi Michael Bublé) Đôi 2003 "Sympathy for the Devil" (Fatboy Slim Remix) The Rolling Stones Đơn 1968 "Take Me Out" Franz Ferdinand Đơn 2004 "That's Not My Name" The Ting Tings Đơn 2008 "The Shoop Shoop Song (It's in His Kiss)" Cher Đôi 1990 "The Power" Snap! Đơn 1990 "Tik Tok" Kesha Đơn 2009 "Toxic"* The Hit Crew (bản gốc bởi Britney Spears) Đơn 2003 "Viva Las Vegas" Elvis Presley Đơn 1964 "Wake Me Up Before You Go-Go" Wham! Đơn 1984 "Walk Like an Egyptian" The Bangles Đơn 1986 "When Grow Up" The Pussycat Dolls Đơn 2008 "Why Oh Why" (DLC) Stephane Huguenin, Yves Sanna và Christian Padovan (hiển thị trong game dưới tên Love Letter) Đôi 2007 "You Can't Hurry Love" (DLC) The Supremes Đôi 1966 Just Dance được xuất hiện trong MV "Last Friday Night (T.G.I.F)" của nữ ca sĩ Katy Perry tại phút 03:18. Cụ thể, Katy và những người bạn của cô nhún nhảy theo bài hát "Hot Stuff" bởi Donna Summer trong game. Just Dance 2 nhận được đánh giá tương đối tích cực. Metacritic liệt kê trò chơi với tổng điểm 74. GameSpot đánh giá cao chất lượng cải tiến của Just Dance 2 so với phiên bản tiền nhiệm, thừa nhận những cải tiến như phát hiện chuyển động "chặt chẽ" khó "gian lận" hơn, đầu tư diện mạo hơn cho nhân vật và phông nền. Sự đa dạng của các bài hát và vũ đạo cũng được khen ngợi, chế độ nhảy đôi mới được coi là thú vị nhất để trải nghiệm vì người chơi có thể tương tác với nhau. Just Dance 2 nhận được nhiều sự khen ngợi hơn phiên bản trước bằng việc bổ sung thêm nhiều người chơi, các minigame và DLC được coi là những thay đổi làm tăng thêm giá trị cho toàn bộ trò chơi. Tóm lại, GameSpot cho rằng "Xét về việc một trò chơi thiếu sót hệ thống phần thưởng hoặc một chút thử thách khó hơn trong phần chơi đơn, những điều đó đã dễ dàng loại bỏ trong Just Dance 2 một phần tiếp theo mà đã học được chút ít từ những sai lầm của phiên bản tiền nhiệm. Rủ một nhóm bạn với nhau, tận hưởng cuộc vui với những bài hát hot nhất và vũ đạo vui nhộn nhất mà bất cứ ai cũng có thể nhảy theo và cuối cùng là tống khứ "kẻ ngốc" trong con người của mình ra." IGN.com lưu rằng mặc dù vẫn "hoàn toàn không có chiều sâu hay sự tinh tế", Just Dance 2 vẫn "cực kỳ thú vị", trò chơi tiếp tục phất lờ những nội dung có thể mở khóa trong game và phát triển theo hướng tập trung vào trải nghiệm chơi trò chơi để được đánh bóng hơn. Liên quan đến các đối thủ cạnh tranh, Just Dance 2 được coi là trò chơi có lợi thế hơn Dance Central bởi vì bạn không phải mua một chiếc Camera giá 130 Bảng Anh để chơi nó." IGN cho trò chơi điểm 8/10 và kết luận rằng Just Dance 2 là "niềm vui không quá phức tạp" và sẽ thu hút những người "thích nhảy mà không bận tâm về game." Các vấn đề từ bản Just Dance đầu tiên đã được ghi nhận. Điều khiển chuyển động được cho là đôi khi vẫn không chính xác. Một số nhà phê bình cũng nhận thấy giá bài hát DLC hơi quá cao. Doanh thu của Just Dance đã vượt qua cả bản gốc; với hơn triệu bản tính đến tháng năm 2011, đây là tựa game bên thứ ba bán chạy nhất cho Wii. Laurent Detoc, Giám đốc điều hành hoạt động tại Bắc Mỹ của Ubisoft, tuyên bố rằng thành tích này "kiên cố hóa" thương hiệu Just Dance như một hiện tượng văn hóa đại chúng". Phiên bản Best Buy được đặt tên là Just Dance 2: Special Edition được ra mắt Bắc Mĩ bao gồm bài hát độc quyền bao gồm "Should Stay or Should Go" của The Clash, "Funkytown" của Lipps Inc. (được cover bởi Sweat Invaders trong game) và "Jai Ho (You Are My Destiny)" của The Pussycat Dolls và Nicole Scherzinger. | ''Just Dance 2 | |
Trường Thành tại Cư Dung quan Cư Dung quan () là một đèo nằm quận Xương Bình ngoại Bắc Kinh, cách từ trung tâm thủ đô. Vạn Lý Trường Thành chạy qua đây, Vân Đài môn được xây từ năm 1342. Cư Dung quan nằm trên thung lũng dài Guangou. Đây là một trong ba cửa ải chính yếu của Vạn Lý Trường Thành. Hai cửa ải còn lại là Gia Dục quan và Sơn Hải quan. Cư Dung quan có hai 'tiểu quan,' một phía nam thung lũng và một phía bắc. Cửa ải phía nam gọi là "Nam quan" và cửa ải phía bắc là "Bát Đạt Lĩnh". Cửa ải từng có nhiều tên gọi trong các triều đại Trung Quốc. Tuy nhiên, tên gọi "Cư Dung quan" được trên ba triều đại sử dụng. Đầu tiên là nhà Tần khi Hoàng đế Tần Thủy Hoàng ra lệnh xây Vạn Lý Trường Thành. Cư Dung quan được kết nối với Trường Thành vào thời kỳ Nam-Bắc triều. Tuyến đường hiện tại được xây vào thời nhà Minh và được cải tạo nhiều lần sau đó. Đây là một nơi có vị trí chiến lược hết sức quan trọng nối giữa vùng nội địa và khu vực gần biên giới phía bắc Trung Quốc. Nó được sử dụng để phòng thủ cho thành cổ Bắc Kinh. Ảnh Trường Thành tại Cư Dung quan Juyongguan | Cư Dung quan | Đèo Trung Quốc, Đía lý Bắc Kinh, Côn trình tại Bắc Kinh, Vạn Lý Trường Thành, Điểm đến tại Bắc Kinh, Công trình kiến trúc Bắc Kinh, Xương Bình |
aedium' là một loài động vật có vú trong họ Capromyidae, bộ Gặm nhấm. Loài này được F. Cuvier mô tả năm 1836. Thể | null | Động vật được mô tả năm 1836, Động vật Cộng hòa Dominica, Động vật có vú Caribe, Động vật có vú Haiti |
Giải âm nhạc của Hội đồng Bắc Âu là một giải thưởng của "Ủy ban âm nhạc Bắc Âu" (NOMUS) trực thuộc Hội đồng Bắc Âu dành cho âm nhạc các nước Bắc Âu trong lãnh vực sáng tác và biểu diễn. Giải này được thành lập từ năm 1965, ban đầu chỉ trao mỗi năm. Từ năm 1990, giải được trao xen kẽ hàng năm: một năm cho tác phẩm nhạc xuất sắc do nhạc sĩ Bắc Âu hiện còn sống sáng tác, một năm cho nhạc sĩ hoặc ban nhạc Bắc Âu biểu diễn đạt tiêu chuẩn nghệ thuật và kỹ thuật cao. Khoản tiền thưởng của giải hiện nay là 350.000 krone Đan Mạch (tương đương 47.000 euro). Dưới đây là danh sách các tác phẩm hoặc nhạc sĩ, ban nhạc đoạt giải: *1965: Aniara (opera) bởi Karl-Birger Blomdahl, Thụy Điển *1968: Tredje symfonien (Third symphony) bởi Joonas Kokkonen, Phần Lan *1970 Drömmen om Thérése (arenaopera) bởi Lars Johan Werle, Thụy Điển *1972 Eco (solo giọng nữ cao, ca đoàn hỗn hợp, dàn nhạc) bởi Arne Nordheim, Na Uy *1974 Gilgamesh (opera) bởi Per Nørgård, Đan Mạch *1976 Konsert för flöjt och orkester bởi Atli Heimir Sveinsson, Iceland *1978 Ryttaren (opera) bởi Aulis Sallinen, Phần Lan *1980 bởi Pelle Đan Mạch *1982 Utopia bởi Åke Hermansson, Thụy Điển *1984 De ur alla minnen fallna (Requiem) bởi Sven-David Sandström, Thụy Điển *1986 Poemi for solo violin and string orchestra bởi Hafliði Hallgrímsson, Iceland *1988 Kraft (dàn nhạc giao hưởng, điện tử) bởi Magnus Lindberg, Phần Lan *1990 Gjennom Prisme (cello, organ, dàn nhạc) bởi Olav Anton Thommessen, Na Uy *1991 Nils-Henning Ørsted Pedersen, nhạc sĩ chơi bass Jazz Đan Mạch, giải nghệ sĩ *1992 Symfoni nr by Anders Eliasson, Thụy Điển *1993 Mellersta Österbottens Kammarorkester, Phần Lan, giải nghệ sĩ *1994 Det Sjungande Trädet (opera) bởi Erik Bergman, Phần Lan *1995 Eric Ericson, Thụy Điển, người điều khiển ban hợp ca, giải nghệ sĩ *1996 Sterbende Gärten concerto cho violon và dàn nhạc bởi Bent Sørensen, Đan Mạch *1997 Björk Iceland, ca sĩ, giải nghệ sĩ *1998: Concert cho clarinet và dàn nhạc bởi Rolf Wallin, Na Uy *1999 Leif Segerstam, Phần Lan, người điều khiển ca đoàn, giải nghệ sĩ *2000 Lonh for soprano and electronics bởi Kaija Saariaho, Phần Lan *2001 Palle Mikkelborg, nhạc sĩ chơi trumpet, Đan Mạch *2002 Symphony no. Oceanic Days bởi Sunleif Rasmussen, Quần đảo Faroe *2003 Mari Boine, ca sĩ, Na Uy *2004 Gudrun's 4th song bởi Haukur Tómasson, Iceland *2005 Ensemble Cikada, Na Uy *2006 bởi Natasha Barrett, Na Uy *2007 The Eric Ericson Chamber Choir của Stockholm *2008 Miki Alone của nhà soạn nhạc Đan Mạch Peter Bruun *2009 Kari Kriikku, nhạc sĩ chơi clarinet, Phần Lan *2010 Lasse Thoresen, nhà soạn nhạc, Na Uy *2011 Mats Gustafsson, nhạc sĩ chơi saxophon, Thụy Điển Giải văn học của Hội đồng Bắc Âu Giải phim của Hội đồng Bắc Âu Nordisk Råds Musikpris | Giải âm nhạc của Hội đồng Bắc Âu | Giải thưởng âm nhạc châu Âu Âm nhạc, Âm nhạc Bắc Âu |
Quận Baldwin là một quận thuộc tiểu bang Alabama, Hoa Kỳ. Quận được đặt tên theo Abraham Baldwin, một thượng nghị sĩ Hoa Kỳ. Dân số năm 2000 của quận là 130.415 người. Quận lỵ là Bay Minette. Đây là quận có diện tích lớn nhất và bao gồm một phần của vịnh Mobile. | Quận Baldwin | Quận của Alabama |
Panipat Taraf Rajputan là một thị trấn thống kê (census town) của quận Panipat thuộc bang Haryana, Ấn Độ. Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Panipat Taraf Rajputan có dân số 18.806 người. Phái nam chiếm 58% tổng số dân và phái nữ chiếm 42%. Panipat Taraf Rajputan có tỷ lệ 48% biết đọc biết viết, thấp hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 58%, và tỷ lệ cho phái nữ là 35%. Tại Panipat Taraf Rajputan, 18% dân số nhỏ hơn tuổi. | Panipat Taraf Rajputan | |
Nhóm máu theo hệ thống ABO bao gồm các kháng thể và kháng nguyên. Máu con người được chia làm nhiều nhóm dựa theo một số chất cacbohydrat và protein đặc thù trên hồng cầu. Hiện có khoảng 40 nhóm khác nhau đã được phát hiện, nhưng có hai nhóm quan trọng hơn cả là nhóm máu ABO và yếu tố Rhesus (Rh). Vì những lý do chưa được hiểu rõ hoàn toàn, máu của mỗi nhóm có thể có kháng thể chống lại những nhóm kia. Do đó, khi truyền máu khác nhóm vào, kháng thể của người nhận có thể phá hủy máu được truyền, gây tác hại cho cơ thể. Một mẫu máu có thể tới hơn 30 chất trên bề mặt của các hồng cầu (red blood cell, viết tắt: RBC), và một nhóm máu của cá thể là một trong những sự kết hợp của một số kháng nguyên nhóm máu. Trong số hơn 30 nhóm máu, có hơn 600 chất kháng nguyên nhóm máu khác nhau đã được phát hiện, nhưng đa số trong chúng rất hiếm hoặc chủ yếu được tìm thấy trong các nhóm bộ tộc nhất định. Các hệ thống nhóm máu thường gặp: Nhóm máu ABO, tên đầy đủ: hệ thống nhóm máu ABO. Nhóm máu Rh, tên đầy đủ: hệ thống nhóm máu Rh. Nhóm máu Lewis, tên đầy đủ: hệ thống kháng nguyên Lewis (/'lu:ɪs/). Nhóm máu Kell, tên đầy đủ: hệ thống kháng nguyên Kell. Nhóm máu MNS, tên đầy đủ: hệ thống kháng nguyên MNS. Dưới đây giới thiệu nhóm máu đầu tiên, thường gặp và quan trọng nhất trong truyền máu. O A B AB O O, O, A, A O, O, O, A, B, AB A, B, AB B O, O, A, B, AB O, A, B, AB AB A, A, B, AB A, B, AB A, B, AB Sự di truyền nhóm máu Nhóm máu O A B AB Kiểu gen ii (OO) IAi (AO) IAIA (AA) IBi (BO) IBIB (BB) IAIB (AB) O ii (OO) OO hoặc AAO OO AO hoặc BO OO BO hoặc AO BO A IAi (AO) hoặc AAO OO hoặc AAA 2AO OO AAA AO O, A, hoặc ABAB AO BO OO hoặc ABAB BO A, hoặc ABAA AB AO BO IAIA (AA) AO AAA AO AA hoặc AB AB AO AB AB hoặc AB AA AB B IBi (BO) hoặc BBO OO O, A, hoặc ABAB BO AO OO hoặc ABAB AO hoặc BBB 2BO OO BBB BO A, hoặc ABAB BB AO BO IBIB (BB) BO hoặc ABAB BO AB AB BB BO BB hoặc AB AB BB AB IAIB (AB) hoặc BAO BO A, hoặc ABAA AO AB BO hoặc ABAA AB A, hoặc ABAB AO BB BO hoặc ABAB BB A, B, hoặc ABAA 2AB BB Con người có nhóm máu: O, A, B, AB. Nhưng trước đây ta mới biết về hai nghĩa của nó là: 1. Để truyền máu khi cần. Cụ thể là: Nhóm máu có thể truyền cho cả bốn nhóm nhưng lại chỉ nhận được nhóm của mình là O. Ngược lại AB có thể nhận được cả bốn nhóm nhưng chỉ truyền được cho nhóm của mình là AB. Còn nhóm A, thì vừa phải, nghĩa là nhận và cho cũng 2, cụ thể là nhóm nhận được và nhưng cũng cho được và AB. Nhóm nhận được và O, cũng cho được và AB. 2. Để phục vụ cho ngành pháp trong vấn đề xác định, loại trừ tội phạm..., hiện khoa học đã tiến xa hơn bằng cách xác định bằng DNA (Deoxyribo Nucleic Acid). Nhưng gần đây các nhà khoa học Mỹ, qua những công trình nghiên cứu tỉ mỉ và rộng rãi đã cho biết thêm nghĩa mới: Biết được nhóm máu của mình để điều chỉnh cách sống sao cho tốt nhất. Để phòng và chữa nhiều nhóm bệnh một cách hiệu quả nhất. Một công trình nghiên cứu trên 20.635 người gồm 15.255 nữ và 5.380 nam đủ mọi lứa tuổi đã cho tỷ lệ nhóm máu sau: Nhóm máu O: 44.42% A: 34.83% B: 13.61% AB: 7.14% *Biết thêm tiểu nhóm: Nhờ những tiến bộ về khoa học, người ta mới phát hiện thêm trong mỗi nhóm máu có tiểu nhóm được gọi là: Xuất tiết (Secretor) và Không xuất tiết (Non-secretor), ví dụ trong loại xuất tiết thì chỉ cần xét nghiệm nước bọt cũng có thể xác định được nhóm máu, vì các kháng nguyên của nhóm máu đó tiết qua các dịch của cơ thể như nước bọt, chất nhầy và cả tinh dịch. Còn loại không xuất tiết đòi hỏi phải tiến hành xét nghiệm máu trực tiếp. Nói chung các loại xuất tiết có khả năng giúp cơ thể chống bệnh cao hơn và thích nghi dễ hơn với hoàn cảnh so với loại không xuất tiết. Trong tiểu nhóm này, mặc dù cùng thuộc một nhóm máu nhưng cũng có vài khác biệt trong việc lựa chọn thức ăn. *Xem chi tiết thêm về cơ chế sinh lý, cơ chế di truyền trang Nhóm máu ABO. Rh viết tắt của chữ Rhesus, nghĩa là phân loại máu theo yếu tố Rhesus. Tên gọi này được đặt theo một chất tương tự được tìm thấy loài khỉ Rhesus. Căn cứ vào sự khác biệt khi nghiên cứu về sự vận chuyển oxy của hồng cầu, thì, các hồng cầu có thể mang mặt ngoài một protein gọi là Rhesus hay ký hiệu là Rh. Trên lâm sàng, đây là hệ thống nhóm máu quan trọng nhất sau ABO. Hiện nay trong hệ thống nhóm máu này đã xác định được 50 loại kháng nguyên. Trong đó kháng nguyên C, c, D, và là quan trọng nhất, đặc biệt là kháng nguyên với tính sinh miễn dịch cao và tính kháng nguyên mạnh. Trạng thái Rh âm tính hay dương tính đây chính là trạng thái âm tính hay dương tính với kháng nguyên D. Nếu có kháng nguyên thì là nhóm Rh+ (dương tính), nếu không có là Rh- (âm tính). Các nhóm máu A, B, O, AB mà Rh- thì được gọi là âm tính A-, B-, O-, AB-. Rhesus là một đặc điểm di truyền của mỗi cá nhân và tồn tại suốt cuộc đời. Trong đó, nhóm máu Rh- rất hiếm gặp, Việt Nam, Nhóm máu Rh- chỉ chiếm 0,04%, còn Nhóm Rh+ chiếm đến 99,96%. Đặc điểm của nhóm máu Rh này là chúng chỉ có thể nhận và cho người cùng nhóm máu, đặc biệt phụ nữ có nhóm máu Rh- thì con rất dễ tử vong. Người có nhóm máu Rh+ chỉ có thể cho người cũng có nhóm máu Rh+ và nhận người có nhóm máu Rh+ hoặc Rh- liên quan cha mẹNgười có nhóm máu Rh- có thể cho người có nhóm máu Rh+ hoặc Rh- nhưng chỉ nhận được người có nhóm máu Rh- mà thôi Trường hợp người có nhóm máu Rh- được truyền máu Rh+, trong lần đầu tiên sẽ không có bất kỳ phản ứng tức thì nào xảy ra. Tuy nhiên sau thời gian 2-4 tuần cơ thể của người mang nhóm máu Rh- sẽ sản sinh ra lượng kháng thể (kháng D) đủ lớn để làm ngưng kết hồng cầu Rh+ được truyền vào cơ thể. Sau 2-4 tháng nồng độ kháng thể sẽ đạt mức tối đa, khi đó nếu tiếp tục truyền máu Rh+ lần thứ sẽ gây ra những hậu quả nghiêm trọng do tai biến truyền máu. Khả năng tương thích: ** Có thể cho nhận. ** Không thể cho nhận. Bảng khả năng tương thích hồng cầu Người nhận1 Người cho1 O− O+ A− A+ B− B+ AB− AB+ O− O+ A− A+ B− B+ AB− AB+ Bảng ghi chú 1. Giả sử không có các kháng thể không điển hình có thể gây ra sự không tương thích giữa máu người cho và người nhận, như thường lệ đối với máu được chọn bằng cách kết hợp chéo. Người phụ nữ có Rh- vẫn có khả năng sinh con bình thường. Tuy nhiên nếu người chồng có Rh+ thì đứa bé sinh ra có thể là Rh+ (hoặc Rh-) và từ đứa bé thứ hai trở đi nếu bé là Rh+ thì khi sinh ra sẽ gặp nguy hiểm vì lúc đứa bé sinh ra máu của mẹ và của con sẽ tiếp xúc nhau và người mẹ có Rh- sẽ tạo ra kháng thể chống lại yếu tố Rh+ của đứa bé sinh ra sau này và sẽ hủy hoại các hồng cầu của bé và gây ra thiếu máu trầm trọng, vàng da nặng cho bé, có thể, nguy hiểm đến tính mạng. Hiện đã có biện pháp phòng ngừa đơn giản. Ngay sau khi sinh con lần đầu, mẹ được tiêm huyết thanh kháng Rhesus (hay kháng D). những trường hợp nặng, bào thai cần được theo dõi và chăm sóc đặc biệt, phương pháp điều trị chủ yếu là truyền thay máu khi trẻ còn trong bụng mẹ qua tĩnh mạch rốn hoặc ngay sau khi sinh ra. Máu Rhnull là nhóm máu được các nhà khoa học phát hiện và công bố trên tạp chí khoa học. Đây là nhóm máu hiếm gặp trên thế giới vì chỉ có 43 người mới có nhóm máu này. Ngoài ra nhóm máu này do sự quý hiếm của nó nên được gọi là nhóm máu vàng. | Máu | Máu, Khoa truyền máu, Di truyền học, Huyết học |
noellerti' là một loài cóc trong họ Bufonidae. Chúng là loài đặc hữu của Sri Lanka. Các môi trường sống tự nhiên của chúng là các khu rừng ẩm ướt đất thấp nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới, các đồn điền, vườn nông thôn, và. Loài này đang bị đe dọa do mất nơi sống. K. de Silva, A. 2004. Bufo noellerti. 2006 IUCN Red List of Threatened Species. Truy cập ngày 21 tháng năm 2007. Thể | null | Động vật lưỡng cư Sri Lanka, Động vật đặc hữu Sri Lanka |
Trận bán kết của FIFA World Cup 1970 giữa và Tây Đức được gọi là Trận cầu thế kỷ (tiếng Tây Ban Nha: Partido del Siglo; tiếng Ý: Partita del secolo; tiếng Đức: Trận đấu diễn ra vào ngày 17 tháng năm 1970 tại Sân vận động Azteca Thành phố Mexico. Đội tuyển giành chiến thắng chung cuộc 4–3 sau hai hiệp phụ, trận đấu đã lập kỷ lục về số bàn thắng được ghi trong hiệp phụ tại một trận đấu thuộc khuôn khổ World Cup với bàn thắng được ghi. Với chiến thắng trước Tây Đức, đã có lần thứ ba lọt vào trận chung kết World Cup nhưng đã thất bại trước Brasil. dẫn trước 1–0 trong phần lớn thời gian của trận đấu, sau khi Roberto Boninsegna ghi bàn phút thứ 8. Hậu vệ Franz Beckenbauer của Tây Đức bị trật khớp vai sau khi bị phạm lỗi, nhưng vẫn trên sân với cánh tay bị trật trong một chiếc địu, vì đội tuyển Tây Đức đã sử dụng hết quyền thay người. Hậu vệ Karl-Heinz Schnellinger gỡ hòa cho Tây Đức phút bù giờ thứ hai. Bình luận viên người Đức Ernst Huberty đã thốt lên nổi tiếng "Schnellinger, của tất cả mọi người!" (trong tiếng Đức: "Schnellinger! Ausgerechnet kể từ khi Schnellinger chơi giải bóng đá chuyên nghiệp của Ý, Serie A, tại AC Milan (nơi anh ấy chưa bao giờ ghi bàn). Đó cũng là bàn thắng đầu tiên và duy nhất của anh trong tổng số 47 trận đấu cho đội tuyển quốc gia Tây Đức. Kết thúc thời gian thi đấu, tỷ số trận đấu là 1–1, hai đội buộc phải bước vào hiệp phụ. Nếu trận đấu vẫn hòa sau hiệp phụ, thì sẽ có nhiều lá thăm được rút ra để quyết định đội nào sẽ đi tiếp vào trận chung kết. Gerd Müller đưa Tây Đức vượt lên dẫn trước phút thứ 94 sau một sai lầm phòng ngự của Fabrizio Poletti, người vừa vào sân thay người, nhưng Tarcisio Burgnich đã gỡ hòa chỉ bốn phút sau đó, kế đến tiền đạo Luigi Riva đưa người vượt lên dẫn trước. Chưa dừng lại đó, Müller cũng lập một cú đúp, lần này là một cú đánh đầu, giúp Tây Đức gỡ hòa 3–3. Tuy nhiên, khi chương trình truyền hình trực tiếp vẫn chiếu lại bàn thắng của Müller, tiền vệ người Gianni Rivera đã ghi bàn thắng ấn định chiến thắng phút 111. Bị bỏ ngỏ gần vòng cấm, Rivera đã nhận bóng từ đường chuyền hoàn hảo của Boninsegna và tung cú dứt điểm quyết định, mang về chiến thắng cho với tỷ số 4–3. TM 1 Enrico Albertosi HV 2 Tarcisio Burgnich HV 3 Giacinto Facchetti (c) HV 5 Pierluigi Cera HV 8 Roberto Rosato TV 10 Mario Bertini TV 15 Sandro Mazzola TV 16 Giancarlo De Sisti TĐ 13 Angelo Domenghini TĐ 20 Roberto Boninsegna TĐ 11 Luigi Riva TV 14 Gianni Rivera HV 4 Fabrizio Poletti Huấn luyện viên: Ferruccio Valcareggi TM 1 Sepp Maier HV 7 Berti Vogts HV 15 Karl-Heinz Schnellinger HV 5 Willi Schulz HV 3 Bernd Patzke TV 4 Franz Beckenbauer TV 12 Wolfgang Overath TĐ 20 Jürgen Grabowski TĐ 9 Uwe Seeler (c) TĐ 13 Gerd Müller TĐ 17 Hannes Löhr TV 14 Reinhard Libuda TV 10 Sigfried Held Huấn luyện viên: Helmut Schön | Trận cầu thế kỷ | Cạnh tranh bóng đá |
(8998) 1981 EG23 là một vành đai tiểu hành tinh ngoại tiếp. Nó được phát hiện bởi Schelte J. Bus Đài thiên văn Siding Spring gần Coonabarabran, New South Wales, Úc, ngày tháng năm 1981. *Danh sách các tiểu hành tinh: 8001–9000 | (8998) 1981 EG23 | Được phát hiện bởi Schelte J. Bus |
Ambrizal Ammar (sinh ngày tháng năm 1981) là một cầu thủ bóng đá người Indonesia who is currently plays vị trí Hậu vệ cho câu lạc bộ tại Liga Bhayangkara FC. Ngày tháng 12 năm 2014, anh lại ký hợp đồng với Persija Jakarta. ;Sriwijaya Vô địch Liga Indonesia: 2007–08 Piala Indonesia (3): 2007–08, 2008–09, 2010 | Ambrizal Ammar | Cầu thủ bóng đá Indonesia, Người Palembang, Sinh năm 1981, Nhân vật còn sống, Cầu thủ PSPS Pekanbaru, Cầu thủ bóng đá Semen Padang F.C., Cầu thủ bóng đá Sriwijaya FC, Cầu thủ bóng đá Persija Jakarta, Cầu thủ bóng đá Gresik United, Cầu thủ bóng đá Persebaya Surabaya, Cầu thủ bóng đá Liga (Indonesia), Cầu thủ đội tuyển bóng đá quốc gia Indonesia, Hậu vệ bóng đá |
Chandur là một thành phố và là nơi đặt hội đồng đô thị (municipal council) của quận Amravati thuộc bang Maharashtra, Ấn Độ. Chandur có vị trí Nó có độ cao trung bình là 231 mét (757 foot). Theo điều tra dân số năm 2001 của Ấn Độ, Chandur có dân số 17.720 người. Phái nam chiếm 52% tổng số dân và phái nữ chiếm 48%. Chandur có tỷ lệ 77% biết đọc biết viết, cao hơn tỷ lệ trung bình toàn quốc là 59,5%: tỷ lệ cho phái nam là 82%, và tỷ lệ cho phái nữ là 72%. Tại Chandur, 12% dân số nhỏ hơn tuổi. | Chandur | |
obtusa' là một loài thực vật có hoa trong họ Hòa thảo. Loài này được (Delile) Nees miêu tả khoa học đầu tiên năm 1832. Tập obtusa IMG 8586.JPG Tập obtusa IMG 8587.JPG Thể | null | |
Khái niệm in trong tiếng Việt có thể đề cập đến: In ấn Máy in In lụa In offset In màu Đồ họa in ấn In typo In thạch bản Giấy in phun Mạch in Máy in mã vạch Màu gốc in ấn Ta in là nhạc cụ dây của dân tộc Hà Nhì, Ký hiệu của nguyên tố Indi | in | |
Uông Văn Bân (; sinh tháng năm 1971) là một chính khách, nhà ngoại giao người Trung Quốc, đảng viên Đảng Cộng sản Trung Quốc, hiện là Phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa và Phó Vụ trưởng Vụ Thông tin Bộ Ngoại giao. Ông là phát ngôn viên thứ 32 kể từ khi chức vụ này được thành lập vào năm 1983. Ông từng là đại sứ Trung Quốc tại Tunisia từ năm 2018 và từng có một thời gian làm việc tại Đại sứ quán Trung Quốc Mauritius và Senegal. Uông Văn Bân sinh vào tháng năm 1971 tại tỉnh An Huy, Trung Quốc. Ông theo học tại trường trung học Nam Kinh Kim Lăng. Năm 1989, ông theo học chuyên ngành Pháp ngữ tại Trường Đại học Ngoại giao Trung Quốc. Sau khi tốt nghiệp, ông được phân công về Bộ Ngoại giao. Ông từng đảm nhiệm nhiều chức vụ ngoại giao khác nhau bao gồm phó giám đốc kiêm giám đốc Văn phòng Nghiên cứu Chính sách, tham tán chính trị của Đại sứ quán Trung Quốc tại Cộng hòa Mauritius, cố vấn của Cục Hoạch định Chính sách, và Phó Giám đốc Cục Hoạch định Chính sách. Ông được Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu Nhân dân Toàn quốc lần thứ 13 chỉ định thay thế Biên Yến Hoa làm Đại sứ tại Tunisia vào tháng năm 2018. Vào ngày 17 tháng năm 2020, ông được bổ nhiệm làm người phát ngôn của Bộ Ngoại giao, kế nhiệm Cảnh Sảng. Uông Văn Bân đã kết hôn và có một cô con gái. Uông Văn Bân trên trang web chính thức của Bộ Ngoại giao Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa | Uông Văn Bân | Sinh năm 1971, Người An Huy, Nhân vật còn sống, Phát ngôn viên Trung Quốc |
Quan hệ Pakistan Tòa Thánh là quan hệ đối ngoại giữa Pakistan và Tòa Thánh (Thành Vatican). Cả hai nước đều thiết lập quan hệ ngoại giao vào năm 1961. Tòa Thánh có một Tòa Sứ thần Islamabad. Đại sứ quán Pakistan Thụy Sĩ được công nhận là Đại sứ quán Pakistan tại Tòa Thánh. Các liên hệ ngoại giao của Tòa Thánh với Pakistan thông qua Ban thư ký của Nhà nước và Bộ Ngoại giao Pakistan. Các thực thể khác có lợi ích đặc biệt, bên cạnh Tòa Thánh, Hội Truyền giáo của nhân dân, giám sát tổ chức nội bộ của Giáo hội Công giáo Pakistan và mặt khác Bộ các vấn đề thiểu số, phía của chính phủ xem xét lợi ích của các Kitô hữu Pakistan. Ngày tháng 10 năm 2009, Asif Ali Zardari, Tổng thống Cộng hòa Hồi giáo Pakistan, gặp Giáo hoàng Biển Đức XVI tại dinh thự của ông Castelgandolfo và sau đó cũng đã gặp Ngoại trưởng Hồng Quốc vụ khanh Tarcisio Bertone và Tổng giám mục Dominique Mamberti, Tổng Thư ký của Tòa Thánh về Quan hệ với các Quốc gia. Những mối liên hệ trước đó mức tương tự bao gồm giữa Tổng thống Musharraf và Giáo hoàng Gioan Phaolô II vào ngày 30 tháng năm 2004. Vào tháng năm 1981, Giáo hoàng Gioan Phaolô II đã gặp Tổng thống Pakistan trong chuyến viếng thăm đất nước này. Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Shahbaz Bhatti đã gặp Ngoại trưởng Vatican Dominique Mamberti tại Cung điện Tông Tòa vào tháng năm 2010 sau trận lụt năm 2010 Pakistan. Chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng về Đối thoại Liên tôn, Hồng Jean-Louis Tauran đến thăm Pakistan vào tháng 11 năm 2010 và tổ chức các cuộc họp với Bộ trưởng Bộ Tôn giáo, Shahbaz Bhatti, và Chủ tịch Pakistan Asif Ali Zardari. | Quan hệ Pakistan Tòa Thánh | Công giáo Rôma tại Pakistan, Quan hệ song phương của Pakistan, Quan hệ song phương của Tòa Thánh |
là một xã tỉnh Côte-d’Or trong vùng phía đông nước Pháp. Xã nằm khu vực có độ cao trung bình từ 206 mét trên mực nước biển. Thị trấn nằm tả ngạn sông Ource, sông chảy theo hướng tây bắc qua đông bắc thị trấn. Dân số theo điều tra năm 1999 của INSEE là 213 người. Granceysurource | ||
Athyrium manickamii là một loài dương xỉ trong họ Athyriaceae. Loài này được Fraser-Jenk. mô tả khoa học đầu tiên năm 2008. Danh pháp khoa học của loài này chưa được làm sáng tỏ. | ''Athyrium manickamii | Athyrium, Unresolved names |
Ambon có thể đề cập đến: ;Địa điểm Đảo Ambon, một đảo của Indonesia. Ambon, Maluku, một thành phố trên đảo Ambon. Ambon, Morbihan, một xã của Morbihan, Pháp ;Khác Ambon (nghi thức tế lễ), nơi thẳng trước cửa Thánh tại một Nhà thời Chính thống giáo Đông phương Trận Ambon, trong Thế chiến thứ giữa quân Đông Minh và Nhật Bản trên đảo Ambon vào năm 1942 | Ambon | |
Constantin Fehrenbach, đôi khi Konstantin Fehrenbach (11 tháng năm 1852 26 tháng năm 1926) là một chính trị gia Công giáo Đức, là một trong những nhà lãnh đạo chính của Đảng Trung tâm. Ông từng giữ chức Chủ tịch Reichstag năm 1918, và sau đó là Chủ tịch Quốc hội Weimar từ năm 1919 đến năm 1920. Tháng năm 1920, Fehrenbach trở thành thủ tướng Đức. Ông đã từ chức tháng năm 1921 vì vấn đề thanh toán tiền đền bù chiến tranh cho Đồng minh. Fehrenbach đứng đầu nhóm Reichstag của Đảng Trung tâm từ năm 1923 cho đến khi ông qua đời vào năm 1926. Constantin (hay Konstantin) Fehrenbach sinh ngày 11 tháng năm 1852 tại Wellendingen gần Bonndorf trong khi đó là Công quốc của Baden là con của Johann Georg Fehrenbach, một giáo viên (1826-1955), và vợ ông Rosina (1832-1900), nhũ danh Gensecke. Từ năm 1871 đến năm 1878, Fehrenbach học thần học, sau đó là luật tại Freiburg im Breisgau và năm 1882 bắt đầu thực hành luật đó, nhanh chóng trở thành luật sư hình sự thành công. Năm 1879, Fehrenbach kết hôn với Maria (1855-1921), nhũ danh Hossner Freiburg. Họ có một con gái. | Constantin Fehrenbach | |
"Gangnam Style" (, (Phong cách Giang Nam) là một đĩa đơn của ca sĩ nhạc rap người Hàn Quốc PSY trình bày. Bài hát được ra mắt vào ngày 15 tháng năm 2012, và lần đầu tiên xuất hiện vị trí quán quân trong Gaon Chart, bảng xếp hạng quốc gia của Hàn Quốc, trở thành video nhạc Hàn Quốc thịnh hành nhất. Nó cũng được ghi vào lịch sử âm nhạc thế giới như ca khúc Hàn Quốc đầu tiên lọt vào được Top 10 bảng xếp hạng Billboard Hot 100 cũng như dẫn đầu Billboard Hot 100. Đến đầu tháng 9, nhiều flash mob "Gangnam Style" đã bắt đầu xuất hiện tại nhiều thành phố trên thế giới và "Gangnam Style" đã trở thành nguồn cảm hứng cho nhiều video chế và biểu hiện phản ứng, từ nhiều nguồn như The Oregon Duck, sinh viên từ Học viện Hải quân Hoa Kỳ, nhân viên từ Khu học chánh Houston, và kể cả chính quyền Bắc Triều Tiên. Ca sĩ Psy đã biểu diễn bài hát và điệu nhảy "Gangnam Style" đến nhiều nơi kể cả các chương trình truyền hình The Today Show, Saturday Night Live, Dodger Stadium, The Ellen DeGeneres Show, và trong các quảng cáo của Samsung. Thêm vào đó, nó đã được chia sẻ trên mạng bởi nhiều nhân vật công chúng, kể cả T-Pain, Katy Perry, Britney Spears, và Tom Cruise, và được các nhạc sĩ Nelly Furtado và Maroon hát phiên bản cover, được nhiều báo chí quốc tế nhắc đến như CNN International, The Wall Street Journal, Financial Times, Harvard Business Review, và nguyệt san Foreign Policy. "Gangnam Style" được khen ngợi vì có điệu nhạc dễ nhớ và vũ điệu vui nhộn trong video và trong các cuộc biểu diễn ngoài đời. Ngày 17 tháng 9, bài hát được đề cử cho giải Video hay nhất tại buổi lễ 2012 MTV Europe Music Awards được diễn ra tại Frankfurt, Đức và thắng giải vào tháng 11 cùng năm. Ngày 20 tháng năm 2012, "Gangnam Style" được Sách Kỷ lục Guinness công nhận là "Video được nhiều người thích nhất trong lịch sử YouTube". Đến cuối tháng 12/2012, Video Gangnam Style đã được xem hơn tỷ lần, trở thành video được xem nhiều nhất tại Youtube, vượt qua video "Baby" của Justin Bieber từng chiếm kỷ lục trước đó, với 800 triệu người xem. Ngày 7/5/2013, khi họp song phương với tổng thống Hàn Quốc, tổng thống Obama cũng có nhắc tới Gangnam Style như một sự cuốn hút trong văn hóa Hàn Quốc bởi người dân khắp thế giới. "Gangnam Style" (phong cách Giang Nam) là một từ mới có trong tiếng Triều Tiên, chỉ đến lối sống theo kiểu Khu Gangnam, một quận thành phố Seoul., nơi người dân có lối sống giàu có, sang trọng, và quý phái. Cụm từ này được Tuần báo Time giải thích là theo kiểu liên tưởng đến lối sống lãng phí tại Quận Gangnam Seoul.. Đây cũng là nơi nổi tiếng của tiệc tùng xa hoa, nơi người dân phung phí tiền của vào các mặt hàng xa xỉ để làm nổi bật và khoe sự giàu có của họ. PSY cho rằng Khu Gangnam tương tự với Beverly Hills, California, và cho biết trong một cuộc phỏng vấn rằng anh có chế giễu khi liên tục tự xưng cho rằng mình có phong cách sống "Gangnam Style" trong khi tất cả những gì về bài hát, điệu vũ, và video đều không phải là hạng sang hoặc cao nhã, quý phái thích hợp, và gần như đối lập, thô tục, có vẻ "quê mùa học làm sang". Trong một cuộc phỏng vấn khác với CNN, PSY cho rằng: Bài hát nhắc đến "cô bạn gái hoàn hảo, người biết khi nào trở thành tao nhã và khi nào trở thành hoang dại." Bài hát giúp giải nghĩa này khi ca sĩ thốt lên lời "Ehhhhh Sexy Lady!" Điệp khúc "오빤 강남 스타일 (Oppan Gangnam style)" có thể được dịch là "Anh có phong cách sống kiểu Gangnam", chỉ đến chính ca sĩ; Chữ "Oppa" trong tiếng Triều Tiên, tương tự như chữ "anh" trong tiếng Việt, được phụ nữ dùng để chỉ đến người phái nam lớn tuổi hơn. Điệu nhạc được sáng tác bởi PSY và Yoo Gun-hyung, một nhà sản xuất Hàn Quốc đã từng hợp tác với PSY. Lời bài hát được PSY sáng tác. "Gangnam Style" đã nhận được sự chú từ nhiều báo chí trên thế giới như Reuters, The New York Times, Los Angeles Times, Maura Judkis của tờ The Washington Post nói rằng, "'Gangnam Style' đã biến một vũ điệu nhìn thấy cực kỳ ngu xuẩn trở thành 'cool". Tuần báo thời sự Đức Der Spiegel cho rằng sự thịnh hành của "Gangnam Style" là nhờ vũ điệu táo bạo của nó. Các quốc gia mà Gangnam style đã lọt vào vị trí hàng đầu trong bảng xếp hạng Mesfin Fekadu của hãng thông tấn Associated Press viết rằng PSY "hiện giờ đang có một khoảnh khắc văn hóa đại chúng'"." Các điệu vũ của PSY thì "khá kỳ quái" nhưng video ca nhạc thì đầy "quần áo sắc màu, sống động". Ông cũng cho rằng PSY rất vui khi "kiểu màu sắc của anh đang được ca tụng Mỹ và trên thế giới." Deborah Netburn của tờ Los Angeles Times nói rằng nó là "một trong những video vĩ đại nhất từng được tải lên YouTube." Mặc dù "Gangnam Style" được đánh giá tích cực, một số người đã cho rằng nó điên khùng hay thậm chí là thô tục. Matt Buchanan và Scott Ellis của tờ The Sydney Morning Herald viết rằng video "gần như là vô nghĩa trong mắt người Tây phương" và nó đã "làm người xem tưởng rằng họ đã uống nhầm thuốc của ai." Paul Lester của tờ The Guardian cho rằng nó "nhạc rave Euro tầm thường với ghi-ta". Một nhà phê bình âm nhạc tại Hàn Quốc nhận định rằng yếu tố đã tạo nên sự thành công cho ca khúc này chính là sự hóm hỉnh, nhất là tính hài hước hầu như vắng bóng trên các sàn nhạc pop tại Hàn Quốc. Dù Psy lại không thuộc dòng nhạc K-pop chính thống, và nổi tiếng về lề lối trình diễn và cá tính khiêu khích của anh bên lề một xã hội Hàn Quốc luôn bị gò bó trong khuôn phép, vài lần video của anh đã bị cấm đối với các khán giả dưới 18 tuổi vì các cơ quan chức năng Hàn Quốc cho rằng các bài hát đó có ngôn từ và hình ảnh quá khiêu dâm hay quá thô tục. Sau khi phát hành "Gangnam Style", PSY đã biểu diễn ca khúc này tại một vài buổi hòa nhạc trên truyền hình Hàn Quốc. Sự xuất hiện đầu tiên là tại chương trình âm nhạc Hàn Quốc, The Music Trend. PSY cũng biểu diễn "Gangnam Style" tại một vài buổi hòa nhạc tại Mỹ trong chuyến bay của anh tới đây, gồm có "The Heumbbeok Show" và tại Buổi hòa nhạc Summer Stand tại Seoul, Hàn Quốc. Ngoài ra, PSY cũng biểu diễn ca khúc của mình tại các chương trình truyền hình nổi tiếng của Mỹ như The Ellen DeGeneres Show cùng với ca sĩ đình đám Britney Spears vào ngày 10 tháng năm 2012, tại Lễ trao giải Video âm nhạc của MTV năm 2012, trên chương trình truyền hình Today tại Thành phố New York, và trên Saturday Night Live (SNL). "Gangnam Style" đã chính thức được tái phát hành vào ngày 14 tháng năm 2012, là "Oppa Is Just My Style" () (Anh là phong cách của em), với giọng hát bổ sung bởi ca sĩ Hàn Quốc và thành viên 4Minute là Hyuna. Mallika Rao viết trên báo The Huffington Post rằng video này "dường như được diễn tả theo cách nhìn của một người phụ nữ, nhưng những khác biệt chính có thể nhận ra là ít cảnh cưỡi những con ngựa vô hình mà nhiều cảnh ngột ngạt ôm ấp hơn." Video âm nhạc này cũng đã được xem trên 150 triệu lần, chỉ vài tuần sau khi video được tải lên Youtube. Năm Quốc gia tổ chức Thành phố Buổi lễ Giải thưởng Kết quả Chú thích 2012 Đức Frankfurt MTV Europe Music Awards Best Video Hoa Kỳ Los Angeles American Music Awards New Media Honoree Trung Quốc Hong Kong Mnet Asian Music Awards Best Video Song of the Year Hàn Quốc Seoul Melon Music Awards Best Song 2013 Hoa Kỳ Los Angeles People's Choice Awards Favorite Music Video Pháp Cannes NRJ Music Awards Chanson Internationale de l'année (International Song of the Year) Clip de l'année (Music Video of the Year) Hoa Kỳ World Music Awards World's Best Song World's Best Video Tổng hợp những Clip HOT nhất của điệu nhảy Gangnam Style Gangnam Style Blog, cập nhật 5/1/2013 Gặp bé trai Nam Hàn gốc Việt trong 'Gangnam Style' báo Người Việt, 5/10/2012 | Gangnam Style | Đĩa đơn của PSY, Đĩa đơn năm 2012, Ca khúc K-pop, Hiện tượng Internet, Video lan truyền nhanh, Quận Gangnam, Bài hát tiếng Triều Tiên, Đĩa đơn quán quân tại Úc, Đĩa đơn quán quân tại Áo, Đĩa đơn quán quân tại Phần Lan, Đĩa đơn quán quân tại Đức, Đĩa đơn quán quân tại New Zealand, Đĩa đơn quán quân tại Na Uy, Đĩa đơn quán quân tại Tây Ban Nha, Đĩa đơn của Republic Records, Đĩa đơn của YG Entertainment, Bài hát năm 2012, Đĩa đơn quán quân Liban, Đĩa đơn quán quân UK Singles Chart, Đĩa đơn quán quân Gaon Digital Chart |
200px Một cung đường cua tay áo trên quốc lộ 12, Khammuane, Lào Một cột cây số trên quốc lộ 12 Quốc lộ 12 là tuyến giao thông đường bộ quốc gia của Lào. Quốc lộ này dài 145 km và nằm trọn trong tỉnh Khammuane. Điểm đầu là ngã ba giao cắt với quốc lộ 13 Nam tại Thakhek bên sông Mê Kông giáp với Thái Lan. Điểm cuối là cửa khẩu Naphao trên biên giới Lào-Việt. Hiện tại, quốc lộ 12 gồm làn xe ngược chiều. Mặt đường đá dăm láng nhựa. Đi qua một vùng địa hình núi rừng trùng điệp, quốc lộ 12 là tuyến đường thu hút nhiều khách du lịch. Đây còn là tuyến đường vận chuyển hàng hóa giao thương giữa Thái Lan và Lào với Việt Nam. Quốc lộ 12 của Lào được nhà cầm quyền Pháp xây dựng từ thời thực dân và nối liền với quốc lộ 12 bên phía Việt Nam qua cặp cửa khẩu Naphao-Cha Lo (Minh Hóa, Quảng Bình). | Quốc lộ 12 | Đường bộ Lào, Khammuane, Đường Xuyên |
Nam khu là một trong 18 quận của Hồng Kông. Quận nằm nửa phía nam của Đảo Hồng Kông. Dân số quận năm 2001 là 290.240 người. Đây là quận ít dân thứ tư tại Hồng Kông. Quận Nam đối diện với Biển Đông phía nam, và dựa lưng vào những ngọn núi, nơi là công viên của Hồng Kông. Phần phía đông của quận là khu vực nửa nông thôn và có một số bãi biển có tiếng tại Hồng Kông. Phần phía tây của quận là khu vực dân cư và phát triển công nghiệp. Hội đồng quận Nam Danh sách khu vực bầu cử (PDF) Danh sách khu vực bầu cử (PDF) Công viên Đại dương Hong Kong | Nam khu | |
Sư đoàn 6 là phiên hiệu một sư đoàn bộ binh của Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam. Phiên hiệu sư đoàn này được sử dụng lần đầu vào tháng 12 năm 1965, trực thuộc Mặt trận Tây Nguyên, hoạt động đến mùa khô năm 1968 thì giải thể. Tháng 11 năm 1974, phiên hiệu sư đoàn được sử dụng lần thứ hai, thuộc Quân khu Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam, tham chiến trong giai đoạn cuối cùng của Chiến tranh Việt Nam, đặc biệt với trận Xuân Lộc và Chiến dịch Hồ Chí Minh. Sau năm 1975, sư đoàn được giải tán, các đơn vị trực thuộc được chuyển sang các đơn vị khác. Sư đoàn được thành lập đầu tiên vào ngày 20 tháng 12 năm 1965, cùng với Sư đoàn là những sư đoàn chủ lực của Mặt trận Tây Nguyên. Biên chế gồm Trung đoàn 24A và Trung đoàn 88, tiểu đoàn pháo binh 200, tiểu đoàn súng máy cao xạ, tiểu đoàn trinh sát, đại đội công binh. Tuy nhiên, do các Trung đoàn 24 và 88 đang trên đường hành quân vào chiến trường, nên Sư đoàn chỉ mới hình thành Bộ tư lệnh, cơ quan sư đoàn và một số đơn vị trực thuộc. Vì vậy, đến tháng năm 1966, Bộ Tư lệnh B3 ra quyết định giải tán Sư đoàn bộ binh và Sư đoàn bộ binh (vốn là Sư đoàn bộ binh 325B đổi phiên hiệu). Mãi đến giữa tháng năm 1968, Sư đoàn 325C vào đến chiến trường Tây Nguyên. Phiên hiệu Sư đoàn được sử dụng cho đơn vị này, biên chế gồm các Trung đoàn bộ binh 95C và 101D. Đến mùa khô năm 1968, Bộ Tổng tư lệnh đã giải thể Sư đoàn và điều động các đơn vị vào miền Đông Nam Bộ để tăng cường cho lực lượng miền Đông Nam Bộ vốn bị tổn thất nặng nề. Phiên hiệu Sư đoàn được sử dụng lần thứ hai vào tháng 11 năm 1974 tại chiến trường Hoài Đức, Đồng Nai (nên được gọi là "sư đoàn Hoài Đức"). Biên chế gồm gồm Trung đoàn 4, 812, 33, ba tiểu đoàn đặc công, bốn tiểu đoàn trợ chiến và do đại tá Nguyễn Văn Phê (Hai Phê) làm sư trưởng. Ngay khi thành lập, E812 được sự hỗ trợ của E4 đã phối hợp với bộ đội địa phương tấn công chi khu Hoài Đức nhưng thất bại. Rút trung đoàn 812 ra khỏi sư Đầu tháng năm 1975, QK7 đưa sư gồm các trung đoàn 4, 33 vào Quân đoàn 4, tấn công Xuân Lộc. Sư được phối thuộc Trung đoàn 95B, giao nhiệm vụ phối hợp với lực lượng địa phương bao vây Xuân Lộc hướng Nam, Tây Nam Xuân Lộc từ tỉnh lộ sang quốc lộ từ Dầu Giây đến Bàu Cá, Hưng Lộc, đánh chiếm Tân Phú, Định Quán, cắt đứt lộ 20, lộ 1, chặn quân tiếp viện của phía Việt Nam Cộng hòa từ Quân đoàn (Biên Hòa) lên, tấn công Chiến đoàn 52 (Sư đoàn 18 Quân lực Việt Nam Cộng hòa) Dầu Giây, đánh chiếm các cao điểm Núi Thị, Con Rắn… khi Chiến dịch Hồ Chí Minh mở màn, Sư đoàn được giao nhiệm vụ đánh chiếm các mục tiêu trên trục Đường 1, thị xã Biên Hòa, cùng với Sư đoàn 341 đánh chiếm Bộ Tư lệnh Quân đoàn 3, Bộ Tư lệnh Sư đoàn và sân bay Biên Hòa, sau đó tiến về hướng Sài Gòn. Sau năm 1975, Sư đoàn giải thể. | Sư đoàn 6 | Chiến tranh Việt Nam, Đơn vị quân sự thành lập năm 1965, Đơn vị quân sự giải thể năm 1975 |
20304 Wolfson (1998 FA102) là một tiểu hành tinh vành đai chính được phát hiện ngày 31 tháng năm 1998 bởi Nhóm nghiên cứu tiểu hành tinh gần Trái Đất phòng thí nghiệm Lincoln Socorro. JPL Small-Body Database Browser ngày 20304 Wolfson | 20304 Wolfson | |
là một loài động vật có vú trong họ Macropodidae, bộ Hai răng cửa. Loài này được Gould mô tả năm 1841. Tập tin:Spectacled Hare Wallaby area.png Tập leichardti Gould.jpg Tập leichardti Gould 2.jpg Thể | null | Động vật được mô tả năm 1841 |