Phiên âm
stringlengths
2
277
Dịch nghĩa
stringlengths
2
192
__index_level_0__
int64
0
13.7k
Dật nhiệm điều trừ ấm quan, tụng quan, tạp lưu quan phục ngũ nguyệt.
Các ấm quan, tụng quan, được cất nhắc mà chưa có chỗ bổ và các quan tạp lưu để tang 5 tháng.
12,912
Quang Thái nguyên niên, đại xá, xưng Nguyên Hoàng .
Quang Thái năm thứ 1, đại xá, tự xưng là Nguyên Hoàng.
12,918
Minh khiến Đỗ Tử Hiền ô lân hình Văn Bác tê long chương lai phong, nhi Linh Đức dĩ ngộ hại.
Nhà Minh sai Đỗ Tử Hiền, Ổ Lân , Hình Văn Bác mang sắc rồng sang phong, nhưng Linh Đức đã bị hại rồi.
12,919
Tiền, Bắc sứ chí dẫn nhập Tường Phù môn, duy lân đẳng do Cảnh Dương môn.
Trước đây sứ phương Bắc tới thì dẫn qua cửa Tường Phù, chỉ có bọn Lân thì qua cửa Cảnh Dương.
12,920
Nhị nguyệt, táng Linh Đức đại vương vu An Bài sơn, mệnh Quý Tì chưởng kì sự .
Tháng 2, chôn Linh Đức Đại Vương ở núi An Bài, sai Quý Tỳ trông coi việc ấy.
12,921
Tam nguyệt, dĩ Đỗ Tử Trừng vi Ngự sử đại phu .
Tháng 3, lấy Đỗ Tử Trừng làm Ngự sử đại phu.
12,922
Hạ tứ nguyệt, dĩ Phạm Cự Luận vi Thiêm thư khu mật.
Mùa hạ, tháng 4, lấy Phạm Cự Luận làm Thiêm thư Khu mật
12,923
viện sự.
viện sự.
12,924
Ngũ nguyệt, dĩ Vương Khả Tuân giám Ý Yên Thần Dực quân, Dương Chương giám Thần Dũng quân .
Tháng 5, lấy Vương Khả Tuân coi quân Thần Dực ở Ý Yên, Dương Chương coi quân Thần Dũng.
12,926
Cửu nguyệt, Nông Cống nhân Nguyễn Kị tụ chúng kiếp lược, tự xưng Lỗ Vương Điền Kị .
Tháng 9, Nguyễn Kỵ, người Nông Cống, tụ họp bè lũ đi cướp bóc, tự xưng là Lỗ Vương Điền Kỵ .
12,927
Quý Li chỉnh tuyển thủ tinh danh vi cảm tử truy kích chi.
Quý Ly lựa lấy quân tinh nhuệ, dũng cảm, làm quân cảm tử, truy kích giặc.
12,928
Thuỷ.
Thuỷ
12,929
quân khai thung xuất chiến.
quân mở hàng cọc xông ra đánh.
12,930
Tặc nãi quyết yển xuất tượng xung chi.
Giặc liền phá đập chắn nước, tung voi trận xông ra.
12,931
Đa Phương quyền Thánh Dực quân tướng.
Nguyễn Đa Phương tạm chỉ huy quân Thánh Dực.
12,932
Thị dạ, Đa Phương dữ Khả Vĩnh mưu viết: Tặc thế như thử, ngã đẳng cô quân nan ư trì doãn.
Đêm đó, Đa Phương bàn với Khả Vĩnh: "Thế giặc như vậy, bọn ta cô quân, khó lòng cầm cự được lâu.
12,933
Nhược dục ban sư, tặc tất thừa cơ niếp hậu.
Nếu rút quân về, giặc nhất định thừa cơ đuổi theo".
12,934
Nãi hạ lệnh chư quân thịnh trướng kì xí hệ đại thuyền ư thung, lệnh nhân thủ canh dĩ khinh chu tiêu độn.
Bèn hạ lệnh các quân giăng nhiều cờ xí, buộc thuyền lớn vào cọc, sai người canh giữ, rồi lấy thuyền nhẹ đang đêm trốn chạy.
12,935
Bất đồ hậu hiệu dĩ thục tiền tội, nãi khí sư tiên quy vi tị tặc kế, hựu bất tự nhân thỉnh tội như cổ nhân chi vi, vô quân chi tâm trưởng hĩ.
Đã không lo dốc sức trận sau để chuộc tội lần trước, lại bỏ quân chuồn về trước để tránh mưu kế của giặc, rồi lại không tự trói mình chịu tội như người xưa vẫn làm.
12,936
Chí ư Đa Phương, Khả Vĩnh dĩ cô quân đương cường tặc nhi tiêu độn vị tất thâm trách.
Còn như Đa Phương, Khả Vĩnh vì đem cô quân chống giặc mạnh mà phải ngầm rút chạy thì chưa hẳn phải trách cứ nặng nề.
12,937
dụng Đa Phương nhĩ.
dùng Đa Phương đó thôi.
12,938
Thập nhất nguyệt, Thượng hoàng mệnh Trần Khát Chân tướng Long Tiệp quân xuất sư thảo tặc.
Tháng 11, Thượng hoàng sai Trần Khát Chân chỉ huy quân Long Tiệp ra quân đánh giặc.
12,939
Khát Chân phụng mệnh, khảng khái thế khấp bái từ.
Khát Chân vâng mệnh, khảng khái nhỏ nước mắt lạy tạ ra đi.
12,940
Linh Đức đệ Nguyên Diệu dục vi Linh Đức báo cừu, suất chúng hàng tặc .
Linh Đức là Nguyên Diệu muốn báo thù cho Linh Đức, đem quân đầu hàng giặc.
12,941
Dĩ Thái tể Nguyên trác tử Nhân Tịnh vương Nguyên Đĩnh vi Tư đồ, cựu Hàn Lâm học sĩ Trần tôn vi Thiếu bảo, cập gia thần Nguyễn Khang phụ chi .
Lấy Nhân Tĩnh Vương Nguyên Đĩnh, con trai Thái tể Nguyên Trác, làm Tư đồ; cựu Hàn lâm học sĩ Trần Tôn làm Thiếu bảo cùng gia thần là Nguyễn Khang làm phụ tá.
12,942
Nguyễn Đa Phương quy tự Ngu Giang, vị kỷ công cao, hữu đức sắc đa huỷ Quý Li vi bất tài.
Nguyễn Đa Phương từ sông Ngu về, cho rằng mình có công cao, có ý lên mặt, thường hay chê Quý Ly là bất tài.
12,943
Quý Li nãi tiếm viết: Nhân thính Đa Phương nhi trí bại.
Quý Ly liền gièm lại rằng vì nghe Đa Phương mà đến nỗi thất bại.
12,944
Sử thần Ngô Sĩ Liên viết: Đa Phương đảng ư Hồ thị, thiên kì hoặc thác thử dĩ tru chi dã.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Đa Phương vào bè với họ Hồ, có lẽ trời mượn cớ đó để giết hắn chăng?
12,945
Khả Vĩnh hậu vi Hồ thị nhi sát Thuận Tông, diệc dĩ đảng tử.
Khả Vĩnh sau vì họ Hồ mà giết Thuận Tông, rồi cũng vì việc bè đảng mà chết.
12,946
vi Hành khiển, chiêu tập vô tịch chi đồ vi Thần Kì, Dũng Đấu, Vô Hạn, đẳng quân phạm kinh sư.
làm hành khiển; chiêu tập những bọn không quê quán, lập các quân hiệu Thần Kỳ, Dũng Đấu, Vô Hạn, đánh vào kinh sư.
12,948
Nhị Đế hạnh Bắc Giang châu.
Hai vua sang châu Bắc Giang.
12,949
Sư Ôn cư tam nhật xuất đồn Nộn Châu.
Sư Ôn ở kinh sư ba ngày rồi ra đóng quân ở Nộn Châu .
12,950
Thượng hoàng khiến Tả Thánh Dực quân tướng Hoàng Phụng Thế thảo bình chi.
Thượng hoàng sai tướng chỉ huy quân Tả Thánh Dực là Hoàng Phụng Thế đi đánh, dẹp được.
12,951
Tiên thị, Phụng Thế dữ Chiêm Thành thủ tướng La Ngai tương trì ư Hoàng Giang, chí thị đắc mệnh đạo xuất Miệt Giang.
Trước đó, Phụ Thế cùng thủ tướng Chiêm Thành La Ngai cầm cự nhau ở sông Hoàng Giang, đến đây được lệnh này.
12,952
Thời đông thiên thuỷ hạc tuấn khai thuỷ đạo dĩ xuất chiến hạm.
Bấy giờ mùa đông, nước cạn, phải đào khơi dòng chảy cho thuyền chiến đi qua.
12,953
Nhất cổ toại cầm Sư Ôn, Tông Mại, Khả Hành, giai phục tru.
Đánh một trận, bắt sống được Sư Ôn, Tông Mại, Khả Hành, đều đem giết cả.
12,954
Thời, Bồng Nga dữ.
Khi ấy, Bồng Nga cùng với
12,955
Nguyên Diệu lĩnh chiến thuyền bách dư sưu lai quan quan quân hình thế.
Nguyên Diệu dẫn hơn một trăm thuyền chiến đến quan sát tình thế của quan quân.
12,956
Tặc chúng đại hội.
Quân giặc tan vỡ.
12,957
Khát Chân lệnh quân giám Lê Khắc Khiêm hàm kì thủ quắc thừa thuyền tấu tiệp vu Bình Than hành tại.
Khát Chân sai quân giám Lê Khát Khiêm bỏ đầu giặc vào hòm, đi thuyền về báo tin thắng trận ở hành tại Bình Than.
12,958
Thời, lậu hạ tam cổ, Thượng hoàng thuỵ thục, kinh khởi dĩ vi tặc phạm ngự doanh.
Bấy giờ đồng hồ đã điểm canh ba, Thượng hoàng đang ngủ say, giật mình tỉnh dậy, tưởng là giặc đánh vào ngự doanh.
12,959
Cập văn tiệp tấu vân dĩ hoạch Bồng Nga quắc, nãi đại hỉ, triệu quần.
Đến khi nghe tin thắng trận, nói là đã lấy được đầu Bồng Nga thì mừng lắm, cho gọi các quan
12,960
thần đế thị.
tới xem cho kỹ.
12,961
Bách quan triều phục hô: Vạn tuế.
Các quan mặc triều phục, hô "muôn năm".
12,962
Thị thời, Nghệ An nhân hoài nhị, Tân Bình, Thuận Hoá đa phản tòng Chiêm, cố thổ lí chi nhân tứ tán du kích mạc chi năng ngự.
Bấy giờ, người Nghệ An vốn ở hai lòng, còn Tân Bình, Thuận Hóc thì phần nhiều làm phản theo Chiêm Thành, cho nên người địa phương phân tán đánh lén khắp nơi, không ai ngăn được.
12,963
Thượng hoàng thưởng tứ đặc hậu quan chí Dực vệ tướng quân, hựu thăng Uy Minh tướng quân quản Tân Bình, Thuận Hoá Thánh Dực quân, đái kim vân phù .
Thượng hoàng thưởng cho rất hậu, cho làm tới Dực vệ quân, lại thăng làm Uy Minh tướng quân, chỉ huy quân Thánh Dực ở Tân Bình và Thuận Hoá, đeo vân phù vàng.
12,964
Nhị nguyệt, Đế hạnh Long Hưng, Kiến Xương, An Sinh bái yết chư lăng.
Tháng 2, vua ngự về Long Hưng, Kiến Xương, Yên Sinh, bái yết các lăng.
12,965
Hạ tứ nguyệt, gia tôn tiên đế.
Mùa hạ, tháng 4, tôn thêm huy hiệu cho các tiên đế,
12,966
tiên hậu huy hiệu cập các xứ thần chi thuỵ hiệu .
tiên hậu và thuỵ hiệu cho thần kỳ các nơi.
12,967
Lục nguyệt, nhị thập ngũ nhật, bạo phong đại vũ thuỷ .
Tháng 6, ngày 25, mưa bão lớn.
12,968
Dĩ Nguyên Diệu đệ Chương Tịnh Vương Nguyên hi vi Nhập nội kiểm hiệu hữu tướng quốc bình chương sự.
Lấy Chương Tĩnh vương Nguyên Hy, em trai Nguyên Diệu, làm Nhập nội kiểm hiệu tướng quốc bình chương sự.
12,969
Thời Chương Tĩnh Vương Nguyên hi nội bất tự an, cố hữu thị mệnh .
Bấy giờ Chương Tĩnh Vương Nguyên Hy trong lòng không yên , cho nên có lệnh này.
12,970
La Ngai quy chí Chiêm Thành, cứ quốc tự lập.
La Ngai về đến Chiêm Thành, chiếm nước, tự lập làm vua.
12,971
Bồng Nga tử, Chế Ma Nô Đà Nan dữ đệ Chế Sơn Nả khủng kiến sát, toại lai bôn.
Con của Bồng Nga là Chế Ma Nô Đà Nan và em là Chế Sơn Nô sợ bị giết, liền chạy sang ta.
12,972
Phong Ma Nô Đà Nan vi Hiệu chính hầu, Sơn Nả vi Á hầu .
Phong Ma Nô Đà Nan làm Hiệu chính hầu, Sơn Nô làm Á hầu.
12,973
Đông thập nguyệt, tuấn Thiên Đức giang.
Mùa đông, tháng 10, khơi sông Thiên Đức.
12,974
Lệnh An Hoạch thạch công quật khai Thiên Kiện sơn động, cập Khuẩn Mai sơn động thủ tiền sở tàng tiền hoá.
Sai thợ đá ở An Hoạch đào mở cửa hang núi Thiên Kiện và hang núi Khuẩn Mai để lấy tiền của chôn ở đó khi trước.
12,975
Thời, nhị sơn cụ băng, động khẩu khai tắc, tạc khai bất đắc, toại phế chi .
Nhưng bấy giờ cả hai núi đều bị lở, cửa hang bị lấp kín, đào mãi không được, phải bỏ.
12,976
Thập nhất nguyệt, thập tứ nhật, Tư đồ Chương Túc Quốc thượng hầu.
Tháng 11, ngày 14, Tư đồ Chương Tức Quốc thượng hầu
12,977
Nguyên Đán tốt.
Nguyên Đán mất.
12,978
Nguyên Đán vi nhân từ tường, nho nhã, hữu cổ quân tử phong.
Nguyên Đán là người hiền từ, nho nhã, có phong cách của bậc quân tử thời xưa.
12,979
Thượng hoàng đương hạnh kì đệ vấn tật, cập di hậu sự.
Thượng hoàng thường ngự đến nhà riêng của ông để thăm bệnh và hỏi việc sau này.
12,980
Nguyên Đán giai bất ngôn, đản viết: Nguyện Bệ hạ kính Minh quốc như phụ, ái Chiêm Thành như tử, tắc quốc gia vô sự, thần tuy tử thả bất hủ.
Nhưng Nguyên Đán đều không nói gì, chỉ thưa: "Xin bệ hạ kính nước Minh như cha, yêu ChiêmThành như con, thì nước nhà vô sự.
12,981
Thượng hoàng vi tác thi đề kì mộ.
Thượng hoàng có làm bài thơ đề trên mộ ông.
12,982
Đán thường tác Thập cầm thi hữu vân: Nhân ngôn ký tử dữ lão nha, bất thức lão nha liên ái phủ.
Nguyên Đán từng làm bài thơ Thập cầm có câu rằng: Nhân ngôn ký tử dữ lão nha, Bất thức lão nha liên ái phủ.
12,983
Sử thần Ngô Sĩ Liên: viết Chính kì nghị bất mưu kì lợi, minh kì đạo, bất kế kì công, quân tử tâm dã.
Sử thần Ngô Sĩ Liên nói: Làm rõ điều nghĩa mà không mưu lợi, làm sáng đạo lớn mà không kể công, đó là tấm lòng người quân tử.
12,984
thác tử Hồ thị vi thân hậu kế, đồ lợi nhi bất cố nghĩa, xá đạo nhi duy kế công ô túc vi hiền.
mưu lợi mà không nghĩ đến nghĩa, bỏ đạo mà chỉ tính đến công, sao gọi là người hiền được?
12,985
Tích kì học vấn kiến thức tri cập chi nhi nhân bất năng thủ chi dã.
Tiếc rằng học vấn kiến thức của ông biết trước được mọi điều mà lòng nhân thì không giữ được.
12,986
Thập nhị nguyệt, dĩ Phạm Thán vi Nghệ An phủ tri phủ.
Tháng 12, lấy Phạm Thán làm Tri phủ Nghệ An.
12,987
Tam nguyệt, Quý Li lệnh Tả Thánh Dực quân tướng Hoàng Phụng Thế tương binh xuất tiếu Chiêm Thành địa phương.
Tháng 3, Quý Ly sai viên tướng coi quân Tả Thánh Dực Hoàng Phụng Thế đem quân đi tuần đất Chiêm Thành.
12,988
Chiêm nhân thiết phục
Người Chiêm Thành đặt mai phục.
12,989
quân tự hội, vi tặc sở cầm.
tan vỡ, bị giặc bắt.
12,990
Quý Li dĩ Phụng Thế sở bộ đại đội phó tam thập nhân trảm chi.
Quý Ly sai chém 30 viên đại đội phó dưới quyền của Phụng Thế.
12,991
Phụng Thế dụng kế đắc thoát, phục chức như cố .
Phụng Thế dùng mưu kế thoát về, được phục chức như cũ.
12,992
Hạ tứ nguyệt, Quý li quân hồi .
Mùa hạ, tháng 4, Quý Ly đem quân về.
12,993
Ngũ nguyệt, Thái uý Trang Định đại vương ngạc xuất vong Nam Định trang.
Tháng 6, Thái uý Trang Định Vương Ngạc trốn ra trang Nam Định.
12,994
Hậu Quý Li soán quốc giáng ngạc vi Liệt hiệu phán hầu .
Sau Quý Ly cướp nước, giáng Ngạc làm Liệt hiệu phán hầu.
12,995
Thu bát nguyệt, Hoá Châu chư tướng luận lợi hại chi thế.
Mùa thu, tháng 8, các tướng Hoá Châu bàn về thế lợi hại.
12,996
Phan Mãnh viết: Thiên vô nhị nhật, dân vô nhị vương.
Phan Mãnh nói: "Trời không thể có hai mặt trời, dân không thể có hai vua!".
12,997
Chu Bỉnh Khuê viết: Dương liễu đa ngôn chúng giai bế khẩu.
Chu Bỉnh Khuê nói: "Dương liễu nhiều lời, mọi người ngậm miệng" .
12,998
Dĩ Đặng Tất vi Hữu châu phán, Hoàng Hối Khanh vi Chính hình viện đại phu.
Lấy Đặng Tất làm Hữu châu phán, Hoàng Hối Khanh làm Chính hình viện đại phu.
12,999
Ngự sử đại phu Đỗ Tử Trừng bất dĩ vi ngôn.
Ngự sử đại phu Đỗ Tử Trừng không nói gì đến việc ấy
13,000
Quý Li tác thi di chi viết: Tá vấn Tử Trừng nhu trung uý, Thư sinh hà nhẫn phụ bình sinh .
Quý Ly làm thơ gửi cho Trừng, có câu: Tá vấn Tử Trừng noạ trung uý, Thư sinh hà nhẫn phụ bình sinh.
13,001
Đông thập nhị nguyệt, dĩ La Tu vi Thanh Hoá phủ tri phủ .
Mùa đông, tháng 12, lấy La Tu làm Tri phủ phủ Thanh Hoá.
13,002
Tạo Thuỵ Chương điện.
Dựng điện Thuỵ Chương.
13,003
Hạ tứ nguyệt, hạn chiếu cầu trực ngôn.
Mùa hạ, tháng 4, hạn hán, xuống chiếu cầu lời nói thẳng.
13,004
Thượng hoàng lãm tấu dĩ thị Quý Li.
Thượng hoàng xem tờ tâu rồi đưa cho Quý Ly.
13,005
Hậu Quý Li chuyên chính Hoa ẩn độn bất xuất.
Sau Quý Ly chuyên chính, Mộng Hoa ẩn lánh không ra nữa.
13,006
Lục nguyệt, dĩ Phạm Cự Luận tri Khu mật viện sự .
Tháng 6, lấy Phạm Cự Luận tri Khu mật viện sự.
13,007
Thu thất nguyệt, cải Lê Nhân.
Mùa thu, tháng 7, đổi tên cho Lê Nhân
13,008
Thống danh Cảnh Kì nhập chính phủ vi Hành Khiển .
Thống thành Cảnh Kỳ, lấy vào chính phủ làm Hành khiển.
13,009
Cửu nguyệt, dĩ Hà Đức Lân vi hành khiển tả ti .
Tháng 9, lấy Hà Đức Lân làm Hành khiển tả ty.
13,010
Đông thập nguyệt, trí các xứ giang khai cập tuần phủ giám bổ khấu đạo, hoặc tam đô, tứ đô, ngũ đô tuỳ kì xung yếu thiết chi.
Mùa đông, tháng 10, đặt các quan cửa sông và tuần thú ở các xứ để xét bắt trộm cướp, mỗi xứ tuỳ vị trí xung yếu có thể đặt 3, 4 hay 5 đô .
13,011
Phan Phu Tiên viết: Trần tự Dụ Tông hoang túng chi hậu, gia dĩ Chiêm Thành xâm nhiễu, khấu tặc phồn đa, bạch nhật lược nhân pháp bất năng cấm.
Phan Phu Tiên nói: Nhà Trần từ sau khi Dụ Tông hoang dâm phóng túng, lại thêm Chiêm Thành xâm lược, quấy rối, thì giặc cướp rất nhiều.
13,012
Quý Li chấp chính thuỷ thiết pháp tuần bổ thiểu ức chi hĩ.
Quý Ly soạn sách Minh đạo gồm 14 thiên dâng lên.
13,013
Thập nhị nguyệt, chiếu phàm quân dân đào dịch phạt tiền thập cưỡng, thích hạng tứ tự, đầu mục trảm tội, điền thổ một quan .
Tháng 12, xuống chiếu rằng quân lính và dân thường hễ ai trốn việc lao dịch thì phải phạt 4 quan tiền, thích vào gáy 4 chữ, kẻ đầu mục thì xử tội chém, ruộng đất sung công.
13,014
Thượng hoàng tứ chiếu tưởng dụ chi.
Thượng hoàng ban chiếu dụ khen.
13,015
Tự sinh dân dĩ lai, vị hữu thịnh ư Khổng Tử giả, nhi cảm khinh nghị chi diệc bất tri lượng dã.
Từ khi có sinh dân đến nay, chưa có ai nổi tiếng hơn Khổng Tử, thế mà Quý Ly lại dám khinh suất bàn về ngài thì thực là không biết lượng sức mình.
13,016
Thu thất nguyệt, bạo phong đại vũ .
Mùa thu, tháng 7, gió dữ, mưa lớn.
13,018
hoàng Đông thập nguyệt, dĩ Thái Dương công chúa giá Thái bảo Hàng.
Mùa đông, tháng 10, đem công chúa Thái Dương gả cho Thái bảo Hãng.
13,019