text
stringlengths 1
148k
| label
int64 0
2
| __index_level_0__
int64 0
113k
⌀ |
---|---|---|
Đô thị Nybro (tiếng Thụy Điển: "Nybro kommun") là một đô thị ở hạt Kalmar của Thụy Điển. Thủ phủ là thị xã Nybro. Dân số thời điểm 31 tháng 12 năm 2000 là 19785 người.
Đô thị này có khoảng vài trăm người sinh sống cho đến khi có đường sắt vào cuối thế kỷ 19, và thị trấn Nybro nằm ở vị trí giữa Kalmar ở bờ biển phía đông và Gothenburg ở bờ biển phía tây; sau đó cũng trên tuyến đường sắt từ Kalmar và Malmö ở phía tây nam. Cho đến lúc đó Nybro chủ yếu bao gồm các ngành công nghiệp nhỏ, bao gồm một nhà máy diêm, được đánh dấu bởi tính chất rừng Småland truyền thống, phần lớn không thích hợp cho nông nghiệp.
Các đơn vị dân cư.
Có chín khu vực đô thị trong Đô thị Nybro.
Bảng này liệt kê các khu vực đô thị và dân số thống kê ngày 31 tháng 12 năm 2005. Thủ phủ được in đậm. | 1 | null |
Đô thị Orust (tiếng Thụy Điển: "Orust kommun") là một đô thị ở hạt Västra Götaland của Thụy Điển. Cách thành phố Gothenburg khoảng 80 km về phía bắc. Đảo này có diện tích khoảng 345 km², là đảo lớn thứ ba ở Thụy Điển.
Thủ phủ là thị xã Orust. Dân số thời điểm 31 tháng 12 năm 2000 là 15023 người.
Cơ Sở Hạ Tầng và Giao Thông.
Giao thông giữa Orust và đất liền diễn ra chủ yếu thông qua hệ thống phà và cầu. Cầu của Orust (Orustbron) kết nối đảo này với đất liền. Các tuyến đường nội địa trải dài qua đảo, giúp du khách và cư dân dễ dàng di chuyển.
Nền Kinh Tế.
Nền kinh tế Orust có thể phản ánh các hoạt động như chài lưới, nuôi trồng thủy sản, và du lịch. | 1 | null |
Khu tự quản Stockholm ( hoặc là một khu tự quản ở hạt Stockholm của Thụy Điển. Thủ phủ là thành phố Stockholm. Dân số vào thời điểm 31 tháng 12 năm 2000 là 750.348 người. Khu tự quản này có dân số lớn nhất trong số 290 khu tự quản của Thụy Điển, nhưng là một trong những khu vực nhỏ nhất, khiến nó trở nên đông dân nhất. Đây cũng là khu tự quản đô thị đông dân nhất trong các nước Bắc Âu.
Mặc dù về mặt pháp lý là một đô thị với tên chính thức "Stockholms kommun", hội đồng khu tự quản () đã quyết định sử dụng tên "Stockholms stad" ("Thành phố Stockholm") bất cứ khi nào có thể. Điều này hoàn toàn là danh nghĩa và không có hiệu lực đối với tình trạng pháp lý của khu tự quản.
Về mặt địa lý, đô thị bao gồm Trung tâm thành phố Stockholm và hai khu vực ngoại ô, Söderort (Nam Stockholm) và Västerort (Tây Stockholm). Về mặt hành chính, nó được chia thành 14 quận (đôi khi được gọi không chính xác là "quận" trong tiếng Anh), được quản lý bởi các hội đồng quận (). | 1 | null |
Đô thị Tjörn (tiếng Thụy Điển: "Tjörn kommun") là một đô thị ở hạt Västra Götaland của Thụy Điển. Thủ phủ là thị xã Tjörn. Dân số thời điểm 31 tháng 12 năm 2000 là 14733 người.
Hằng năm vào mùa hè, dân số của Skärhamn tăng lên từ 10.000 đến khoảng 30.000 người khi du khách ở khắp mọi nơi đổ về đây để tham gia các hoạt động như đi du thuyền và bơi lội. Skärhamn tự hào khi sở hữu một bến cảng rộng lớn, được thiết kế đặc biệt để phục vụ du khách du lịch dọc theo bờ biển phía tây Thụy Điển. Thị trấn Skärhamn nổi tiếng với việc là nơi đặt Bảo tàng Màu nước Bắc Âu (Akvarellmuseet), nơi lưu giữ và trưng bày nghệ thuật mỹ thuật nước của khu vực. | 1 | null |
Trần Thị Tùng (chữ Hán: 陳氏松, ? - 1509), hay còn gọi Uy Mục Trần hoàng hậu (威穆陳皇后) theo sách sử, là Hoàng hậu duy nhất của hoàng đế Lê Uy Mục, vị quân chủ thứ 8 của triều đại nhà Lê sơ.
Theo thể chế hậu phi trước đó chưa từng lập Hoàng hậu, bà là vị Hoàng hậu đầu tiên được sắc phong của triều đại nhà Lê.
Tiểu sử.
Trần hoàng hậu có tên húy là Tùng (松), là con gái cả của một viên quản lĩnh họ Trần, dòng dõi cháu ngoại của hoàng tộc nhà Trần cũ (có nguồn cho là thuộc dòng dõi của Thượng thư Trần Văn Huy, 1410 - 1485), nhà ở trang Nhân Mục Môn, huyện Thanh Trì (nay là phường Quan Nhân, Quận Thanh Xuân, Hà Nội). Quản lĩnh họ Trần có hai con gái, con gái cả là Tùng, con gái thứ là Trúc (竹), nổi tiếng có nhan sắc.
Năm Đoan Khánh thứ 2 (1506), Trần Thị Tùng tiến cung, được lập làm Hoàng hậu. Bà sinh được một hoàng tử nhưng chết non, sau đó em gái bà là Trúc cũng tiến cung.
Thời Lê Uy Mục, ngoại thích hoành hành. Trong số đó có thế lực vùng Hoa Lăng của Nguyễn Kính phi, mẹ nuôi của Lê Uy Mục; thế lực vùng Nhân Mục của Trần hoàng hậu; thế lực vùng Phù Chẩn quê hương của phi tần Nguyễn Thị Cận, mẹ ruột của Lê Uy Mục. Ngược lại, Lê Uy Mục lại tiến hành bắt giam, giết chết các hoàng thất dòng họ Lê.
Năm Đoan Khánh thứ 5 (1509), Lê Uy Mục bị lật đổ và bị giết. Trần hoàng hậu trốn ra đến xã Hồng Mai (nay là khu Bạch Mai, Hà Nội), náu ở nhà dân một thời gian. Nhưng rồi lại chạy lên một ngôi chùa nhỏ. Sau có lẽ không thể thoát được, bà tự thắt cổ chết ở miếu chùa. Phe ngoại thích của Hoàng hậu cũng vì bị truy sát (gắn với sự kiện tàn sát nhầm người làng Hoà Mục hay Nhân Mục Tàn năm 1510) nên mới trốn chạy và đổi họ, cũng có người nổi dậy như Trần Tuân (vào khoảng năm 1510 - 1511) và Trần Cảo (vào năm 1516) | 1 | null |
Vườn quốc gia Mikumi là một vườn quốc gia ở Mikumi, gần Morogoro, Tanzania. Vườn quốc gia Mikumi giáp phía Nam với khu bảo tồn thú săn Selous, hai khu tạo thành một hệ sinh thái độc đáo. Hai khu vực bảo tồn tự nhiên khác giáp với vườn quốc gia này là núi Udzungwa và núi Uluguru. Vườn quốc gia này được thành lập vào năm 1964, hiện có diện tích 3230 km ² và là lớn thứ tư ở trong quốc gia này. Quốc lộ A-7 Tanzania chạy qua vườn quốc gia Mikumi. Cảnh quan của Mikumi thường được so sánh với vườn quốc gia Serengeti. Con đường đi qua công viên chia thành hai khu vực với môi trường một phần riêng biệt. Khu vực phía tây bắc là đặc trưng của vùng đồng bằng phù sa của các lưu vực sông Mkata. Thảm thực vật của khu vực này bao gồm thảo nguyên rải rác với keo, bao báp, me, và ít cây cọ. Trong khu vực này, xa từ đường, có thành đá ngoạn mục của các núi Rubeho và Uluguru. Phần phía đông nam của công viên là phong phú về động vật hoang dã, và rất dễ tiếp cận.
Động vật bao gồm nhiều loài đặc trưng của thảo nguyên châu Phi. Theo hướng dẫn địa phương Mikumi, cơ hội nhìn thấy một con sư tử trèo lên một thân cây lớn hơn so với Manyara (nổi tiếng là một trong những nơi mà những con sư tử thực hiện hành vi này). Vườn quốc gia này có một phân loài hươu cao cổ, các nhà sinh vật học xem xét mối liên hệ giữa con hươu cao cổ Masai và con hươu cao cổ Somali. Các động vật khác trong công viên là voi, ngựa vằn, gnu, xiên, linh dương châu Phi, kudu, linh dương đen, khỉ đầu chó, linh dương đầu bò và trâu hoang. Vào khoảng 5 km từ phía bắc của vườn quốc gia, có hai hồ nhân tạo nơi sinh sống của hà mã. Hơn 400 loài chim khác nhau cũng sống trong công viên. | 1 | null |
Nguyễn Kính phi (chữ Hán: 阮敬妃; ? - ?) là một phi tần của hoàng đế Lê Hiến Tông, mẹ nuôi của Lê Uy Mục thuộc triều đại nhà Hậu Lê trong lịch sử Việt Nam.
Bà nuôi dưỡng Uy Mục đế từ nhỏ, khi Uy Mục trưởng thành bà có công rất lớn trong việc đưa ông lên ngôi hoàng vị. Về sau, người trong họ ngoại thích của bà lũng đoạn triều chính, Lê Tương Dực đã cho bắt giết hết tất cả.
Tiểu sử.
Kính phi Nguyễn thị quê ở xã Hoa Lăng, huyện Thủy Đường (nay là huyện Thủy Nguyên, ngoại thành Hải Phòng). Không rõ xuất thân ra sao, cũng như cha mẹ bà là ai.
Ngày 5 tháng 5, năm Hồng Đức thứ 19 (1488), Nguyễn Thị Cận sinh con, không may mất sớm. Đứa bé được bà nhận nuôi làm con, lớn lên tên Lê Tuấn (黎晭).
Khi Lê Hiến Tông ốm nặng, bà đút lót hai vị đại thần là Đàm Văn Lễ và Nguyễn Quang Bật, nhờ họ sửa di chiếu để lập con nuôi của bà làm Hoàng đế. Tuy nhiên, hai vị này khước từ, quyết chí lập Lê Thuần lên ngôi, tức Lê Túc Tông. Việc này làm Uy Mục căm tức.
Ngày 8 tháng 12, năm Thái Trinh thứ 1 (1504), Túc Tông Khâm hoàng đế băng hà khi mới 17 tuổi. Chỉ định Lê Tuấn lên kế vị, nhưng Huy Gia Thái hoàng thái hậu cho rằng mẹ Lê Tuấn xuất thân hèn kém, muốn lập Lã Côi vương (không rõ tên). Kính phi cùng hoạn quan Nguyễn Nhữ Vi lừa Thái hậu ra khỏi hoàng cung, sắp đặt người làm lễ đưa Lê Tuấn nhanh chóng kế vị, tức Lê Uy Mục.
Sau khi lên ngôi, Uy Mục rất biết ơn bà, tháng 4 năm 1505, Uy Mục cho xây Tôn Dự đường ở Hoa Lăng để thờ cúng tổ tiên bà. Đồng thời cất nhắc người trong họ bà, đưa vào triều làm quan và giữ nhiều chức vụ quan trọng, cả dòng họ nhanh chóng hiển quý và xa hoa.
Thế lực vùng Hoa Lăng của bà, là một trong 3 thế lực ngoại thích chi phối toàn bộ đất nước cuối thời Uy Mục; 2 thế lực kia là vùng Phù Chẩn của bà Chiêu Nhân Duệ hoàng hậu và vùng Nhân Mục của bà Trần hoàng hậu.
Về sau, Lê Tương Dực khởi binh vào kinh, giết chết Uy Mục Đế, người trong họ bà đều bị đem đi xử trảm. | 1 | null |
Trâu rừng châu Phi (tên tiếng Anh: African buffalo hoặc Cape buffalo (trâu Cape), danh pháp hai phần: "Syncerus caffer") là một loài lớn thuộc họ Trâu bò ở châu Phi. Loài trâu này không có họ hàng gần với trâu nước hoang dã châu Á lớn hơn chút ít, tổ tiên của loài vẫn còn chưa rõ ràng. "Syncerus caffer caffer", trâu Cape, là phân loài điển hình và lớn nhất, sinh sống ở nam và đông châu Phi. "S. c. nanus" (trâu rừng rậm) là phân loài nhỏ nhất, thường sống nơi khu vực rừng rậm ở trung và tây châu Phi, trong khi "S. c. brachyceros" ở tây châu Phi và "S. c. aequinoctialis" trong xavan trung Phi. Sừng trâu trưởng thành là đặc điểm tiêu biểu của loài, cặp sừng hợp nhất tại bệ góc, tạo thành một lá chắn xương liên tiếp được gọi là một "cái bướu". Trâu châu Phi được xem là một loài động vật rất dữ tợn và hung hăng, có thể chạy với vận tốc từ 50–60 km/h. Chúng được cho là đã húc và giết chết hơn 200 người mỗi năm.
Trâu châu Phi không là tổ tiên với bò nhà và chỉ có họ hàng xa với nhiều loài trâu bò lớn khác. Do tính khí không thể đoán trước, trâu châu Phi rất nguy hiểm với con người. Loài trâu này chưa bao giờ được thuần hóa, không giống trâu nước tại châu Á. Trừ con người, trâu châu Phi chỉ có một vài loài thiên địch trong tự nhiên và có đủ khả năng phòng vệ bản thân. Là một thành viên của "năm loài thú săn lớn", trâu châu Phi là chiến lợi phẩm có nhu cầu lớn đối với hoạt động săn bắn hợp pháp của con người.
Mô tả.
Trâu châu Phi rất cường tráng. Chiều cao bờ vai khoảng từ và chiều dài từ đầu đến hết thân khoảng từ . So với các loài lớn khác thuộc phân họ Bovinae, trâu châu Phi có một cơ thể dài nhưng chắc nịch (chiều dài cơ thể có thể vượt qua trâu nước hoang dã, nặng hơn và cao hơn) và chân ngắn nhưng chắc nịch, do đó chiều cao của chúng khi đứng là tương đối thấp. Đuôi dài khoảng . Trâu khi trưởng thành nặng từ , con đực thường lớn hơn con cái, đạt phạm vi trọng lượng lớn hơn. Nếu so sánh với loài trâu sống nơi rừng rậm, khoảng , chỉ bằng một nửa kích thước so với chúng. Đầu thấp; đỉnh đầu nằm dưới sống lưng. Các móng guốc phía trước rộng hơn so với phía sau, đó là liên kết với sự cần thiết hỗ trợ trọng lượng của phần phía trước của cơ thể, nó nặng hơn và mạnh mẽ hơn phần lưng.
Trâu đồng cỏ có bộ lông màu đen hoặc nâu sẫm tùy theo lứa tuổi. Trâu đực lớn có vòng tròn màu trắng xung quanh mắt. Trâu cái bộ lông có xu hướng hung đỏ hơn. Trâu sống ở rừng rậm thường có màu nâu hơi đỏ với cặp sừng cong ngược và vút nhẹ lên. Nghé con của cả hai loại có bộ lông màu đỏ.
Một đặc trưng tiêu biểu của cặp sừng trâu đực châu Phi trưởng thành là sự hợp nhất bệ góc sừng, tạo nên một lá chắn xương liên tiếp được gọi là một "cái bướu". Từ góc sừng, cặp sừng phân tách hướng xuống, sau đó cong nhẹ lên trên và hướng ra ngoài. Trâu đực lớn, khoảng cách giữa hai điểm cuối cặp sừng có thể đạt trên 1 mét. Cặp sừng hình thành hoàn chỉnh khi con vật đến 5 hoặc 6 năm tuổi. Trâu cái, sừng đạt trung bình, nhỏ hơn 10-20% so với con đực và bướu cũng ít nổi bật hơn. Sừng trâu rừng rậm có kích thước nhỏ hơn so với trâu đồng cỏ, thường đo được ít hơn , hầu như không bao giờ hợp nhất.
Sinh thái.
Trâu châu Phi là một trong những loài động vật ăn cỏ lớn nhất và phổ biến nhất ở châu Phi. Chúng sống tại đầm lầy và vùng ngập nước, cũng như đồng cỏ có mọc loại đậu mopane hay rừng rậm tại các vùng núi chủ yếu của châu Phi. Loài trâu này thích môi trường sống nhiều lùm cây rậm rạp, như lau sậy hay bụi cây, nhưng cũng có thể được tìm thấy tại miền rừng thông thoáng. Trong khi không phải là nhu cầu lớn liên quan đến môi trường sống, nhưng trâu cần nước hàng ngày, do đó phụ thuộc vào nguồn nước chảy quanh năm. Giống như ngựa vằn đồng bằng, trâu có thể sống tại đồng cỏ thô, cao. Những đàn trâu cắt cỏ xuống và dọn đường cho nhiều loài gặm cỏ chọn lọc hơn. Khi ăn, trâu sử dụng cái lưỡi và dãy răng cửa rộng để gặm cỏ nhanh hơn so với hầu hết các loài ăn cỏ châu Phi khác. Trâu không ở lại tại khu vực cỏ giẫm nát hoặc cạn kiệt trong thời gian dài.
Bên ngoài con người, trâu châu Phi có vài kẻ thù tự nhiên khác và có khả năng phòng vệ chống lại (hoặc giết) sư tử - thiên địch lớn nhất của chúng Sư tử giết và ăn thịt trâu thường xuyên. Trong vài khu vực, trâu châu Phi là con mồi chính của sư tử. Thông thường phải có nhiều con sư tử hợp sức với nhau mới quật ngã được một con trâu trưởng thành, do đó sư tử thường đi cả đàn lớn khi săn chúng. Tuy nhiên, nhiều sự cố được báo cáo, đôi khi sư tử đực trưởng thành đơn lẻ có thể quật ngã thành công một con trâu lớn. Cá sấu có kích thước trung bình thường chỉ tấn công trâu đơn độc già và nghé non, mặc dù chúng có thể giết chết trâu trưởng thành khỏe mạnh. Tuy nhiên, đối với cá sấu sông Nile đực có kích cỡ to lớn hơn nhiều, chúng có thể trở thành một kẻ săn mồi cơ hội đối với trâu. Loài cá sấu này là loài động vật duy nhất thường hạ gục một con trâu trưởng thành mà không cần đồng loại giúp sức, trong khi tấn công bằng bầy đàn là phương pháp ưa thích của sư tử khi hạ gục con mồi lớn như vậy. Báo săn, báo hoa và linh cẩu đốm là một mối đe dọa duy nhất đến nghé con sơ sinh, mặc dù linh cẩu đốm từng được ghi nhận đã tấn công bằng bầy đàn lớn với những con trâu cái (thông thường đang mang thai), và trong những dịp rất hiếm, là cả trâu đực trưởng thành.
Bệnh tật.
Trâu châu Phi dễ bị nhiễm nhiều bệnh, gồm có bệnh lao bò, bệnh lang, hoặc lở mồm long móng. Cũng như với nhiều loại bệnh, những vấn đề này vẫn sẽ không xảy ra trong phạm vi một quần thể miễn là sức khỏe con vật tốt. Song, bệnh tật hạn chế thói quen di chuyển thông thường của con vật và chính sách rào chắn khu vực đang bị dịch từ khu vực không ảnh hưởng được thi hành. Một số người quản lý và quản lý trò chơi đã quản lý để bảo vệ và nhân giống những đàn "không bệnh" trở nên rất có giá trị vì chúng có thể được vận chuyển. Nổi tiếng nhất là nỗ lực của Lindsay Hunt nhằm bảo tồn nguồn động vật không bị lây nhiễm bệnh từ Vườn quốc gia Kruger tại Nam Phi. Một số trâu không bị bệnh ở Nam Phi đã được bán cho các nhà lai tạo, gây giống với giá gần 130,000 $US.
Hành vi xã hội.
Kích thước bầy đàn của trâu châu Phi có thể dao động khá lớn. Cốt lõi của bầy đàn được tạo thành có liên quan đến trâu cái và những con nghé của nó, trong một hệ thống phân cấp thống trị gần như tuyến tính. Đàn cơ bản được bao quanh bởi đàn con của các con đực cấp dưới, con đực cấp cao, con cái và con già hoặc tàn phế. Những con đực trẻ luôn giữ khoảng cách với những con trâu đực trưởng thành vượt trội, những con được nhận biết bởi độ dày cặp sừng. Trong mùa khô, trâu đực sẽ tách khỏi đàn và hình thành nhóm con đực đơn thân. Hai loại đàn trâu đực đơn thân diễn ra: một là những con đực tuổi từ 4-7 năm và hai là những con đực 12 tuổi trở lên. Trong mùa mưa, trâu đực trẻ tham gia lại đàn để giao phối với những con cái. Chúng sẽ ở lại với đàn trong suốt mùa để bảo vệ nghé con. Một số trâu đực lớn tuổi không còn tái gia nhập bầy đàn, khi chúng không còn có thể cạnh tranh với con đực trẻ tuổi vốn khỏe mạnh và hung hăng hơn. Con đực có hệ thống phân cấp thống trị tuyến tính dựa trên tuổi và kích thước. Vì một con trâu an toàn hơn khi sống trong một đàn lớn mạnh hơn, trâu đực nổi trội có thể dựa vào con đực cấp dưới và đôi khi chịu được sự kết nối của chúng.
Trâu đực trưởng thành sẽ đấu sừng, tương tác ưu thế hay chiến đấu thực tế. Một con trâu đực sẽ tiếp cận một con đực khác, rống lên, với cặp sừng cụp xuống và chờ cho con trâu đực khác làm điều tương tự. Khi đấu sừng, trâu đực xoắn sừng từ bên này sang bên kia. Nếu đấu sừng chơi đùa, trâu có thể chà mặt và cơ thể đối phương trong suốt cuộc đấu sừng. Chiến đấu thực tế sẽ bạo lực hơn nhưng rất hiếm và thời gian diễn ra khá ngắn. Nghé con cũng có thể tham gia trong cuộc chơi này, nhưng trâu cái trưởng thành hiếm khi đấu sừng.
Trâu châu Phi đáng chú ý vì biểu hiện tập tính vị tha. Trâu cái xuất hiện tính phô bày một số loại "hành vi bầu chọn". Trong thời gian nghỉ ngơi, trâu cái sẽ đứng lên, lê bước xung quanh, và ngồi xuống trở lại. Chúng sẽ ngồi theo hướng mà chúng nghĩ nên di chuyển. Sau một giờ lê bước, trâu cái đi theo hướng chúng quyết định. Quyết định này là chúng và không dựa trên hệ thống phân cấp hoặc ưu thế. Khi bị săn đuổi bởi các loài động vật ăn thịt, một đàn sẽ gắn bó chặt chẽ với nhau và gây khó khăn cho kẻ săn mồi để chọn ra một thành viên thích hợp để tấn công. Nghé con sẽ được dồn vào ở trung tâm. Một đàn trâu sẽ phản ứng với tiếng kêu cứu của một thành viên đang bị thú ăn thịt vây bắt và cố gắng giải cứu nó. Tiếng kêu cứu của con nghé sẽ nhận được sự quan tâm của không chỉ trâu mẹ, mà còn là cả đàn. Trâu sẽ tham dự vào hành vi đám đông khi chiến đấu với kẻ thù. Chúng được ghi nhận là có thể giết chết một con sư tử, đuổi con sư tử trèo lên cây và buộc nó phải ở trên đó trong hai giờ, sau khi sư tử cắn chết một thành viên của đàn. Sư tử con có thể bị giẫm đạp và bị giết bởi trâu. Trong một đoạn video tự quay, được gọi là "Battle at Kruger" (cuộc chiến tại Kruger), một con nghé may mắn sống sót sau khi thoát khỏi một cuộc tấn công của hai con sư tử và một con cá sấu, sau khi có sự can thiệp của cả đàn.
Tiếng rống.
Trâu châu Phi phát ra các âm thanh khác nhau. Nhiều tiếng kêu là phiên bản cường độ thấp của tiếng kêu phát ra bởi bò nhà. Chúng phát ra tiếng trầm, từ 2 đến 4 giây xen kẽ trong khoảng 3 đến 6 giây để báo hiệu cho đàn di chuyển. Báo hiệu bầy đàn thay đổi hướng, trâu đầu đàn sẽ phát ra âm thanh "gan góc", "tiếng cửa cọt kẹt". Khi di chuyển đến nơi uống nước, một số cá thể phát ra tiếng dài "maaa" lên đến 20 lần một phút. Khi hung hăng, chúng phát tiếng đột ngột có thể kéo dài hoặc biến thành tiếng gầm gừ ầm ầm. Trâu cái phát ra tiếng rống nhẹ khi tìm nghé con. Nghé con sẽ phát tiếng rống tương tự có cường độ cao hơn khi gặp nạn. Khi bị đe dọa bởi kẻ săn mồi, trâu phát ra tiếng kéo dài "waaaa". Những cá thể vượt trội phát tiếng rống thông báo sự hiện diện và vị trí của kẻ thù. Một phiên bản mạnh mẽ hơn của cùng một tiếng rống được phát ra như một lời cảnh báo cho kẻ xâm nhập lãnh thổ. Khi gặm cỏ, chúng sẽ phát ra âm thanh khác nhau, chẳng hạn như tiếng rống ngắn gọn, âm ỉ, tiếng rít và tiếng rên.
Sinh sản.
Trâu giao phối và sinh con chỉ trong mùa mưa. Đỉnh điểm sinh diễn ra vào đầu mùa, trong khi đỉnh điểm giao phối diễn ra sau đó. Một con đực sẽ bảo vệ chặt chẽ một con cái đang trong giai đoạn động dục, trong khi vẫn giữ các con đực khác tại vùng đất trũng Đây là thời điểm khó khăn, trâu cái khá lảng tránh và thu hút nhiều trâu đực đến xung quanh. Bởi thời gian một con trâu cái đủ động dục, chỉ có trâu chiếm ưu thế nhất trong đàn/đàn cấp dưới ở bên cạnh nó.
Trâu cái động dục đầu tiên lúc năm tuổi, sau một thai kỳ dài 11,5 tháng. Nghé sơ sinh vẫn ẩn trong thảm thực vật trong vài tuần đầu tiên, được trâu mẹ nuôi dưỡng trước khi gia nhập đàn chính. Nghé lớn hơn được gia nhập tại trung tâm đàn cho an toàn. Mối ràng buộc mẹ con giữa trâu mẹ và nghé con kéo dài lâu hơn so với hầu hết các loài trâu bò. Tuy nhiên, khi một con nghé mới sinh ra, ràng buộc kết thúc và trâu mẹ sẽ giữ con non lứa trước của nó tại đất trũng với những nhát húc sừng. Tuy vậy, con non 1 tuổi sẽ theo mẹ nó một năm hoặc lâu hơn. Con đực rời khỏi mẹ mình khi hai tuổi và tham gia các đàn con đực đơn thân. Nghé non, bất thường trong các loài trâu, bú sữa từ phía sau mẹ nó, đẩy đầu vào giữa các chân của trâu mẹ.
</ref>
Quan hệ với con người.
Tình trạng.
Tình trạng hiện tại của trâu châu Phi phụ thuộc vào giá trị của con vật ở cả thợ săn chiến lợi phẩm và khách du lịch, mở đường cho những nỗ lực bảo tồn thông qua tuần tra chống săn trộm, thanh toán thiệt hại mùa màng làng, và các chương trình hoàn vốn của CAMPFIRE với các khu vực địa phương.
Ban đầu, trâu được liệt kê là loài ít quan tâm của IUCN, tức là "loài vẫn còn phổ biến với số lượng toàn cầu ước tính gần 900.000 cá thể, trong đó hơn ba phần tư nằm trong các khu vực được bảo vệ". Tuy nhiên năm 2019, IUCN đã đưa ra liệt kê mới cho trâu châu Phi là loài sắp bị đe dọa với số lượng toàn cầu còn lại là 400.000 cá thể. Trong khi một số quần thể (phân loài) đang giảm, số khác sẽ không thay đổi trong dài hạn nếu, trâu lớn cư trú khỏe mạnh vẫn tiếp tục tồn tại ở một số lượng đáng kể nhiều vườn quốc gia, khu dự trữ tương đương và khu săn bắn ở miền nam và miền đông châu Phi."
Trong dữ liệu điều tra số trâu gần đây nhất và có sẵn tại châu lục, tổng số ước tính của ba phân loài trâu châu Phi ở miền xavan nhiệt đới ("S. c. caffer, S. c. brachyceros, S. c. aequinoctialis") khoảng 513.000 cá thể.
Trong quá khứ, số trâu châu Phi bị sụt giảm nghiêm trọng nhất trong thời gian đại dịch trâu bò châu Phi năm 1890, trong đó, cùng với dịch viêm màng phổi, gây ra tỷ lệ tử vong cao đến 95% cả vật nuôi và động vật móng guốc hoang dã.
Là một thành viên của năm loài thú săn lớn, một thuật ngữ ban đầu được dùng mô tả năm loài động vật nguy hiểm nhất để săn ở châu Phi, trâu châu Phi là một chiến lợi phẩm có giá trị cao giúp các thợ săn thắng các cuộc săn, với một số thợ săn còn trả hơn 10.000 USD để có cơ hội săn một con trâu. Những con trâu lớn hơn được nhắm làm mục tiêu cho giá trị danh hiệu của họ, mặc dù trong vài khu vực, trâu vẫn bị săn bắt để lấy thịt.
Tấn công con người.
Là một trong năm loài thú săn lớn ở châu Phi, trâu châu Phi thường được gọi là "The Black Death" (Tử thần đen) hoặc "Widowmaker" (con vật nguy hiểm), và được coi là một loài động vật rất nguy hiểm, vì chúng húc và giết chết hơn 200 người mỗi năm. Trâu đôi khi được báo cáo rằng giết nhiều người ở châu Phi hơn bất kỳ loài động vật khác, mặc dù tuyên bố tương tự cũng được dành cho hà mã và cá sấu. Những con số này có thể được đánh giá quá cao; ví dụ, ở Mozambique, các cuộc tấn công, đặc biệt là những vụ gây tử vong, ít xảy ra với con người hơn so với hà mã và đặc biệt là cá sấu sông Nile. Mặt khác, ở Uganda, động vật ăn cỏ lớn đã được phát hiện tấn công trung bình nhiều người hơn sư tử hoặc báo và có tỷ lệ tử vong cao hơn trong các cuộc tấn công so với động vật ăn thịt (đặc biệt là trâu châu Phi, tỷ lệ giết chết con người lên đến 49,5% trong các cuộc tấn công của chúng), nhưng hà mã và thậm chí voi vẫn có thể giết nhiều người mỗi năm ở đây hơn so với trâu. Trâu châu Phi nổi tiếng trong giới săn thú lớn như là loài động vật rất nguy hiểm, với những cá thể bị thương tường trình rằng có thể mai phục và tấn công những kẻ săn đuổi. | 1 | null |
Như Loan (sinh ngày 20 tháng 4 năm 1981) là một ca sĩ người Mỹ gốc Việt hiện đang ký hợp đồng với trung tâm Thúy Nga. Ngoài là một ca sĩ cô còn là một người mẫu chuyên nghiệp.
Tiểu sử.
Như Loan đến Mỹ năm 1992 khi cô vừa tròn 11 tuổi rưỡi. Cô hiện đang sống chung với gia đình. Như Loan nói rằng mình là cô bé nhỏ trong gia đình. Bên cạnh đi hát, cô đang học Luật ở trường Cal State Fullerton. Cô xuất hiện lần đầu tiên trong chương trình Paris By Night 62. Năm 2013, cô kết hôn với doanh nhân Việt kiều tên Thành.
Âm nhạc.
Như Loan phát hành CD solo đầu tiên của cô trong năm 2006 mang tên "Tình Lặng Câm", cũng như đĩa CD song ca có tiêu đề "Sunday buồn" với ca sĩ Bảo Hân, và CD một nhóm có tiêu đề "Mong Anh Sẽ Đến" với ca sĩ Bảo Hân, Ninh Cát Loan Châu, và Tú Quyên. Như Loan hiện đang có kế hoạch phát hành đĩa CD solo thứ hai vào giữa năm 2008, cũng như các sản phẩm khác trong tương lai gần.
Album.
Ta Đã Từng Yêu (2011).
ft. Lương Tùng Quang
Mong Anh Sẽ Đến, TNCD 294 (2003).
ft. Bảo Hân, Loan Châu, & Tú Quyên
Sunday Buồn, TNCD 313 (2003).
ft. Như Loan & Bảo Hân | 1 | null |
MG 81 là một súng máy Đức sử dụng đạn 7,92 mm, được sử dụng trong chiến tranh thế giới thứ II trên của máy bay Luftwaffe (không quân Đức), thay thế MG 15.
MG 81 đã được phát triển bởi Mauser như một dẫn xuất của thành công của họ là súng máy bộ binh MG 34. Phát triển được tập trung để giảm chi phí sản xuất và thời gian và tối ưu hóa để sử dụng trên máy bay. Phát triển năm 1938/1939, nó đã được sản xuất vào năm 1940-1945.
Cặp MG 81Z (Zwilling-twin) được giới thiệu vào năm 1942, cặp hai trong số các loại vũ khí trên một gắn kết, để cung cấp hỏa lực nhiều hơn với tối đa 3200 vòng / phút mà không đòi hỏi nhiều không gian hơn so với một khẩu súng máy tiêu chuẩn.
Ứng dụng.
MG 81Z có thể được tìm thấy nhiều trong Luftwaffe. Một số các ứng dụng nhiều người biết đến, là một cặp MG 81Z được cài trong các đuôi của chiếc Dornier Do 217. Mẫu R19 (R cho Rüstsätze), bộ thiết kế lĩnh vực nhà máy, nó cho phép thí điểm 217 làm để bắn vào những kẻ truy bám. Một ứng dụng khác là "Can tưới nước",là một gắn kết với 3 bộ súng chìa bên ngoài được gắn vào chiếc Junkers Ju 88 và được sử dụng để tiêu diệt mục tiêu trên mặt đất. | 1 | null |
Đoan Mục hoàng thái hậu (端穆皇太后, 1488 - 1527), tên thật là Trịnh Thị Loan (鄭氏鸞), là một hoàng thái hậu nhà Hậu Lê. Bà là chính phi của Cẩm Giang Vương Lê Sùng (黎漴), anh trai của hoàng đế Lê Tương Dực, đồng thời là mẹ đẻ của 2 vị hoàng đế Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng.
Tiểu sử.
Trịnh Thị Loan là người xã Phi Quan, huyện Thanh Đàm, nay là xã Phi Bạo, huyện Thanh Chương, Nghệ An. Được tuyển vào phủ làm phi cho Cẩm Giang vương Lê Sùng, sinh ra Lê Chiêu Tông và Lê Cung Hoàng. Cẩm Giang vương Sùng bị anh họ là vua Lê Uy Mục giết năm 1509 do em Sùng là Giản Tu công Lê Oanh lấy danh nghĩa Lê Sùng nổi quân chống triều đình. Cùng năm này, Giản Tu công đem quân về Kinh sư giết Uy Mục, tự lập làm Hoàng đế, tức Lê Tương Dực.
Năm 1516, vua Lê Tương Dực bị Nguyên quận công Trịnh Duy Sản giết. Duy Sản cùng các huân cựu tôn thất, đại thần lập con trưởng Cẩm Giang vương với bà Trịnh Thị Loan là Lê Y lên ngôi, tức vua Lê Chiêu Tông. Mùa xuân năm 1517, Chiêu Tông truy tôn Lê Sùng làm Minh Tông Triết hoàng đế (明宗哲皇帝), bà trở thành Hoàng thái hậu.
Do sự chuyên quyền của Mạc Đăng Dung, Lê Chiêu Tông quyết định cùng Phạm Hiến và Phạm Thứ, lên kế hoạch trốn khỏi Thăng Long để tìm Trịnh Tuy chống lại Mạc Đăng Dung. Đêm 27 tháng 7, năm Quang Thiệu thứ 7 (1522), Chiêu Tông cùng họ trốn khỏi Thăng Long, bỏ lại ngôi vị, bá quan văn võ, em trai là Lê Xuân cùng bà Trịnh thái hậu đều không hay biết. Bà khóc rằng: "Đứa con thứ 2 này của ta ắt phải lên ngôi vị, bà già này lại bị người khác giả danh thác mệnh, bị người ta đàm luận. Nhưng còn xã tắc thì biết làm sao đây?".
Mạc Đăng Dung liền lập em trai Chiêu Tông là Lê Xuân lên kế vị, tức Lê Cung Hoàng, rước bà về Hồng Thị ở Hải Dương. Năm Thống Nguyên thứ 2 (1523) thì rước về kinh đô. Lúc này, chính quyền Đại Việt đã hoàn toàn phó mạc cho Mạc Đăng Dung, tuy vẫn còn sự chống trả yếu ớt của Chiêu Tông đang hợp binh ở ngoài Thăng Long.
Năm 1526, Mạc Đăng Dung dẫn quân đánh Thanh Hóa, bắt Chiêu Tông đem về giam ở phường Đông Hà. Đầu năm 1527, Đăng Dung sai Bái Khê bá Phạm Kim Bảng bí mật giết vua Chiêu Tông. Giữa năm 1527, Đăng Dung cướp ngôi, Lê Xuân bị phế làm Cung vương (恭王) và bị giam cùng với Trịnh thái hậu ở cung Tây Nội, không cho ăn uống gì, cả hai phải xé áo mà nhai. Vài tháng sau, Đăng Dung sai người đem đến tấm lụa vàng, bắt phải tự tử. Thái hậu khấn trời rằng: "Đăng Dung là kẻ bề tôi, manh tâm cướp ngôi, lại giết mẹ con ta, ngày sau con cháu nó cũng lại bị như thế". Nói rồi, Thái hậu cùng hoàng đế thắt cổ chết.
Mạc Đăng Dung sai đem xác hai người để phơi ngoài quán Bắc Sứ, rồi đưa về chôn ở lăng Hoa Dương, huyện Ngự Thiên theo nghi lễ của thiên tử và hoàng thái hậu (nay ở xã Phú Sơn huyện Hưng Hà tỉnh Thái Bình có điện Thừa Hưu tức là chỗ đó).
Về sau, Thế Tông Nghị hoàng đế trung hưng, truy tôn thụy hiệu cho bà thành Đoan Mục Triết hoàng hậu (端穆慈哲皇后). | 1 | null |
Trịnh Thị Ngọc Trinh (chữ Hán: 鄭氏玉楨), là một hoàng hậu nhà Lê trung hưng. Vợ vua Lê Kính Tông, mẹ vua Lê Thần Tông.
Bà là hoàng hậu họ Trịnh đầu tiên thời Lê Trung Hưng, cho thấy sự khởi đầu kiểm soát hoàng đế của chúa Trịnh.
Tiểu sử.
Bà là con gái thứ của Thượng phụ Bình An Vương Trịnh Tùng.
Lê Kính Tông bị ép lấy bà, lập làm "Đoan Từ hoàng hậu". Bà sống với vua sinh được con trai là Lê Duy Kỳ, tức Lê Thần Tông sau này.
Kỷ Mùi, Hoằng Định năm thứ 20 (1619), Kính Tông mưu giết Trịnh Tùng nhưng không thành. Khi đó, Kính Tông khóc lóc nói với bà rằng: "Ta còn mặt mũi nào mà gặp vương phụ nữa", rồi vua thắt cổ chết.
Lúc đó, có người khuyên chúa Trịnh lập Cường Quận công Lê Trụ, tư cách là con của Bản quốc công Lê Bách, là cháu đích tôn của vua Lê Anh Tông. Nhưng bà khóc lóc với cha rằng: "Tiên quân có tội, chứ đứa con có tội gì? Sao lại bỏ con của con mà đi tìm người khác. Nếu phụ vương lập nó, thì đến muôn đời sau kẻ làm vua vẫn là con cháu của phụ vương vậy". Vì thế, Chúa mới lập Duy Kỳ lên ngôi.
Hoàng tử Duy Kỳ lên ngôi ở điện Cần Chính, tôn bà làm "Đoan Từ hoàng thái hậu". | 1 | null |
Nhu Thuận hoàng hậu (?-1775), họ Đào, là một hoàng hậu nhà Lê trung hưng. Bà là vợ vua Lê Thuần Tông, mẹ vua Lê Hiển Tông.
Bà là Hoàng hậu cuối cùng của nhà Hậu Lê, cũng là cuối cùng của giai đoạn Lê Trung Hưng.
Bà sống vào thời "vua Lê-chúa Trịnh", thời kỳ mà đất nước loạn lạc, giặc giã nổi lên khắp nơi, xã hội rối ren. Tuy vậy, bà vẫn sống mẫu mực trước vua và quan, quân triều đình, nuôi dạy hoàng tử sau này trở thành vua Lê Hiển Tông, vị vua thọ nhất của nhà Lê trị vì đất nước suốt 46 năm.
Tiểu sử.
Thân thế.
Câu chuyện về Đào thị - người vùng Nghĩa Trụ còn gọi là Đào Thị Ngọc Liễu - là những truyền kỳ, được truyền tụng qua nhiều đời của người dân vùng Nhân Vực, Nhân Thục, Đồng Tỉnh, Hoa Cầu thuộc trấn Kinh Bắc - Bắc Ninh xưa, nay là xã Nghĩa Trụ, huyện Văn Giang, tỉnh Hưng Yên.
Cha bà là ông Đào Phúc Kiên, mẹ là Đào Quý Tịnh, ngoài việc đồng áng, ông còn là một thợ mộc giỏi, lại có hoa tay vẽ tranh, ông thường vẽ tranh bán ở các chợ quê. Không may bà Tịnh mất sớm, ông Kiên phải chịu cảnh gà trống nuôi con.
Hiển quý.
Để có thể nuôi thân, nuôi con, ông đã rời quê ra phố Nam Ngư, Hà Nội kiếm sống. Một hôm, triều đình tổ chức thi tuyển thợ giỏi và những người có hoa tay vào sửa chữa, trang trí các cung điện trong hoàng thành. Ông ghi tên xin thi và đề thi của ông là bức tranh vẽ quả dưa bở vùng quê ông. Tranh vừa vẽ xong thì đã có trống báo nộp bài, mà tranh vẫn còn ướt, bí quá, ông đem ra nắng phơi, những nét sơn vẽ co lại tạo ra những rãnh nứt loằng ngoằng, ông lo quá, nhưng không ngờ quan chấm thi lại rất thích và khen là đẹp.
Thế là bức tranh của ông được chọn, ông được tuyển vào cung làm việc, đi theo ông là cô con gái yêu Đào thị, cô gái quê Đào thị ở tuổi trăng tròn đã lọt vào mắt xanh vị hoàng tử, Đào thị trở thành "Tiệp nữ" của hoàng tử Lê Duy Tường, tức Lê Thuần Tông.
Năm 1717, Đào thị sinh được một hoàng nam, đặt tên là Lê Duy Diêu, đó chính là vua Lê Hiển Tông sau này.
Khi Thuần Tông lên ngôi năm 1732, bà được lập làm Hoàng hậu.
Khi đã là Hoàng hậu, rồi Hoàng thái hậu, bà vẫn sống gần dân, gắn bó với quê hương. Đến nay người dân Nghĩa Trụ cũng như dân trong vùng vẫn còn nhớ câu ca mà mỗi lần về thăm quê, bà thường đọc cho các bô lão trong vùng nghe:
Qua đời.
Bà mất vào tháng 5, mùa hạ, năm 1775, thụy là Nhu Thuận.
Nhưng mãi đến 3 năm sau, năm 1778 mới làm lễ an táng Thái hậu. Trước kia, thái hậu mất, vì Trịnh Sâm đang mắc bận về việc dụng binh, nên việc an táng bị ngăn trở; lúc đoạn tang cũng chưa táng được. Đến nay, mới làm lễ an táng ở xã Dịch Vọng gần kinh kỳ.
Đất nước lại rơi vào nhiều cuộc chinh biến liên miên. Tiếp đến là những cuộc chống ngoại xâm của dân tộc. Do đó, các tài liệu lịch sử nói về bà như thần phả, đền thờ của bà bị tàn phá, thất lạc, đã hàng trăm năm nay chỉ còn trong truyền thuyết dân gian.
Xác nhận thông tin.
Tháng 4 năm 2011, tiến sĩ Nguyễn Đức Nhuệ đã tìm ra và biên soạn những tài liệu lịch sử chính xác về quê hương và sự nghiệp của bà, Viện sử học đã có văn bản ký đóng dấu, xác nhận.
Theo tiến sĩ Nguyễn Đức Nhuệ thì Hoàng thái hậu Đào thị là vợ vua Lê Thuần Tông (1732-1735), mẹ vua Lê Hiển Tông (1740-1786), hiệu là "Nhu Thuận".
Bà mất ngày mồng 5 tháng 5 năm Ất Mùi (1775) tại kinh đô Thăng Long, được an táng tại làng Dịch Vọng, huyện Từ Liêm, Hà Nội – nay là phường Dịch Vọng, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Truyền thuyết trong dân gian.
Bấy giờ, người dân quê bà lại tin vào câu chuyện mây bay trên đầu và bàn tán suy luận về câu chuyện đó khi bà còn sống ở quê như là một dự báo về số phận của bà.
Chuyện kể rằng:
Có lần bà về quê, qua đò gặp người làng Nhân Vực, nhận ra người quen cùng làng, bà xin cho những người đó không mất tiền đò, thấy vậy, những người làng khác đi cùng cũng nhận mình là người làng Nhân Vực để được không phải trả tiền đò,vì thế đã gây ra rắc rối. Để phân biệt những người làng Nhân Vực với những người làng bên, bà nghĩ ra một cách là phải làm sao cho người làng Nhân Vực khác với người các làng khác. Bà tâu với vua xin nhà vua ban cho người làng Nhân Vực một đặc ân, và nhà vua đã xuống chiếu cho phép tất cả người làng Nhân Vực được đội nón có quai đỏ và, đi đò không phải trả tiền. | 1 | null |
Diêu Hoằng () (388–417), tên tự Nguyên Tử (元子), là hoàng đế cuối cùng của nước Hậu Tần trong lịch sử Trung Quốc. Ông là con trai cả của Diêu Hưng, là người có lòng tốt song lại yếu đuối. Sau khi Diêu Hưng qua đời, nước Hậu Tần đã suy yếu trước các cuộc tấn công của nước Hạ và các cuộc nổi loạn của các em trai và em họ của Diêu Hoằng, nhân dịp này, tướng Lưu Dụ của Tấn đã thừa cơ chinh phạt Hậu Tần. Sau khi Diêu Hoằng đầu hàng, Lưu Dụ đã giải ông đến Kiến Khang rồi xử tử.
Dưới thời trị vì của Diêu Hưng.
Diêu Hoằng sinh năm 388 dưới thời kỳ trị vì của ông nội, Diêu Trường, hai năm sau khi Diêu Trường chiếm được và lập Trường An làm kinh đô và lập Diêu Hưng làm thái tử. Ông là con trai cả của Diêu Hưng. Sự kiện đầu tiên về Diêu Hoằng được nói đến trong sử sách là vào năm 402, khi Diêu Hưng lập ông làm thái tử. Diêu Hưng đã trở thành hoàng đế vào năm 394, và trước khi quyết định lập Diêu Hoằng làm thái tử, ông ta đã do dự vì Diêu Hoằng được mô tả là người biết yêu thương và tốt bụng song bản thân lại yếu đuối và thường bị ốm đau. Diêu Hoằng cũng được thuật lại là yêu thích nghệ thuật và văn chương. Năm 402, khi Diêu Hưng giao chiến với hoàng đế Thác Bạt Khuê của Bắc Ngụy, Diêu Hoằng được giao phụ trách kinh thành. Năm 407, Diêu Hưng đã chuyển giao một số quyền lực hoàng gia cho ông. Năm 409, trong lúc Diêu Hưng giao chiến với quân phiến loạn của tướng Lưu Bột Bột, người lập nên nước Hạ, Diêu Hoằng lại một lần nữa được phụ trách kinh thành khi Lưu Quyết (劉厥) nổi loạn, và Diêu Hoằng đã đánh bại được cuộc nổi loạn này. Khi các thuộc hạ của ông cho rằng chiến thắng cần được kỉ niệm bằng cách ghi tin tức lên trên tấm vải, Diêu Hoằng đã từ chối và lý luận trách nhiệm của mình là để đảm bảo rằng không có một cuộc nổi loạn nào xảy ra, và rằng chiến thắng trước phiến quân không có gì để tự hào.
Năm 411, em trai của Diêu Hoằng là Quảng Bình công Diêu Bật (姚弼), là người được phụ thân yêu mến với tài năng của mình, đã âm mưu cùng các cộng sự để đoạt lấy vị trí thái tử từ Diêu Hoằng. Trong những năm tiếp theo, Diêu Bật đã cố gắng để làm suy yếu quyền lực của Diêu Hoằng vào bất cứ khi nào có thể, Diêu Bật sau đó đã vu cáo thuộc hạ của Diêu Hoằng là Diêu Văn Tông (姚文宗) phạm tội, khiến Diêu Hưng buộc Diêu Văn Tông phải tự sát. Sự việc này đã khiến cho nhiều triều thần lo sợ thế lực của Diêu Bật, và nhiều người đã tham gia vào âm mưu của ông ta. Đến khi Diêu Hưng lâm bệnh nặng trong cùng năm, Diêu Bật đã bí mật lên kế hoạch chính biến, khiến cho các hoàng tử khác là Diêu Ý (姚懿), Diêu Hoảng (姚洸), và Diêu Kham (姚諶) phải huy động lực lượng của họ để chuẩn bị hành động chống lại Diêu Bật. Diêu Hưng sau đó đã hồi phục phần nào, ông ta nghe lời các quan Lương Hỉ (梁喜) và Doãn Chiêu (尹昭) và cho tước bỏ quyền lực của Diêu Bật song cũng cho Diêu Ý, Diêu Hoảng và Diêu Kham giải ngũ.
Tuy nhiên, năm 412, Diêu Bật lại vu cáo một em trai khác, Diêu Tuyên (姚宣) phạm tội, điều này đã khiến Diêu Tuyên bị bắt giam. Diêu Hưng giao quân của Diêu Tuyên cho Diêu Bật song Diêu Bật tiếp tục âm mưu. Diêu Hưng đã khám phá ra sự thật và cho xử tử các thuộc hạ của con trai là Đường Thịnh (唐盛) và Tôn Huyền (孫玄), song khi Diêu Hưng đã cho bắt và sẵn sàng hành quyết Diêu Bật thì Diêu Hoằng đã khẩn nài phụ thân tha chết cho hoàng đệ, Diêu Hưng đã tha cho Diêu Bật.
Năm 416, Diêu Hưng đi đến cung điện tại Hoa Âm (華陰) để nghỉ ngơi, và lệnh cho Diêu Hoằng trở thành người nhiếp chính chính thức ở Trường An và ở lại trong hoàng cung. Tuy nhiên, Diêu Hưng đã lâm bệnh nặng ở Hoa Âm và phải trở về kinh thành, tên tùy tùng tên là Doãn Xung (尹沖) đã âm mưu cùng Diêu Bật để lập kế ám sát Diêu Hoằng khi ông ra khỏi cung để nghênh đón phụ hoàng. Mặc dù vậy, thân tín của Diêu Hoằng đã ngeh được tin đồn về việc này và thuyết phục ông không ra khỏi cung. Phụ tá của Doãn Xung là Diêu Sa Di (姚沙彌) sau đó đề xuất với Doãn rằng sẽ đưa hoàng đế đến tư gia của Diêu Bật và bắt đầu nổi loạn tại đó, song Doãn đã do dự và không làm theo đề xuất này. Ngay khi Diêu Hưng trở về hoàng cung, ông ta đã ra lệnh lục soát tư gia của Diêu Bật và thu giữ tất cả vũ khí. Nam Dương công Diêu Âm (姚愔), một hoàng tử khác liên minh với Diêu Bật, sau đó đã cùng với Diêu Xung đánh vào hoàng cung, lập kế hoạch đưa Diêu Bật lên ngôi, Diêu Hưng đã công khai lệnh rằng Diêu Bật buộc phải tự sát, quân của Diêu Âm cũng sụp đổ. Ngày hôm sau, Diêu Hưng đã qua đời, trước đó ông ta đã giao phó Thái tử cho Diêu Thiệu (姚紹), Lương Hỉ, Doãn Chiêu, và Liễm Man Ngôi (斂曼嵬). Diêu Hoằng ban đầu đã không công bố tin về cái chết của phụ thân, ông đã chỉ làm điều này sau khi đã xử tử Diêu Âm và các cộng sự khác của Diêu Bật, bao gồm cả cựu vương Lã Long của Hậu Lương, và Doãn Nguyên (尹元). Diêu Hoằng sau đó lên ngôi và xưng đế thay vì chỉ xưng "Thiên vương" như phụ thân.
Trị vì.
Diêu Hoằng ngay lập tức phải đối mặt với các đe dọa đến từ cả Đông Tấn và Hạ, và trở nên phụ thuộc lớn vào thúc phụ Diêu Thiệu để đối phó với cả ngoại xâm cùng với nội loạn đến từ các em trai và em họ. Tướng Lưu Dụ của Tấn đã nhận thấy tìn trạng bất ổn trong nội bộ của Hậu Tần và đã cho mở một chiến dịch lớn vào mùa thu năm 416, quân Tấn đã nhanh chóng đoạt được nửa phía đông của Hậu Tần, bao gồm cả thành Lạc Dương.
Cuối năm 416, Diêu Ý, người cai quản Bồ Phản (蒲阪, nay thuộc Vận Thành, Sơn Tây), đã nổi loạn, song Diêu Thiệu đã có thể nhanh chóng dẹp yên nổi loạn và bắt giữ Diêu Ý. Tuy vậy, các cuộc nổi loạn vẫn tiếp diễn. Năm 417, một người em họ của Diêu Hoằng là Tề công Diêu Khôi (姚恢) cũng nổi loạn, rời bỏ vị trí tại An Định (安定, nay thộc Bình Lương, Cam Túc) và sử dụng toàn bộ quân ở An Định để chống lại Diêu Hoằng. Tuy nhiên, Diêu Thiệu và con trai là Diêu Tán (姚讚) đã có thể nhanh chóng bắt và giết được Diêu Khôi.
Tuy nhiên, trong khi đó, quân Tần tiếp tục tiến đến, và khi Diêu Thiệu và Diêu Tán đang giao chiến với các tướng Đàn Đạo Tế và Thẩm Lâm Tử (沈林子), họ đã không thể ngăn được quân Tấn, Diêu Thiệu do thất bại nên đã mắc chết mà bệnh. Diêu Tán đã có tiếp tục chống lại song liên tục bị đánh bại.
Diêu Hoằng quyết định lãnh đạo một đội quân với vài vạn lính để chống lại đại quân của Lưu Dụ, do Đàn và Thẩm chỉ huy. Diêu Hoằng lo âu về một nhánh quân do Thẩm Điền Tử (沈田子) chỉ huy đang tiến đến Thanh Nê (青泥, nay thuộc Tây An, Thiểm Tây), nghi rằng đội quân này sẽ tấn công phía sau ông, Diêu Hoằng vì thế đã đánh Thẩm Điền Tử trước, song lại thất bại và điều này đã khiến quân đội của ông sụp đổ. Diêu Hoằng buộc phải trở lại Trường An trong khi chưa hề đối mặt với đại quân của Lưu Dụ. Hạm đội của Lưu Dụ do Vương Trấn Ác (王鎮惡) chỉ huy sau đó đã đến Trường An, quân Tấn sau khi đổ bộ đã tấn công quân Hậu Tần ở cổng thành hướng ra sông Vị. Diêu Hoằng đã cố gắng giải vây cho quân đồn trú ở cổng thành, song hai nhánh quân đã tự giẫm lên nhau và tan vỡ, Diêu Hoằng phải chạy về hoàng cung.
Trở lại hoàng cung, Diêu Hoằng suy xét đến chuyện đầu hàng. Người con trai mới 10 tuổi của ông, tên là Diêu Phật Niệm (姚佛念) cho rằng dù thế nào thì họ cũng bị xử tử và tốt hơn là nên tự sát. Diêu Hoằng đã từ chối và Diêu Phật Niệm đã tự mình trèo lên một bức tường rồi nhảy xuống. Diêu Hoằng cùng Hoàng hậu đầu hàng Vương Trấn Ác, Vương bắt giữ ông và giải đến kinh thành Kiến Khang của Tấn. Diêu Hoằng bị xử tử tại đây, hầu hết thành viên hoàng tộc họ Diêu bị bắt hoặc đầu hàng cũng bị Đông Tấn xử tử. Hậu Tần diệt vong. | 1 | null |
Nora Ephron (19 tháng 5 năm 1941 – 26 tháng 6 năm 2012) là một nhà làm phim, đạo diễn, nhà sản xuất, kịch, tiểu thuyết gia, nhà viết kịch, nhà báo, tác giả, và blogger người Mỹ. Bà được biết đến với các phim hài lãng mạn của mình và là một người được đề cử ba lần giải Oscar cho kịch bản gốc xuất sắc nhất cho ba bộ phim: "Silkwood", "When Harry Met Sally..." và "Sleepless in Seattle".. Cô giành được một giải BAFTA cho kịch bản gốc xuất sắc nhất cho "When Harry Met Sally...". Đôi khi cô đã viết với em gái của bà Delia Ephron. Bộ phim mới nhất của bà là "Julie & Julia.". Bà cũng là đồng tác giả của ấn phẩm đoạt giải thưởng sân khấu giải Drama Desk đoạt giải thưởng sân khấu sản xuất "Love, Loss, and What I Wore"..
Tiểu sử.
Ephron sinh ngày 19 tháng 5 năm 1941, tại quận Manhattan của thành phố New York. Cô là con gái của Phoebe (nhũ danh Wolkind) và Henry Ephron. Bố mẹ bà đều là nhà biên kịch, sinh ra và lớn lên trên Bờ Đông Hoa Kỳ. Ephron là con cả của bốn người con gái trong một Do Thái. Khi cô được bốn tuổi, gia đình chuyển đến Beverly Hills, California. Bà đã ở đó cho đến khi bà tốt nghiệp Trường trung học Beverly Hills và quay lại phía Đông và học Wellesley College ở Wellesley, Massachusetts. | 1 | null |
Believe là album phòng thu thứ ba của ca sĩ người Canada, Justin Bieber. Album được sản xuất ngày 15 tháng 6, năm 2012 thông qua hãng đĩa Schoolboy, RBMG và Island. Album mang thể loại teen-pop và các yếu tố của dance-pop lẫn R&B.
"Believe" phát hành hai đĩa đơn, đó là "Boyfriend" và "As Long as You Love Me". Trong đó, "Boyfriend", đĩa đơn đầu của album, phát hành ngày 26 tháng 3 năm 2012, là đĩa đơn thành công nhất của anh từ trước tới giờ tại Mỹ, đạt vị trí á quân bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100, với 521.000 bản kĩ thuật số được bán ra trong tuần đầu tiên. "As Long As You Love Me" được dự kiến sẽ phát hành làm đĩa đơn thứ hai, chính thức vào ngày 10 tháng 7 năm 2012, và đạt vị trí 21 trên "Billboard" Hot 100.
Thực hiện.
Vào ngày 1 tháng 3 năm 2012, Justin Bieber xuất hiện trên "chương trình Ellen DeGeneres" và thông báo với những người hâm mộ của anh rằng, ca khúc "Boyfriend" sẽ là đĩa đơn đầu tiên của album, và sẽ được phát hành vào ngày 26 tháng 3. Ca khúc được sáng tác bởi Bieber và Mike Posner, và sản xuất bởi Posner và Mason Levy.
Bieber cũng mới những người hâm mộ đến để tham gia vào đĩa đơn "Boyfriend" như sau; trên trang mạng chính thức của Justin Bieber sẽ có hai bìa đĩa đơn cho ca khúc, và các fan sẽ chọn bìa đĩa mà họ cảm thấy là phù hợp. Và bìa đĩa được các fan bầu chọn nhiều nhất đã được làm bìa đĩa chính thức cho đĩa đơn này.
Đĩa đơn.
Bieber thông báo trên trang mạng xã hội Twitter rằng album mới toanh, "Believe" sẽ được phát hành vào tháng 3 năm 2012. Ngoài ra, anh cũng thông báo trên "Chương trình Ellen DeGeneres" rằng đĩa đơn đầu tiên của album sẽ là "Boyfriend", và được phát hành ngày 26 tháng 3 năm 2012. Đây là đĩa đơn thành công nhất của anh tại Mỹ, ra mắt tại vị trí á quân bảng xếp hạng "Billboard" Hot 100 và đạt doanh số 521.000 bản đĩa nhạc kỹ thuật số trong tuần đầu tiên.
Hãng thu âm Island/Def Jam cũng xác nhận vào ngày 26 tháng 6 năm 2012 rằng "As Long As You Love Me" của Justin Bieber hợp tác với Big Sean, đã từng làm đĩa đơn quảng bá thứ ba và cuối cùng, một phần của chương trình đếm ngược đến ngày phát hành của "Believe" trên iTunes, sẽ được phát hành dưới dạng đĩa đơn chính thức và thứ hai của album, vào ngày 10 tháng 7.
Đánh giá chuyên môn.
"Believe" chủ yếu nhận được những đánh giá tích cực từ những nhà phê bình âm nhạc. Tại Metacritic, với thang điểm tối đa là 100 cho các ấn hành âm nhạc, đã cho album số điểm trung bình 68, dựa trên 13 lần xem và được coi là "album có những lượt xem yêu thích".
Trong khi BBC Music nhận xét rằng chất giọng của Bieber đang chuyển hóa sang giai đoạn "tween" (người lớn trẻ), nó cũng xem xét những chuyển hóa dần dần, khác với các album trước. "The New York Times" ghi nhận việc thay đổi về mặt thể hiện ca khúc của Bieber theo thời gian. Album này nhấn mạnh chất giọng khỏe khoắn, không cần tăng cường những thiết bị trợ giúp giọng hát như các album trước. "Entertainment Weekly" ca ngợi sự đi lên của ngôi sao nhạc pop trẻ, nói album vừa là "một sự tái tạo" vừa là "một sự tiến hóa". Tạp chí "Rolling Stone" chú ý về chất giọng sâu hơn và những nhịp đập (beat) mạnh mẽ trong album, mặc dù nó chỉ trích về việc mang tính tình dục ẩn dụ trong album này. Một số thính giả cũng so sánh Bieber với Justin Timberlake, biểu tượng sex, từ một ngôi sao nhạc pop trẻ tuổi trưởng thành hơn bao giờ hết, với những ý dụ về tình dục trong album.
Diễn biến trên thị trường âm nhạc.
"Believe" ra mắt tại vị trí quán quân bảng xếp hạng "Billboard" 200 với doanh số 374.000 bản - doanh số ra mắt lớn nhất cho mọi album năm 2012 (vượt qua album M.D.N.A. của nữ hoàng nhạc pop Madonna), và là album phòng thu thứ hai của Justin Bieber có mặt tại vị trí quán quân bảng xếp hạng này (album đầu tiên là "" năm 2011). Doanh số album tại Canada là 57.000 bản trong tuần đầu tiên và đạt quán quân bảng xếp hạng Canadian Albums Chart. Album cũng đạt quán quân tại UK Albums Chart của Liên hiệp Anh, trở thành nghệ sĩ solo nam thứ hai trẻ nhất có album quán quân tại đây. Tại Nhật Bản, album đạt vị trí thứ bảy trên bảng xếp hạng Oricon với doanh số 13.886 bản. | 1 | null |
Guss là một hòn đảo nhỏ trong quần đảo San Juan, thuộc tiểu bang Washington, Hoa Kỳ. Đảo toạ lạc trong vịnh Garrison, cách bờ biển Tây Bắc đảo San Juan khoảng 300 m. Đảo Guss được đặt theo tên của Guss Hoffmaster, một viên thủ kho của trại người Anh trong Cuộc chiến Con lợn. | 1 | null |
Baywatch là series phim hành động ăn khách của Mỹ được sản xuất từ năm 1989, do đạo diễn Douglas Schwartz chỉ đạo sản xuất. Phim do hãng The Baywatch Company kết hợp với Tower 12 Productions và Tower 12 Productions đầu tư sản xuất và trình chiếu trên sóng truyền hình của hơn 140 nước trên thế giới với khoảng 1,1 triệu người xem. Phim có tổng cộng 242 tập, được trình chiếu suốt 10 mùa chiếu từ 1989 - 1999.
Phát sóng.
Trước đây, một phiên bản của bộ phim là Baywatch Nights đã được trình chiếu trên BTV3 - Đài truyền hình Bình Dương với tựa tiếng Việt là "Người Gác Biển"
Năm 2012 "Baywatch" được AVG - Truyền hình An Viên mua bản quyền và chính thức phát sóng trên kênh thể thao - giải trí NCM của AVG - Truyền hình An Viên, bắt đầu từ ngày 26/06/2012 (phát sóng 2 mùa chiếu (Season 5 (1994-1995) và Season 6 (1995-1996)).Đây cũng là lần đầu tiên series bom tấn này chính thức ra mắt khán giả Việt Nam, sau lần phát sóng chắp vá của BTV3- truyền hình Bình Dương.
Nội dung.
Baywatch là bộ phim hành động, pha lẫn hài hước, tâm lý kể về đội cứu hộ bãi biển tại Los Angeles, có nhiệm vụ canh gác và tham gia cứu hộ dọc bờ biển Los Angeles, California, Mỹ.
Trong phim, nhân vật chính Mitch Buchanon (David Hasselhoft đóng) là một người đàn ông đào hoa, vui tính và tốt bụng. Anh là một người cha và là người đứng đầu đội lính cứu hộ trẻ, đầy sức sống, luôn hết mình để bảo vệ người dân và sự bình yên trên vịnh Baywatch.
Mỗi tập phim là một câu chuyện kể về công việc và cuộc sống của những người lính cứu hộ. Xen kẽ với các tình huống là những câu chuyện gia đình, những giây phút lãng mạn, những tình bạn chân thành... Tất cả tạo nên sự hòa quện giữa hành động, tâm lý và hài hước sâu sắc trong Baywatch.
Quá trình sản xuất.
Series phim phiên bản và format gốc được trình chiếu suốt 10 năm (1989 - 1999, ngoại trừ mùa chiếu 1990 - 1991).
Từ 1999 - 2001, sau một thay đổi lớn về đội ngũ sản xuất và diễn viên, bộ phim được đổi tên thành "Đội cứu hội Hawaii"
Đội cứu hộ bãi biển được chiếu ra mắt trên kênh NBC vào năm 1989, nhưng đã bị ngừng phát sóng ngay sau một mùa chiếu do tỷ lệ theo dõi (rating) không cao.
Tuy nhiên, nhận thấy tiềm năng của series phim, Hasselhoff cùng với các nhà sáng tạo và nhà sản xuất Michael Berk, Douglas Schwartz và Greg Bonann đã làm sống lại toàn bộ đoàn làm phim vào năm 1991. Với công sức "tái sinh" bộ phim, Hasselhoff được giao chức nhà sản xuất phim. Series phim trở nên vô cùng nổi tiếng, vượt xa lãnh thổ nước Mỹ, được yêu thích trên toàn thế giới. Bộ phim cũng kéo theo các sản phẩm ăn khách khác như: phim "Baywatch Nights" và bộ phim điện ảnh ""
Vào năm 1999, tại Los Angeles, giá sản xuất phim tăng vọt trong khi thị trường phim lại bị thu hẹp lại, đoàn làm phim đã phải rời bối cảnh tới Australia và ra mắt "Baywatch Down Under". Với các rào cản về yêu cầu bảo vệ hệ sinh thái yếu ớt tại vùng đất Australia, bộ phim dừng bối cảnh tại đây và chuyển đến Hawaii. Tại đây, mùa chiếu thứ 10 đã được khởi quay.
Đội cứu hộ bãi biển đã có 2 mùa chiếu được ghi hình tại Haiwaii (1999 - 2001).
Vào năm 2004, hãng phim DreamWorks tuyên bố họ đã thu xếp mua được bản quyền để sản xuất phim điện ảnh của "Đội cứu hộ bãi biển", được xây dựng theo hướng phim hài, được viết kịch bản và đạo diễn bởi Jeremy Garelick (đạo diễn thành công với phim The Hangover). Jessica Simpson được coi là ứng cử viên của vai diễn C.J Parker. Phim dự kiến được công chiếu vào năm 2012.
Phim được chiếu thành công tại nhiều quốc gia trên thế giới như Australia (chiếu từ phần 1 -4), Phần Lan (phần 1-3), Đức (tất cả các phần từ 1-11), Ý (phần chiếu 1,2,5,6), Anh (từ 1-5, phần 6 được lên lịch phát sóng từ 2/4/2012),… | 1 | null |
Henry là một trong những đảo thuộc quần đảo San Juan, Quận San Juan (Hạt San Juan), Tiểu bang Washington, Hoa Kỳ. Đảo toạ lạc ngoài khơi Tây Bắc đảo San Juan, nơi gần nhất của hai đảo cũng chỉ cách khoảng 300 m. phía tây Bắc đảo Henry là đảo Battleship, phía đông bắc là đảo Pearl, đảo Posey và đảo Barren. Xa về phía đông của đảo là các đảo thuộc quyền quản lý của Canada được ngăn cách bởi eo biển Haro. Xa về phía bắc là đảo Stuart.
Nhìn từ trên không, dường như đảo được cấu thành từ hai phần một nằm về phía đông và phần còn lại về phía tây, nối với nhau bởi một doi đất nhỏ rộng chừng 40 m. Việc chia ra hai phần như vậy là do phần biển quanh đảo ăn sâu vào đất liền tạo ra hai cái vịnh, đó là vịnh Nelson toạ lạc ở phía bắc doi đất và vịnh Open ở phía nam doi đất ấy.
Đảo có một diện tích 4,126 km ² (1,593 sq mi) và không có dân số thường trực trên đảo theo cuộc điều tra dân số 2000.
Hòn đảo này được đặt tên trong lần thám hiểm Wilkes vào năm 1841, bởi Charles Wilkes', theo tên người cháu của mình là Henry Wilkes, người đã tử nạn trong cuộc giao tranh ở Fiji năm 1840. | 1 | null |
Trịnh Thị Ngọc Lung (chữ Hán: 鄭氏玉瓏, 1612-1706), là một vương phi của chúa Trịnh. Bà là chính phi của Tây định Vương Trịnh Tạc. Bà là mẹ nuôi của Lê Gia Tông và Định Nam Vương Trịnh Căn.
Tiểu sử.
Theo "Hậu Đức cung bi ký" cho biết, bà là con gái ông Thái tể Quảng quận công, người làng Sài Sơn, huyện Vĩnh Phúc. Sau vào phủ chúa làm chính phi của chúa Trịnh Tạc.
Bà không có con, nhưng hết lòng chăm nom cho con trưởng của chúa là Trịnh Căn hết sức chu đáo.
Khi vua Lê Thần Tông mất, con thứ là Duy Cối mới 2 tuổi, Trịnh Tạc đem về cho bà Ngọc Lung nuôi nấng, dạy dỗ. Tuy không phải là con mình nhưng bà Ngọc Lung đã vâng lời ký thác, chăm lo nuôi dưỡng Duy Cối trong phủ hết lòng. Giúp đỡ dạy bảo, nghe lời ngay theo đạo chính, hàng ngày cho nghe bàn việc nước. Nay 11 tuổi, tuổi đã lớn, đức đã thành sớm nổi tiếng hiền tài hiếu thảo, có thể nối được nghiệp lớn, nên tôn lập lên ngôi hoàng đế để thỏa lòng trông đợi của thần dân trong nước.
Ngày 19 Bính Dần, Trịnh Tạc thân đem Tiết chế phủ và các quan đại thần văn,võ, tôn lập Duy Cối lên ngôi hoàng đế - tức Lê Gia Tông - lấy năm sau là Dương Đức thứ nhất(1672), tôn chính phi của Trịnh Tạc là Trịnh Thị Ngọc Lung làm Quốc Thái mẫu.
Trịnh Quốc thái mẫu, với tư cách là chính phi của Trịnh Tạc, đã cùng với chồng mình giúp cho nhà Lê: "" khôi phục cơ đồ, trong sửa chính sự, ngoài dẹp di địch, công lao xã tắc trùm vũ trụ, đức sánh trời đất. Danh vọng đã khắp đến nhân dân".
Khi vua Lê Gia Tông qua đời, bà Ngọc Lung đã thân hành đến viếng, làm lễ lạy và khóc rất thương xót, thần liêu văn võ ai thấy cũng cảm động đến rơi nước mắt.
Lăng mộ.
Khi trở thành Quốc Thái mẫu, Ngọc Lung có nguyện vọng là được làm sinh từ tại Thịnh Mỹ xã và được Nhà Chúa chấp thuận.
Đầu xuân năm Bính Dần (1685), Nhà Chúa đặc cách phân nhiệm một bộ phận xây dựng sinh từ cho Trịnh Thị Ngọc Lung do Chúa Trịnh cắt cử. Như vậy, Lăng được xây dựng 21 năm trước khi Quốc Thái mẫu qua đời.
Do biến thiên của lịch sử, Lăng Quốc Thái mẫu Trịnh Thị Ngọc Lung không còn kiến trúc như xưa. Hiện tại toàn bộ khu vực lăng được phân bố trên một mặt bằng với diện tích 4.600m2 bao gồm khu vực cổng lăng và chính lăng. Toàn bộ khu vực lăng được làm bằng đá mà những hiện vật còn lại đến ngày nay cho chúng ta biết được kiến trúc lăng (sinh từ) là điều cần thiết.
Tấm bia "Hậu Đức cung bi ký" do Đông các đại học sỹ Bồi tụng sử bộ Tả thị lang Nguyễn Viết Thứ soạn dưới thời vua Lê Hy Tông - Chính Hòa năm thứ 7 (1683) nói về thời gian xây dựng Lăng cùng thân thế, sự nghiệp, công đức của Trịnh Thị Ngọc Lung là một tài liệu hết sức quý giá, có giá trị to lớn về mặt lịch sử.
Bia có hình dáng vuông cạnh cả bốn mặt, trên có mái che hình chóp, đỉnh có núm dáng kiệu long ngai. Toàn bộ bia được tạo tác trong một khối đá nguyên, mặt bia khắc nét chữ sắc, trán bia được chạm khắc hình lưỡng long chầu nguyệt, diềm bia được chạm lá cúc cách điệu. Tất cả được đặt trên một bệ bia cũng hình vuông được đặt dật cấp từ thấp lên cao. "Hậu Đức cung bi ký" là một tấm bia không chỉ có giá trị về mặt lịch sử mà còn có giá trị trong việc nghiên cứu mỹ thuật điêu khắc đá Việt Nam thế kỷ XVII.
Ngoài tấm bia Hậu Đức cung bi ký còn có:
Hiện nay Lăng Quốc Thái mẫu Trịnh Thị Ngọc Lung không còn giữ được diện mạo ban đầu, nhưng những gì còn lại trong khu Lăng cùng với nhân vật lịch sử, lăng Quốc Thái mẫu đã được sử sách ghi chép là một "cung từ" nổi tiếng bề thế, trang nghiêm. Những hiện vật bằng đá còn giữ được qua nhiều thế hệ đến nay mà nghệ thuật tạo hình của các thế kỷ sau không thể sánh kịp.
Lăng Quốc Thái mẫu Trịnh Thị Ngọc Lung thuộc thôn Thịnh Mỹ, xã Thọ Diên, huyện Thọ Xuân (Thanh Hoá) đã được công nhận là di tích cấp tỉnh từ năm 1999. Bảo tàng Tổng hợp tỉnh, UBND, Phòng Văn hoá huyện Thọ Xuân đã ký kết bản đồ khoanh vùng bảo vệ di tích lịch sử văn hoá trên, với tổng diện tích "bất khả xâm phạm" là 4.600m2.
Đánh giá.
Sau này, vua Lê Huyền Tông còn đánh giá công lao đóng góp của Trịnh Tạc và Quốc Thái mẫu Trịnh Thị Ngọc Lung, đã được sử sách ghi lại: | 1 | null |
Đảo San Juan là hòn đảo có diện tích lớn thứ hai và có dân số lớn nhất quần đảo San Juan, toạ lạc ở phía Tây Bắc tiểu bang Washington, Hoa Kỳ. Đảo có diện tích 142,59 km ² (55,053 sq mi) và dân số là 6,822 người theo cuộc điều tra dân số 2000.
Friday Harbor là trung tâm dân cư chính của đảo San Juan và Quận San Juan và đây là thị trấn duy nhất được thành lập ở đảo. Các chuyến bay bằng thủy phi cơ được hoạt động thường xuyên ở Friday Harbor thông qua Kenmore Air.
Lịch sử.
Cái tên "San Juan" bắt nguồn từ chuyến thám hiểm năm 1791 của Francisco de Eliza, ông đặt tên là quần đảo Isla y Archiepelago de San Juan để vinh danh nhà tài trợ, bảo trợ của mình, Juan Vicente de Güemes Padilla Horcasitas y Aguayo 2 Count của Revillagigedo. Một trong các sĩ quan theo lệnh Eliza, là Gonzalo López de Haro, là người châu Âu đầu tiên khám phá ra đảo San Juan. Theo cuộc thám hiểm Wilkes, nhà thám hiểm người Mỹ Charles Wilkes đổi tên đảo thành Rodgers, tên tiếng Tây Ban Nha vẫn còn trên các văn bản và theo thời gian đã trở thành tên chính thức của hòn đảo này.
Cuộc sống ở đảo.
Trường Đại học Washington điều hành một cơ sở nghiên cứu về biển trên đảo, được tồn tại từ năm 1909 tới nay, gồm có cả ký túc xá, các lớp học để phục vụ giảng dạy...
Trên đảo có một tờ báo được xuất bản hàng tuần. Trên đảo rải rác nhiều trang trại, nền kinh tế của đảo dựa nhiều vào du lịch. Bên ngoài Friday Harbor, khu nghỉ mát lớn duy nhất thành lập thương mại là ngôi làng Roche Harbor, nằm ở phía tây bắc của hòn đảo.
Trên đảo còn có Công viên lịch sử quốc gia đảo San Juan, là nơi kỷ niệm Cuộc chiến Con lợn 1859... | 1 | null |
Hồng tước tiên (danh pháp hai phần: "Malurus cyaneus") là một loài chim thuộc họ Hồng tước tiên. Hồng tước tiên phân bố chủ yếu ở đông nam Australia, hồng tước tiên hoặc kết thành đôi, hoặc quần hôn trong nhóm, trong đó một con đực thủ lĩnh sẽ làm chủ cơ hội sinh sản và từ 1 đến bốn con đực giúp việc sẽ kiêng giao phối để làm nhiệm vụ bảo mẫu cho các con non. Những kẻ giúp việc này thường là con trai của lứa sinh sản trước.
Mô tả.
Hồng tước tiên dài 14 cm và nặng 8-13 g với con trống trung bình lớn hơn một chút so với con mái. Chiều dài đuôi trung bình là 5,9 cm, thuộc loại ngắn nhất trong chi này. Trung bình 9 mm trong phân loài "cyaneus" và mm 8 mm trong phân loài "cyanochlamys", mỏ tương đối dài, hẹp và nhọn và rộng hơn tại chân mỏ. Mỏ rộng hơn là chiều sâu, mỏ tương tự như trong hình dạng của các loài chim khác bắt mồi bằng cách dò và mổ côn trùng ra khỏi nơi ở của chúng. | 1 | null |
Lummi là một hòn đảo nằm ở phái Tây Nam quận Whatcom, tiểu bang Washington, Hoa Kỳ. Đảo nằm giữa phần đất liền của quận Whatcom và quần đảo San Juan (quận San Juan). Đảo Lummi có diện tích 23,97 km ² (9,255 sq mi) và có 822 người sinh sống trên đảo theo cuộc điều tra dân số 2000. Dân số trên đảo tăng lên gấp đôi khi khách du lịch ở Canada và Mỹ đến đảo để nghỉ mát vào mùa hè.
Hòn đảo này ban đầu được gọi là "Sa nam a o" ("Núi cao") và "Skallaham" theo cách gọi của thổ dân châu Mỹ. Năm 1792 nhà thám hiểm Tây Ban Nha gọi là Isla de Pacheco, và sau đó được gọi là đảo McLoughlin. Năm 1853, U.S. National Geodetic Survey khảo sát đảo và đặt tên là Lummi, người ta tin rằng nó xuất phát từ từ luminara, được các bộ tộc bản địa gọi. | 1 | null |
Dacia thuộc La Mã (còn gọi là "Dacia Traiana" và "Dacia Felix") là một tỉnh của đế quốc La Mã (từ năm 106-271/275 CN). Lãnh thổ của nó bao gồm phía đông và phía đông nam Transilvania, Banat, và Oltenia (những vùng đất của Rumani ngày nay). Từ lúc mới bắt đầu được thành lập, nó đã là một tỉnh trực thuộc hoàng đế và vẫn như vậy trong suốt giai đoạn chiếm đóng của người La Mã. Các sử gia ước tính dân số của Dacia La Mã khoảng từ 650.000 đến 1.200.000 người.
Cuộc chinh phục Dacia đã được Hoàng đế Trajan (năm 98-117) hoàn tất sau hai chiến dịch lớn chống lại vương quốc Dacia của Decebalus. Người La Mã đã không chiếm toàn bộ vương quốc Dacia cũ, bởi vì một phần lớn của Moldavia, cùng với Maramureş và Crişana, đã nằm dưới sự thống trị của người Dacia tự do ngay cả sau khi người La Mã chinh phục. Năm 119, tỉnh La Mã này đã được chia thành hai phần: Dacia Superior (Thượng Dacia) và Dacia Inferior (Hạ Dacia) (sau này mang tên là Dacia Malvensis). Vào năm 124 (hoặc khoảng năm 158), Dacia Superior được chia thành hai tỉnh: Dacia Apulensis và Dacia Porolissensis. Trong suốt các cuộc chiến tranh Marcomanni, chính quyền quân sự và tư pháp đã được thống nhất dưới sự chỉ huy của một thống đốc, với hai nguyên lão khác (legati legionis) là cấp dưới của ông. Vùng lãnh thổ này còn được gọi là "tres Daciæ" (Tam Dacia) hoặc chỉ đơn giản là Dacia.
Những nhà cầm quyền La Mã đã tiến hành khai thác Dacia một cách ồ ạt và tiến hành xây dựng các thuộc địa. Những khu mỏ mới đã được mở ra và việc khai thác quặng được đẩy mạnh, trong khi nông nghiệp, chăn nuôi, và thương mại cũng phát triển mạnh mẽ trên địa bàn tỉnh. Dacia bắt đầu cung cấp ngũ cốc không chỉ cho các lực lượng quân sự đóng quân ở trong tỉnh mà còn cho phần còn lại của khu vực Balkan. Nó đã trở thành một tỉnh có mức độ đô thị cao, với 11 hoặc 12 thành phố đã được biết đến, trong đó có 8 thành phố đã được xếp vào hạng cao nhất là Colonia, mặc dù vậy số thành phố của nó lại ít hơn so với các tỉnh khác của khu vực. Tất cả các thành phố phát triển từ các doanh trại quân sự cũ. Apulum là nơi mà các thống đốc quân sự của cả ba phân khu đặt trụ sở chính của họ, không chỉ đơn thuần là thành phố lớn nhất của tỉnh, nó còn là một trong những thành phố lớn nhất trên toàn bộ khu vực biên giới Danube.
Đã có những mối đe dọa quân sự và chính trị từ khi tỉnh Dacia của La Mã bắt đầu tồn tại. Người Daci tự do sống tiếp giáp với tỉnh là những kẻ thù đầu tiên, sau khi liên minh với người Sarmatia, họ liên tục quấy nhiễu tỉnh này trong thời kỳ cai trị của Marcus Aurelius. Sau một khoảng thời gian yên tĩnh kéo dài từ thời Commodus tới Caracalla (180-217 CN), tỉnh này một lần nữa lại bị những kẻ xâm lược bao vây, lần này là người Carpi, một bộ tộc Daci trong liên minh với người Goth mới đến, trong thời gian đã trở thành một vấn đề nghiêm trọng cho đế quốc. Nhận thấy rằng ngày càng khó khăn để có thể giữ lại Dacia, các vị hoàng đế đã buộc phải từ bỏ tỉnh này vào thập niên 270, và nó trở thành thuộc địa lâu đời đầu tiên của Roma bị từ bỏ. Dacia đã bị tàn phá bởi các bộ lạc người Đức (Goth, Taifali, Bastarn) cùng với người Carpi vào năm 248-250, bởi người Goth và Carpi và năm 258 và 263, người Goth và người Heruli trong năm 267 và 269 Các tác phẩm cổ đại ngụ ý rằng Dacia gần như đã bị mất trong thời kỳ cai trị của Gallienus (253 - 268), nhưng chúng cũng ghi lại rằng là Aurelianus (270-275) đã từ bỏ Dacia Traiana. Ông đã rút bỏ quân đội của mình cùng chính quyền dân sự ra khỏi Dacia, và thành lập Dacia Aureliana với thủ phủ của nó tại Serdica thuộc Hạ Moesia.
Vương quốc Dacia và đế quốc La Mã.
Người Daci và người Getae thường xuyên có tác động qua lại với những người La Mã trước khi Dacia được sáp nhập vào đế quốc La Mã. Tuy nhiên, sự chú ý của La Mã vào khu vực xung quanh hạ lưu sông Danube đã được tăng thêm khi Burebista (năm 82-44 trước Công nguyên) thống nhất các bộ lạc bản địa và bắt đầu một chiến dịch bành trướng tích cực. Vương quốc của ông kéo dài từ Pannonia ở phía tây và đến Biển Đen ở phía đông, trong khi về phía nam quyền lực của ông đã mở rộng vào khu vực Balkan.
Vào năm 74 trước Công nguyên, các quân đoàn La Mã dưới quyền Gaius Scribonius Curio đã đặt chân đến khu vực hạ lưu sông Danube và tiến hành giao thiệp với người Dacia. Người La Mã đã lo ngại về sự gia tăng quyền lực và sự khuếch đại ảnh hưởng của Burebista khi ông ta bắt đầu đóng một vai trò tích cực trong nền chính trị La Mã. Quyết định tham gia vào cuộc nội chiến của nước Cộng Hòa La Mã lúc phút chót ngay trước trận Pharsalus của ông bằng việc ủng hộ Pompey và điều này có nghĩa là một khi phe Pompey đã được đối phó, Julius Caesar sẽ hướng con mắt của mình về phía Dacia.Và như là một phần trong kế hoạch chinh phục Parthia của Caesar, ông đã lên kế hoạch tiến quân qua Dacia và loại bỏ Burebista, bằng cách đó, ông hy vọng sẽ khiến cho vương quốc Dacia tan rã. Mặc dù kế hoạch cho cuộc viễn chinh nhằm vào Dacia đã không xảy ra do vụ ám sát Caesar. Burebista đã thất bại trong việc tạo nên sự thống nhất thực sự các bộ lạc dưới sự cai trị của ông ta. Sau khi ông ta bị ám sát, vương quốc Dacia bị tan vỡ thành bốn thực thể chính trị khác biệt, sau này trở thành năm.
Từ lúc Burebista qua đời cho tới khi Decebalus nổi lên, quân đội La Mã vẫn tiếp tục những cuộc xung đột chống lại người Daci và Getae. Các bộ lạc này liên tục đánh phá các tỉnh lân cận như Moesia và Pannonia khiến cho các thống đốc địa phương và các vị hoàng đế phải tiến hành một số hành động trừng phạt đối với người Daci. Tuy nhiên, bất kể những điều này, đã tồn tại một mức độ đồng minh, ngoại giao và chính trị nhất định giữa Đế quốc La Mã và người Daci.
Mặc dù người ta tin rằng phong tục giao nộp các con tin hoàng gia cho những người La Mã có thể đã bắt đầu vào một thời điểm nào đó trong giai đoạn nửa sau của thế kỷ 1 TCN, chắc chắn nó đã xảy ra dưới thời Octavianus và nó tiếp tục được tiến hành trong giai đoạn cuối trước thời kì La Mã cai trị. Ở phía bên kia, các nguồn cổ đã chứng thực sự hiện diện của thương nhân và thợ thủ công La Mã ở Dacia, trong khi khu vực này cũng được dùng làm một nơi ẩn náu cho các nô lệ La Mã bỏ trốn. Sự trao đổi văn hóa và thương mại đã chứng kiến sự lan truyền dần dần ảnh hưởng của La Mã trong khu vực này, hầu hết được thấy rõ ở khu vực xung quanh dãy núi Orăştie.
Sự khởi nghiệp của triều đại Flavius, đặc biệt là sự lên ngôi của hoàng đế Domitianus, đã cho thấy một mức độ leo thang các cuộc xung đột dọc theo khu vực Hạ lưu và trung lưu của sông Danube. Trong khoảng năm 84 hoặc 85 CN, người Daci, dưới sự lãnh đạo của vua Decebalus, đã vượt qua sông Danube và tiến vào khu vực Moesia, họ tàn phá và giết chết viên thống đốc Moesia, Oppius Sabinus. Domitianus đã phản ứng bằng cách tổ chức lại Moesia thành Hạ Moesia và Thượng Moesia, cùng với đó ông phát động một cuộc chiến tranh chống lại Decebalus. Không thể kết thúc cuộc chiến tranh do những khó khăn trên biên giới Germania, Domitianus đã ký kết một hiệp ước với người Dacia mà đã bị chỉ trích nặng nề vào thời điểm đó. Tuy nhiên, điều này chỉ đơn thuần là một khúc dạo đầu cho các cuộc chiến tranh chinh phạt Dacia của hoàng đế Traianus. Trajan đã chỉ huy các quân đoàn La Mã vượt qua sông Danube, thâm nhập Dacia và tập trung vào khu vực quan trọng xung quanh dãy núi Orăştie. Vào năm 102, sau một loạt các cuộc giao tranh, và các cuộc đàm phán cuối cùng đã dẫn đến một sự giàn xếp hòa bình trong đó Decebalus đã đồng ý phá hủy những pháo đài của ông trong khi lại cho phép sự hiện diện của một đơn vị đồn trú La Mã ở Sarmizegetusa Regia (Grădiştea Muncelului, România) để đảm bảo người Dacia tuân thủ hiệp ước. Trajan cũng đã ra lệnh cho vị công trình sư của ông, Apollodorus của Damascus, thiết kế và xây dựng một cây cầu bắc qua sông Danube tại Drobeta.
Chiến dịch Dacia lần thứ hai của Trajan vào năm 105-106 với mục tiêu rất cụ thể đó là mở rộng và chinh phục. Cuộc tấn công lần này nhắm đến mục tiêu là "Sarmizegetusa Regia." Người La Mã đã bao vây kinh đô của Decebalus, thành phố này đã đầu hàng và bị phá hủy sau đó . Vị vua của người Dacia cùng với một số ít những người theo ông đã rút lui vào núi, nhưng sự kháng cự của họ không kéo dài được lâu và Decebalus đã tự sát. Tuy vậy, các quý tộc Dacia khác, hoặc đã bị bắt hoặc đã chọn cách đầu hàng. Một trong những người đầu hàng đã tiết lộ vị trí của kho báu hoàng gia Dacia, mà giá trị của nó là rất lớn: 500.000 bảng vàng (226.800 kg) 1.000.000 bảng bạc(453.600 kg).
Dacia dưới triều đại của các hoàng đế nhà Antoninus và Severus (từ năm 106-235).
Sự thiết lập.
Với việc sáp nhập vương quốc của Decebalus, Dacia đã trở thành hành tỉnh mới nhất của La Mã, nó cũng là tỉnh thứ hai mà người La Mã giành được kể từ khi Augustus qua đời gần một thế kỷ trước. Tất cả những gì còn lại cần phải đối phó chính là đồng minh người Sarmatia của Decebalus ở phía bắc, điều này đã đòi hỏi người La Mã phải tiến hành một số các chiến dịch không ngừng ít nhất cho đến năm 107. Tuy nhiên, vào cuối năm 106, các quân đoàn đã bắt đầu xây dựng Castra mới dọc theo biên giới. Trajan sau đó quay trở về Roma vào giữa tháng 6 năm 107.
Các nguồn Roman đã coi vùng Dacia là một tỉnh thuộc hoàng đế vào ngày 11 tháng 8 năm 106. Nó nằm dưới sự quản lý của một quan khâm sai hoàng đế với địa vị của chấp chính quan, được hỗ trợ bởi hai legati legionis, mỗi người họ lại phụ trách một trong hai quân đoàn đóng quân tại Dacia. Viên quan đại diện của Hoàng đế thì lại chịu trách nhiệm về quản lý thuế của tỉnh và phí tổn của quân đội. Vùng lãnh thổ mà Trajan chinh phục lại bị chia giữa tỉnh mới được thành lập và các tỉnh hiện tại của đế quốc có biên giới với Dacia. Hạ Moesia nhận thêm những khu vực mà ngày nay là Nam Moldavia, Muntenia, và Đông Oltenia, trong khi Dacia Traiana lại bao gồm phần phía tây của Oltenia, Transilvania và Banat.
Về phía Đông và phía Nam của tỉnh Dacia thuộc La Mã là hành tỉnh Moesia, nó đã được hoàng đế Domitianus chia thành hai phần vào năm 86 - Thượng Moesia, có thủ phủ của nó tại Singidunum (hiện nay là Belgrade ở Serbia), và Hạ Moesia, với Tomis là thủ phủ của nó (hiện nay là Constanţa, România). Dọc theo khu vực biên giới phía Tây của Dacia thuộc La Mã và kéo dài về phía đồng bằng Pannonia rộng lớn là nơi sinh sống của người Iazyges, một bộ tộc Sarmatia. Khu vực Bắc Moldavia là quê nhà của người Bastarn, người Roxolani, và người Carpi, trong khi phần phía bắc của Transilvania là nơi định cư của những người Dacia còn lại không bị La Mã hóa và một bộ tộc người Daci khác, người Costoboci.
Một ảnh hưởng trực tiếp từ những cuộc chiến tranh dẫn đến sự chinh phục của La Mã đó là sự suy giảm dân số trong tỉnh. Crito đã viết rằng có khoảng 500.000 người Dacia bị bắt làm nô lệ và bị trục xuất, một phần trong số đó được vận chuyển đến Roma để tham gia vào các trận giác đấu(còn gọi là "lusiones") như là một phần của buổi lễ kỷ niệm đánh dấu sự ca khúc khải hoàn của Hoàng đế. Để bù đắp cho sự suy giảm dân số, người La Mã đã thực hiện một chương trình thực dân hóa chính thức, thiết lập các đô thị mà bao gồm cả công dân La Mã và những người không phải là công dân từ khắp nơi trên toàn đế quốc. Tuy nhiên, người Dacia bản địa vẫn còn sót lại ở khu vực ngoại vi của tỉnh và khu vực nông thôn, trong khi tầng lớp quý tộc quyền lực ở địa phương được khuyến khích hỗ trợ việc quản lý chính quyền tỉnh, cũng như theo thói quen thuộc địa truyền thống của La Mã.
Trajan đã thành lập thủ phủ của Dacia, Ulpia Traiana Sarmizegetusa, cách đống đổ nát của Sarmizegetusa Regia về phía tây khoảng 40 km (25 dặm). Ban đầu nó được sử dụng như là một căn cứ cho quân đoàn IV Flavia, nó sẽ sớm trở thành nơi định cư cho các cựu chiến binh đã tham gia trong các cuộc chiến tranh Dacia, chủ yếu là các quân đoàn Macedonia thứ năm, Claudia thứ chín, và (quân đoàn Gemina thứ mười bốn).
Người ta thường giả định rằng triều đại của Traianus đã chứng kiến việc hình thành nên mạng lưới đường La Mã ở bên trong vùng Dacia của đế quốc, và với bất kỳ tuyến thông tin liên lạc tất nhiên đã tồn tại từ trước sẽ nhanh chóng chuyển đổi thành những con đường lát đá của La Mã, chúng sau đó đã sớm mở rộng thành một mạng lưới đường rộng hơn. Tuy nhiên, chỉ có hai con đường đã được chứng thực là đã được tạo ra theo mệnh lệnh rõ ràng của Trajan: Một là tuyến đường chính mà liên kết các doanh trại quân sự tại Napoca và Potaissa. Bằng chứng chữ khắc trên cây cột kilomet (milliarium) ở Aiton chỉ ra rằng quãng đường này đã được hoàn thành vào một thời điểm nào đó trong khoảng thời gian từ năm 109-110 SCN. Con đường thứ hai là tuyến đường chính lớn hơn và nó đã đi ngang qua Apulum, và kéo dài từ biển Đen xa xôi ở phía đông tới tận Hạ Pannonia ở phía tây và có lẽ vượt xa hơn nữa.
Những sự tái tổ chức đầu tiên (117-138).
Hadrianus đang có mặt tại Antioch ở Syria, khi nghe tin Traianus đã qua đời. Nhưng ông đã không có thời gian để trở về Roma ngay, vì ông đã được báo cho biết rằng Quadratus Bassus, vốn được Trajan giao trọng trách bảo vệ vùng lãnh thổ Dacia mới ở phía bắc của sông Danube, đã qua đời ở đó trong khi đang tiến hành chiến dịch. Cùng với việc đem theo một số quân đoàn và một số lượng đông đảo các trung đoàn quân trợ chiến với mình tới Parthia, Trajan đã khiến cho Dacia và các tỉnh Danube còn lại chỉ còn số quân ít hơn hiện có. Người Roxolani đã nổi giận vì việc người la Mã quyết định chấm dứt các khoản tiền nộp mà Trajan đã đồng ý trước đó, họ liên minh với người Iazyges và cả hai bộ tộc đã nổi dậy chống lại La Mã. Do đó, Hadrianus đã phải phái quân đội từ phía đông tiến đến trước ông, và rời Syria ngay sau khi ông có thể.
Vào thời gian này, Hadrianus đã ngày càng trở nên quá thất vọng với các vấn đề liên tục trong những vùng lãnh thổ ở phía bắc của sông Danube tới mức ông dự tính rút khỏi Dacia. Như là một biện pháp khẩn cấp, Hadrianus đã cho tháo dỡ cây cầu của Apollodorus trên sông Danube, vì ông đã lo lắng về mối đe dọa mà dân man rợ có thể gây ra nếu họ tấn công qua sông Olt và mở rộng về phía nam, giữa một số Colonia của Trajan và castrum tại Bersobis.
Vào năm 118, hoàng đế Hadrianus đã tự mình đem quân tiến đánh người Roxolani và dân Iazyges, và mặc dù ông đã đánh bại họ, cuối cùng ông đã đồng ý việc phục hồi các khoản tiền cấp cho người Roxolani. Hadrianus sau đó đã quyết định từ bỏ một phần lãnh thổ nhất định của Dacia mà Trajan đã chinh phục. Những vùng lãnh thổ được thêm vào tỉnh Hạ Moesia trước kia (phía Nam Moldavia, rìa phía đông nam của dãy núi Carpathian, và khu vực đồng bằng của Muntenia và Oltenia) đã được trả lại cho người Roxolani. Kết quả là, Hạ Moesia một lần nữa đã quay lại với các ranh giới ban đầu mà nó sở hữu trước khi giành được Dacia. Những vùng đất của Hạ Moesia ở phía bắc của sông Danube lại được chia ra và tái lập thành một tỉnh mới được gọi là "Hạ Dacia". Hành tỉnh Dacia ban đầu của Trajan lại được đổi tên thành "Thượng Dacia" . Cũng vào thời điểm này, Hadrianus đã chuyển Legio IV Flavia Felix ra khỏi căn cứ của nó tại "Ulpia Traiana Sarmizegetusa", và ra lệnh cho nó đóng quân tại Thượng Moesia.
Tới năm 124, một tỉnh mới được bổ sung thêm gọi là "Dacia Porolissensis" đã được tạo ra ở phần phía bắc của "Thượng Dacia", nó nằm ở khoảng chừng phía tây bắc Transilvania. Có một truyền thống mà bắt đầu vào thời Augustus đó là những chấp chính quan trước đây chỉ có thể cai quản tỉnh như là quan khâm sai của hoàng đế ở những nơi mà có nhiều hơn một quân đoàn đóng quân, chính vì thế mà Thượng Dacia đã nằm dưới sự cai của một nguyên lão thuộc hàng ngũ pháp quan. Điều này có nghĩa rằng viên quan khâm sai của hoàng đế ở Thượng Dacia chỉ có duy nhất một quân đoàn dưới sự chỉ huy của mình, và nó đóng tại Apulum. "Hạ Dacia" và "Dacia Porolissensis" nằm dưới quyền chỉ huy của những "'praesidial procurators" thuộc hàng ngũ ducenary.
Củng cố (138-161).
Sự kế vị của Antoninus Pius đã chứng kiến sự xuất hiện của một vị hoàng đế với cách tiến hành giải quyết vấn đề bảo vệ các tỉnh một cách thận trọng. Số lượng lớn các cột mốc kilomet có niên đại vào triều đại của ông chứng minh rằng ông đã đặc biệt quan tâm với việc đảm bảo cho những con đường luôn không ngừng được tu bổ. Những viên gạch nung được đóng dấu cho thấy rằng amphitheatre tại Ulpia Traiana Sarmizegetusa, mà nó vốn được xây dựng trong những năm đầu tiên của "Colonia" này, đã được sửa chữa dưới triều đại của ông.
Sau một cuộc nổi loạn vào khoảng năm 158, Antonius Pius đã tiến hành một tổ chức lại các tỉnh Dacia. "Dacia Porolissensis" (bây giờ là miền bắc Transilvania), với Porolissum là thủ phủ của nó, vẫn nguyên vẹn như cũ. "Thượng Dacia" được đổi tên thành "Dacia Apulensis" (ở Banat và miền nam Transilvania), với Apulum là thủ phủ của nó, trong khi của "Hạ Dacia" đã được chuyển đổi thành "Dacia Malvensis" (nằm tại Oltenia). Romula là thủ phủ của nó(hiện nay là Reşca Dobrosloveni, România). Cũng như sự tái tổ chức trước đó của Hadrianus, từng khu vực đã được cai quản bởi những viên biện lý thuộc tầng lớp kị sĩ, và tất cả đều chịu trách nhiệm trước viên thống đốc thuộc hàng ngũ nguyên lão ở Apulensis.
Những cuộc chiến tranh Marcomanni và ảnh hưởng của chúng (161-193).
Chẳng bao lâu sau khi Marcus Aurelius lên kế vị vào năm 161, tình trạng bất ổn lại chuẩn bị kéo đến dọc theo biên giới phía bắc của Roma, bởi vì bộ lạc địa phương đã bắt đầu bị áp lực bởi các bộ lạc di cư đến từ phía bắc của họ. Vào năm 166 CN, Marcus đã tổ chức lại Dacia một lần nữa, ông đã việc sáp nhập ba tỉnh Dacia vào làm một. Vì thế mà trên địa bàn tỉnh hiện nay có hai quân đoàn (Legio XIII Gemina tại Apulum đã kết hợp với Legio V Macedonica, đóng tại Potaissa), và viên quan khâm sai của hoàng đếl lúc này đã thuộc hàng ngũ chấp chính quan, và Marcus dường như đã giao quyền lại cho Sextus Calpurnius Agricola. Thủ phủ mới của nó là ở Ulpia Traiana Sarmizegetusa.
Dacia, với đường biên giới của nó cả ở ba hướng phía bắc, phía đông và phía tây, có thể đã gặp khó khăn trong việc bảo vệ chính nó khỏi những cuộc tấn công. Khi những cuộc xâm lược của người man rợ quay trở lại trong triều đại của Marcus Aurelius, những thành lũy ở Dacia đã khó mà ngăn chặn được tất cả các cuộc tấn công, chính vì vậy nó đã khiến cho các tỉnh Thượng và Hạ Moesia rơi vào tình thế nguy hiểm. Trong suốt năm 166 và 167 CN, các bộ lạc man rợ (người Quadi và người Marcomanni) bắt đầu tràn qua sông Danube vào vùng Pannonia, Noricum, Raetia, và càn quét ngang qua Dacia trước khi xộc vào Moesia. Rõ ràng, chiến tranh đã lan đến miền Bắc Dacia sau năm 167 khi người Iazyges bị đuổi ra khỏi Pannonia, họ đã tập trung sức lực của mình vài Dacia và chiếm lấy các mỏ vàng tại Alburnus Maior (hiện nay là Roşia Montana, România). Thời điểm cuối cùng được ghi trên các bản sáp mà đã được phát hiện trong hầm mỏ ở đó(vốn được giấu đi khi mà một cuộc tấn công của quân địch dường như sắp xảy đến) là ngày 29 tháng năm 167. Các căn biệt thự ngoại ô tại Ulpia Traiana Sarmizegetusa bị thiêu trụi, và trại binh tại Slăveni đã bị phá hủy bởi người Marcomanni. Vào lúc Marcus Aurelius đến được Aquileia trong năm 168 sau công nguyên, người Iazyges đã bắt đi hơn 100.000 người La Mã làm tù binh.
Chiến tranh vẫn sẽ tiếp tục ở Dacia trong vòng hai năm tới, và vào năm 169 viên thống đốc của tỉnh này, Agricola, đã buộc phải trao lại quyền chỉ huy của mình - người ta nghi ngờ rằng ông ta có lẽ đã mắc phải bệnh dịch hạch hoặc tử trận trên chiến trường. Hoàng đế đã quyết định tạm thời phân chia hành tỉnh này một lần nữa thành ba tỉnh nhỏ, với viên quan khâm sai của hoàng đế ở Thượng Moesia, Marcus Claudius Fronto, nắm quyền thống đốc của tỉnh trung tâm là "Dacia Apulensis." "Dacia Malvenis" có thể đã được giao cho viên quan biện lý của nó, Macrinius Avitus, ông ta đã giành chiến thắng trước người Langobardi và người Obii. Vị hoàng đế Pertinax tương lai cũng là một quan biện lý ở Dacia trong thời gian này, mặc dù vai trò của ông đã không được biết chính xác. Do rất không được lòng dân chúng ở Dacia, Pertinax cuối cùng đã bị cắt chức. Vào 170, Marcus Aurelius đã bổ nhiệm Claudius Fronto làm Thống đốc của toàn bộ các tỉnh Dacia, mà bấy giờ được gán cho tên gọi "Tam Dacia". Sau đó năm, quyền chỉ huy của Fronto đã được mở rộng lên gồm cả quyền Thống đốc của Thượng Moesia một lần nữa. Nhưng ông ta đã không thể có được điều này lâu; vào cuối năm 170, Fronto đã bị đánh bại và bị giết chết trong một trận chiến chống lại người Iazyges. Thay thế ông ta làm thống đốc của Dacia là Sextus Cornelius Clemens.
Cùng năm đó (năm 170) người Costoboci (vốn sống ở phía bắc hoặc đông bắc của Dacia) đã quét qua Dacia trên con đường tiến về phía nam của họ. Bị suy yếu vì điều này, đế quốc đã không thể ngăn chặn sự di chuyển của các bộ lạc vào một Dacia hoang tàn trong năm 171, và Marcus Aurelius đã buộc phải tham gia vào các cuộc đàm phán ngoại giao trong một nỗ lực để phá vỡ một số liên minh của người man rợ. Trong năm 171, người Astingi đã xâm lược Dacia, họ đánh bại người Costoboci và phá tan nhiều castra của người La Mã, bao gồm cả pháo đài tại Tibiscum (hiện nay là Jupa ở România), trước khi chuyển sự chú ý của họ tới thủ phủ Ulpia Traiana Sarmizegetusa. Người La Mã đã đàm phán một sự dàn xếp với người Astingi, nhờ đó mà họ đã đồng ý rời khỏi Dacia và đinh cư trong vùng đất của người Costoboci.
Trong suốt thời gian này, các bộ lạc giáp với Dacia về phía đông, chẳng hạn như người Roxolani, đã không tham gia vào các cuộc xâm lược toàn thể vào đế quốc. Vào năm 173 CN, người Marcomanni đã bị đánh bại. Tuy nhiên, cuộc chiến tranh với người Iazyges và Quadi vẫn tiếp tục, và để đảm bảo cho việc triển khai nhanh chóng các quân đoàn ở phần tây bắc của Dacia vốn đang phải chịu áp lực, người La Mã đã xây dựng một con đường nối giữa Porolissum và Napoca. Ở đây, người La Mã gặp phải sự kháng cự kịch liệt từ người Iazyges, và trong suốt mùa đông năm 172-173, những đồn lũy La Mã dọc theo sông Tisa và sông Danube đã bị tấn công bởi dân Iazyges và dân Quadi.
Do đó, Marcus Aurelius chuyển toàn bộ sự chú ý của ông cho việc chống lại người Iazyges và Quadi. Ông đã nghiền nát người Quadi trong năm 174 CN, đánh bại họ trong trận chiến trên dòng sông Danube đóng băng, sau đó khiến cho họ phải thỉnh cầu hòa bình. Hoàng đế sau đó lại chuyển sự chú ý của mình về phía người Iazyges, và sau khi đánh bại họ và đuổi họ ra khỏi Dacia, viện nguyên lão đã trao tặng ông danh hiệu "Samarticus Maximus" vào năm 175 CN. Ý thức về sự cần thiết phải tạo ra một giải pháp lâu dài cho các vấn đề liên quan đến biên giới phía bắc của đế quốc, Marcus Aurelius đã nới lỏng một số hạn chế của ông đối với người Marcomanni và Iazyges. Đặc biệt, ông cho phép người Iazyges đi ngang qua vùng Dacia của đế quốc để giao thương với người Roxolani, miễn là họ có được sự chấp thuận của viên thống đốc. Đồng thời ông cũng đã quyết định thực hiện một kế hoạch sáp nhập các vùng lãnh thổ của người Marcomanni và Iazyges thành những tỉnh mới nhất của đế quốc, nó chỉ bị từ bỏ sau khi nổ ra cuộc nổi loạn của Avidius Cassius.
Cùng với việc hoàng đế cần phải có mặt ở những nơi khác một cách cấp thiết, La Mã một lần nữa lại thành lập hệ thống liên minh với các bộ lạc biên giới dọc theo biên giới phía bắc của đế quốc Tuy nhiên, cùng với sự xuất hiện của những bộ tộc người Đức mà đã bắt đầu định cư trên khu vực biên giới phía Bắc của Dacia, đã dấn đến việc bắt đầu lại các cuộc chiến tranh ở phía bắc.Vào năm 178, Marcus Aurelius có thể đã bổ nhiệm Pertinax làm thống đốc của Tam Dacia, và trong năm 179 CN, hoàng đế lại một lần nữa có mặt ở phía bắc của sông Danube, ông đã tiến hành chiến dịch chống lại người Quadi và người Buri. Vị hoàng đế chiến thắng suýt nữa đã biến một vùng lãnh thổ rộng lớn ở phía tây bắc của Dacia thành một tỉnh La Mã vào lúc ông qua đời trong năm 180. Marcus đã được kế vị bởi người con trai của ông, Commodus, người cũng đã cùng đi với ông. Vị hoàng đế trẻ nhanh chóng ký kết một hòa bình với các bộ lạc đang gây chiến trước khi trở về Roma.
Xung đột và giao tranh vẫn tiếp tục ở Dacia dưới triều đại cai trị của Commodus. Tác phẩm nổi tiếng là không đáng tin cậy như Historia Augusta cũng đã đề cập đến một cuộc khởi nghĩa hạn chế mà đã nổ ra khoảng năm 185 ở Dacia.Cũng từ nguồn này, nó đã nhắc đến một thất bại của các bộ lạc Daci sống ở bên ngoài tỉnh. Những viên legate của Commodus đã tàn phá một lãnh thổ sâu khoẳng chừng năm dặm; dọc theo phía bắc của castrum tại Gilău ngày nay để thiết lập một vùng đệm với hy vọng ngăn chặn các xâm nhập khác nữa của người man rợ.
Sự phục hồi dưới thời nhà Severus (193-235).
Triều đại của Septimius Severus đã chứng kiến một giai đoạn yên ổn trên địa bàn tỉnh Dacia, với việc không có cuộc tấn công từ bên ngoài nào được ghi lại. Những tổn hại gây ra cho các doanh trại quân sự trong giai đoạn mở rộng chiến tranh của các triều đại trước đó đã được sửa chữa . Severus đã mở rộng biên giới phía đông của tỉnh về phía đông của sông Olt khoảng 14 km, và hoàn thành Limes Transalutanus. Dự án này bao gồm việc xây dựng 14 doanh trại kiên cố và trải rộng trên một khoảng cách xấp xỉ 225 km, trải dài từ Flămânda (nằm gần sông Danube) ở phía nam đến Cumidava (hiện nay là Breţcu ở România) . Thời trị vì của ông đã chứng kiến một sự gia tăng số lượng các "municipia" La Mã trong tỉnh, trong khi hai thành phố Ulpia Traiana Sarmizegetusa và Apulum đã nhận được vinh dự"ius Italicum".
Như một phần của các cải cách quân sự của ông, Severus cho phép các chiến binh được sống ngoài doanh trại kiên cố, nội trong "canabae" kèm theo, nơi họ được chăm sóc các thửa ruộng gần kề.Ông cũng cho phép binh lính kết hôn với những người phụ nữ địa phương, do vậy, nếu người lính đó là một công dân La Mã, các con ông ta sẽ được thừa hưởng quyền công dân của mình. Đối với những người lính không phải là công dân La Mã, cả ông ta và con cái của ông ta sẽ được cấp quyền công dân sau khi ông ta giải ngũ .
Vị Hoàng đế kế tiếp, Caracalla đã ban quyền công dân cho tất cả nam giới trên khắp đế quốc, nhằm tăng nguồn thu từ thuế và làm tăng sự yêu mến của dân chúng dành cho mình, với ngoại lệ là nô lệ.
Trong cuộc hành trình về phía đông để bắt đầu chiến dịch Parthia của mình, Caracalla đã đi ngang qua Dacia. Trong khi ở đó, ông đã sử dụng những mưu mẹo ngoại giao để làm xáo trộn các liên minh giữa một số bộ lạc, đặc biệt là người Marcomanni và người Quadi Tại Porolissum, ông đã giết chết Gaiobomarus, vua của người Quadi, với cái cớ là tiến hành các cuộc đàm phán hòa bình Đó có thể là xung đột quân sự với một hoặc nhiều bộ lạc ở khu vực Danube. Trong năm 218, người kế vị của Caracalla, Macrinus, đã trao trả lại một số con tin không Latinh hóa người Daci mà Caracalla đã bắt đi, có thể là do tình trạng bất ổn mà các bộ lạc gây ra sau vụ ám sát Caracalla.
hiện vẫn còn vài chữ khắc ở Dacia có niên đại từ triều đại của Alexander Severus, vị hoàng đế cuối cùng của triều đại SeverusDưới triều đại của ông, Hội đồng Tam Dacias đã họp tại Ulpia Traiana Sarmizegetusa, và các cánh cổng, tháp, và "praetorium" của doanh trại Ad Mediam (Mehadia, România) đã được khôi phục.
Cuộc sống ở Dacia thuộc La Mã.
Người Dacia bản địa.
Bằng chứng liên quan đến sự tiếp tục tồn tại của những cư dân Daci bản địa ở Dacia thuộc La Mã là không rõ ràng như người German, người Celt, Thracia, hoặc người Illyria ở các tỉnh khác. Chỉ có một nguồn tư liệu tương đối nghèo nàn xung quanh sự tồn tại của người Daci địa phương hoặc bản xứ trong những thị trấn La Mã được thành lập sau khi Dacia được sáp nhập vào đế quốc
Mặc dù các nguồn văn học - chủ yếu là Eutropius, được hỗ trợ bởi các tham chiếu nhỏ trong các tác phẩm của Cassius Dio và Julianus Kẻ Bội Giáo - mô tả sự suy giảm dân số trên diện rộng của tỉnh sau cuộc vây hãm Sermizegetusa Regia và sự tự vẫn của vua Decebalus,Đã có những vấn đề với sự giải thích này. Những bản thảo còn lại từ tác phẩm "Breviarium ab urbe condita" của Eutropius, mà vốn là nguồn chính cho sự suy giảm dân số của Dacia sau khi người La Mã chinh phục, thì lại không chắc chắn.
Các bằng chứng khảo cổ cho thấy sự tiếp tục thực hành kiểu chôn cất truyền thống của người Dacia;. Việc sản xuất đồ Gốm vẫn tiếp tục trong suốt thời kỳ La Mã, ở cả trong tỉnh cũng như các khu vực ngoại biên nơi mà sự kiểm soát của người La Mã chưa bao giờ tồn tại.
Trong khi có một điều chắc chắn rằng một số lượng lớn những người định cư mới đã được đưa đến từ khắp nơi trong đế quốc để định cư ở tỉnh Dacia của La Mã, điều này dường như là đúng đối với các thị trấn La Mã mới chỉ được tạo ra. Việc thiếu bằng chứng chữ khắc các tên gọi của người Daci bản địa ở các thị trấn đã tạo ra giả thuyết là một sự chia tách đô thị-nông thôn giữa các trung tâm đô thị đa sắc tộc của La Mã và cư dân Dacia bản địa ở khu vực nông thôn.
Đã có ít nhất hai lần người Daci nổi dậy chống lại chính quyền La Mã:lần đầu tiên trong năm 117 CN, và cũng là nguyên do khiến cho Trajan quay trở về từ phía đông, sau đó là trong năm 158 CN, lần này họ đã bị đàn áp bởi Marcus Statius Priscus
Các bằng chứng khảo cổ học từ những kiểu khu định cư khác nhau, đặc biệt là trong dãy núi Oraştie, đã minh chứng cho sự phá hủy có chủ ý các pháo đài trên đồi trong suốt thời kì sáp nhập Dacia, nhưng điều này không loại trừ khả năng đã liên tục có cư dân sinh sống tại những nơi này, một khi sự tàn phá của các cuộc chinh phục ban đầu đã qua. Những ngôi làng nhỏ có chứa kiểu kiến trúc Dacia truyền thống, chẳng hạn như Obreja và Noşlac, có niên đại vào thế kỷ thứ 2, ngụ ý rằng chúng xuất hiện cùng một thời điểm như các trung tâm đô thị La Mã.
Một số khu định cư cho thấy một cách rõ ràng về sự cư trú liên tục từ trước thời La Mã cho đến thời kỳ thuộc tỉnh, chẳng hạn như Cetea và Cicau Bằng chứng khảo cổ được lấy từ đồ gốm cho thấy một sự cư trú liên tục của các cư dân Dacia bản địa ở những nơi này và những khu vực khác. Những kiểu dáng kiến trúc bản địa từ trước thời Dacia thuộc La Mã, chẳng hạn như ngôi nhà trũng truyền thống và các hầm chứa lương thực, vẫn còn trong thời kì La Mã. Những căn nhà ở như vậy tiếp tục được xây dựng vào thời kỳ La Mã, ngay cả trong các khu định cư mà rõ ràng được thành lập sau khi La Mã thôn tính, chẳng hạn như Obreja.
Tại những nơi mà các bằng chứng khảo cổ học đã chứng minh cho sự tiếp tục hiện diện của người Daci, nó cũng đồng thời cho thấy một quá trình Latinh hóa Đồ gốm truyền thống đã được phát hiện trong các khu định cư của người Daci, cùng với đó là sự sản xuất đồ gốm La Mã kết hợp với các kiểu dáng địa phương. Sự gia tăng tính Latinh của Dacia có nghĩa rằng chỉ có một số nhỏ các phong cách gốm của người Dacia trước đó đã được giữ lại không thay đổi, chẳng hạn như chậu và các cốc uống rượu bé có thành dày mà đã được gọi là "chén Dacia". Những hiện vật này thường được làm bằng tay, và họ hiếm khi sử dụng bàn quay trong làm đồ gốm Trong trường hợp của các ngôi nhà, việc sử dụng các kỹ thuật Dacia cũ vẫn được tiếp tục, cũng như các loại đồ trang trí và các công cụ sử dụng trước khi thành lập tỉnh Dacia của La Mã.Bằng chứng khảo cổ từ những địa điểm chôn cất đã chứng minh rằng số lượng người dân bản xứ ở Dacia đã quá lớn để có thể bị đuổi đi hết hoặc bị xóa sổ với bất kỳ ý nghĩ có ý nghĩa nào. Ngoài ra với nguồn lực của người La Mã cũng không đủ để có thể loại bỏ được phần lớn cư dân nông thôn trong một diện tích khoảng 300.000 km vuôngĐồ trang sức bằng bạc được phát hiện trong những ngôi mộ cho thấy một số địa điểm chôn cất không nhất thiết phải có nguồn gốc từ cư dân Dacia bản địa, nhưng đều giống như là thuộc về người Carpi hoặc người Dacia tự do, họ được cho là đã di chuyển đến Dacia trước năm 200 CN.
Một số học giả đã sử dụng việc thiếu civitates peregrinae ở Dacia thuộc La Mã, nơi những người dân bản xứ đã được tổ chức vào các thị trấn địa phương, như là bằng chứng về suy giảm dân số của Dacia thuộc La mã. Trước khi nó được sáp nhập vào đế quốc, Dacia là một vương quốc được cai trị bởi một vị nhà vua, và đã không có một cấu trúc bộ lạc khu vực mà có thể dễ dàng được chuyển vào hệ thống "Civitas" của La Mã mà vốn được sử dụng thành công trong các tỉnh của đế quốc.
Ngay khi tuân theo tập quán thường ngày của người La Mã, những thanh niên nam giới người Daci đã được tuyển mộ vào các đội quân trợ chiến và được phái đi khắp nơi trong đế quốc, từ các tỉnh phía đông tới Britannia. Đơn vị "Vexillation Dacorum Parthica" đã hộ tống hoàng đế Septimius Severus trong chuyến viễn chinh Parthia của ông, trong khi "cohort I Ulpia Dacorum" đã được bố trí ở Cappadocia Những đơn vị khác bao gồm "II Aurelia Dacorum" ở Thượng Pannonia, "cohort I Aelia Dacorum" ở Britania thuộc La Mã, và "II Augusta Dacorum milliaria" ở Hạ Moesia. Có một di vật có nguồn gốc từ "cohort I Aelia Dacorum", với một dòng chữ mô tả Sica, một vũ khí đặc biệt của người Dacia
Những người định cư.
Đã có nhiều mức độ Latinh hóa khác nhau trong khắp tỉnh Dacia thuộc La Mã. Những chỗ được Latinh hóa nhiều nhất là khu vực dọc theo sông Danube, chủ yếu nằm dưới chính quyền đế quốc, mặc dù trong phần nào đó vẫn mang tính man rợ. Cư dân ở bên ngoài khu vực này, mà đã sống với các quân đoàn La Mã trước khi họ triệt thoái, về căn bản cũng đã Latinh hóa. Khu vực cuối cùng, bao gồm các phần phía bắc của Maramures, Crisana, và Moldavia, nằm ở rìa của Dacia thuộc La Mã. Mặc dù người dân của nó không có các quân đoàn La Mã trú đóng cùng với họ, nhưng trên danh nghĩa họ vẫn còn nằm dưới sự kiểm soát của Roma, về chính trị, xã hội, và kinh tế. Đây là những khu vực mà trong đó có người Carpi cư trú, họ thường được gọi là người Daci tự do.
Trong một nỗ lực để làm đầy các thành phố, trồng trọt các cánh đồng, và khai thác quặng, một nỗ lực thuộc địa hóa trên quy mô lớn đã diễn ra với những người khai hoang đến "từ khắp nơi trên thế giới La Mã" Những người định cư đã có một sự pha trộn không đồng nhất. Trong khoảng 3.000 tên người được bảo tồn trong các chữ khắc đã được tìm thấy cho đến nay, khoảng 74% (khoảng 2200) là người Latin, 14% (khoảng 420) là người Hy Lạp, 4% (khoảng 120) là người Illyria, 2,3%? (khoảng 70) là người Celt, 2% (khoảng 60) là người Thraco-Daci, và thêm 2% (khoảng 60) là người Semite từ Syria.Bất kể xuất xứ của mình, những người định cư và những người khai hoang là một đặc trưng của nền văn minh La Mã và nền văn hóa đế quốc.
Khu định cư đầu tiên tại Sarmizegethusa đã được dành cho các công dân La Mã, vốn là các cựu chiến binh của các quân đoàn.
Quân đội La Mã ở Dacia.
Người ta ước tính có khoảng 50.000 quân đóng tại Dacia vào giai đoạn cao điểm của nó
Vào lúc kết thúc chiến dịch đầu tiên của Trajan ở Dacia năm 102, ông đã cho một quân đoàn đóng quân tại Sarmizegetusa Regia Sau khi hoàn thành cuộc chinh phục Dacia của Trajan, ông đã cho đóng ít nhất hai quân đoàn trong tỉnh mới - Legio IV Flavia Felix đóng quân ở Berzobis, và Legio XIII Gemina đóng quân tại Apulum Đã có phỏng đoán rằng có một quân đoàn thứ ba đóng tại Dacia cùng thời điểm đó, Legio I Adiutrix. Tuy nhiên, không có bằng chứng nào chỉ ra khi nào hoặc nơi đóng quân của nó.
Hadrianus, vị hoàng đế sau đó, đã cho chuyển quân đoàn thứ tư (Legio IV Flavia Felix) từ Berzobis tới Singidunum thuộc Thượng Moesia, điều này cho thấy Hadrianus đã tin rằng sự hiện diện của một quân đoàn ở Dacia sẽ là đủ để đảm bảo an ninh cho tỉnh.Tuy nhiên những cuộc chiến tranh Marcomanni nổ ra phía bắc của sông Danube đã buộc Marcus Aurelius phải đảo ngược lại chính sách này, ông đã chuyển Legio V Macedonica từ Troesmis (hiện nay là Igliţa ở Rumani) thuộc Hạ Moesia tới Potaissa ở Dacia.
Bằng chứng từ chữ khắc đã minh chứng cho một số lượng lớn các đơn vị quân trợ chiến đã đóng quân trên khắp tỉnh Dacia trong thời kỳ La Mã, điều này đã tạo ra ấn tượng rằng Dacia La Mã là một tỉnh được quân sự hóa một cách mạnh mẽ Tuy nhiên, có vẻ như nó đã không được quân sự hóa cao hơn bất kỳ các tỉnh biên giới khác, giống như Moesia, Pannonia, Syria, và số lượng các quân đoàn đóng quân ở Moesia và Pannonia không hề giảm đi sau khi tỉnh Dacia được thành lập. Tuy nhiên, một khi Dacia được sáp nhập vào đế quốc và biên giới được mở rộng về phía bắc, phần trung tâm của phòng tuyến Danube giữa Novae và Durostorum đã có thể phải nhường bớt số quân rất cần thiết để tăng cường phòng thủ Dacia Những văn kiện quân sự đã ghi lại ít nhất 58 đơn vị quân trợ chiến, hầu hết được chuyển tới Dacia từ các tỉnh Moesia và Pannonia nằm bên sườn, với một loạt các dạng và nhiệm vụ khác nhau, bao gồm cả "numeri", "cohortes milliariae", "quingenariae", và "alae" . Điều này đã không ngụ ý rằng tất cả đã đóng quân ở Dacia vào cùng một thời điểm, cũng không phải rằng họ đã ở cùng một nơi trong suốt thời gian tồn tại của Dacia thuộc La Mã.
Những khu định cư.
Toàn tỉnh có đến 12 đô thị La Mã, tất cả đều có nguồn gốc từ các doanh trại quân sự mà Trajan đã cho xây dựng trong các chiến dịch của mình. Có hai dạng đô thị định cư. Loại có tầm quan trọng chính là "coloniae", các cư dân của nó là người tự do và gần như độc quyền dành cho công dân La Mã. Loại có tầm quan trọng thứ hai là "municipia", mà nó được phép có được một sự độc lập về tư pháp và hành chính nhất định.
Thường rất khó để xác định ranh giới giữa những ngôi làng "Latinh" và những nơi được liệt vào loại "thị trấn nhỏ".Do đó, việc xác định những nơi như vậy thường có xu hướng tập trung vào những nơi ngoài việc có một nền kinh tế tự cung tự cấp hoàn toàn và, ít nhất một phần là tham gia vào giao thương và công nghiệp.Các khu định cư khác dọc theo tuyến đường chính ở Dacia thuộc La Mã còn được đề cập trong Tabula Peutingeriana. Chúng bao gồm Brucla, Blandiana, Germisara, Petris, và Aquae.Vị trí của Brucla, Blandiana, và Petris thì không được biết chắc chắn. Tuy nhiên, trong trường hợp của Petris, có lý do để cho rằng nó đã được xác định là tại Uroi ở România. Nếu điều này là đúng thì nó có một ví trí rất quan trọng trong giao thương và cũng giữ vai trò quan trọng trong việc hợp thành hệ thống thông tin liên lạc giữa các vùng khác nhau trong tỉnh.
Người ta cho rằng Dacia thuộc La Mã đã sở hữu một số lượng lớn những "vici" quân sự, đó là các khu định cư kết nối đến các doanh trại quân đội được với hệ thống hào xung quanh.Giả thuyết này đã không được kiểm chứng, vì chỉ có một số ít nơi như vậy đã được nghiên cứu một cách chi tiết. Tuy nhiên, vào giữa thung lũng Mures, các cộng đồng dân cư liên đới đã được phát hiện bên cạnh các doanh trại của quân trợ chiến tại Orăştioara de Sus, Cigmău, Ocna Mureş ngày nay, và Micia. Một đấu trường đài vòng nhỏ được phát hiện tại Micia.
Kinh tế.
Với việc quân đội La Mã bảo đảm được việc duy trì nền thái bình La Mã ("Pax Romana"), Dacia thuộc La Mã đã thịnh vượng cho đến khi cuộc khủng hoảng thế kỷ thứ ba xảy ra. Đã có nhiều tiền xu được lưu thông ở Dacia thuộc La Mã hơn so với các tỉnh lân cận.
Những nguồn tài nguyên thiên nhiên của khu vực đã tạo ra sự giàu có đáng kể cho đế quốc, nó đã trở thành một trong những khu vực sản xuất ngũ cốc quan trọng, đặc biệt là lúa mì. Liên kết vào nền kinh tế tiền tệ của Roma, những đồng tiền xu La Mã bằng đồng cuối cùng cũng được đúc ở Ulpia Traiana Sarmizegetusa vào khoảng năm 250 SCN. Việc thiết lập nên các con đường La Mã trên địa bàn tỉnh đã tạo điều kiện cho sự tăng trưởng kinh tế .
Các mỏ vàng ở địa phương cũng đã tạo ra sự thúc đẩy đối với sự sáp nhập Dacia vào đế quốc. Những thợ mỏ người Dalmatia đã được đưa đến khai thác các mỏ vàng ở vùng núi Bihor, làm giàu thêm cho kho bạc hoàng gia. Tại Alburnus Maior, các mỏ vàng đã phát triển mạnh mẽ từ giữa năm 131 tới năm 167 SCN, nhưng qua thời gian chúng bắt đầu cho thấy sự thu nhỏ quy mô trở lại vì lượng vàng dự trữ ở địa phương đã được khai thác.Thời điểm dẫn đến việc đóng cửa các mỏ vàng là vào khoảng năm 215 SCN.Dacia cũng sở hữu các mỏ muối, sắt, bạc và đồng có niên đại từ thời kỳ của các vị vua Dacia
Các thành thị đã trở thành những trung tâm sản xuất quan trọng Các xưởng đúc đúc đồng đã tồn tại ở Porolissum, Romula, và Dierna;.. Đã có một xưởng sản xuất trâm nằm ở Napoca, trong khi các lò rèn vũ khí lại được xác định là ở Apulum.Những xưởng sản xuất thủy tinh cũng đã được phát hiện ở Ulpia Traiana Sarmizegetusa và Tibiscum.
Tôn giáo.
Những dòng chữ khắc và tác phẩm điêu khắc ở Dacia đã tiết lộ một loạt các vấn đề về tôn giáo. Ngoài việc thờ cúng các vị thần chính của La Mã còn có sự xuất hiện của các vị thần khác có nguồn gốc từ Hy Lạp, Tiểu Á, và Tây Âu; trong số này, 43,5% mang tên Latin Các vị thần chính của người La Mã đều hiện diện ở Dacia:Jupiter, Juno, Minerva, Venus, Apollo, Liber, Libera, v.v. Vị thần La Mã Silvanus có vai trò quan trọng khác thường ở đây và chỉ đứng sau thần Jupiter.Vị thần này thường xuyên được nhắc đến ở Dacia với các tước hiệu "Silvester" và "domesticus", mà còn được sử dụng ở Pannonia.
Khoảng 20% các dòng chữ khắc Dacia là nhắc đến các tôn giáo phương Đông như thần Cybele và Attis, cùng với đó là hơn 274 lời dâng tặng lên thần Mithras, vị thần phù trợ cho binh lính.Sự sùng bái vị thần kị mã Thracia còn được du nhập từ Thrace và Moesia.. Nữ thần ngựa Epona của người Gaul còn được xác thực ở Dacia, như là ở Matronae.
Trong khi những người Dacia bản địa tôn thờ các vị thần của riêng họ , đã không có bất kỳ bằng chứng nào về các vị thần Dacia được người La Mã chấp nhận, và cũng không có bằng chứng về bất kỳ vị thần Dacia nào được tôn thờ dưới một cái tên La Mã.Đó có thể là do người Dacia thiếu một học thuyết về các vị thần. Các pháo đài của người Dacia có niên đại thuộc triều đại Burebista và Decebalus đều không có tượng thờ ở những địa điểm thờ cúng của họ.
Những thập niên cuối của Dacia Traiana (235–271/275).
Thập niên 230 đã chứng kiến sự kết thúc của thời kỳ hòa bình cuối cùng ở Dacia La Mã. Việc phát hiện ra một kho dự trữ tiền xu La Mã lớn (khoảng 8.000 đồng) tại Romula, mà được lưu hành từ triều đại của Commodus tới Elagabalus, người đã bị giết hại vào năm 222 CN, đã được sử dụng như là bằng chứng rằng tỉnh này đã trải qua nhiều vấn đề trước giai đoạn giữa thế kỷ 3. Theo truyền thống, sự lên ngôi của Maximinus Thrax (235-238) đánh dấu sự khởi đầu của một giai đoạn 50 năm hỗn loạn trong đế quốc La Mã, trong đó sự quân sự hóa chính quyền vốn được Septimius Severus bắt đầu, vẫn tiếp diễn và sự mất giá của đồng tiền đã đưa đế quốc tới chỗ phá sản. Ngay khi thế kỷ thứ 3 bắt đầu, nó đã chứng kiến sự di cư liên tục của người Goth, mà chính những sự di chuyển này là một nguyên nhân gây ra các cuộc chiến tranh Marcomanni, và chính sự di chuyền về phía nam đến khu vực biên giới Danube lại tiếp tục gây ra áp lực đối với các bộ tộc đã chiếm đóng vùng lãnh thổ này Giữa năm 236 và 238, Maximinus Thrax đã tiến hành chiến dịch ở Dacia chống lại người Carpi, và chỉ phải vội vàng trở lại Italia để đối phó với một cuộc nội chiến. Trong lúc Gordianus III cuối cùng đã trở thành vị hoàng đế La Mã mới, tình trạng hỗn loạn ở trung tâm của đế quốc đã cho phép người Goth, trong liên minh với người Carpi, chiếm Histria vào năm 238 CN trước khi họ cướp bóc những trung tâm thương mại quan trọng dọc theo khu vực châu thổ sông Danube.
Không thể sử dụng biện pháp quân sự để đối phó với sự xâm nhập này, đế quốc buộc phải mua hòa bình ở Moesia, bằng cách trả một khoản cống nạp hàng năm cho người Goth, điều này khiến cho người Carpi tức điên lên và họ cũng yêu cầu một khoản tiền cấp Hoàng đế Philip Ả Rập (244-249) đã dừng việc trả tiền vào năm 245 CNvà người Carpi đã xâm lược Dacia vào năm sau đó, họ tấn công thị trấn Romula trong quá trình này. Người Carpi có thể đã thiêu trụi doanh trại tại Răcari giữa những năm 243 và 247.Dấu hiệu này cho thấy tuyến phòng thủ của Limes Transalutanus có thể đã bị từ bỏ trong suốt triều đại của Philip Ả Rập, và như là kết quả của việc người Carpi xâm nhập vào Dacia. Những cuộc đột kích đang diễn ra đã buộc hoàng đế rời khỏi Roma và đảm đương tình hình. Người mẹ của vị Hoàng đế Galerius tương lai đã phải vội vã rời đến Dacia Malvensis vào khoảng thời gian này trước khi định cư ở Hạ Moesia.
Vào cuối năm 247, người Carpi cuối cùng đã hoàn toàn bị đánh bại trên chiến trường và buộc phải thỉnh cầu hòa bình, Philip Ả Rập sau đó đã lấy tiêu đề "Carpicus Maximus" Bất kể những chiến thắng đó, các thành thị Dacia đã bắt đầu thực hiện các biện pháp phòng thủ. Ở Sucidava, người dân thị trấn đã vội vàng dựng lên một bức tường đá hình thang và một con mương phòng thủ, có thể giống như là kết quả của một cuộc cướp bóc bởi các bộ lạc man rợ khoảng năm 246 hoặc 247 CN. Năm 248 CN, Romula đã tăng cường thêm bức tường thành bao quanh khu định cư này, một lần nữa giống như là một hàng rào phòng thủ bổ sung để chống lại người Carpi.Một đề từ được phát hiện ra ở Apulum dùng để chào đón hoàng đế Decius (trị vì từ năm 249-251 CN) như là "restitutor Daciarum", "người khôi phục Dacia " Ngày 1 tháng 7, năm 251 hoàng đế Decius và quân đội của ông đã bị người Goth đánh bại trong trận Abrittus, (Razgard ngày nay, Bulgaria) và bản thân ông ta cũng bỏ mạng.
Những áp lực vẫn tiếp tục không ngừng dưới triều đại của hoàng đế Gallienus (253-268 CN) và sự đứt đoạn ở nửa phía tây của đế quốc giữa ông và Postumus ở Gaul sau năm 260 có nghĩa là sự chú ý của Gallienus đã chủ yếu tập trung vào khu vực biên giới Danube. Liên tiếp giành được chiến thắng trước người Carpi và các bộ lạc Daci liên đới đã cho phép ông tuyên bố danh hiệu "Dacicus Maximus". Tuy nhiên, các nguồn văn học từ thời cổ đại (Eutropius, Aurelius Victor, và Festus) viết rằng Dacia đã bị mất dưới triều đại của ông. Ông cũng đã chuyển từ Dacia tới Pannonia phần lớn các corhort từ hai quân đoàn Macedonica thứ năm và Gemina thứ mười ba. Những đồng tiền được phát hiện gần đây tại Ulpia Traiana Sarmizegetusa và Porolissum mang hình in nổi của ông,và việc xây dựng các đài tưởng niệm trong tỉnh hầu như đã dừng lại vào năm 260 CN, năm đánh dấu sự chia cắt tạm thời của đế quốc .
Những đồng tiền xu được đúc trong giai đoạn phục hồi của đế quốc vào khoảng năm 270 dưới triều đại của Aurelianus mang dòng chữ "Dacia FELIX" ("Dacia hạnh phúc"). Sự cấp bách về việc phải đối phó với Đế chế Palmyra đòi hỏi Aurelianus cần phải giải quyết tình hình dọc theo biên giới Danube trước Một cách miễn cưỡng, và có thể chỉ là một biện pháp tạm thời, ông quyết định từ bỏ hành tỉnh Thời điểm truyền thống cho sự từ bỏ chính thức Dacia là vào năm 271Một quan điểm khác về thời điểm Aurelianus di tản quân đội và chính quyền dân sự của ông là trong năm 272-273, có thể muộn nhất là năm 275.
Kết quả cuối cùng là việc Aurelianus thành lập một tỉnh Dacia mới được gọi là Dacia Aureliana với thủ phủ tại Serdica, trước thuộc Hạ Moesia. Một phần của số cư dân La Mã hóa đã định cư ở tỉnh mới phía nam của sông Danube .
Sau khi người La Mã rút đi.
Sự định cư của người Tervingi.
Để bảo vệ các tỉnh phía nam của sông Danube, người La Mã đã giữ lại các pháo đài quân sự trên bờ phía bắc của sông Danube khá lâu sau khi rút khỏi Dacia Traiana.Aurelianus đã cho giữ lại một vị trí tại Drobeta, trong khi một phân đội của quân đoàn thứ mười ba (Legio XIII Gemina) đã đóng quân ở Desa ít nhất là cho đến năm 305 CNNhững đồng tiền xu mang hình ảnh của hoàng đế Gratianus (trị vì từ năm 375-383 CN) đã được phát hiện tại Dierna, có thể chỉ ra rằng thị trấn vẫn tiếp tục tồn tại sau khi người La Mã rút đi.
Các bộ tộc trước đây đã định cư phía bắc của sông Danube, chẳng hạn như người Sarmatia, Bastarnae, Carpi, và người Quadi đã phải chịu áp lực ngày càng tăng bởi sự xuất hiện của người Vandal ở phía bắc, trong khi người Gepid và người Goth gây áp lực từ phía đông và phía đông bắc . Điều này buộc các bộ lạc xưa kia phải tiến vào lãnh thổ La Mã, và làm suy yếu những sự phòng thủ của đế quốc vốn đã bị kéo dài hơn nữa. Để có thể nhận được sự cho phép tiến vào đế quốc, các bộ lạc đã xen kẽ giữa việc cầu khẩn nhà cầm quyền La Mã cho phép họ làm vậy, và hăm dọa họ về các mối đe dọa của cuộc xâm lược nếu yêu cầu của họ đã bị từ chối Cuối cùng, người Bastarnae được phép định cư ở Thrace, trong khi những người Carpi sống sót được phép định cư trên địa bàn tỉnh mới là Pannonia Valeria nằm ở phía tây quê nhà của họ Tuy nhiên, người Carpi đã không bị xóa sổ bởi các bộ lạc man rợ khác, cũng không hoàn toàn hòa hợp vào đế quốc La Mã. Những người sống sót ở trên khu vực biên giới của đế quốc này rõ ràng được gọi là Carpodacae ("Người Carp từ Dacia").
Năm 291 CN, người Goth lúc này đã phục hồi lại từ sau thất bại của họ dưới tay của Aurelianus, và họ bắt đầu di chuyển vào những gì từng là tỉnh Dacia của La Mã. Khi mà tổ tiên của người Tervingi di cư vào miền đông bắc Dacia, họ đã gặp phải sự chống đối từ người Carpi và những người Daci không bị Latinh tóa. Sau khi đánh bại các bộ lạc này, họ đã bước vào cuộc xung đột với người La Mã, những người vẫn cố gắng duy trì sự kiểm soát dọc theo sông Danube. Một số cư dân bán Latinh vẫn còn sót lại và họ đã cố gắng để cùng tồn tại với người Goth 295 CN, người Goth đã cố gắng để đánh bại người Carpi và sinh cơ lập nghiệp ở Dacia, mà bây giờ gọi là Gothia; Người La Mã đã công nhận người Tervingi như là một Foederatus .Họ đã chiếm phần phía đông của tỉnh cũ và xa hơn nữa, từ Bessarabia trên sông Dniester ở phía đông tới Oltenia ở phía tây . Cho đến tận những năm 320, người Goth vẫn tuân thủ các điều khoản của hiệp ước và tiến hành định cư trong tỉnh Dacia cũ, và khu vực sông Danube đã khá yên ổn được gần một thế hệ.
Khoảng năm 295 sau công nguyên, hoàng đế Diocletianus đã tổ chức lại tuyến phòng thủ dọc theo sông Danube, và thiết lập các doanh trại được bảo vệ bởi thành lũy ở phía bên kia của dòng sông, từ Sirmium tới Ratiaria và Durostorum .
Những cuộc xâm chiếm cuối cùng của người La Mã.
Trong suốt triều đại của Constantinus I, người Tervingi đã lợi dụng cuộc nội chiến giữa ông và Licinius để tấn công đế quốc vào năm 323 CN từ các khu định cư của họ ở Dacia Họ đã ủng hộ Licinius cho đến khi ông ta bị đánh bại vào năm 324, sau đó Ông ta đã bị bắt trong khi đang trên đường chạy trốn đến những vùng đất của họ ở Dacia.Năm 328 CN, Hoàng đế Constantius I đã cho đã xây dựng tại Sucidava một cây cầu mới bắc qua sông Danube, và sửa chữa con đường từ Sucidava tới Romula. Ông cũng dựng lên một pháo đài quân sự tại Daphne (Spantov).
Năm 332, Constantinus I trực tiếp chỉ huy quân đội vượt qua sông Danube và đè bẹp các bộ lạc người Goth đã định cư ở đó, trong quá trình tái lập lại một tỉnh La Mã ở phía bắc của sông Danube Trong sự tôn vinh dành cho chiến tích này, viện nguyên lão đã phong tặng cho ông danh hiệu "Dacicus Maximus", và tán dương nó cùng với lễ kỷ niệm 30 năm ngày lên ngôi hoàng đế La Mã của ông vào giữa năm 336 Việc phong tặng danh hiệu này đã được nhìn nhận bởi các học giả như Timothy Barnes giống như ngụ ý về một vài mức độ tái chiếm lại tỉnh Dacia của La Mã.
Cuộc tiến công lớn cuối cùng của người La Mã vào tỉnh Dacia cũ xảy ra trong năm 367 CN, khi hoàng đế Valens đã lợi dụng một sự cố ngoại giao để khởi động một chiến dịch lớn chống lại người Goth. Với hy vọng chiếm lại được vị trí đầu cầu vượt qua sông Danube mà Constantinus đã thiết lập thành công tại Sucidava,Valens đã phát động một cuộc tấn công vào lãnh thổ của người Goth sau khi vượt qua sông Danube gần Daphne khoảng ngày 30 tháng 5, họ tiếp tục cho đến tháng chín mà không có bất kỳ cuộc giao tranh nghiêm trọng nàoÔng đã cố gắng một lần nữa trong năm 368 CN, và thiết lập căn cứ của mình tại Carsium, nhưng đã bị cản trở bởi một trận lụt trên sông Danube.Vì thế, ông đã dành thời gian của mình cho việc xây dựng lại các pháo đài La Mã dọc theo sông Danube. Năm 369, Valens vượt qua sông và tiến vào Gothia, và lần này ông đã cố gắng để giao chiến với người Tervingi, và đánh bại họ.
Đây là nỗ lực cuối cùng của những người La Mã nhằm duy trì một sự hiện diện trên địa bàn tỉnh cũ trước đây. Ngay sau đó, sự mở rộng về phía tây của người Hun đã làm tăng áp lực đối với người Tervingi, khiến họ buộc phải từ bỏ tỉnh Dacia cũ và tìm nơi ẩn náu bên trong đế quốc La Mã
Tranh cãi xung quanh số phận của người Dacia-La Mã.
Đã có phỏng đoán trong thời gian dài rằng cư dân của Dacia Traiana đã di chuyển về phía nam sau khi Aurelianus bỏ rơi hành tỉnh này
Một giả thuyết cho rằng quá trình hình thành nên người Rumani bắt đầu với việc La Mã hóa Dacia và cùng với sự tồn tại của một nhóm cư dân Daco-La Mã đã không hoàn toàn từ bỏ hành tỉnh sau khi người La Mã rút đi vào năm 275 SCN. Những bằng chứng khảo cổ thu được từ các địa điểm chôn cất và các khu định cư đã hỗ trợ cho quan điểm cho rằng một phần cư dân bản địa tiếp tục sinh sống ở vùng đất Dacia thuộc La Mã. Những đồ gốm vẫn còn lại có niên đại vào năm 271 SCn ở Potaissa, và những đồng tiền xu La Mã của Marcus Claudius Tacitus và Crispus (con trai của Constantinus I) được phát hiện ở Napoca chứng minh sự tồn tại liên tục của những thành thị ở đó Ở Porolissum, những đồng tiền xu La Mã tiếp tục được lưu hành một lần nữa dưới triều đại của Valentinianus I (364-375), trong khi đó, những người Daco-La Mã địa phương tiếp tục sống ở Ulpia Traiana Sarmizegetusa, đã củng cố lại nhà hát để chống lại các cuộc tấn công của người rợ Theo giả thuyết này, người dân Rumani đã tiếp tục phát triển dưới ảnh hưởng của đế chế La Mã cho đến đầu thế kỷ thứ 6. | 1 | null |
Dinner là một hòn đảo nhỏ thuộc quần đảo San Juan, quận San Juan, tiểu bang Washington, Hoa Kỳ. Nó toạ lạc trong vịnh Griffin, Đông Nam đảo San Juan.
Tên của hòn đảo xuất phát từ việc một chiếc tàu của Anh ghé qua đảo để các thủy thủ đoàn ăn tối. | 1 | null |
Đảo Samish là một khu chưa hợp nhất (unincorporated community) trong quận Skagit, tiểu bang Washington, Hoa Kỳ. Nó toạ lạc trên một hòn đảo cùng tên (đảo Samish), nằm ngoài khơi bờ biển phía tây bắc của lục địa Washington. Nó được kết nối với đất liền bằng một hệ thống đê điều được tạo ra trong những năm đầu thế kỷ 20.
Samish là tên của một bộ lạc người Mỹ bản địa ở Tây Thái Bình Dương (bộ lạc Coast Salish) và hòn đảo Samish hay khu chưa hợp nhất Samish được đặt tên theo tên của bộ tộc này. Hòn đảo là nơi mà tổ tiên của người Samish từng định cư. | 1 | null |
Vương quốc Đức (tiếng Latin: "Regnum Teutonicum") là một cựu vương quốc châu Âu, đã phát triển lãnh thổ của mình vượt ra khỏi nửa phía đông của Đế chế Carolingian cũ.
Lịch sử.
Cũng như nước Anh và Pháp thời Trung cổ, vương quốc này đã khởi đầu như là "một khối liên minh, một tập hợp của một số dân tộc và vương quốc đã từng độc lập và riêng biệt" ("a conglomerate, an assemblage of a number of once separate and independent... "gentes" [peoples] and "regna" [kingdoms]").
Đông Frank (Ostfrankenreich) được thành lập bởi Hiệp ước Verdun vào năm 843, và được cai trị bởi Triều đại Karolinger cho đến 911, sau đó vương quyền được lựa chọn. Các đại cử tri đầu tiên là những người cai trị các công quốc gốc, những người thường chọn một trong những người của mình. Sau năm 962, khi Otto I lên ngôi hoàng đế, vương quốc Đức hình thành phần lớn của đế quốc La Mã Thần thánh, mà còn bao gồm vương quốc Ý (Regnum Italicum) (sau 951), Bohemia (sau 1004) và Bourgogne (sau 1032). | 1 | null |
Guemes là một hòn đảo nhỏ nằm ở phía Tây Quận Skagit, tiểu bang Washington, Hoa Kỳ. Nó nằm ở phía bắc của thị trấn Anacortes trên đảo Fidalgo, có thể qua lại giữa hai nơi bằng thuyền, phà được quản lý bởi Quận Skagit.
Hòn đảo này được đặt tên sau khi phó vương Tây Ban Nha, Juan Vicente de Güemes uỷ nhiệm cho một đoàn thám hiểm tìm ra các hòn đảo mới cho Tây Ban Nha vào năm 1791.
Guemes là một hòn đảo nông nghiệp với cơ sở hạn chế. Trên đảo chỉ có hai cửa hàng bán lẻ, được kinh doanh từ năm 1940.
Lịch sử.
Đảo Guemes được đặt theo tên nhà thám hiểm Tây Ban Nha José María Narváez là Isla de Güemes, trong cuộc thám hiểm năm 1791 của Francisco de Eliza, được cử đi bởi phó vương Tây Ban Nha tại Mexico.
Năm 1841, nhà thám hiểm Hoa Kỳ, Charles Wilkes đã đặt tên cho đảo là Lawrence, để vinh danh sĩ quan hải quân Mỹ James Lawrence. Những tên này biến mất sau 1847, khi thuyền trưởng người Anh Henry Kellett tổ chức lại bảng tên, trong quá trình loại bỏ tên "thân Mỹ" được đưa ra bởi Wilkes và khẳng định tên tiếng Anh và tên tiếng Tây Ban Nha.
Đảo Guemes cũng thường được còn được gọi là đảo Dog (đảo Chó) trong đầu thế kỷ 20, vì có một số lượng lớn chó sống hoang dã trên đảo. | 1 | null |
Lopez là hòn đảo lớn thứ 3 trong quần đảo San Juan, Quận San Juan, tiểu bang Washington, Hoa Kỳ. Đảo có diện tích 29.81 miles2 (77.2 km2), với dân số là 2,177 người theo điều tra dân số năm 2000.
Lịch sử.
Đải Lopez vốn có tên là Chauncey, được đặt bởi nhà thám hiểm người Mỹ Wilkes's để tôn vinh chỉ huy hải quân Hoa Kỳ là Isaac Chauncey. Sau khi chính quyền Anh tổ chức lại bảng tên các đảo thì cái tên Chauncey bị loại bỏ, thay vào đó là tên Lopez như ngày nay, cái tên này được lấy từ viên sĩ quan Gonzalo López de Haro người Tây Ban Nhaư, người đầu tiên khám phá ra quần đảo San Juan. | 1 | null |
"Curiosity" là một bài hát của nghệ sĩ thu âm người Canada Carly Rae Jepsen, nằm trong đĩa EP đầu tay của cô, "Curiosity" (2012). "Curiosity" được chọn làm đĩa đơn thứ hai từ EP và được chính thức phát hành vào ngày vào ngày 1 tháng 5 năm 2012 bởi hãng ghi âm 604 Records. Được sản xuất và sáng tác bởi Ryan Stewart, "Curiosity" là một bài hát nhạc pop tràn đầy lạc quan, chịu ảnh hưởng từ dòng nhạc dance và synthpop. "Curiosity" đã nhận được nhiều lời khen ngợi từ giới phê bình đương đại, họ cho rằng bài hát này khá là giống với đĩa đơn trước đó của cô, "Call Me Maybe". Sau khi được phát hành, bài hát đã đạt được vị trí thứ 21t trên bảng xếp hạng Canadian Hot 100. Một phiên bản khác của bài hát đã được xuất hiện trong album phòng thu đầu tay của cô, "Kiss".
Phát hành.
Tiếp nối sự thành công của đĩa đơn đầu tiên "Call Me Maybe", EP "Curiosity", đã được phát hành vào 14 tháng 2 năm 2012 ở Canada, và đã đạt được vị trí thứ sáu. Bài hát chủ đề của EP được viết bởi Jepsen, được sản xuất và bổ sung bởi Ryan Stewart. Bài hát được phát hành là đĩa đơn thứ hai của EP vào ngày 1 tháng 5 năm 2012.
Biểu diễn thực tế.
Vào ngày 26 tháng 3 năm 2012, Jepsen tới WBBM-FM's Morning Show và biểu diễn hai bài hát thuộc EP, "Call Me Maybe" and "Curiosity".
Xếp hạng và chứng nhận.
Xếp hạng.
Sau khi phát hành, "Curiosity" đã đạt được vị trí thứ 21 tại Canadian Hot 100. Đây là bài hát thứ hai của cô lọt vào Top 20 trên bảng xếp hạng này. | 1 | null |
SMS "Seydlitz" là một tàu chiến-tuần dương tải trọng 25.000 tấn được Hải quân Đế quốc Đức (Kaiserliche Marine) chế tạo ngay trước Chiến tranh Thế giới thứ nhất. Được đặt hàng vào năm 1910 và đưa ra hoạt động vào tháng 5 năm 1913, nó là chiếc tàu chiến-tuần dương thứ tư được chế tạo cho Hạm đội Biển khơi. "Seydlitz" được đặt tên theo Friedrich Wilhelm von Seydlitz, vị tướng Phổ vào triều đại vua Frederick đại đế và từng phục vụ trong cuộc Chiến tranh bảy năm.
Thiết kế của "Seydlitz" phản ảnh sự tích lũy kinh nghiệm trong thế hệ đầu tiên của các tàu chiến-tuần dương Đức, khởi đầu từ chiếc "Von der Tann" vào năm 1906 và tiếp nối bởi hai chiếc thuộc lớp "Moltke" được đặt hàng vào các năm 1907 và 1908. "Seydlitz" mang nhiều đặc tính được cải thiện so với các thiết kế dẫn trước, bao gồm hệ thống động lực được thiết kế lại và cải tiến sơ đồ vỏ giáp. Con tàu cũng lớn hơn đáng kể so với những chiếc tiền nhiệm, nặng hơn khoảng so với những chiếc thuộc lớp "Moltke".
"Seydlitz" tham gia nhiều hoạt động chính của hạm đội trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất, bao gồm các trận Dogger Bank và Jutland tại Bắc Hải. Con tàu bị hư hại đáng kể trong cả hai trận đụng độ trên: trong trận Dogger Bank, một quả đạn pháo từ chiếc tàu chiến-tuần dương Anh "Lion" đã trúng tháp pháo tận cùng phía đuôi của "Seydlitz", suýt gây nên một vụ nổ hầm đạn vốn sẽ phá hủy con tàu. Đến trận Jutland , nó bị bắn trúng 21 lần bởi các quả đạn pháo hạng nặng, trong đó một quả đã xuyên thủng phòng tiếp đạn của tháp pháo bắn thượng tầng phía sau. Mặc dù hậu quả của đám cháy đã phá hủy tháp pháo, các biện pháp an toàn được đề ra sau trận Dogger Bank đã ngăn ngừa một tảm họa tồi tệ. Con tàu còn trúng một quả ngư lôi trong trận chiến, khiến ngập khoảng nước và độ nổi của con tàu bị giảm mất . Nó phải áp dụng nhiều biện pháp giảm trọng lượng để có thể vượt qua Jadebusen. Tuy nhiên, "Seydlitz" cũng gây thiệt hại đáng kể cho các đối thủ Anh; vào đầu trận chiến, các loạt đạn pháo từ "Seydlitz" và "Derfflinger" đã phá hủy tàu chiến-tuần dương Anh "Queen Mary" chỉ trong vòng vài giây. Con tàu cũng có những hoạt động giới hạn tại biển Baltic, khi nó hộ tống cho chi hạm đội Đức trong Trận chiến vịnh Riga vào năm 1915.
Giống như tất cả các tàu chiến-tuần dương Đức sống sót qua cuộc chiến tranh, "Seydlitz" bị lưu giữ tại Scapa Flow vào năm 1918. Cùng với phần còn lại của Hạm đội Biển khơi Đức, nó bị đánh đắm vào tháng 6 năm 1919 nhằm ngăn không cho Hải quân Hoàng gia Anh chiếm hữu. "Seydlitz" được cho nổi trở lại vào ngày 2 tháng 11 năm 1928 và bị tháo dỡ vào năm 1930 tại Rosyth.
Phát triển.
Cho dù thiết kế của các tàu chiến-tuần dương Đức trước đây như "Von der Tann" và hai chiếc thuộc lớp "Moltke", vẫn có sự tranh luận đáng kể về thiết kế của những con tàu mới. Vào năm 1909, Văn phòng Vũ trang Hải quân Đế quốc (Reichsmarineamt) yêu cầu Đô đốc Alfred von Tirpitz cung cấp những đặc tính cải tiến cần cho việc thiết kế lớp tàu chiến-tuần dương tiếp theo. Đô đốc Tirpitz tiếp tục giữ quan điểm sử dụng chúng thuần túy như những tàu trinh sát cho hạm đội và tiêu diệt tàu tuần dương đối phương. Ngược lại, Kaiser Wilhelm II cùng đa số thành viên trong Bộ hải quân cho rằng do sự yếu kém về số lượng của Đức so với Hải quân Hoàng gia Anh, các con tàu này cần có khả năng tác chiến trong hàng chiến trận. Cuối cùng quan điểm của Kaiser và Bộ Hải quân đã thắng thế, nên chiếc tàu chiến-tuần dương chế tạo cho Tài khóa 1909-1910 vẫn tiếp tục xu hướng thiết kế của các lớp "Von der Tann" và "Moltke" trước đó.
Khó khăn về tài chính đã buộc phải có sự thỏa hiệp giữa tốc độ, khả năng tác chiến và tải trọng. Các đặc tính thiết kế ban đầu bắt buộc tốc độ phải đạt ít nhất ngang với lớp "Moltke", và con tàu được trang bị tám khẩu pháo hoặc mười khẩu pháo . Nhóm thiết kế cũng đã cân nhắc đến tháp pháo ba nòng, nhưng ý định này bị hủy bỏ sau khi có quyết định các tháp pháo 280 mm nòng đôi là đủ.
Vào tháng 8 năm 1909, Quốc hội Đức (Reichstag) xác định họ không sẵn lòng tăng thêm ngân khoản cho con tàu mới so với lớp "Moltke", nên trong một giai đoạn, Bộ Hải quân phải cân nhắc đến việc xếp lại dự án thiết kế mới, chế tạo một chiếc thứ ba thuộc lớp "Moltke" thay thế. Tuy nhiên, Đô đốc Tirpitz đã có thể đàm phán một khoản chiết khấu trên chi phí vỏ giáp từ cả hai nhà cung cấp Krupp và Dillingen; ông cũng gây áp lực với hãng Blohm & Voss, xưởng đóng tàu chính, cho một khoản chiết khấu khác. Các chi phí tiết kiệm dôi ra cung cấp đủ kinh phí để cải tiến một số tình trạng vật chất của thiết kế. Cuối cùng vào ngày 27 tháng 1 năm 1910, Kaiser chấp thuận thiết kế của con tàu, và đặt hàng dưới tên gọi tạm thời "Tàu tuần dương J".
Thiết kế.
Các đặc tính chung.
"Seydlitz" có chiều dài ở mực nước, và chiều dài chung là . Con tàu có mạn thuyền rộng , và sẽ tăng lên nếu được trang bị lưới chống ngư lôi; nó có độ sâu của mớn nước ở phía trước và ở phía sau. "Seydlitz" được thiết kế với trọng lượng choán nước bình thường , và lên đến khi đầy tải; nó có một đáy kép chiếm 76% chiều dài con tàu. Chiếc tàu chiến mang theo một số xuồng nhỏ, bao gồm bao gồm một xuồng gác, ba xuồng chỉ huy, hai xuồng đổ bộ, hai xuồng yawl và hai xuồng nhỏ.
"Seydlitz" được mô tả như một con tàu đi biển tốt, chuyển động nhẹ nhàng. Con tàu bị mất cho đến 60% tốc độ khi bẻ lái gắt, và nghiêng cho đến 9°. Thủy thủ đoàn tiêu chuẩn bao gồm 43 sĩ quan và 1.025 thủy thủ, và khi phục vụ như là soái hạm của Đội Tuần tiễu 1, nó được bổ sung thêm 13 sĩ quan và 62 thủy thủ.
Động lực.
Hệ thống động lực của "Seydlitz" bao gồm 27 nồi hơi ống nước nhỏ Schulz-Thornycroft với 52 lò đốt, được chia thành ba phòng động cơ. Chúng cung cấp hơi nước cho hai bộ turbine hơi nước Parsons dẫn động trực tiếp; mỗi bộ bao gồm một turbine áp lực cao phía ngoài, rồi hơi nước thoát ra tiếp tục đi vào một turbine áp lực thấp phía trong. Mỗi turbine dẫn động một chân vịt ba cánh đường kính ; việc chuyển hướng được thực hiện bằng một cặp bánh lái. Hệ thống động lực được thiết kế để cung cấp công suất , đạt được tốc độ tối đa . Khi áp dụng các biện pháp cưỡng bức lúc chạy thử máy, động cơ cung cấp công suất đến và tốc độ tối đa đạt . Với than mang theo, "Seydlitz" có tầm xa hoạt động khi di chuyển với tốc độ đường trường . Điện năng sử dụng trên tàu được cung cấp bởi sáu máy phát turbine công suất 1.800 kW ở điện thế 220 V.
Vũ khí.
"Seydlitz" trang bị dàn pháo chính gần tương tự như cấu hình trên lớp "Moltke" dẫn trước, bao gồm mười khẩu pháo SK L/40 đặt trên năm tháp pháo nòng đôi. Các khẩu pháo cũng được bố trí theo sơ đồ tương tự, với một tháp pháo phía trước, hai tháp pháo mạn đặt so le và hai tháp pháo bắn thượng tầng phía đuôi. Chúng được đặt trên kiểu bệ mới Drh. L C/1910, cho phép hạ xuống đến góc −8° và nâng lên cho đến góc 13,5°, tương đương với khoảng nâng của kiểu bệ Drh. L C/1908 trước đó. Ở góc nâng 13,5°, các khẩu pháo có thể bắn xa cho đến . Vào năm 1916, giống như chiếc "Moltke", dàn pháo chính của "Seydlitz" được cải biến để có thể nâng cho đến góc 16°, cho phép có một tầm bắn tối đa . Các khẩu pháo trước và sau có thể xoay khoảng 150° trên cả hai hướng của trục giữa; trong khi các tháp pháo bên mạn chỉ có thể xoay 80° trên hai phía của đường vuông góc. Dàn pháo chính được cung cấp 87 quả đạn pháo xuyên thép cho mỗi khẩu pháo, lên đến tổng cộng 870 quả đạn. Ngoài đầu đạn pháo nặng , mỗi quả đạn pháo có liều thuốc phóng ban đầu nặng đựng trong bao lụa và liều thuốc phóng chính nặng đặt trong vỏ đồng. Kiểu đạn pháo này được bắn ra với lưu tốc đầu đạn .
Dàn pháo hạng hai của "Seydlitz" cũng tương đương như thiết kế của lớp "Moltke". Con tàu có mười hai khẩu pháo SK L/45 đặt trong các tháp pháo ụ nòng đơn bố trí trên trục giữa. Các khẩu pháo này có khả năng bắn mục tiêu ở khoảng cách , và sau đợt tái trang bị năm 1916, tầm xa tối đa được tăng lên . Chúng được cung cấp tổng cộng 1.920 quả đạn pháo, tức 160 quả cho mỗi khẩu pháo. Con tàu còn được trang bị mười hai khẩu pháo SK L/45 bắn nhanh, cũng được bố trí trong các tháp pháo ụ. Hai trong số chúng được tháo dỡ vào năm 1916, thay thế bằng pháo 8,8 cm Flak L/45 góc cao phòng không. Giống như thông lệ của mọi tàu chiến chủ lực Đức vào thời đó, "Seydlitz" được trang bị bốn ống phóng ngư lôi ngầm, gồm một trước mũi, một phía đuôi và hai ống bên mạn tàu; kiểu vũ khí này dùng để phóng ngư lôi đường kính , và có tổng cộng 11 quả được mang theo.
Vỏ giáp.
Theo tiêu chuẩn của mọi tàu chiến chủ lực Đức vào thời đó, "Seydlitz" sử dụng thép giáp Krupp cho vỏ giáp của con tàu. Nó có đai giáp dày đến tại khu vực chắc chắn nhất của thành trì, vuốt mỏng dần còn phía trước mũi và sau đuôi. Đai giáp chính được củng cố bởi một vách ngăn chống ngư lôi dày . Tháp chỉ huy phía trước có vỏ giáp bên mặt hông dày và nóc dày . Tháp pháo chính được bảo vệ bởi lớp giáp dày trên các mặt hông và trên nóc. Các tháp pháo ụ được bảo vệ yếu hơn, với lớp giáp dày trên các mặt hông và trên nóc. Vỏ giáp sàn tàu có độ dày thay đổi tùy theo khu vực bảo vệ. Tại các khu vực trọng yếu, sàn tàu dày , trong khi các vùng ít quan trọng hơn chỉ được che phủ với độ dày . Một lớp đai giáp chéo dày được đặt bên dưới sàn tàu bọc thép chính. Bệ tháp pháo được bảo vệ bởi thép tấm dày ; phần bệ tháp pháo sau đai giáp được làm mỏng hơn để tiết kiệm trọng lượng, một biện pháp áp dụng trên đa số các tàu chiến Anh và Đức vào thời đó.
Lịch sử hoạt động.
Trước chiến tranh.
"Seydlitz" được hạ thủy vào ngày 30 tháng 3 năm 1912, và được đỡ đầu bởi tướng kỵ binh von Kleist. Vào ngày 22 tháng 5 năm 1913 con tàu được đưa ra hoạt động cùng Hạm đội Đức, được vận hành bởi thủy thủ đoàn của chiếc tàu tuần dương bọc thép cũ "Yorck", vốn vừa mới được đưa về hạm đội dự bị. Sau các đợt chạy thử máy, "Seydlitz" tham gia cùng phần còn lại của Hạm đội Biển khơi Đức cho các cuộc cơ động ngoài khơi Helgoland. Chuẩn đô đốc Franz von Hipper, Tư lệnh Đội Tuần tiễu 1, chuyển cờ hiệu của mình sang chiếc "Seydlitz" vào ngày 23 tháng 6 năm 1914. Con tàu đã phục vụ như là soái hạm của Hipper cho đến ngày 26 tháng 10 năm 1917.
Trận Heligoland Bight.
Không lâu sau khi Chiến tranh Thế giới thứ nhất nổ ra, một trận đụng độ ngắn diễn ra giữa các tàu tuần dương hạng nhẹ Đức với một lực lượng bắn phá bao gồm tàu chiến-tuần dương và tàu tuần dương Anh đã diễn ra vào ngày 28 tháng 8 năm 1914. Sáng hôm đó, các tàu tuần dương Anh thuộc Lực lượng Harwich đã tấn công các tàu khu trục Đức đang tuần tra tại Heligoland Bight. Sáu tàu tuần dương hạng nhẹ Đức: "Köln", "Strassburg", "Stettin", "Frauenlob", "Stralsund" và "Ariadne", đã kháng cự lại cuộc bắn phá và gây thiệt hại đáng kể cho các kẻ tấn công. Tuy nhiên, sự xuất hiện của Hải đội Tàu chiến-tuần dương 1 Anh Quốc dưới quyền chỉ huy của Phó đô đốc David Beatty lúc khoảng 13 giờ 37 phút, nhanh chóng đưa các con tàu Đức vào thế bất lợi.
Cùng với những tàu chiến-tuần dương còn lại của Đội Tuần tiễu 1, "Seydlitz" đặt căn cứ tại Wilhelmshaven Roads vào buổi sáng ngày diễn ra trận chiến. Lúc 08 giờ 50 phút, Hipper xin phép Đô đốc Friedrich von Ingenohl, Tổng tư lệnh Hạm đội Biển khơi, để gửi các tàu chiến-tuần dương của mình đến trợ giúp các tàu tuần dương Đức đang bị vây hãm. Các tàu chiến-tuần dương "Moltke" và "Von der Tann" sẵn sàng lên đường lúc 12 giờ 10 phút, tuy nhiên, các con tàu bị mắc lại do thủy triều thấp, vốn ngăn trở các tàu chiến-tuần dương vượt qua một cách an toàn bãi cạn ở cửa sông Jadebusen. Mãi đến 14 giờ 10 phút, "Moltke" và "Von der Tann" mới có thể băng qua cồn cát, và Hipper ra lệnh cho các tàu tuần dương Đức rút lui về phía sau hai chiếc tàu chiến hạng nặng, trong khi bản thân Hipper bị tụt lại khoảng một giờ phía sau trên chiếc "Seydlitz". Đến 14 giờ 25 phút, các tàu tuần dương hạng nhẹ còn lại "Strassburg", "Stettin", "Frauenlob", "Stralsund" và "Ariadne" gặp gỡ các tàu chiến-tuần dương. "Seydlitz" đến được chiến trường lúc 15 giờ 10 phút, "Ariadne" không chịu nổi các hư hại trong chiến đấu và bị đắm. Hipper tiến lên phía trước một cách thận trọng để truy tìm hai tàu tuần dương hạng nhẹ bị mất tích "Mainz" và "Köln", vốn đã bị đánh chìm trong trận chiến trước đó. Đến 16 giờ 00, hải đội Đức bắt đầu rút lui về Jade Estuary, đến nơi vào khoảng 20 giờ 23 phút.
Bắn phá Yarmouth.
Vào lúc 16 giờ 30 ngày 2 tháng 11 năm 1914, trong vai trò soái hạm của Hipper, "Moltke", cùng với "Seydlitz", "Von der Tann", tàu tuần dương bọc thép "Blücher" và bốn tàu tuần dương hạng nhẹ "Strassburg", "Graudenz", "Kolberg" và "Stralsund" đã rời Jade Estuary hướng lên phía Bắc theo một vòng cung để tránh Heligoland cùng các tàu ngầm Anh được bố trí tại đây, rồi gia tăng tốc độ lên 18 knot hướng sang bờ biển Anh Quốc. Hải đội đi đến ngoài khơi Great Yarmouth lúc bình minh ngày hôm sau và bắt đầu bắn phá cảng, trong khi chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ "Stralsund" tiến hành rải mìn. Tàu ngầm Anh "D5" đã đáp trả lại cuộc tấn công, nhưng nó trúng phải một quả thủy lôi do "Stralsund" cài và bị chìm. Không lâu sau đó, Hipper ra lệnh cho các con tàu của mình quay trở về vùng biển Đức. Tuy nhiên, lúc quay về, một làn sương mù dày đặc bao phủ Heligoland Bight, nên các con tàu được lệnh chờ cho đến khi đến khi tầm nhìn được cải thiện để chúng có thể đi qua an toàn các bãi mìn phòng thủ. Tàu tuần dương bọc thép "Yorck" rời Jade mà không được phép, và trên đường đi Wilhelmshaven đã phạm sai lầm trong dẫn đường, đi ngay vào một bãi mìn Đức. "Yorck" trúng hai quả thủy lôi và chìm nhanh chóng; chiếc hải phòng hạm "Hagen" cứu được 127 người trong số thủy thủ đoàn của nó.
Bắn phá Scarborough, Hartlepool và Whitby.
Đô đốc von Ingenohl quyết định tiến hành thêm một cuộc bắn phá khác vào bờ biển Anh Quốc với hy vọng lôi kéo một phần Hạm đội Grand vào cuộc chiến, nơi có thể bị tiêu diệt từng phần. "Seydlitz" cùng với các tàu chiến-tuần dương "Moltke", "Von der Tann", "Derfflinger", tàu tuần dương bọc thép "Blücher", các tàu tuần dương hạng nhẹ "Kolberg", "Strassburg", "Stralsund" và "Graudenz" cùng hai chi hạm đội tàu phóng lôi đã rời Jade lúc 03 giờ 20 phút ngày 15 tháng 12. Các con tàu của Hipper di chuyển lên phía Bắc, vượt qua Heligoland để đi đến hải đăng Horns Reef, nơi chúng chuyển hướng sang phía Tây hướng đến Scarborough. Mười hai giờ sau khi Hipper khởi hành, phần chủ lực của Hạm đội Biển khơi, bao gồm 14 chiếc thiết giáp hạm dreadnought và 8 thiết giáp hạm tiền-dreadnought cùng một lực lượng hộ tống gồm 2 tàu tuần dương bọc thép, 7 tàu tuần dương hạng nhẹ và 54 tàu phóng lôi lên đường để hỗ trợ từ xa.
Trước đó, vào ngày 26 tháng 8 năm 1914, tàu tuần dương hạng nhẹ Đức "Magdeburg" bị mắc cạn trong vịnh Phần Lan; xác tàu bỏ lại bị Hải quân Nga chiếm, và cùng với các hải đồ của Bắc Hải, họ đã tìm thấy các quyển sổ mật mã được Hải quân Đức. Những tài liệu này được chuyển cho Hải quân Hoàng gia Anh. Phòng 40 bắt đầu giải mã các tín hiệu của Đức, và vào ngày 14 tháng 12 đã bắt được những thông điệp liên quan đến kế hoạch bắn phá Scarborough. Không thể biết được chi tiết chính xác của kế hoạch, họ chỉ đoán rằng Hạm đội Biển khơi Đức sẽ ở lại một cách an toàn trong cảng như trong đợt bắn phá trước. Bốn tàu chiến-tuần dương của Phó đô đốc Beatty, được Hải đội Tuần dương 3 và Hải đội Tuần dương nhẹ 1 hỗ trợ cùng với sáu thiết giáp hạm dreadnought của Hải đội Chiến trận 2 sẽ phục kích các tàu chiến-tuần dương của Hipper.
Trong đêm 15 tháng 12, thành phần chủ lực của Hạm đội Biển khơi Đức đã đụng độ với tàu khu trục Anh. Lo sợ một cuộc tấn công bằng ngư lôi ban đêm, Đô đốc Ingenohl ra lệnh cho các con tàu rút lui. Hipper đã không biết được sự thoái lui của Ingenohl, vẫn tiếp tục cuộc bắn phá theo kế hoạch. Khi đến được khu vực bờ biển Anh, lực lượng của Hipper được cho tách ra làm đôi: "Seydlitz", "Moltke" và "Blücher" đi lên phía Bắc để bắn phá Hartlepool, trong khi "Von der Tann" và "Derfflinger" hướng về phía Nam để bắn phá Scarborough và Whitby. Trong khi bắn phá Hartlepool, "Seydlitz" bị bắn trúng ba lần còn "Blücher" trúng sáu phát bởi các khẩu pháo phòng thủ duyên hải. "Seydlitz" chỉ bị hư hại nhẹ và không bị thương vong. Đến 09 giờ 45 phút ngày 16 tháng 12, hai nhóm tập hợp trở lại và bắt đầu rút lui về phía Đông.
Vào lúc này, các tàu chiến-tuần dương của Beatty đã ở vào vị trí ngăn chặn con đường mà Hipper lựa chọn để rút lui, trong khi các lực lượng khác đang trên đường tiến đến để hoàn thành việc bao vây. Đến 12 giờ 25 phút, các tàu tuần dương hạng nhẹ của Hải đội Tuần tiễu 2 bắt đầu băng qua lực lượng Anh để tìm kiếm lực lượng của Hipper. Một trong các tàu tuần dương của Hải đội Tuần dương nhẹ 1 phát hiện "Stralsund" và gửi một thông báo đến Beatty. Lúc 12 giờ 30 phút, Beatty đổi hướng các tàu chiến-tuần dương dưới quyền về phía các con tàu Đức, dự đoán rằng các tàu tuần dương Đức là lực lượng tiên phong bảo vệ cho các con tàu của Hipper; nhưng thực ra các tàu chiến-tuần dương Đức còn ở cách về phía trước. Hải đội Tuần tiễu 2 vốn đang bảo vệ cho các con tàu của Beatty đã được cho tách ra để truy đuổi các tàu tuần dương Đức; nhưng do việc diễn dịch sai tín hiệu từ các tàu chiến-tuần dương Anh đã gửi chúng quay trở lại vị trí hộ tống. Sự nhầm lẫn này cho phép các tàu tuần dương nhẹ Đức chạy thoát và báo động cho Hipper vị trí của các tàu chiến-tuần dương Anh. Các tàu chiến Đức lẻn về phía Đông Bắc lực lượng Anh và đã chạy thoát.
Cả hai phía Đức và Anh đều thất vọng vì đã không chiến đấu lại đối thủ một cách hiệu quả. Uy tín của Đô đốc Ingeholh bị ảnh hưởng nghiêm trọng do hậu quả của sự nhút nhát. Thuyền trưởng của "Moltke" tỏ ra gay gắt, ông cho rằng Ingenohl đã rút lui "vì ông lo sợ mười một chiếc tàu khu trục Anh vốn có thể loại bỏ dễ dàng... dưới sự lãnh đạo như thế này chúng ta sẽ chẳng đạt được gì." Lịch sử chính thức của Hải quân Đức phê phán Ingenohl đã không sử dụng lực lượng hạng nhẹ của mình để thăm dò quy mô lực lượng của hạm đội Anh, cho rằng: "Ông đưa ra quyết định không chỉ gây nguy hại đáng kể cho lực lượng phía trước ngoài khơi bờ biển Anh, mà còn cất đi khỏi Hạm đội Đức một thắng lợi chắc chắn và đáng kể."
Trận Dogger Bank.
Vào đầu tháng 1 năm 1915, tin tức cho biết các tàu chiến Anh tiến hành trinh sát tại khu vực Dogger Bank. Đô đốc Ingenohl thoạt tiên do dự không muốn tiêu diệt các lực lượng này, do Đội Tuần tiễu 1 tạm thời bị yếu kém trong khi "Von der Tann" đi vào ụ tàu để bảo trì định kỳ. Tuy nhiên, Chuẩn đô đốc Richard Eckermann, Tham mưu trưởng Hạm đội Biển khơi, cứ nhất định đòi thực hiện chiến dịch, nên Ingenohl bị thuyết phục và ra lệnh cho Hipper đưa các tàu chiến-tuần dương còn lại dưới quyền đến Dogger Bank. Ngày 23 tháng 1, Hipper khởi hành với cờ hiệu của mình trên chiếc "Seydlitz", được tiếp nối bởi "Moltke", "Derfflinger" và "Blücher" cùng các tàu tuần dương hạng nhẹ "Graudenz", "Rostock", "Stralsund" và "Kolberg" và 19 tàu phóng lôi thuộc các chi hạm đội 2, 5 và bán-chi hạm đội 18. "Graudenz" và "Stralsund" được phái đi hộ tống phía trước hải đội, trong khi "Rostock" và "Kolberg" lần lượt được phân sang mạn phải và mạn trái tương ứng, mỗi tàu tuần dương hạng nhẹ có một bán-chi hạm đội tàu phóng lôi phối thuộc.
Một lần nữa, việc thu thập và giải mã tín hiệu vô tuyến của Đức đã đóng một vai trò quan trọng. Cho dù nhân viên giải mã Phòng 40 không thể biết được chính xác kế hoạch, họ vẫn có thể đoán được rằng Hipper sẽ tiến hành một chiến dịch tại vùng Dogger Bank. Để đối phó, Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 1 của Beatty, Hải đội Tàu chiến-Tuần dương 2 của Chuẩn đô đốc Archibald Moore và Hải đội Tuần dương nhẹ 2 của Thiếu tướng Hải quân William Goodenough được cho tập trung để hội quân cùng Lực lượng Harwich của Thiếu tướng Reginald Tyrwhitt lúc 08 giờ 00 ngày 24 tháng 1 ở vị trí khoảng về phía Bắc Dogger Bank.
Lúc 08 giờ 14 phút, "Kolberg" nhìn thấy chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ "Aurora" cùng nhiều tàu khu trục thuộc Lực lượng Harwich. "Aurora" khiêu khích "Kolberg" bằng một đèn pha, vào lúc mà "Kolberg" tấn công "Aurora" và ghi được hai phát trúng đích. "Aurora" bắn trả và cũng bắn trúng đối phương hai phát. Hipper lập tức cho chuyển hướng các tàu chiến-tuần dương của mình đến nơi nổ súng, trong khi hầu như đồng thời vào lúc đó, "Stralsund" trông thấy một lượng khói lớn về phía Tây Bắc vị trí của nó. Đây được xác định là một số lượng tàu chiến lớn đang hướng về phía các con tàu của Hipper.
Hipper quay mũi về phía Nam để chạy thoát, nhưng bị giới hạn ở tốc độ , là tốc độ tối đa của chiếc tàu tuần dương bọc thép cũ "Blücher". Các tàu chiến-tuần dương Anh truy đuổi di chuyển với tốc độ , và nhanh chóng bắt kịp các con tàu Đức. Lúc 09 giờ 52 phút, "Lion" nổ súng nhắm vào "Blücher" ở khoảng cách , rồi đến lượt "Queen Mary" và "Tiger" cũng bắt đầu nổ súng không lâu sau đó. Lúc 10 giờ 09 phút, các tàu chiến Anh ghi được phát bắn trúng đầu tiên trên "Blücher"; hai phút sau, các tàu chiến Đức bắt đầu bắn trả, chủ yếu tập trung nhắm vào "Lion" ở khoảng cách . Đến 10 giờ 28 phút, "Lion" bị bắn trúng ngay mực nước, làm xé toang một lỗ hổng bên mạn tàu và làm ngập nước một khoang chứa than. Lúc 10 giờ 30 phút, "New Zealand", chiếc thứ tư trong hàng chiến trận của Beatty, tiếp cận "Blücher" trong tầm bắn và bắt đầu nổ súng; đến 10 giờ 35 phút, khoảng cách được rút ngắn xuống còn , khi toàn bộ hàng chiến trận Đức nằm trong tầm bắn hiệu quả của các tàu chiến Anh. Beatty ra lệnh cho các tàu chiến-tuần dương của mình nổ súng vào đối thủ Đức tương ứng đối diện song song. Tuy nhiên, sự lẫn lộn bên trên chiếc "Tiger" đã khiến thuyền trưởng của nó tin rằng nó phải nhắm vào "Seydlitz", khiến cho "Moltke" hoàn toàn tự do để bắn mà không bị ngăn trở.
"Seydlitz" bị bắn trúng cầu tàu chỉ huy lúc 10 giờ 25 phút bởi một quả đạn pháo từ "Lion", nhưng chỉ gây thiệt hại nhẹ. Đến 10 giờ 40 phút, "Lion" lại bắn trúng "Seydlitz" cũng với một phát đạn 13,5 inch, làm thủng một lỗ trên sàn tàu và xuyên thủng hầm đạn pháo phía sau. Bản thân quả đạn pháo không xuyên thủng hầm đạn, nhưng chớp lửa của vụ nổ xâm nhập vào phòng đạn pháo làm kích nổ các liều thuốc phóng chứa tại đây.
Trong phòng nạp đạn pháo, nơi quả đạn pháo bắn trúng xuyên thủng, một phần liều thuốc phóng đang sẵn sàng để nạp bị bắt lửa. Ngọn lửa bốc cao lên đến tháp pháo và lan xuống phòng đạn pháo, rồi lan qua một khung cửa vốn phải được đóng kín, là đường mà các pháo thủ trong phòng đạn pháo tìm cách thoát sang tháp pháo phía trước. Đám cháy đã tìm đường lan rộng sang phòng đạn pháo bên kia, rồi đến tháp pháo thứ hai, và do đó làm cho toàn bộ thành viên khẩu đội của cả hai tháp pháo nhanh chóng bị tiêu diệt. Ngọn lửa bốc cao lên đến gần bằng một tòa nhà bên trên các tháp pháo.
Vụ nổ đã làm thiệt mạng 159 người và phá hủy cả hai tháp pháo phía đuôi. Đám cháy đã được ngăn chặn không cho lan vào các hầm đạn, vốn có thể gây thảm họa phá hủy con tàu, nhờ hành động nhanh chóng của vị sĩ quan cao cấp (hạm phó) đã ra lệnh làm ngập nước cả hai hầm đạn. Thượng sĩ Wilhelm Heidkamp đã bị thương nặng khi ông dùng tay quay những van đang nóng đỏ rực để làm ngập nước hầm đạn. Lúc 11 giờ 01 phút, "Seydlitz" bắn trả trúng "Lion" bằng một quả đạn pháo , làm hỏng hai động cơ của "Lion". Không lâu sau đó, hai quả đạn pháo từ "Derfflinger" lại đánh trúng "Lion", một quả trúng bên trên mực nước. Cú đánh trúng làm tràn nước biển vào thùng cấp nước bên mạn trái, cuối cùng đã đánh hỏng "Lion", vì việc nhiễm nước mặn đã buộc thủy thủ phải tắt động cơ bên mạn trái. Đến 11 giờ 25 phút, "Seydlitz" lại bị bắn trúng phát thứ ba, cũng là phát trúng cuối cùng, vào đai giáp giữa tàu, nhưng chỉ gây hư hại nhẹ.
Vào lúc này, "Blücher" bị hư hại nặng sau trúng nhiều phát đạn pháo hạng nặng. Tuy nhiên, cuộc săn đuổi kết thúc khi có nhiều báo cáo về hoạt động của tàu ngầm U-boat phía trước các con tàu Anh; Beatty nhanh chóng ra lệnh cơ động lẩn tránh, cho phép các con tàu Đức gia tăng khoảng cách với những kẻ săn đuổi. Đúng lúc đó, máy phát điện duy nhất còn hoạt động của "Lion" bị hỏng, làm giảm tốc độ của nó xuống còn . Bên trên chiếc "Lion" bị hỏng hóc, Beatty ra lệnh cho các tàu chiến-tuần dương còn lại "Tấn công đoạn hậu đối phương", nhưng sự nhầm lẫn trong việc truyền tín hiệu đã khiến các con tàu chỉ tập trung hỏa lực nhắm vào "Blücher", cho phép "Moltke", "Seydlitz" và "Derfflinger" chạy thoát. Vào lúc Beatty nắm trở lại sự chỉ huy các con tàu của mình sau khi chuyển sang chiếc "Princess Royal", các con tàu Đức đã ở quá xa để có thể bắt kịp; nên đến 13 giờ 50 phút, ông từ bỏ việc truy đuổi.
"Seydlitz" được sửa chữa tại xưởng tàu "Kaiserliche Werft" ở Wilhelmshaven từ ngày 25 tháng 1 đến ngày 31 tháng 3 năm 1915, sau đó nó gia nhập trở lại hạm đội.
Trận chiến vịnh Riga.
Vào ngày 3 tháng 8 năm 1915, "Seydlitz", "Moltke" và "Von der Tann" được chuyển sang khu vực biển Baltic cùng với Đội Trinh sát 1 để tham gia cuộc xâm nhập vịnh Riga. Ý định của Hải quân Đức là nhằm tiêu diệt lực lượng Hải quân Nga tại khu vực này, kể cả chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought "Slava", và sử dụng tàu rải mìn "Deutschland" phong tỏa lối ra vào eo biển Moon bằng thủy lôi. Lực lượng Đức, dưới quyền chỉ huy của Phó đô đốc Hipper, bao gồm bốn thiết giáp hạm lớp "Nassau" và bốn chiếc lớp "Helgoland", ba tàu chiến-tuần dương nêu trên cùng một số tàu nhỏ. Trong suốt chiến dịch, "Seydlitz" và hai tàu chiến-tuần dương còn lại ở ngoài biển Baltic hỗ trợ từ xa cho các hoạt động xâm nhập vịnh Riga.
Sau chiến dịch, "Seydlitz" cùng các đơn vị hạng nặng khác của Hạm đội Biển khơi quay trở lại Bắc Hải. Trong ngày 11-12 tháng 9, "Seydlitz" cùng phần còn lại của Đội Tuần tiễu 1 bảo vệ cho một chiến dịch rải mìn ngoài khơi Terschelling. Ngày 24 tháng 11, con tàu bị mắc cạn trong kênh đào Kaiser Wilhelm, nhưng nó nhanh chóng nổi trở lại; và vào ngày 4 tháng 12, trong khi đi ra khỏi kênh đào Kaiser Wilhelm, chiếc tàu chiến bị vướng vào lưới bảo vệ. Thợ lặn đã tháo gỡ lưới bị vướng vào chân vịt bên mạn phải.
Bắn phá Yarmouth và Lowestoft.
Vào ngày 24–25 tháng 4 năm 1916, Đội Tuần tiễu 1 tham gia một chiến dịch bắn phá khác vào bờ biển Anh Quốc, lần này là các thị trấn Yarmouth và Lowestoft. Đô đốc Hipper đang bị bệnh, nên các con tàu Đức đặt dưới quyền chỉ huy của Chuẩn đô đốc Friedrich Bödicker, đặt cờ hiệu trên soái hạm "Seydlitz". Các tàu chiến-tuần dương "Derfflinger", "Lützow", "Moltke", "Seydlitz" và "Von der Tann" rời Jade Estuary lúc 10 giờ 55 phút ngày 24 tháng 4, được hỗ trợ bởi một lực lượng hộ tống bao gồm sáu tàu tuần dương hạng nhẹ và hai chi hạm đội tàu phóng lôi. Các đơn vị hạng nặng của Hạm đội Biển khơi lên đường lúc 13 giờ 40 phút, với mục đích hỗ trợ từ xa cho các con tàu của Bödicker. Bộ Hải quân Anh đã biết được việc xuất quân của Đức nhờ thu thập tình báo vô tuyến, nên đã cho bố trí Hạm đội Grand lúc 15 giờ 50 phút.
Đến 14 giờ 00, các con tàu của Bödicker đến một địa điểm ngoài khơi Norderney, nơi ông quay mũi các con tàu về phía Bắc nhằm tránh các trinh sát viên Hà Lan trên đảo Terschelling. Lúc 15 giờ 38 phút, "Seydlitz" trúng phải một quả mìn, làm thủng một lỗ trên lườn tàu kéo dài ngay phía sau ống phóng ngư lôi bên mạn phải, làm thiệt mạng 11 người và khiến khoảng nước tràn vào trong con tàu. Đô sâu mớn nước của nó tăng thêm phía mũi tàu. "Seydlitz" phải quay trở lại, cùng với các tàu tuần dương hạng nhẹ theo hộ tống, ở tốc độ . Bốn chiếc tàu chiến-tuần dương kia lập tức chuyển về phía Nam hướng đến Norderney nhằm tránh các quả mìn khác. Đến 16 giờ 00, "Seydlitz" thoát khỏi nguy hiểm trước mắt, nên nó dừng lại để Bödicker rời tàu, và chiếc tàu phóng lôi "V28" đưa vị đô đốc trở lại chiếc "Lützow", và chiến dịch được tiếp tục theo như kế hoạch. Sau khi Bödicker rời tàu, được hai tàu phóng lôi hộ tống, "Seydlitz" rút lui về phía Nam đến Jade. Nó phải ngừng hoạt động trên một tháng để sửa chữa những hư hại do thủy lôi.
Trận Jutland.
Hầu như ngay sau cuộc bắn phá Lowestoft, Đô đốc Reinhard Scheer bắt đầu vạch kế hoạch cho một cuộc xâm nhập khác vào Bắc Hải. Thoạt tiên ông dự định tiến hành chiến dịch vào giữa tháng 5, nhưng những hư hại của "Seydlitz" do mìn tỏ ra khó sửa chữa, và Scheer lại không sẵn lòng tiến hành một cuộc bắn phá lớn mà không có đầy đủ sức mạnh của lực lượng tàu chiến-tuần dương. Ngày 22 tháng 5, xưởng tàu Wilhelmshaven báo cáo con tàu đã có thể hoạt động, nhưng những thử nghiệm trong đêm cho thấy khoang chứa ngư lôi bên mạn vốn bị hư hại bởi mìn đã không kín nước, và có việc rò rỉ nước ở các vách ngăn ngang trước và sau. Cần có các công việc sửa chữa khác, nên chiến dịch bị hoãn lại thêm một tuần, thời điểm mà xưởng tàu Wilhelmshaven cam đoan với Scheer là con tàu sẽ sẵn sàng. Giữa trưa ngày 28 tháng 5, công việc sửa chữa "Seydlitz" hoàn tất, và nó gia nhập trở lại Đội Tuần tiễu 1.
Trong đêm 30 tháng 5 năm 1916, "Seydlitz" cùng bốn tàu chiến-tuần dương khác của Đội Tuần tiễu 1 thả neo tại vũng biển Jade. Sáng hôm sau lúc 02 giờ 00 giờ Trung Âu, các con tàu chậm rãi di chuyển về phía Skagerrak với tốc độ . Vào lúc này, Đô đốc Hipper đã chuyển cờ hiệu của mình từ "Seydlitz" sang chiếc tàu chiến-tuần dương mới "Lützow". "Seydlitz" chiếm vị trí ở giữa đội hình, phía sau "Derfflinger" và dẫn trước "Moltke". Đội Tuần tiễu 2, bao gồm các tàu tuần dương hạng nhẹ "Frankfurt" (soái hạm của Chuẩn đô đốc Friedrich Bödicker), "Wiesbaden", "Pillau" và "Elbing" cùng 30 tàu phóng lôi thuộc các chi hạm đội 2, 6 và 9, tháp tùng theo lực lượng của Hipper.
Một giờ rưỡi sau đó, phần chủ lực của Hạm đội Biển khơi dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Reinhard Scheer rời Jade Estuary; một lực lượng bao gồm 16 thiết giáp hạm dreadnought có sự tháp tùng của Đội Tuần tiễu 4 bao gồm các tàu tuần dương hạng nhẹ "Stettin", "München", "Hamburg", "Frauenlob" và "Stuttgart" cùng 31 tàu phóng lôi thuộc các chi hạm đội 1, 3, 5 và 7, do "Rostock" dẫn đầu. Sáu chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc Hải đội Chiến trận 2 cũng khởi hành từ Elbe roads lúc 02 giờ 45 phút và gặp gỡ hạm đội chiến trận lúc 05 giờ 00.
Không lâu trước 16 giờ 00, lực lượng của Hipper đã đụng độ với Hải đội Tàu chiến-Tuần dương của Phó đô đốc David Beatty. Các con tàu Đức là những chiếc đã nổ súng đầu tiên, ở cự ly khoảng . Máy đo tầm xa trên các con tàu Anh đã đọc nhầm cự ly đến các mục tiêu Đức, nên khi bắt đầu bắn trả loạt đạn đầu tiên đã bắn xa hơn mục tiêu cả dặm. Vì cả hai hàng tàu chiến-tuần dương đối địch được bố trí để đối đầu lẫn nhau, "Seydlitz" bắt đầu đấu pháo tay đôi với đối thủ tương ứng bên hành chiến trận Anh, tàu chiến-tuần dương "Queen Mary". Đến 16 giờ 54 phút, khoảng cách giữa các con tàu giảm xuống còn , cho phép dàn pháo hạng hai của "Seydlitz" bắt đầu tham chiến. Nó đang ở gần các chi hạm đội khu trục 9 và 10 của Anh đến mức dàn pháo hạng hai của nó đối đầu một cách hiệu quả. Bốn tàu chiến-tuần dương Đức còn lại sử dụng pháo hạng hai để chống lại các tàu chiến-tuần dương Anh.
Từ 16 giờ 55 phút đến 16 giờ 57 phút, "Seydlitz" bị bắn trúng hai quả đạn pháo hạng nặng từ "Queen Mary". Quả đạn pháo thứ nhất xâm nhập mạn hông tàu bên trên sàn tàu chính, gây ra một số đám chát nhỏ. Quả đạn pháo thứ nhất xuyên thủng bệ của tháp pháo bắn thượng tầng phía đuôi. Bốn liều thuốc phóng đã bị kích nổ bên trong phòng đạn pháo, đám cháy phát sinh lan rộng lên tháp pháo và xuống hầm đạn. Các biện pháp chống lóe lửa được áp dụng kịp thời sau trận Dogger Bank đã giúp ngăn chặn các vụ nổ khác phát sinh. Dù sao, tháp pháo bị phá hủy và hầu hết pháo thủ của khẩu đội đều thiệt mạng do vụ nổ.
Đến 17 giờ 25 phút, các tàu chiến-tuần dương Anh đã chịu đựng hư hại đáng kể bởi các đối thủ Đức. "Indefatigable" bị tiêu diệt bởi một loạt đạn pháo của "Von der Tann" khoảng 20 phút trước đó, và Đô đốc Beatty cố quay mũi 2 point tách các con tàu của mình ra để tổ chức lại đội hình, trong khi các thiết giáp hạm lớp "Queen Elizabeth" thuộc Hải đội Chiến trận 5 của Anh bắt đầu đến nơi và bắn pháo hỗ trợ. Khi các tàu chiến-tuần dương Anh bắt đầu tách ra, "Seydlitz" và "Derfflinger" có thể tập trung hỏa lực nhắm vào "Queen Mary". Những người chứng kiến cho biết có ít nhất năm quả đạn pháo thuộc hai loạt đạn đã bắn trúng nó, gây một vụ nổ khủng khiếp làm vỡ đôi "Queen Mary". Không lâu sau khi "Queen Mary" bị phá hủy, tàu khu trục của cả hai phía bắt đầu tìm cách tấn công bằng ngư lôi vào đối phương. Một quả ngư lôi đã đánh trúng "Seydlitz" lúc 17 giờ 57 phút, trúng ngay bên dưới tháp pháo phía trước, chệch về phía sau nơi mà nó từng bị hư hại bởi mìn vào tháng trước. Vụ nổ xé toang một lỗ hổng rộng và làm con tàu nghiêng nhẹ. Cho dù bị hư hại, con tàu vẫn có khả năng duy trì tốc độ tối đa và giữ vững vị trí trong hàng chiến trận.
Những chiếc dẫn đầu của hạm đội chiến trận Đức lúc 18 giờ 00 đã đi đến tầm bắn hiệu quả đối với các con tàu Anh, và bắt đầu nả pháo xuống các tàu chiến-tuần dương Anh cùng các thiết giáp hạm lớp "Queen Elizabeth". Trong khoảng từ 18 giờ 09 phút đến 18 giờ 19 phút, "Seydlitz" bị bắn trúng một quả đạn pháo có thể từ "Barham" hoặc "Valiant". Quả đạn pháo trúng vào mặt trước tháp pháo giữa tàu bên mạn trái, làm vô hiệu hóa tháp pháo. Một phát đạn pháo 380 mm thứ hai xuyên thủng vào tháp pháo bắn thượng tầng phía đuôi vốn đã bị bắn hỏng, kích nổ các liều thuốc phóng cordite chưa bị cháy tại đây. Con tàu cũng bị vô hiệu hai khẩu đội 150 mm do hỏa lực từ phía Anh, và tháp pháo phía đuôi bị mất khẩu pháo bên phải.
Chiều tối đến, tầm nhìn bắt đầu hạn chế đối với các con tàu Đức. Hạm trưởng của "Seydlitz", Đại tá Hải quân (Kapitän zur See) von Egidy, sau này kể lại:
"Tầm nhìn nói chung trở nên bất lợi. Sương mù dày đặc, vì vậy theo quy luật chỉ có thể thấy được ánh chớp đầu nòng pháo đối phương chứ không thể thấy chính những con tàu. Khoảng cách giữa hai bên rút ngắn còn từ 18.000 đến 13.000 yard. Từ hướng Tây Bắc đến hướng Đông Bắc trước mặt chúng tôi là một hàng hỏa lực đối địch, cho dù qua làn sương mù từng lúc một chỉ có thể thấy các ánh chớp đầu nòng pháo. Đây là một cảnh tượng vĩ đại và khủng khiếp."
Vào khoảng 19 giờ 00, lực lượng của Beatty đã tiến đến gần thành phần chủ lực của Hạm đội Grand, và để trì hoãn việc hạm đội Đức phát hiện ra vị trí của Hạm đội Grand, ông quay mũi các con tàu dưới quyền về phía hàng chiến trận Đức nhằm buộc chúng cũng phải đổi hướng. Việc này đã làm rút ngắn khoảng cách giữa các tàu chiến-tuần dương Anh và Đức xuống còn . Tầm nhìn kém tiếp tục tạo thuận lợi cho phía Anh, và các tàu chiến-tuần dương Đức phải trả giá. Trong vòng vài phút tiếp theo sau, "Seydlitz" bị bắn trúng sáu phát, chủ yếu vào phần phía trước của con tàu. Một đám cháy bùng phát tại sàn trước con tàu. Hỏa lực rất căng từ phía các con tàu của Beatty đã buộc Hipper phải tạm thời cho rút lui các tàu chiến-tuần dương dưới quyền về phía Tây Nam. Trong khi các con tàu rút lui, "Seydlitz" tiếp tục bị ngập thêm nước, độ nghiêng sang mạn phải xấu đi; con tàu bị ngập nước bên trên sàn giữa ở các ngăn trước tàu, và hầu như mất toàn bộ độ nổi.
Đến 19 giờ 30 phút, Hạm đội Biển khơi, vốn cho đến lúc đó vẫn đang săn đuổi các tàu chiến–tuần dương Anh, vẫn chưa đụng độ với Hạm đội Grand. Scheer đã cân nhắc đến việc cho rút lui các lực lượng của mình trước khi bóng đêm phô bày các con tàu ra trước các cuộc tấn công của tàu phóng lôi. Tuy nhiên, ông chưa kịp đưa ra quyết định khi các thiết giáp hạm dẫn đầu của mình bắt đầu đối địch với thành phần chủ lực của Hạm đội Grand. Sự phát triển này khiến cho Scheer không thể rút lui, vì như vậy sẽ phải hy sinh các thiết giáp hạm tiền-dreadnought cũ hơn của Hải đội Chiến trận 2, còn nếu sử dụng các thiết giáp hạm dreadnought và tàu chiến-tuần dương hỗ trợ cho việc rút lui của chúng sẽ phô bày những con tàu mạnh nhất của mình ra trước hỏa lực áp đảo của phía Anh. Thay vào đó, Scheer ra lệnh cho các con tàu dưới quyền bẻ lái 16 point sang mạn phải, đưa những chiếc thiết giáp hạm tiền-dreadnought về một vị trí tương đối an toàn bên phía rút lui của hàng chiến trận Đức.
"Seydlitz" và các tàu chiến-tuần dương khác tiếp nối theo việc chuyển hướng, đưa chúng đến phía sau thiết giáp hạm "König". Các con tàu bị đánh tơi tả của Hipper có được một khoảng thời gian nghỉ ngơi. Việc không chắc chắn về vị trí chính xác và hướng đi của các con tàu của Scheer đã khiến Đô đốc Anh John Jellicoe quay mũi các con tàu dưới quyền về phía Đông, về hướng mà ông nghỉ có thể là con đường rút lui của phía Đức. Thay vì vậy, hạm đội Đức đang di chuyển về hướng Tây, nhưng Scheer lại ra lệnh bẻ lái 16 point lần thứ hai, lộn ngược lại và hướng thẳng các con tàu của ông vào ngay giữa hạm đội Anh. Hạm đội Đức phải chịu đựng hỏa lực ác liệt từ hàng chiến trận Anh, và Scheer tung ra "Seydlitz", "Von der Tann", "Moltke" và "Derfflinger" hướng về phía hạm đội Anh với tốc độ cao, tìm cách phá vỡ đội hình của chúng tranh thủ thời gian cho lực lượng chính của mình rút lui. Lúc 20 giờ 17 phút, các tàu chiến-tuần dương Đức tiến đến gần thiết giáp hạm "Colossus" ở khoảng cách , lúc mà Scheer chỉ thị cho các con tàu đối đầu với chiếc dẫn đầu của hàng chiến trận Anh. "Seydlitz" bắn trúng một phát vào "Colossus", nhưng chỉ gây hư hại nhẹ cho cấu trúc thượng tầng. Ba phút sau đó, các tàu chiến-tuần dương Đức quay mũi rút lui dưới sự che chở của một đợt tấn công bởi tàu phóng lôi.
Một sự tạm ngừng chiến trận vào lúc trời sụp tối cho phép "Seydlitz" và các tàu chiến-tuần dương Đức cắt bỏ các mảnh xác tàu làm kẹt tháp pháo, dập tắt các đám cháy, sửa chữa thiết bị điều khiển hỏa lực và tín hiệu, và chuẩn bị đèn pha cho các hoạt động đêm. Vào giai đoạn này, hạm đội Đức được tái tổ chức thành đội hình chặt chẽ theo thứ tự lộn ngược, khi lực lượng hạng nhẹ Đức đụng độ với các tàu hộ tống Anh không lâu sau 21 giờ 00. Cuộc đấu pháo mới đã thu hút sự chú ý của Beatty, nên ông chuyển hướng các tàu chiến-tuần dương về phía Tây. Lúc 21 giờ 09 phút, ông trông thấy các tàu chiến-tuần dương Đức, tiếp cận đến gần ở khoảng cách trước khi nổ súng lúc 21 giờ 20 phút. Trong trận chiến lộn xộn diễn ra sau đó, "Seydlitz" bị bắn trúng nhiều lần. Một quả đạn pháo trúng vào tháp pháo phía đuôi, và một quả khác trúng cầu tàu, làm thiệt mạng tất cả nhân sự trên cầu tàu và làm nhiều người trên tháp chỉ huy bị thương. Các con tàu Đức bắn trả bằng mọi khẩu pháo có được, và đến 21 giờ 32 phút đã bắn trúng cả "Lion" lẫn "Princess Royal" trong bóng đêm. Việc cơ động của các tàu chiến-tuần dương Đức đã buộc Hải đội Chiến trận 1 (Đức) phải quay sang phía Tây để tránh va chạm; điều này đã đưa các thiết giáp hạm tiền-dreadnought thuộc Hải đội Chiến trận 2 lên ngay phía sau các tàu chiến-tuần dương, ngăn trở các con tàu Anh săn đuổi các tàu chiến-tuần dương Đức khi chúng quay mũi về phía Nam. Các tàu chiến-tuần dương Anh nổ súng vào các thiết giáp hạm cũ, phía Đức đổi hướng về phía Tây Nam để xoay mọi khẩu pháo hướng vào các con tàu Anh.
Đến 22 giờ 15 phút, Hipper cuối cùng cũng chuyển sang được "Moltke" và ra lệnh cho các con tàu dưới quyền di chuyển với tốc độ về phía đầu hàng chiến trận Đức. Tuy nhiên, chỉ có "Moltke" và "Seydlitz" đủ khả năng làm theo mệnh lệnh; "Derfflinger" và "Von der Tann" chỉ có thể di chuyển tối đa , và bị tụt lại phía sau. "Moltke" và "Seydlitz" đang trong quá trình di chuyển đến trước hàng chiến trận khi chúng áp sát "Stettin", buộc chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ phải bất ngờ giảm tốc độ để tránh va chạm; điều này đã buộc các tàu tuần dương hạng nhẹ "Frauenlob", "Stuttgart" và "München" phải bẻ lái sang mạn trái, đưa chúng tiến đến gần và đụng độ với Hải đội Tuần dương nhẹ 2 (Anh). Ở khoảng cách , các tàu tuần dương của cả hai phía bắn loạn xạ vào nhau. Chuẩn đô đốc Ludwig von Reuter quyết định tìm cách nhữ các tàu tuần dương Anh về phía "Moltke" và "Seydlitz". Tuy nhiên, hầu như cùng lúc đó, các tàu tuần dương Anh bị hư hại nặng cũng rút ra khỏi cuộc chiến. Khi các tàu tuần dương đang tách xa nhau, một quả ngư lôi phóng từ "Southampton" đã đánh trúng "Frauenlob", khiến nó nổ tung. Đội hình Đức bị rối loạn, và trong cảnh lẫn lộn đó, "Seydlitz" mất dấu "Moltke"; "Seydlitz" không còn khả năng theo kịp tốc độ của "Moltke", nên tách ra một mình và hướng đến hải đăng Horns Reef một cách độc lập.
Lúc 00 giờ 45 phút ngày 1 tháng 6, "Seydlitz" tìm cách băng qua đội hình hạm đội Anh, nhưng đã bị chiếc dreadnought Anh "Agincourt" bắt gặp, được ghi nhận như một "tàu chiến hoặc tàu khu trục". Hạm trưởng của "Agincourt" không muốn liều lĩnh bộc lộ vị trí con tàu của mình, nên đã để cho nó đi băng qua. Đến 01 giờ 12 phút, "Seydlitz" đã vượt qua đội hình hạm đội Anh thành công và tiếp tục đi về vùng biển Horns Reef an toàn. Lúc khoảng 03 giờ 40 phút, nó gặp trục trặc ngoài khơi Horns Reef, cả hai la bàn con quay đều gặp trục trặc, nên chiếc tàu tuần dương hạng nhẹ "Pillau" được gửi đến dẫn hướng cho nó. Lúc 15 giờ 30 phút, "Seydlitz" ở trong một tình trạng nguy cấp; mũi tàu hầu như bị ngập hoàn toàn, và phần phía trước duy nhất của con tàu còn nổi là ngăn thủy lôi bên mạn. Công việc chuẩn bị di tản những người bị thương được tiến hành khi hai chiếc tàu bơm hơi nước tiến đến hiện trường. Chúng đã duy trì ổn định được việc ngập nước của "Seydlitz", và con tàu lết được trở về cảng. Nó về đến phía ngoài sông Jade vào sáng ngày 2 tháng 6, và vào ngày 3 tháng 6 nó cặp vào cảng Wilhelmshaven. Vào lúc nguy hiểm nhất, nó đã bị ngập đến nước.
Vào cuối trận chiến, lúc 03 giờ 55 phút, Hipper chuyển một báo cáo cho đô đốc Scheer thông báo cho ông những hư hỏng nặng nề mà các con tàu dưới quyền phải chịu đựng. Vào lúc đó "Derfflinger" và "Von der Tann" mỗi chiếc chỉ có hai khẩu pháo còn khả năng hoạt động, "Moltke" bị ngập khoảng 1.000 tấn nước, và "Seydlitz" bị hư hại nặng. Hipper báo cáo: "Đội Tuần tiễu 1 do đó không còn là một đơn vị chiến đấu hiệu quả, nên được Tổng tư lệnh chỉ thị quay trở về cảng, trong khi bản thân ông chờ đợi kết quả trận chiến ngoài khơi Horns Reef của hạm đội chiến trận."
Trong quá trình trận chiến, "Seydlitz" bị bắn trúng tổng cộng 21 quả đạn pháo hạng nặng, hai quả đạn pháo hạng hai và một quả ngư lôi. Con tàu chịu đựng tổn thất 98 người thiệt mạng và 55 người bị thương. Bản thân "Seydlitz" đã bắn tổng cộng 376 quả đạn từ dàn pháo chính và ghi được khoảng 10 phát trúng đích.
Các hoạt động sau cùng.
Công việc sửa chữa "Seydlitz" được tiến hành tại Xưởng tàu Đế chế ở Wilhelmshaven từ ngày 15 tháng 6 năm 1916, và kéo dài cho đến ngày 1 tháng 10. Con tàu sau đó tiến hành huấn luyện đơn lẻ, rồi gia nhập trở lại hạm đội vào tháng 11. Với soái hạm "Lützow" giờ đây nằm dưới đáy Bắc Hải, Đô đốc Hipper chuyển cờ hiệu của ông trở lại chiếc "Seydlitz". Vào ngày 4 tháng 11, "Seydlitz" và "Moltke" cùng với Đội 2, các hải đội chiến trận 1 và 3 cùng thiết giáp hạm mới "Bayern" lên đường đi Bovbjerg thuộc bờ biển Đan Mạch ứng cứu cho hai chiếc tàu ngầm U-boat "U-20" và "U-30" bị lâm nạn.
Cuối năm 1917, Hạm đội Biển khơi bắt đầu các hoạt động cướp phá đoàn tàu vận tải tại Bắc Hải giữa Anh và Na Uy. Vào tháng 10 và tháng 12 năm 1917, hai đoàn tàu vận tải Anh đi đến Na Uy đã bị chặn đánh và tiêu diệt bởi các tàu tuần dương và tàu khu trục Đức, buộc đô đốc Beatty, giờ đây là Tổng tư lệnh Hạm đội Grand, phải cho tách ra nhiều thiết giáp hạm và tàu chiến-tuần dương để bảo vệ các đoàn tàu vận tải. Việc này đã phô bày cho đô đốc Scheer cơ hội mà ông đã chờ đợi trong suốt cuộc chiến tranh: khả năng cô lập và tiêu diệt từng phần Hạm đội Grand. Lúc 05 giờ 00 ngày 23 tháng 4 năm 1918, Hạm đội Biển khơi rời cảng với ý định đánh chặn một trong các đoàn tàu vận tải được hộ tống mạnh mẽ. Liên lạc bằng vô tuyến được giữ ở mức tối thiểu nhằm ngăn phía Anh biết được về chiến dịch. Đến 14 giờ 10 phút vẫn không tìm thấy đoàn tàu vận tải Anh, nên Scheer cho quay mũi Hạm đội Biển khơi trở về vùng biển Đức.
"Seydlitz" được dự định để tham gia hoạt động cuối cùng, một "chuyến đi tự sát" của Hạm đội Biển khơi, vào cuối tháng 10 năm 1918, không lâu trước khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc. Phần lớn hạm đội sẽ xuất phát từ căn cứ của chúng ở Wilhelmshaven để đối đầu với Hạm đội Grand của Anh; Reinhard Scheer, lúc này là Đại Đô đốc ("Großadmiral") của Hạm đội, dự định gây tổn thất cho Hải quân Anh càng nhiều càng tốt nhằm duy trì một vị thế mặc cả tốt cho việc thương lượng hòa bình của Đức bất chấp tổn thất có thể phải chịu đựng. Tuy nhiên, khi hạm đội đang được tập trung tại Wilhelmshaven, thủy thủ trên các con tàu bắt đầu đào ngũ hàng loạt. Khi "Von der Tann" và "Derfflinger" đi qua các âu tàu phân cách cảng phía trong Wilhelmshaven và vũng biển, khoảng 300 người trên cả hai con tàu đã trèo qua mạn tàu và biến mất trên bờ.
Sáng ngày 29 tháng 10 năm 1918, mệnh lệnh được đưa ra để chuẩn bị khởi hành từ Wilhelmshaven để tập trung lực lượng tại Jade Estuary vào ngày hôm sau. Bắt đầu từ đêm 29 tháng 10, thủy thủ trên nhiều tàu chiến làm binh biến. Ba chiếc thuộc Hải đội Chiến trận 3 từ chối nhổ neo, và các hành động phá hoại xảy ra trên các chiếc "Thüringen" và "Helgoland". Sự bất ổn lan rộng ra các tàu chiến khác, và cuối cùng chiến dịch phải bị hủy bỏ; và trong một cố gắng để dập tắt cuộc nổi loạn, Scheer ra lệnh phân tán hạm đội. Vào đầu tháng 11 năm 1918, cuộc Cách mạng Đức bắt đầu; dẫn đến việc đình chiến và kết thúc chiến tranh cũng như lật đổ nền quân chủ tại Đức.
Số phận.
Sau khi Đức đầu hàng, hầu hết tàu chiến của Hạm đội Biển khơi, kể cả "Seydlitz", bị lưu giữ tại căn cứ hải quân Anh tại Scapa Flow, dưới quyền chỉ huy của Chuẩn Đô đốc Ludwig von Reuter. Trước khi Hạm đội Đức khởi hành, Đô đốc Adolf von Trotha khẳng định lại với von Reuter chỉ thị không được để cho phe Đồng Minh chiếm các con tàu trong bất kỳ tình huống nào. Hạm đội đã gặp gỡ tàu tuần dương hạng nhẹ Anh "Cardiff", vốn đã dẫn đầu các con tàu Đức đi đến điểm gặp gỡ hạm đội Đồng Minh, một lực lượng khổng lồ bao gồm 370 tàu chiến của Anh, Mỹ và Pháp, vốn sẽ hộ tống hạm đội Đức đến Scapa Flow. Khi bị lưu giữ trong suốt thời gian diễn ra các cuộc đàm phán hòa bình, mà sau này cuối cùng sẽ dẫn đến Hiệp ước Versailles, các khẩu pháo của chúng bị bất hoạt bằng cách tháo bỏ khóa nòng, và con tàu được bảo trì bởi một thủy thủ đoàn gồm số lượng sĩ quan và thủy thủ tối thiểu.
Một bản in của báo "The Times" cung cấp thông tin cho von Reuter rằng Thỏa thuận Ngừng bắn sẽ hết hiệu lực vào giữa trưa ngày 21 tháng 6 năm 1919, thời hạn cuối cùng mà Đức phải ký vào Hiệp định hòa bình. Đô đốc Von Reuter đưa đến kết luận người Anh sẽ tìm cách chiếm hữu các con tàu Đức sau khi Thỏa thuận Ngừng bắn hết hiệu lực. Không biết rằng thời hạn của thỏa thuận đã được triển hạn đến ngày 23 tháng 6, ông quyết định đánh đắm các con tàu của mình vào cơ hội thuận tiện đầu tiên có được. Sáng ngày 21 tháng 6, Hạm đội Anh rời Scapa Flow tiến hành thực tập huấn luyện; và đến 11 giờ 20 phút Reuter truyền mệnh lệnh này đến các con tàu của mình. "Seydlitz" chìm lúc 13 giờ 50 phút. Mạn và đáy tàu ở độ sâu 12 fathom bên dưới mực nước thường bị nhầm như một hòn đảo nhỏ; và nó được bán trong tình trạng như vậy cho hãng Cox and Danks cùng với một thiết giáp hạm và 26 tàu khu trục. Nó được cho nổi trở lại vào ngày 2 tháng 11 năm 1928, và vẫn đang trong tư thế lật úp, nó được kéo về phía Nam và được tháo dỡ tại Rosyth vào năm 1930. Chiếc chuông của "Seydlitz" hiện đang được trưng bày tại Đài tưởng niệm Hải quân Lahoe. | 1 | null |
Seventeen là một tạp chí dành cho thiếu nữ tuổi từ 14 đến 21, phát hành ở Hoa Kỳ. Tạp chí thiên về thời trang và tình cảm trong bài vở, và khuyến khích những cô gái trẻ nên có sự tự tin. Tạp chí được chia ra các phần sau đây: thời trang, sắc đẹp, sức khỏe, tình yêu và cuộc sống. Trong mỗi số báo, có những tiếc mục: "Thơ từ chủ bút", mục tử vi, "Traumarama", "Bạn nghĩ gì!" và một tiếc về "Những món cho không." | 1 | null |
Hồ Định Hân có tên tiếng Anh là Nancy Wu (sinh ngày 9 tháng 9 năm 1981 tại Hồng Kông) là một nữ diễn viên truyền hình-diễn viên điện ảnh, ca sĩ kiêm người dẫn chương trình nổi tiếng người Hồng Kông.
- Năm 1999 Hồ Định Hân tham gia cuộc thi ca nhạc Tân Tú, lọt vào top 4 chung cuộc. Tháng 1 năm 2001, cô tham gia cuộc thi Cover Girl lần thứ 3 do TVB tổ chức và giành giải quán quân, sau đó gia nhập lớp huấn luyện nghệ sĩ thứ 18 của TVB và trở thành nghệ sĩ thuộc đài truyền hình này.
- Ban đầu cô không được TVB chú ý lắm và chỉ giao những vai diễn nhỏ cho cô, nhưng bằng thực lực và những cố gắng không ngừng nghỉ, cô đã bắt đầu có những vai diễn có đất phát huy hơn và để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng khán giả.
- Năm 2008 cô được TVB chọn tham gia chương trình Vũ Động Kỳ Tích do đài truyền hình Hồ Nam, Trung Quốc tổ chức, bằng vũ đạo điêu luyện của mình, cô đã lần lượt được trọn 10 điểm cho phần biểu diễn tập thể và cá nhân, đoạt được hạng 3 chung cuộc. Sau cuộc thi này, tên tuổi của Hồ Định Hân càng được nhiều khán giả biết đến và TVB cũng bắt đầu chú trọng cô hơn. Cũng trong năm này, cô giành được giải "Nữ nghệ sĩ tiến bộ vượt bậc" trong đêm trao giải TVB năm đó.
-Năm 2010 và 2011 cô đều lọt vào top 5 giải TVB hạng mục "Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất"
- Năm 2012, nhờ vào vai diễn nữ võ sĩ câm điếc trong bộ phim Quyền Vương, cô đoạt được giải Astro On Demand "Nữ diễn viên phụ được yêu thích nhất", giải Asian Television Award hạng mục "Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất" và giải TVB hạng mục "Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất"
- Năm 2015 và 2016 Hồ Định Hân 2 năm liền đạt giải "Nữ diễn viên xuất sắc nhất của TVB" qua phim "Chơi với ma" và "Anh hùng thành trại". Bộ phim "Anh hùng thành trại" còn mang lại cho Hồ Định Hân giải Thị Hậu tại khu vực Malaysia và Singapore, ca khúc "Chưa từng biết anh là tốt nhất" nhận được rất nhiều giải thưởng, đặc biệt là Kình kim ca khúc.
- Ngoài ra,Hồ Định Hân còn tham gia diễn kịch sân khấu "Từ chí ma" cùng với Mã Tuấn Vỹ. Năm 2019 được đề cử tại Lễ trao giải Kim Tượng giải "Người mới xuất sắc nhất" với vai khách mời trong phim điện ảnh "Nghịch lưu đại thúc" hợp tác cùng Ngô Trấn Vũ.
- Ngày 13-11-2020 Hồ Định Hân thông báo trên trang cá nhân rời TVB sau 18 năm hợp tác: "Tôi rất biết ơn những người tốt và chuyện tốt mà tôi may mắn gặp được trong suốt chặng đường vừa qua của tôi cũng như đồng hành cùng tôi để mở ra một trang mới. Bắt đầu từ hôm nay, tôi sẽ chính thức hợp tác với Công Ty Điện Ảnh Quốc Tế Thiệu Thị Huynh Đệ (Shaw Brothers International Pictures Limited). Cảm ơn chị Ba (cựu quản lý nghệ sĩ TVB) và Ben Chan đã đưa tôi đến với Ban quản lý TVB! Cảm ơn cô Lạc (Lạc Di Linh - Trợ lý Tổng giám đốc TVB, Giám đốc điều hành của Thiệu Thị Huynh Đệ) và người chị đã mất Bội Hoa (Trần Bội Hoa, cựu giám đốc nghệ sĩ TVB) vì nhiều năm nay đã góp ý, giúp đỡ và tạo cơ hội cho tôi. Cảm ơn sự quan tâm của các đồng nghiệp trong công ty trong 18 năm qua. Angel, Cindy, Atom, Sam, Winpy, Daisy, các anh chị đã cùng tôi trải qua những thăng trầm trong sự nghiệp và trải qua nhiều khoảnh khắc khó quên! Năm tới hi vọng sẽ mang đến cho khán giả nhiều tác phẩm hơn ở chế độ khác, xin được chỉ giáo nhiều hơn".
- Hiện tại cô vẫn hợp tác theo từng đầu phim với TVB và quay phim cho công ty mới (đóng chính trong phim Bạch sắc cường nhân 2 và Liêm chính thư kích). | 1 | null |
Họ Cá khổng tước (danh pháp khoa học: Poeciliidae) là một họ cá nước ngọt trong bộ Cyprinodontiformes. Sự phân bố nguyên thủy của các loài trong họ này là trong khu vực từ đông nam Hoa Kỳ tới phía bắc Rio de la Plata, Argentina, miền trung và miền nam châu Phi, bao gồm cả Madagascar. Tuy nhiên, do sự phóng thích các cá thể hồ cá và việc sử dụng rộng rãi các loài của chi "Poecilia" và "Gambusia" để kiểm soát muỗi nên ngày nay họ Poeciliidae có thể được tìm thấy trong tất cả các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới trên thế giới.
Các chi.
Họ cá này gồm các chi sau: | 1 | null |
Trèo cây Australia nâu (danh pháp hai phần: "Climacteris picumnus") là một loài chim lớn nhất trong họ Trèo cây Úc. Trèo cây Australia nâu là loài đặc hữu đông Australia và có phạm vi phân bố rộng rãi, chiếm các khu vực Cape York, Queensland, qua khắp New South Wales và Victoria đến Port Augusta và Flinders Ranges, Nam Úc. Hiện nay phổ biến từ vĩ tuyến 16 ˚N và 38 ˚ N, dân số loài này đã thu cụm lại từ các rìa của phạm vi trước khi người châu Âu đến Úc, suy giảm ở Adelaide và Cape York. Chúng được tìm thấy trong một phạm vi đa dạng của môi trường sống khác nhau từ các khu rừng ven biển, vùng đất cây bụi mallee, loài chim này thường chiếm giữ các môi trường sinh sống rừng có bạch đàn là chủ yếu đến độ cao lên tới 1000 m, tránh các khu vực cây bụi tầng dưới.. | 1 | null |
Freeman là một hòn đảo nhỏ trong quần đảo San Juan, Quận San Juan, tiểu bang Washington, Hoa Kỳ. Nó cách đảo Orcas khoảng 250m về phía Tây.
Tên đảo được đặt bởi nhà thám hiểm người Mỹ, Charles Wilkes theo tên của J.D. Freeman, nhà thám hiểm Peacock.
Đảo Freeman rất được ưa chuận bởi các khách du lịch ưa thích cấm trại. | 1 | null |
Cá voi trơn phương nam (danh pháp hai phần: "Eubalaena australis") là một loài động vật thuộc họ Cá voi trơn (Balaenidae). Cá voi trơn phương nam dành mùa hè kiếm mồi ở viễn Nam Thái Bình Dương, có thể gần Nam Cực. Nó di chuyển về phía bắc vào mùa đông để sinh sản và có thể được nhìn thấy bởi các bờ biển của Argentina]], Úc, Brasil, Chile, Namibia, Mozambique, Peru, Tristan de Cunha, Uruguay, Madagascar, New Zealand và Nam Phi. Tổng dân số được ước tính là khoảng 10.000 cá thể. Kể từ khi hoạt động săn bắn cá voi chấm dứt, tỷ lệ tăng số lượng được ước tính đã tăng 7% một năm. | 1 | null |
Cá voi trơn Bắc Thái Bình Dương (danh pháp hai phần: "Eubalaena japonica") là một loài động vật thuộc họ Cá voi trơn (Balaenidae). Cá voi trơn Bắc Thái Bình Dương là loài cá voi tấm sừng hàm rất lớn, có thể dài từ 15–18 m, nặng từ 50-80 tấn và rất mạnh mẽ, hiện nay cực kỳ hiếm và có nguy cơ tuyệt chủng. Quần thể vùng Đông Bắc Thái Bình Dương, mà trải qua mùa hè ở phía đông nam biển Bering và Vịnh Alaska, có thể có hơn 50 cá thể. Một quần thể phương Tây trải qua mùa hè ở Biển Okhotsk giữa quần đảo Kuril và Sakhalin đảo xuất hiện số trong mấy trăm thấp cá thể. Trước khi hoạt động săn bắt cá voi thương mại ở Bắc Thái Bình Dương (tức là trước năm 1835) dân số ở Bắc Thái Bình Dương có thể là hơn 20.000 con. Việc săn bắt cá voi cho mục đích thương mại đã bị cấm bởi một hoặc nhiều điều ước quốc tế kể từ năm 1935. Tuy nhiên, giữa năm 1963 và 1968, việc đánh bắt cá voi bất hợp pháp của Liên Xô đã giết chết 514 cá voi đầu bò trơn ở biển Bering và Vịnh Alaska và 136 cá voi trơn ở biển Okhotsk và quần đảo Kuril. | 1 | null |
Ẩm thực Hải Phòng là một trong những phong cách chế biến ẩm thực địa phương của Việt Nam và cụ thể hơn là của vùng đồng bằng Bắc Bộ, với nền tảng nguyên liệu là nguồn thủy hải sản vô cùng phong phú của vùng biển Hải Phòng và khu vực Vịnh Bắc Bộ xung quanh cũng như một số nguyên liệu đặc sản của địa phương như nước mắm Cát Hải, bánh đa (bánh đa đỏ kiểu Hải Phòng rất phù hợp khi chế biến với các nguyên liệu thủy hải sản dù thuộc vùng nước mặn hay nước lợ như tôm, cua chẳng hạn), tương ớt (người Hải Phòng thường gọi là chí chương)... được dùng trong chế biến nhiều món ăn đặc trưng của Hải Phòng.
Ẩm thực Hải Phòng được nhiều người sành ăn đánh giá là một trong số ít những phong cách chế biến - thưởng thức ẩm thực địa phương đặc sắc (độc đáo, đậm bản sắc vùng miền), đa dạng (phong phú) và tinh tế (thu hút các giác quan khác nhau của thực khách) bậc nhất của Việt Nam. Người Hải Phòng cũng có tiếng là những người kén mùi vị trong ăn uống. Có thể nêu ra một vài ví dụ nổi bật như món nem cua bể, bánh đa cua, bún tôm, bánh bèo, bánh mì cay, pa tê gan, cháo khoái. Dù những nguyên liệu dùng để chế biến các món ăn này ngày nay đều tương đối dễ mua, phổ biến ở nhiều địa phương của Việt Nam. Tuy nhiên, do cách chọn lựa nguyên liệu, kết hợp, chế biến đặc trưng của người Hải Phòng mà chúng trở thành những món ăn không chỉ lôi cuốn về vị giác, khứu giác mà còn cả về thị giác.
Dù là một thành phố trực thuộc trung ương nhưng việc thiếu chiến lược truyền thông quảng bá văn hóa du lịch như những thành phố ngang tầm là Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh trong một thời gian dài có thể thuộc số những lý do chủ yếu khiến ẩm thực nói riêng (và văn hóa địa phương nói chung) của Hải Phòng chưa tạo ra tiếng vang đủ lớn ở tầm quốc gia và xa hơn là tầm quốc tế. Lấy một ví dụ, một trong những món ăn đặc trưng của Hải Phòng là nem cua bể được đưa vào thực đơn ưa thích ở nhiều quán ăn có đề biển bún chả nướng kiểu Hà Nội, trong khi không đề tên gọi xuất xứ địa lý cụ thể (chẳng hạn như nem cua bể hay nem hải sản kiểu Hải Phòng) nên đã khiến cho nhiều thực khách đặc biệt ở các tỉnh thành miền Nam và cả người nước ngoài dễ lầm tưởng nó là một món ăn bắt nguồn từ Hà Nội.
Tuy nhiên, năm 2020-2021, Hải Phòng nổi lên là một điểm du lịch ẩm thực hấp dẫn đối với du khách nhờ các video ngắn trên nền tảng TikTok. Nắm lấy cơ hội, Sở Du lịch Thành phố đã có những chiến dịch quảng bá bài bản, nhằm đưa food-tour thành một nét đặc trưng của du lịch thành phố
Đặc trưng (tổng quan).
Nhân tố hình thành.
Dù không ít phương tiện truyền thông đại chúng vẫn gọi Hải Phòng là đô thị biển hay thành phố biển. Nhưng xét về mặt địa lý, Hải Phòng như một đô thị cảng ven biển giống nhiều với TP. Hồ Chí Minh hơn là Hạ Long, Đà Nẵng hay Nha Trang. Do ảnh hưởng của lượng lớn phù sa ở vùng cửa sông Hải Phòng nên nước biển khu du lịch Đồ Sơn thường luôn bị đục ngầu. Là một vùng đô thị cảng ven biển không thực sự rộng lớn và trù phú (giàu trữ lượng và đa dạng về các nguồn tài nguyên tự nhiên quý hiếm) như một số tỉnh thành khác tại Việt Nam nhưng Hải Phòng có cả yếu tố đồng quê (với những sản vật của ruộng đồng), yếu tố sông rạch (với những sản vật của vùng nước lợ do có năm cửa sông đổ ra biển) rồi yếu tố biển cả/đại dương (với những sản vật đánh bắt từ ngoài khơi xa) nên ẩm thực của Đất Cảng có sự kết hợp hài hòa, phong phú của ẩm thực nội địa (mà một ví dụ điển hình là ẩm thực của Hà Nội) và ẩm thực duyên hải (đặc biệt như nhiều tỉnh thành Nam Trung Bộ). Do đó trong các tỉnh thành phía Bắc, người Hải Phòng có tiếng là sành ăn và kén mùi vị. Một điều đặc biệt nữa là không ít nam giới ở Hải Phòng dù không phải là những người chuyên nghề ẩm thực hay nấu nướng nhưng sành về ẩm vị và có thể chế biến một vài món ăn đặc biệt ngon và độc đáo hơn hẳn phần lớn phụ nữ trong gia đình hoặc họ tộc. Nhạc sĩ, thi sĩ, họa sĩ Văn Cao (một người đã sinh ra và có quãng thời gian gần trọn 20 năm đầu đời sống tại Hải Phòng) có thể được xem là một ví dụ trong số này. Người con trai cả của Văn Cao là Văn Thao trong một bài viết cho Báo Công an Nhân dân (2012) đã không giấu nổi sự khâm phục về "khiếu ẩm thực" của cha mình. Ngoài ra có thể kể thêm một trường hợp nổi bật nữa là nhạc sĩ Đoàn Chuẩn, một người cũng có tiếng sành ăn qua lời kể của con trai ông là Đoàn Đính.
Hải Phòng là một trong không nhiều địa phương ở Việt Nam có một văn hóa ẩm thực đường phố thực sự đa dạng và đặc sắc. Cũng như không ít địa phương khác của Việt Nam, ẩm thực Hải Phòng có sự tiếp thu đáng kể ảnh hưởng từ ẩm thực của Trung Quốc (đặc biệt là của vùng Hoa Nam) và Pháp. Những năm cuối thế kỷ 19 - nửa đầu thế kỷ 20, người Pháp và người Hoa là hai cộng đồng người nước ngoài lớn nhất và có ảnh hưởng về nhiều mặt tại Hải Phòng.
Ẩm thực Hải Phòng ngoài những món ăn mang phong cách chế biến truyền thống Việt Nam còn chịu ảnh hưởng đáng kể từ ẩm thực ngoại lai mà điển hình là từ phía Nam Trung Quốc và một phần nhỏ hơn là từ ẩm thực Pháp (chẳng hạn như pa-tê gan lợn và bánh mì que kết hợp cùng nhau trong món bánh mì cay kiểu Hải Phòng). Đặc biệt là pa-tê gan lợn/heo chế biến theo phong cách ẩm thực Hải Phòng được nhiều người ở các tỉnh thành khác biết tới và đánh giá cao về chất lượng. Pa-tê gan lợn theo phong cách chế biến ẩm thực Hải Phòng là một món ăn tương đối quen thuộc đối với người dân đất Cảng, nhất là đối với vùng nội thành. Món ăn này có thể có nguồn gốc từ thời Pháp thuộc do người Pháp du nhập vào Việt Nam, có quá trình Việt hóa cho tới nay cũng hơn một thế kỷ và cũng có không ít khác biệt so với công thức chế biến nguyên bản của người phương Tây. Người Hải Phòng sử dụng pa-tê gan lợn tương đối đa dạng: ăn cùng với các loại bánh mỳ khác nhau (đặc biệt là được kẹp vào bánh mì que trong món bánh mì cay kiểu Hải Phòng), hay ăn cùng với món xôi thịt kiểu Hải Phòng, hay kẹp thêm vào nhân của món bánh bao nhân thịt kiểu Hải Phòng, hoặc ăn cùng với các món khác trong bữa cơm hàng ngày. Sản phẩm pa-tê gan lợn đóng hộp của Công ty Cổ phần Đồ hộp Hạ Long (được thành lập vào năm 1957 tại Hải Phòng) cũng được ưa chuộng ở nhiều tỉnh thành khác nhau tại Việt Nam.
Trong các tỉnh thành tại Việt Nam thì ẩm thực Hải Phòng tiếp nhận ảnh hưởng đáng kể từ ẩm thực của Hải Dương, Thái Bình và Nam Định. Cho tới cuối những năm 1990 và đầu những năm 2000 thì hầu hết những quán phở bò kiểu xe thùng di động bán quanh những hè phố hay những gánh tào pha bán rong tại Hải Phòng đều là của những người nhập cư gốc Nam Định, nhiều gia đình trong đó đã có tới vài thế hệ sinh trưởng ở đất cảng.
Thành phần nguyên liệu.
Nói chung trong cách chế biến của nhiều món ăn đặc trưng Hải Phòng không đòi hỏi quá nhiều về thời gian chế biến nhưng đặc biệt chú ý ở khâu lựa chọn nguyên liệu và kết hợp chúng sao cho hài hòa về tổng thể. Mặc dù tương đối phong phú về hải sản, nhưng tôm, cua, cá là các loại hải sản người Hải Phòng dường như thích sử dụng nhất, đặc biệt trong các món ăn nước có dùng bánh tráng (từ gạo) hoặc sợi mì. Dù các loài thủy hải sản là nguồn nguyên liệu chủ đạo trong ẩm thực của vùng đất cảng nhưng phần lớn người Hải Phòng có xu hướng khử tối đa ở mức độ có thể mùi vị tanh/tươi của chúng trong quá trình sơ chế và nấu nướng. Trong khi ở chiều ngược lại thì người miền Nam (có thể bao gồm cả Nam Trung bộ) có xu hướng giữ lại gần như nguyên vẹn độ tươi/tanh của các nguyên liệu thủy hải sản này trong quá trình chế biến. Trong khi thành phần hải sản trong một số món ăn Nam bộ như hủ tiếu/hủ tíu thường thích dùng cá, tôm, mực tươi không qua sơ chế cầu kỳ thì người Hải Phòng thường bóc lột vỏ, tẩm ướp và hấp/chiên/xào qua nên về tổng thể các món ăn có nước dùng của Hải Phòng thường ít ngọt hơn, ít "tươi" hơn đôi chút so với các món ăn nhiều nước như vùng Nam Bộ (bao gồm cả Đông Nam bộ và Tây Nam bộ).
Người Hải Phòng gần như không sử dụng thịt mực tươi (trừ chả mực đã băm nhuyễn) trong các món nhiều nước với sợi bánh như người miền Nam. Người Hải Phòng về truyền thống cũng gần như không bao giờ sử dụng tiết cùng hầu hết các bộ phận nội tạng gia súc (ngoại trừ dùng cật lợn tươi đã trần chín qua trong nước dùng như ở món ăn sáng với bánh đa sợi trắng hay mì ăn liền, hoặc dùng tiết và bộ lòng ngan/vịt trong món bún nước măng ngan/vịt) và đậu phụ/đậu hũ (ngoại trừ dùng trong các món lẩu hoặc món bún chuối ốc) trong những món ăn có nước dùng và sợi bánh (chẳng hạn như món canh bánh đa cua, canh bánh đa đỏ tôm sườn và món canh bún tôm kiểu Hải Phòng) như thường thấy phổ biến ở miền Nam.
Cũng như trong các món đồ ăn có bánh tráng gạo thì người Hải Phòng rất thường sử dụng các phụ liệu như mộc nhĩ, nấm hương, rau cần, rau rút, rau thì là, chả lá lốt (từ thịt lợn nạc vai băm nhuyễn được bọc bên ngoài bởi lá lốt rồi đem chiên/rán cho đủ độ chín giòn) khi chế biến cùng các loại hải sản (kể cả chả cá hay chả mực) nhưng người miền Nam hầu như không hoặc hiếm khi sử dụng chúng khi chế biến cùng với các loại thủy hải sản phổ biến (như tôm, cua, cá). Có ý kiến cho rằng trong các món ăn với nước dùng và sợi bánh đặc trưng của đất cảng (nổi bật như món canh bánh đa cua, canh bánh đa đỏ tôm sườn và món canh bún tôm móng giò) để có thể cảm nhận tối đa phong vị ẩm thực địa phương thì thực khách nên cho thêm vào một ít tương ớt gia truyền kiểu Hải Phòng dù chỉ vừa đủ tạo cảm giác hơi cay nơi đầu lưỡi. Đối với những thực khách có thói quen hay ăn kèm rau sống cũng như giá đỗ thì nên tránh nhúng trực tiếp vào bát chứa nước dùng và sợi bánh đang còn nóng (như thường thấy ở nhiều địa phương khác). Đây chính là một điểm khác biệt cơ bản trong cách thưởng thức món bánh đa cua đúng kiểu Hải Phòng (cũng như món bún tôm đặc trưng của đất cảng) so với món bún riêu cua hay bún riêu cá mà khi ăn thực khách hay nhúng cả rau sống cùng giá đỗ vào bát lớn. Thực tế thì phần nhiều người gốc Hải Phòng khi ăn món bánh đa cua hay bún tôm đúng kiểu địa phương sẽ thích ăn cùng rau cần, rau rút, rau cải hoặc rau muống (tùy theo mùa) đã trần chín qua trong nồi nước đang sôi nóng hơn là ăn kèm rau sống hay giá đỗ.
Phong vị địa phương.
Nói chung khẩu vị truyền thống của phần nhiều người Hải Phòng vẫn nghiêng về tính mặn rõ hơn tính ngọt và có thể xem đó là một đặc điểm nổi bật chung của khẩu vị các tỉnh thành phía Bắc so với phía Nam. Tuy nhiên, do khá cân bằng về vị mặn ngọt, không ngọt nhiều như vùng Nam bộ (bao gồm cả Sài Gòn) nhưng không quá mặn so với một số vùng miền khác (chẳng hạn người xứ Quảng Nam - Đà Nẵng ở khu vực duyên hải miền Trung về truyền thống có tiếng thích ăn mặn) nên nhiều món ăn Hải Phòng không kén người ăn khi được du nhập đến nhiều vùng miền khác nhau.
Một số lượng không nhỏ người Hải Phòng (đặc biệt là nam giới) có xu hướng thích ăn cay mạnh. Và nhiều món ăn đặc trưng của Hải Phòng như bún tôm móng giò, bún cá cay, cháo cay, bánh mì cay, canh bánh đa đỏ (trong đó bao gồm canh bánh đa cua và canh bánh đa tôm), ốc xào cay hấp dẫn thực khách là bởi có thêm vị cay nồng (cay mạnh) của loại ớt tươi nhỏ thái lát, loại bột ớt đỏ phơi khô tán mịn và loại tương ớt đặc trưng địa phương được cung cấp bởi các cơ sở sản xuất gia truyền trong thành phố. Loại tương ớt kiểu Hải Phòng này nói chung có vị cay mạnh hơn và mùi đậm hơn phần lớn các loại tương ớt đóng chai công nghiệp trên thị trường do các công ty thực phẩm chế biến sẵn và nó cũng thích hợp hơn các loại tương ớt công nghiệp khi ăn với nhiều món đặc trưng của Hải Phòng.
So với vị cay, vị chua có thể chưa đạt tới mức độ nổi bật ngang bằng trong ẩm thực của Hải Phòng nói chung nhưng nó đặc biệt có vai trò tăng thêm sức hấp dẫn trong một số món ăn địa phương. Ví dụ như vị chua có mặt trong hầu hết các món ăn với nước dùng và sợi bánh đặc trưng của Hải Phòng như canh bánh đa cua, canh bánh đa đỏ tôm sườn, canh bún tôm móng giò và bún cá cay. Vị chua nhẹ của quả quất tươi cũng là một yếu tố hấp dẫn thực khách trong các món ăn với loại nước chấm đặc trưng của Hải Phòng dùng trong món bánh cuốn hay bánh bèo chẳng hạn. Tuy nhiên như đã nói ở trên, người Hải Phòng có thể không ăn đồ chua nhiều như vùng miền Nam chẳng hạn nên khi chế biến các món ăn với nước dùng đặc trưng của địa phương thì họ có thể dùng rất hạn chế hoặc không cần dùng cà chua trong một số món như canh bánh đa cua, canh bánh đa đỏ tôm sườn, canh bún tôm móng giò. Trong chế biến các món canh riêu (canh riêu cá, canh riêu cua, canh riêu hến, canh riêu trai, bún cá cay chẳng hạn) thì lượng cà chua có thể được dùng nhiều hơn hẳn khi chế biến các món khác. Khi cần bổ sung vị chua cho một số món ăn đặc trưng, nhiều người Hải Phòng có thể hạn chế dùng hoặc không cần dùng cà chua nhưng thay bằng một vài loại quả khác nhau như quả chay, sấu, me, khế, chanh, quất.
Hải Phòng là một trong số ít (nếu đánh giá nghiêm túc thì số lượng có thể không nhiều hơn số ngón tay trên một bàn tay) địa phương tại Việt Nam vẫn duy trì được danh tiếng làm nước mắm truyền thống ở tầm quốc gia sau hơn một thế kỷ. Nước mắm Cát Hải mà đại diện hàng đầu là hãng nước mắm Vạn Vân của gia tộc họ Đoàn nổi danh từ thời Pháp thuộc có thể xem là thương hiệu nước mắm lớn nhất trên toàn Đông Dương trong những thập kỷ 1920 đến thập kỷ 1940. Một điều đặc biệt trong cách sử dụng nước mắm của nhiều người Hải Phòng là thường đun nóng cùng với nước ninh hầm xương ống và đuôi lợn để pha chế nước chấm cho một số món như bánh cuốn hoặc bánh bèo kiểu Hải Phòng chẳng hạn, trong khi đó ở nhiều tỉnh thành thường không dùng nước ninh xương chế cùng mà chỉ cần pha nguội nước mắm cốt cho loãng bớt rồi cho thêm một số thành phần quen thuộc vào như giấm, tỏi, ớt, đường...
Khác với ẩm thực miền Trung và Nam, nhiều loại nước chấm (hay nước dưới) dùng trong một số món ăn đặc trưng của Hải Phòng có thể xem là một loại nước "canh mặn" ăn kèm, giống như ở nhiều địa phương có thói quen để bên cạnh bát/dĩa cơm một bát canh nhỏ dùng riêng trong bữa ăn hàng ngày vậy. Sở dĩ gọi là nước "canh mặn" vì phần lớn các loại nước chấm hay nước dưới kiểu Hải Phòng (như dùng trong các món bánh bèo, bánh cuốn, bún chả nướng, nem cua bể, xôi thịt đặc trưng địa phương) thì thực khách hoàn toàn có thể vừa chấm, vừa dưới lên món ăn chính nhưng cũng có thể vừa "húp canh" trong chiếc bát nhỏ vậy. Đây là điều khác biệt dễ nhận thấy khi so sánh với cách ăn uống của người miền Nam, khi ăn thường dưới cả bát nước chấm vào dĩa lớn rồi trộn đều lên trước khi ăn. Một lý do chính ở đây là bởi các loại nước chấm đặc trưng kiểu Hải Phòng thường rất ít mùi vị mặn mòi của nước mắm cốt (mặc dù địa phương có danh tiếng toàn quốc với nghề làm nước mắm truyền thống Cát Hải trên cả trăm năm) mà nhiều vị ngọt của nước xương và thịt ninh hầm hơn cả, nên thường dễ để "húp canh" hơn nhiều loại nước chấm pha nguội đậm vị tỏi ớt kiểu miền Trung và Nam (chẳng hạn như loại nước dưới đặc trưng dùng trong món cơm tấm kiểu Sài Gòn).
Hải Phòng cũng có một truyền thống chế biến hải sản khô (như cá thu, cá ruội chẳng hạn) và chế biến thực phẩm đóng hộp (như pa-tê gan lợn, thịt lợn hấp, cá ngừ đại dương ngâm dầu đóng hộp chẳng hạn). Công ty Cổ phần Đồ hộp Hạ Long được thành lập vào năm 1957 tại Hải Phòng là một doanh nghiệp có danh tiếng lâu năm về sản xuất thực phẩm đóng hộp ở Việt Nam.
Món bánh đa cua (theo truyền thống địa phương luôn sử dụng cua đồng và bánh đa đỏ) và nem cua bể (theo phong cách địa phương hay được gói kiểu hình vuông giống như chiếc bánh chưng ngày Tết) được nhiều người xem là hai món ăn có tính đại diện rõ nhất cho phong cách chế biến ẩm thực của Hải Phòng. Lý do có thể bởi những ai từng thưởng thức hai món này khi được những người sành về ẩm thực Hải Phòng chế biến thì họ không chỉ bị chinh phục về vị giác ở cái ẩm vị đặc biệt của một bát bánh đa cua hay một đĩa nem cua bể đúng phong cách Đất Cảng mà còn bị lôi cuốn ở khía cạnh thị giác bởi tính thẩm mỹ của chúng. Bởi vì, một bát bánh đa cua được chế biến kết hợp cả yếu tố truyền thống lẫn hiện đại đúng phong cách Hải Phòng thực sự là một bức tranh tổng hòa đa hình dạng, đa sắc màu rất bắt mắt, phong phú của các nguyên liệu, một điều mà ngay cả món phở nổi tiếng cũng khó có được. Trong khi đó, những chiếc nem hải sản (theo truyền thống kiểu Hải Phòng thì thành phần hải sản trong nem chỉ bao gồm cua bể và tôm tươi bóc vỏ, không cần thêm mực tươi hay tôm khô như phong cách biến tấu miền Nam) được gói vuông vắn giống như những chiếc bánh chưng truyền thống thu nhỏ để vừa trong lòng bàn tay người lớn rồi đem rán/chiên trong dầu sôi cho chín tới vàng ươm phồng căng các mặt, sau đó xếp ngay ngắn lên chiếc đĩa lớn hình tròn bên cạnh một bát nước chấm nhỏ hơn đôi chút cũng hình tròn sẽ là một gợi ý tinh tế cho thực khách về quan niệm "trời tròn đất vuông" cổ xưa của người Việt, vốn có liên quan đến sự tích về bánh chưng và bánh giầy. Cả hai món ăn này đều có sự kết hợp hài hòa giữa tính truyền thống và hiện đại, tính dân dã hòa trộn với nét tinh tế thanh lịch (như vừa có thể thưởng thức 2 món này trong một quán ăn bình dân bên hè phố nào đó ở Hải Phòng hoặc Hà Nội nhưng cũng hoàn toàn thích hợp khi thưởng thức chúng trong một nhà hàng ẩm thực được đầu tư tương đối quy mô như nhà hàng An Biên Eatery tại Hà Nội hay nhà hàng Quán Dì Lý ở ngay trung tâm Quận 1, TP. HCM chẳng hạn), có sự kết hợp hài hòa giữa các nguyên liệu của vùng đồng ruộng nước ngọt (như bột gạo dùng làm bánh đa đỏ hay bánh tráng nem, cua đồng, thịt lợn, rau, hành), của vùng cửa sông nước lợ (như tôm sú hoặc tôm rảo tươi) và của vùng biển cả nước mặn (như cua bể/cua biển, bề bề, cá thu dùng làm chả).
Du nhập ra ngoài.
Dù là một thành phố trực thuộc trung ương và có một văn hóa ẩm thực tương đối đặc sắc, đa dạng so với mặt bằng chung giữa các tỉnh thành Việt Nam nhưng do hoạt động truyền thông, quảng bá du lịch - văn hóa chưa xứng tầm trong suốt một khoảng thời gian dài nên ẩm thực Hải Phòng vẫn chưa thực sự tạo ra dấu ấn mạnh đến nhiều tỉnh thành khác trong cả nước, đặc biệt là các tỉnh thành ở miền Trung và miền Nam và xa hơn nữa là tạo ra sức hút mạnh đối với khách du lịch và truyền thông nước ngoài như hiệu quả đã cho thấy ở một số tỉnh thành như Hà Nội, Huế, Đà Nẵng, Hội An, TP. Hồ Chí Minh chẳng hạn. Ở mặt khác, gần giống như Huế, Hải Phòng trong nhiều năm qua chưa bị tác động quá mạnh bởi quá trình nhập cư ngoại tỉnh như một số thành phố chẳng hạn Hà Nội, Đà Nẵng, TP. Hồ Chí Minh nên nhiều đặc tính ẩm thực địa phương vẫn còn được lưu truyền thực sự rõ rệt và ít bị pha trộn (biến tấu) với những yếu tố ẩm thực từ ngoại tỉnh trong một thời gian tương đối dài.
Lịch sử (sơ lược).
Xuất xứ của nhiều món ăn đặc trưng trong ẩm thực Hải Phòng không có một gốc tích lịch sử rõ ràng hay giai thoại đặc sắc về nguồn gốc so với một số món ăn như phở, cơm cháy Ninh Bình, nem thính Nam Định...
Một số món ăn có xuất xứ từ Hải Phòng như bánh đa cua, nem cua bể, lẩu cua đồng, ốc xào, bánh mỳ cay (còn được gọi là bánh mỳ que) đã được du nhập đến những địa phương khác như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và phổ biến tại những nơi này đến mức đôi khi người ta không cần phải dùng tên gọi địa phương xuất xứ (Hải Phòng) để ghép sau tên gọi món ăn, chủ quán có thể không cần gắn tên địa phương (Hải Phòng) trên biển hiệu thì những người sành ăn (đặc biệt là người gốc Hải Phòng) vẫn có thể nhận ra xuất xứ qua nguyên liệu chế biến, hương vị, hình thức bài trí món ăn cũng như một số thứ ăn kèm. Nhiều nhà hàng, quán ăn tại Hà Nội hay Sài Gòn có thể chỉ đề biển kiểu như "Bánh đa cua An Biên" hay "Nem vuông cua bể" thì nhiều người sành ăn vẫn có thể hiểu rằng đó là món ăn có xuất xứ từ Hải Phòng hoặc chủ quán là người gốc Hải Phòng. Một số món ăn không thể thưởng thức ở những nơi khác mà chỉ có tại Hải Phòng hoặc đã được biến đổi về thành phần nguyên liệu cũng như mùi vị khi du nhập đến các địa phương khác.
Những năm cuối thế kỷ 19 - nửa đầu thế kỷ 20, người Pháp và Người Hoa là hai cộng đồng người nước ngoài lớn nhất và có ảnh hưởng về nhiều mặt tại Hải Phòng. Ẩm thực Hải Phòng ngoài những món ăn mang phong cách chế biến truyền thống Việt Nam (trong đó có phở, bánh cuốn...), còn chịu ảnh hưởng đáng kể từ ẩm thực ngoại lai (nước ngoài) mà điển hình là ẩm thực Trung Quốc và một phần nhỏ từ ẩm thực Pháp. Đây cũng là hai trong số những nền văn hóa ẩm thực nổi tiếng nhất trên thế giới.
Ẩm thực đặc trưng Hải Phòng nhìn chung là ở mức độ trung tính, nghĩa là không quá cay, không quá mặn hay ngọt nên dù là ẩm thực của người miền Bắc nhưng cũng dễ thưởng thức đối với người miền Trung và miền Nam. Ẩm thực Hải Phòng cũng không quá thiên về sự cầu kỳ trong nguyên liệu, gia vị hay công đoạn chế biến (điển hình là ẩm thực Huế vốn chịu ảnh hưởng lớn từ ẩm thực cung đình), cũng không nặng về pha tạp mùi vị mà chủ yếu khai thác hương vị tươi ngon sẵn có của nguồn nguyên liệu thực phẩm dùng để chế biến (đặc biệt là nguồn nguyên liệu thủy hải sản).
Nguyên liệu đặc trưng và phổ biến trong cách thức chế biến ẩm thực Hải Phòng là nguồn thủy hải sản tương đối phong phú của vùng biển Hải Phòng (Đồ Sơn, Cát Hải, Bạch Long Vĩ) cũng như quanh khu vực Vịnh Bắc Bộ. Ngoài nguồn thủy hải sản được đánh bắt trong tự nhiên thì cũng có một nguồn lớn nguyên liệu loại này được nuôi trồng trong các ao đầm, lồng bè nhân tạo. Những loại thủy hải sản được dùng chủ yếu là tôm, cua (cả cua đồng và cua bể), cá, sam biển...
Nhiều món ăn từ hải sản sẽ có vị ngon hơn nhờ loại nước chấm ăn kèm. Ở Hải Phòng, không ít gia đình có truyền thống nhiều đời chế biến nước mắm, giấm và tương ớt (còn được gọi là "chíu trương"). Nước mắm được sản xuất theo cách thức truyền thống của người Kinh trong khi dấm và tương ớt thường được làm theo công thức gia truyền của những người gốc Hoa tại Hải Phòng. Đây là ba thành phần quan trọng trong nhiều món ăn đặc trưng của Hải Phòng.
Nước mắm Cát Hải (vốn có nguồn gốc là nước mắm Vạn Vân nổi tiếng từ thời Pháp thuộc) dù không phổ biến trên khắp Việt Nam như nước mắm Phú Quốc nhưng có hương vị riêng biệt từ cách làm mắm và loại cá đặc trưng của vùng biển Hải Phòng. Loại nước mắm này thường thích hợp để chế biến một số món đặc trưng hương vị Hải Phòng trong đó có món cơm chiên thập cẩm hay dùng để pha chế nước chấm nem cua bể.
Một loại nguyên liệu đặc trưng khác là bánh đa. Tại Hải Phòng, bánh đa Dư Hàng Kênh đã trở thành một thương hiệu bánh đa nổi tiếng với các sản phẩm như bánh đa đỏ (dùng chế biến bánh đa cua), bánh đa nem (dùng chế biến nem cua bể) có một số điểm khác biệt so với loại bánh đa chế biến tại các địa phương khác và chính sự khác biệt này đã tạo nên tính độc đáo cho những món ăn như bánh đa cua hay nem cua bể của Hải Phòng.
Ngoài ra, Hải Phòng cũng là một trong những địa phương có truyền thống về công nghiệp chế biến thực phẩm đóng hộp tại Việt Nam. Nổi tiếng hơn cả là Công ty Đồ hộp Hạ Long, ngoài trụ sở chính tại Hải Phòng còn một số nhà máy chế biến tại các tỉnh thành khác.
Một số món ăn đại diện.
Bánh đa cua.
Bánh đa cua đúng kiểu của Hải Phòng thì các yếu tố đặc trưng là màu sắc phong phú những nguyên liệu tạo nên món ăn (màu đỏ sẫm của sợi bánh đa, màu nâu hồng của gạch cua, màu đỏ tươi của cà chua, màu xanh của rau rút hoặc rau muống, màu xanh đậm của chả lá lốt, màu vàng của chả viên và hành phi), sợi bánh đa đỏ có độ dai nhưng mềm (sợi bánh không bị nhũn hay nát) và loại tương ớt ăn kèm mà người Hải Phòng quen gọi là "chí chương" cũng thường được chế biến theo cách thức gia truyền thay vì dùng loại tương ớt chế biến sẵn. Có thể ăn buổi sáng hay buổi tối, mùa hè hay mùa đông cũng đều cảm thấy vị ngon. Nhiều người đã so sánh mức độ phổ biến và được ưa thích của bánh đa cua đối với người Hải Phòng cũng như món phở với người Hà Nội, món bún bò với người Huế và món hủ tiếu/hủ tíu với người Sài Gòn.
Nem cua bể.
Nem cua bể (cũng gọi là chả nem, nem hải sản) theo đúng cách chế biến kiểu Hải Phòng thường được gói theo hình vuông ngoài cách gói nem phổ biến hình thon dài. Nem cua bể thông thường được ăn với bún, mắm dấm và rau sống. Thưởng thức nem cua bể tốt nhất là sau khoảng 5 phút kể từ khi vớt nem khỏi chảo dầu sôi và để cho ráo mỡ. Cơ bản về nguyên liệu chế biến không có nhiều khác biệt so với chả nem chế biến tại nhiều địa phương của miền Bắc như thịt lợn, tôm, nấm hương, mộc nhĩ, giá đỗ...
Khác biệt ở đây chính là sự có mặt của nguyên liệu cua bể (một nguồn hải sản tương đối dồi dào của vùng biển Hải Phòng), loại bánh đa nem sản xuất theo phương pháp truyền thống của địa phương (cũng như loại bánh đa đỏ dùng trong chế biến bánh đa cua) và cách thức gói nem (gói theo hình vuông, cách thức nhào trộn và thứ tự sắp xếp các thành phần nguyên liệu khi gói nem). Yêu cầu cơ bản ở đây là nem cua bể phải có mùi vị đặc trưng của cua bể sau khi đã chiên rán chín (mùi cua bể không bị hòa lẫn vào mùi vị của các nguyên liệu khác), vỏ nem sau khi rán có màu vàng và độ giòn nhưng không bị cháy cạnh.
Giá bể xào.
Giá bể hay giá biển là một loài nhuyễn thể, có phần thịt ngọt và sống vùi dưới lớp cát trên biển. Nét nổi bật của nó chính là phần chân lòi ra như một cọng giá đỗ. Giá bể Hải Phòng là nguyên liệu để làm nên nhiều món nhưng có lẽ được biết đến nhiều nhất chính là món giá bể xào. Khi nấu thì phần vỏ của chúng vẫn được giữ nguyên nên có thể nói thực khách sẽ được thưởng thức một hương vị trọn vẹn nhất khi ăn giá bể.
Sau khi được làm sạch, chân và thân giá bể sẽ được tách rời rồi đem phi thơm cùng hành, tỏi, bột nghệ, giấm và các loại gia vị. Để tạo độ sệt, thường người Hải Phòng hay cho thêm bột dong hay bột mì/ bột năng pha loãng.
Bánh mỳ cay.
Còn được gọi là bánh mỳ que. Và dù gọi theo cách nào thì cũng nói lên một phần đặc trưng của loại bánh mỳ này. Sở dĩ có tên gọi bánh mỳ que là do hình dạng của chiếc bánh mỳ nhỏ, dài, nằm lọt trong lòng bàn tay và điều quan trọng là độ giòn của bánh mỳ. Còn tên gọi bánh mỳ cay là do vị cay đặc trưng của loại tương ớt ăn kèm cũng giống như loại tương ớt ăn kèm với bánh đa cua. Loại tương ớt này được chế biến theo công thức đặc trưng của địa phương (thường được người Hải Phòng gọi là "chí chương") thay vì dùng loại tương ớt đóng lọ chế biến sẵn. Điểm cơ bản tạo nên vị ngon của bánh mỳ cay (hay bánh mỳ que) theo kiểu Hải Phòng chính là ở cách chế biến pa tê gan, bánh mỳ và tương ớt ăn kèm.
Bánh bèo.
Cùng với bánh mì cay Hải Phòng, bánh đa cua Hải Phòng thì bánh bèo cũng là món ăn rất được lòng du khách, xếp vào danh sách những món ăn nhất định phải thử trong chuyến du lịch đến Đất Cảng.
Khác với bánh bèo Huế hay bánh bèo Hà Nội, bánh bèo Hải Phòng có dạng hình vuông được bọc ngoài bằng lá chuối, vỏ mềm dẻo và bên trong là phần nhân đầy ú thịt, ngọt và ngon nhất khi ăn nóng. Bánh sẽ được ăn kèm với nước chấm nóng, một viên thịt đậm đà, một miếng chả quế thơm lừng. Khi ăn thực khách có thể cảm nhận được vỏ bánh mềm, nhân bánh ngọt đậm và giòn giòn của mộc nhĩ kết hợp cùng nước chấm nóng mặn và cay vừa đủ. Có thể nói bánh bèo là món ăn nhẹ buổi chiều không thể thiếu với người dân thành phố.
Lẩu cua đồng.
Một biến thể của món lẩu vốn đã rất quen thuộc với nhiều người sành ẩm thực. Điểm khác biệt của món lẩu cua đồng chế biến theo kiểu Hải Phòng so với nhiều món lẩu thường thấy là một số nguyên liệu đặc trưng dùng trong chế biến như cua đồng, lòng non của lợn (heo), chả cá (chế biến theo kiểu Hải Phòng, thường là từ thịt cá thu) và các nguyên liệu ăn kèm như bánh đa đỏ (loại bánh đa dùng trong món bánh đa cua), rau mùng tơi...
Trà cúc.
Nếu Hà Nội nổi tiếng với món trà đá, TP. Hồ Chí Minh hút khách với trà chanh thì tại Hải Phòng, trà cúc lại là thức uống phổ biến, được ưa chuộng vào bất kỳ thời điểm nào trong ngày. Đúng như tên gọi, món trà này được làm từ thành phần chính là trà, hoa cúc và cam thảo, thêm chút quất (tắc), táo đỏ sấy khô... tạo hương vị đặc trưng, thơm ngon hơn. Dù không quá cầu kỳ về mặt nguyên liệu nhưng trà cúc đòi hỏi cách chế biến tỉ mỉ, chỉn chu từng công đoạn khác nhau. Một cốc trà cúc đúng điệu phải có đủ 3 vị. Đó là vị đắng hơi ngai ngái của hoa cúc, vị ngọt thơm của cam thảo và vị chát của trà, thêm chút chua dịu của vài lát quất (tắc) thái mỏng. | 1 | null |
Trận Custoza, còn viết là Trận Custozza hay Trận Custoza lần thứ nhất, diễn ra từ ngày 24 cho đến ngày 25 tháng 7 năm 1848 trong cuộc Chiến tranh giành độc lập Ý lần thứ nhất giữa quân đội Đế quốc Áo dưới quyền Thống chế Joseph Radetzky von Radetz, và Vương quốc Sardegna do vua Carlo Alberto của Piedmont trực tiếp chỉ huy. Trận đánh diễn ra rất ác liệt, trong đó quân đội hai bên chịu tổn thất phân nửa binh lực của mình, và chấm dứt với thắng lợi quyết định của người Áo, góp phần củng cố vị thế của họ trên đất Ý. Với chiến thắng của mình ở Custoza, Radetzky đã cứu vãn Đế quốc Áo khỏi nguy cơ tan rã, đồng thời cổ vũ các lực lượng phản cách mạng xoay chuyển tình hình châu Âu trong cơn bão cách mạng năm 1848.
Tuy rằng quân Sardinia đã chiến đấu quả cảm và Alberto đóng cứ ở vùng núi đồi, trận đánh này thể hiện tài năng của Radetzky vượt xa Alberto và góp phần làm nên thanh danh của Radetzky. Đồng thời, với tính chất hủy diệt, trận Custoza được xem là đỉnh cao của những chiến thắng của ông tại Ý - vốn được xem là một chiến dịch phòng vệ tuyệt vời - cũng như là một trong những thắng lợi lớn của Quân đội Áo. Trong ngày đầu, ông đột phá trung quân Áo và sang ngày thứ hai thì ông đánh tan tác toàn bộ quân Sardinia, dù rằng ông đã 82 tuổi. Tài cầm quân của ông đã gây cho người Áo phấn khởi đến mức mà nhà soạn nhạc Johann Strauss I đã sáng tác bản "Hành khúc Radetzky" nổi tiếng để tôn vinh Radetzky cùng với trận thắng này.
Trận Custozza đã cho thấy hiệu quả của chiến thuật tấn công bằng lưỡi lê của các đạo quân đa dân tộc nhà Habsburg, được bố trí theo "đội hình hàng dọc". Sau thất bại thê lương, quân Sardinia rút chạy về Milano và bị đội quân hùng mạnh của Radetzky truy sát. Chiến thắng vẻ vang tại Custoza đã tạo điều kiện cho quân Áo chiếm giữ Milano và Lombardy. Người Sardinia phải ngừng bắn với Áo, trước khi Alberto một lần nữa lâm chiến và bị Radetzky đánh bại trong trận Novara (1849).
Chú thích.
| 1 | null |
Alexandra "Alex" Margarita Russo là vai chính trong phim sitcom hài kịch tình huống của Disney Channel, "Wizards of Waverly Place", do Selena Gomez đóng. Là con thứ hai và con gái duy nhất, Alex tài tình, hoạt bát, và đôi khi hơi ngang ngược với gia đình và bạn. Alex học không khá về phép thuât. Cô gặp vấn đề vì những mưu kế của cô (thường thường là do dùng phép thuật.)
Alex thông minh nhưng không siêng năng, khiến cho anh cô ấy, Justin, rất bực mình. Alex trở thành phù thủy toàn diện trong " nhưng sau dó dùng Viên đá Mơ để quay ngược thời gian và trở về thời còn là một học sinh. Trong tập cuối của phim, khi Justin thắng cuộc, anh ấy đã nói sự thật là đáng lý Alex phải thắng nhưng Alex đã trở lại giúp Justin khi Justin vì thế mà Alex không thắng trong cuộc thì. Sau đó Alex trở thành phù thủy của nhà Russo. Justin cũng được giữ lại năng lực phù thủy vì anh ấy trở thành Hiệu trưởng của WizTech.
Năm 2008, mặc dù vai trò của Alex là phù thủy trong những tư liệu chính thức, AOL gọi cô là phù thủy thứ 20 trong lich sử truyền hinh. Selena Gomez, thủ vai Alex, là một trong hai vai trò đã xuất hiện trong mọi khúc của seri; vai còn lại là David Henrie, người thủ vai Justin Russo. Alex cũng có xuất hiện trong "The Suite Life on Deck".
Tính cách.
Alex là con thứ hai và là con gái duy nhất trong gia đình Russo. Cô hay cãi lại và chơi khăm anh trai của mình, Justin Russo. Nhưng cô làm như vậy vì cảm phục Justin và muốn được giống như anh trai mình. Justin là người tử tế và thông minh. lý do cô ấy đối xử không tốt với anh trai mình bởi vì cô ấy muốn được yêu mến và sợ bị ghét bỏ. Alex ương ngạnh với gia đình nhưng cuối cùng chuyện đâu cũng ra đấy.
Alex có thể hơi hiểm. Bạn thân từ nhỏ của Alex là Harper Finkle (Jennifer Stone); Harper luôn luôn giữ để Alex không bị rơi vào tình thế khó khăn và cũng là quân sư của Alex. Alex đã nói rằng Harper giống như chị gái của cô.
Tuy là Alex làm khổ Justin, hai anh em rất gần gũi với nhau hơn mọi người khác trong toàn bộ bộ phim. Alex hay dùng phép thuật để giải quyết mọi vấn đề của cô ấy và luôn luôn tạo thêm vấn đề. Alex học thì tệ nhưng rất giỏi về nghệ thuật. Nghệ thuật là môn mà Alex thích nhất, thích đến nỗi trở thành phụ giáo nghệ thuật.
Alex và Justin là hai thái cực; Justin thì có trách nhiệm, sáng suốt và e ngại với phép thuật của Alex. Alex thì làm biếng, vô tư, thích mỉa mai, cứng đầu và có thành kiến với mọi người. Alex lo lắng khi thấy Justin làm được nhiều chuyện với sự chịu khó và tinh thần trách nhiệm. Trong phim, Alex nói Justin là người mà cô muốn trở thành, còn Justin thì nói là anh ghét vì thấy mọi chuyện đối với Alex đều dễ dàng trong khi anh ta phải chịu khó cố gắng mới trở thành hoàn hảo.
Đức tính tốt.
Mặc dù có nhiều khuyết điểm nhưng Alex không phải là kẻ vô tâm. Nhiều trường hợp Alex rất rộng lượng, trung thành và có lòng trắc ẩn. Các hành động và trò đùa của cô ấy thường không có ác ý. Cô rất lo lắng cho Harper; cô còn tiết lộ cho Harper bí mật của cô trong "Harper Knows"" vì mặc cảm tội lỗi. Alex cũng rất yêu thương Justin mặc dù hai anh em luôn luôn chống đối nhau. Alex cảm thấy mặc cảm về hành vi của mình và đã xin lỗi nhiều lần. Nhiều lần, Alex cố gắng hết sức làm mọi việc để sửa chữa lại những hậu quả tai hại của việc mà mình đã làm.
Mặc dù những trường hợp này rất hiếm, Alex thỉnh thoảng sử dụng phép thuật với mục đích tốt. Alex có ý thức mạnh mẽ về công lý và ghét những người "giả tạo". Trong Phần 3, Alex ít khi là nguyên nhân gây ra các vấn đề về phép thuật, thay vào đó thường là người giải quyết chúng, mặc dù cô ấy luôn là người đầu tiên bị đổ lỗi khi phép thuật khiến tình huống trở nên rắc rối. Alex bắt đầu hẹn hò với Mason (Gregg Sulkin), một người sói mà Alex yêu. Alex bỏ cuộc tranh tài phù thủy và trở thành người phàm sau khi quyết định là cô không thể thắng được. Nhưng điều này trái với luật phù thủy, vì cô ta là người phàm nhưng Mason thì không.
Do đó, Alex quyết định không từ bỏ cuộc thi để mình và Mason có thể ở biên nhau. Alex được vinh danh là Phù thủy của năm vì đã cứu thế giới phù thủy khỏi các thiên thần bóng tối, điều này cũng đưa cô trở lại cuộc thi phù thủy. Khi hiểu lầm giữa Alex và Mason, Mason đã phá hỏng bữa tiệc "Phù Thủy của Năm" của Alex, sau đó cô ấy quyết định rằng cô và Mason nên dừng lại. Tuy nhiên, Mason cứu Alex khi cô bị kẹt trong Tam Giác Bermuda; Alex nhận ra rằng họ không thể xa nhau và cặp đôi quay lại với nhau.
Cuối series, tại cuộc thi Phù Thuỷ Gia Đình, Alex dẫn đầu trong vòng cuối của cuộc thi. Justin ở vị trí thứ hai, và bị kẹt trong một đám rễ cây. Alex không muốn chiến thắng một cách không công bằng nên quay trở lại để cứu Justin. Justin chạy về đích đầu tiên nhưng anh nói với Giáo sư Crumbs rằng Alex đã quay trở lại để giúp anh và anh không xứng đáng thắng cuộc thi. Anh cảm thấy không vướng bận và giao chức 'Phù Thủy Gia Đình' cho Alex.
Sắc diện.
Màu tóc của Alex màu nâu đậm. Alex có khi tóc dài, có khi tóc ngắn, có khi tóc thẳng, có khi tóc quăn. Lúc đầu, tóc của Alex thẳng và dài và cô kẹp tóc. Đôi khi tóc Alex xõa dài để qua một bên. Có khi tóc Alex ngắn và quăn. Alex luôn luôn vẽ mắt và dùng một ít son môi. Alex hay mặc váy hoặc áo sơ mi dài. Về sau Alex mặc áo đầm hoặc quần jeans, áo thun.
Tình thân.
Gia đình.
Alex sống với Jerry Russo (cha), Theresa Russo (mẹ), Justin Russo (anh), và Max Russo (em trai). Theresa là một người tử tế và người mẹ biết chăm lo cho gia đình nhưng đôi khi Alex nghĩ bà khắt khe. Alex rất gần gũi với cha; cha cô dễ dãi với cô hơn là mẹ cô. Justin khác xa với Alex như một trời một vực nên hai anh em không hòa thuận với nhau. Em trai Max thì hơi ngông và sáng tạo, do đó Max và Alex không gắn bó với nhau cho lắm. Nhiều lần, Alex rất bức xúc với gia đình mình. Nhưng cuối cùng thì Alex cũng nhận ra mình rất thương yêu gia đình.
Bạn bè.
Harper Finkle là bạn tốt nhất của Alex và cũng gần như là người chị của Alex. Harper ăn mặc hơi quái dị và độc đáo. Khi gặp khó khăn Alex nhờ đến sự cố vấn của Harper. Harper luôn luôn lo lắng cho Alex. Alex cũng rất lo lắng cho Harper nhưng ít khi bày tỏ ra mặt. Mặc dù Alex và Harper đôi khi gây gổ nhưng cuối cùng luôn luôn làm hòa với nhau. Harper rất buồn khi Alex làm bạn với Stevie, một cô phù thủy trẻ. Về sau Alex biết được ý đồ đen tối của Stevie và Alex xin lỗi Harper. Trong một tập phim Harper có ý định làm thân với Gigi, một cô gái kênh kiệu có ý đồ làm bẽ mặt Harper ở bữa tiệc của cô ấy. Alex muốn cản ngăn Harper nhưng Harper không đồng ý với Alex vì nghĩ Alex ghen tị. Nhưng cuối cùng Alex cũng phanh phui mưu đồ của Gigi ra cho Harper thấy, khiến Alex và Harper thân nhau thêm. | 1 | null |
Cá voi đầu bò lùn (danh pháp hai phần: "Caperea marginata") là một loài cá voi tấm sừng hàm, thành viên duy nhất của họ Neobalaenidae. Đầu tiên mô tả bởi John Edward Gray vào năm 1846, nó là loài nhỏ nhất của cá voi tấm sừng hàm, dài từ 6 m-6,5 m và nặng từ 3.000 và 3.500 kg. Mặc dù tên của nó, cá voi lùn phải có thể có nhiều điểm chung với các con cá voi xám và cá voi Balaenopteridae hơn so với những con cá voi đầu cong và cá voi Eubalaena.
Các cá voi lùn phải được tìm thấy ở vùng biển phía Nam trong đạt thấp hơn ở Nam bán cầu, và ăn copepodae và euphausiidae. Ít thông tin về dân số hay thói quen xã hội của chúng. Không giống như hầu hết các cá voi tấm sừng hàm, nó hiếm khi bị con người khai thác. | 1 | null |
Astronotus ocellatus là một loài cá thuộc họ Cá hoàng đế. Ở Nam Mỹ, nơi nó sống tự nhiên,Tên Khoa Học là " A.ocellatus" thường tìm thấy tại các chợ địa phương như một món ăn. Loài cá này cũng được du nhập tới các vùng khác trên thế giới,gồm Trung Quốc,Úc,Hoa Kỳ,Việt Nam...Nó là cá cảnh phổ biến ở Hoa Kỳ.
Phân loại.
Loài này ban đầu được mô tả bởi Louis Agassiz năm 1831 như "Lobotes ocellatus", Agassiz tưởng nhầm loài này sống ở biển; sau đó sửa lại thành chi "Astronotus". Loài này cũng có một số danh pháp đồng nghĩa: "Acara compressus", "Acara hyposticta", "Astronotus ocellatus zebra", và "Astronotus orbiculatus".
Phân bố.
"A. ocellatus" có nguồn gốc ở Peru, Ecuador, Colombia, Brazil, và Guiana thuộc Pháp, sống ở lưu vực sông Amazon, hệ thống sông Amazonas, Içá, Negro, Solimões, và Ucayali, hệ thống thoát nước sông Approuague và sông Oyapock cũng có loài này. Quần thể hoang dã cũng xuất hiện ở Trung Quốc, miền nam Úc, và Florida, Hoa Kỳ do người nuôi cá cảnh thả ra. Loài này không chịu được nhiệt độ nước quá thấp, nếu lạnh hơn 12.9 °C (55.22 °F) thì chúng sẽ chết. | 1 | null |
Lampetra fluviatilis là một loài cá không hàm thuộc họ Petromyzontidae. Loài này được tìm thấy ở các vùng biển ven bờ bao quanh gần như toàn châu Âu từ phía tây bắc Địa Trung Hải về phương bắc đến các hồ của Phần Lan, Scotland, Na Uy (hồ Mjosa), Wales (Cors Caron) và Nga, bao gồm cả sông ở Alps. Nó là ký sinh trùng của cá. Nó bám vào hông hay mang của cá nhờ giác hút và bắt đầu ăn vào bên trong. "Lampetra fluviatilis" có một chu kỳ sinh sản giống như của cá hồi. | 1 | null |
Cá mút đá biển (danh pháp hai phần: Petromyzon marinus) là một loài cá sống ký sinh thuộc họ Petromyzontidae. Loài này được tìm thấy ở bờ biển Đại Tây Dương của châu Âu và Bắc Mỹ, ở phía tây Địa Trung Hải, và Ngũ Đại Hồ. Nó có màu nâu, xám hoặc đen trên lưng và màu trắng hoặc màu xám ở mặt dưới và có thể phát triển đến độ dài lên đến 90 cm. Cá mút đá biển sống ký sinh trên nhiều loại cá. Các cá mút đá sử dụng tách như hút của nó miệng để tự gắn vào da của một con cá và nạo mô cá chủ bằng lưỡi và răng kertin sắc của nó. Dịch tiết trong miệng của cá mút đá ngăn chặn máu của nạn nhân không bị đông. Nạn nhân thường chết vì mất máu quá nhiều hoặc nhiễm trùng.
Phân bố và môi trường sống.
Loài này được tìm thấy ở phía bắc và phía tây Đại Tây Dương dọc theo bờ biển của Châu Âu và Bắc Mỹ, ở phía tây Biển Địa Trung Hải, Biển Đen, và ở bờ biển Ngũ Đại Hồ. Chúng được tìm thấy ở độ sâu 4000 m và chịu được nhiệt độ . Chúng là loài bản địa lưu vực sông Connecticut ở Hoa Kỳ.
Các quần thể cá mút đá biển lớn nhất ở châu Âu nằm trên khắp các khu vực phía tây nam của châu Âu (bắc trung bộ Bồ Đào Nha, bắc tây bắc của Tây Ban Nha và tây-tây nam của Pháp). Các quốc gia này cũng cung cấp nguồn cá chính cho chúng. | 1 | null |
Gustavo Lucas Domingues Piazón thường được gọi ngắn là Lucas Piazón (sinh ngày 20 tháng 1 năm 1994 tại São Paulo, Brasil) là một cầu thủ bóng đá Brasil đang chơi ở vị trí hộ công hay tiền đạo cánh cho câu lạc bộ Reading ở Giải Vô địch Bóng đá Anh theo một bản hợp đồng cho mượn từ Chelsea. Anh thi đấu ở vị trí hộ công nhưng cũng có thể thi đấu ở vị trí tiền đạo cánh và tiền vệ công. Vì vị trí thi đấu lẫn lối chơi ngay cả khuôn mặt của anh gần giống Kaká nên anh có biệt danh là "Kaká mới"
Bắt đầu sự nghiệp.
Gustavo Lucas Domingues Piazón sinh tại São Paulo, có bố tên là Antonio Carlos Piazón và mẹ Marizabel Domingues. Anh lớn lên cùng với người em là Juliana trẻ hơn anh 3 tuổi, hồi nhỏ anh là một cổ động viên cuồng nhiệt cho Chelsea và cũng mong muốn 1 ngày được thi đấu tại đây.
Lúc anh lên 8 tuổi, cả gia đình anh đã chuyển sang bang Paraná sinh sống nhưng anh vẫn phát triển sự nghiệp bóng đá tại môn bóng đá Futsal. Piazón bắt đầu với CLB Coritiba Futsal Club. Năm 11 tuổi, anh chuyển sang thi đấu tại sân mini.
Sự nghiệp câu lạc bộ.
Chelsea.
Đội trẻ.
Đầu năm 2011, Chelsea đã bất ngờ có được anh sau khi giành chiến thắng trước CLB Juventus trong thương vụ chuyển nhượng này nhưng anh vẫn chưa chính thức đến Chelsea vì lúc đó anh chưa đủ 18 tuổi để chuyển sang thi đấu cho 1 CLB ngoại quốc. Tuy nhiên 15/3/2011 anh vẫn được đặc cách và thi đấu cho đội trẻ của Chelsea. Dù tháng 1/2012 anh mới được nhận visa ở nước ngoài nhưng cuộc đàm phán vẫn diễn ra vào hè năm 2011, Chelsea phải trả 5 triệu bảng cho São Paulo và cũng có thể tăng lên thành 10 triệu theo điều khoản hợp đồng
Anh bắt đầu chơi cho đội dự bị đầu mùa giải 2011 và có trận đầu tiên trước đội dự bị Fulham. Anh có bàn thắng đầu tiên trong trận đấu gặp đội dự bị Arsenal. Anh đã cùng đội trẻ Chelsea giành vô địch FA cup dành cho đội trẻ sau khi giành chiến thắng trước đội trẻ Blackburn Rovers
Đội một.
Ngày 20 tháng 1 năm 2012, Piazón chính thức tròn 18 và cũng chính thức có visa ở nước ngoài, vậy với tuổi của anh thì có thể chơi cả đội dự bị lẫn đội một. 6 ngày sau, anh được gia hạn hợp đồng tới năm 2017, anh sẽ được mặc áo số 35. Anh được ngồi dự bị trong các trận hòa 1-1 trước Swansea City và trận hòa 3-3 trước Man United. Anh cũng đã ngồi dự bị trong trận thắng 2-1 trước Blackburn Rovers tại vòng 38 nhưng cũng không được ra sân.
Mùa giải 2012-2013.
Ngày 23 tháng 7, trong chuyến du đấu ở Mỹ, anh đã có một bàn thắng cho Chelsea trong trận giao hữu hòa 1-1 trước CLB PSG.
Piazón đã được cho ra sân lần lượt trong trận thắng 6-0 trước Wolverhampton Wanderers và thắng 5-4 trước Manchester United tại Cúp Liên đoàn bóng đá Anh.
23 tháng 12, anh có trận đấu chính thức đầu tiên cho Chelsea tại giải Ngoại hạng Anh trong trận thắng hủy diệt 8-0 trước CLB Aston Villa. Trong trận này, anh đã có một pha kiến tạo để cho Ramires ghi bàn và một quả sút hỏng penalty ở những phút cuối cùng.
Cho mượn tới Málaga.
Tháng 1 năm 2013 Piazón chuyển sang thi đấu cho câu lạc bộ Málaga ở La Liga theo bản hợp đồng cho mượn.
Cho mượn tới Vitese.
Ngày 9 tháng 8 năm 2013, anh được cho mượn tới câu lạc bộ Vitesse đang chơi tại giải hạng nhất Hà Lan tới hết mùa giải.
Ngày 22 tháng 9,anh lập cú đúp trong trận thắng PEC Zwolle 3-0. Một tuần sau,anh có bàn thắng đầu tiên tại giải vô địch quốc gia Nga khi ghi bàn ấn định chiến thắng 2-1 trước NEC Nijmegen.
Đội tuyển quốc gia.
Anh được triệu tập vào đội U-17 Brasil để thi đấu tại Giải vô địch bóng đá U-17 thế giới 2011, anh đã thi đấu rất xuất sắc tại giải đấu này cho dù đội không giành được chức vô địch. | 1 | null |
Nguyễn Thị Ngọc Diễm (chữ Hán: 阮氏玉琰, 1721-1784), là thứ phi của chúa Trịnh Doanh, mẹ Trịnh Sâm, bà nội của Trịnh Khải và Trịnh Cán.
Tiểu sử.
Thân thế.
Bà có tên húy là Nguyễn Thị Khương, quê ở làng Linh Đường, huyện Thanh Trì, phía Nam kinh thành Thăng Long. Ngôi làng xưa thuộc xã Linh Đàm, sau đổi thành xã Hoàng Liệt, huyện Thanh Trì, trong gia đình co cha là Nguyễn Luân (1686 - 1739), tên tự là Đình Anh hay Đình Tư.
Nguyễn Đình Tư sinh được 6 người con, 3 trai 3 gái thì con trai đều được phong làm Quận công, con gái đều làm phu nhân đại thần. Cha bà thấy Trịnh Doanh thông minh, chăm học, trầm tĩnh và có chí khí, rất nhiều triển vọng lên ngôi chúa thay cho người anh trai hoang dâm tửu sắc Trịnh Giang, nên đã tiến cung con gái mình. Từ đó bà trở thành Thứ phi của chúa Trịnh Doanh và được ban mỹ hiệu là Hoa Dung.
Với công lao và tài trí, Nguyễn Đình Tư được triều đình phong cho nhiều tước vị cao: Tiền tả tư giảng, Bồi tụng, Thượng thư bộ Công, tước Nam quận công. Ông còn là bạn kết giao với nhiều danh sĩ như Hoàng giáp Ngô Thì Sĩ; Thượng thư Nguyễn Công Cơ, Thượng thư Nguyễn Công Thái, Hoàng giáp Nguyễn Quý Ân, Đỗ Thế Giai... Tư thất của ông là nơi mọi người thường đến thưởng hoa, ngâm thơ, bình văn xướng họa nên nhà ông được gọi là "Nguyễn môn đào lý" (vườn đào, tài trí, thơ văn nhà họ Nguyễn).
Tham vọng quyền lực.
Khi Trịnh Doanh nối ngôi cha, bà đã dâng kế sách “Ngũ qui” (mọi việc qui vào năm rường mối), Chúa khen hay, lấy làm rường cột cải tổ triều chính. Đi kinh lý, Chúa nhờ bà buông rèm trông coi việc triều. Bà được thỏa chí thi thố tài năng tạo phúc cho trăm họ.
Dù Thứ phi Hoa Dung đã hạ sinh được con trai trưởng là Trịnh Sâm, nhưng khi ấy, chúa Trịnh Doanh đang sủng ái người vợ họ Nguyễn Mậu ở Thanh Hóa và đã phong bà này làm Chính phi; bà Hoa Dung chỉ được phong Trường cung. Chính phi họ Nguyễn chỉ sinh được một con gái là Tiên Dung quận chúa và được chúa Trịnh Doanh hứa gả cho Thái tử Lê Duy Vỹ. Thái tử có chí nhất thống, lật đổ binh quyền nhà chúa, nên bị thế tử Trịnh Sâm ghen ghét.
Một hôm, thái tử và thế tử cùng ở phủ đường được chúa Trịnh Doanh ban cho ăn cơm và bảo cùng ngôi một măm, lúc ấy Chính phi Nguyễn thị can rằng:
Sâm đổi nét mặt, bước ra về, nói với người ngoài rằng
Vương Thái phi.
Năm Quý Dậu (1753), Trịnh Sâm chính thức được lập làm Thế tử. Sau khi Trịnh Doanh mất (1767), trong thời gian đầu khi Trịnh Sâm lên nối nghiệp chúa, bà Hoa Dung rất quan tâm giúp đỡ con mình, Trịnh Sâm tôn bà là Vương Thái phi, còn vua Lê Hiển Tông ban Kim sách (sách vàng), một ân huệ đặc biệt cao quý và phong bà làm Quốc Thánh mẫu.
Những năm sau khi bà Chính phi và Chúa Trịnh Doanh lần lượt qua đời, ở đỉnh cao quyền lực, bà Hoa Dung vẫn đau khổ và căm phẫn Chính phi đã mất đến nỗi hận lây cả con rể là Thái tử Duy Vĩ. Khi Trịnh Sâm thực hiện hành động trả thù truy bức Thái tử Lê Duy Vỹ một cách vô cùng dã man thì Thứ phi Hoa Dung đang giúp con điều hành triều chính, đã không có ý kiến gì can ngăn. Sau khi Trịnh Sâm nối ngôi, mượn việc khác mà vu tội, phế truất và sát hại thái tử Duy Vĩ.
Sách "Việt sử thông giám cương mục" chép lời phê của vua Tự Đức:
Cũng theo "Việt sử thông giám cương mục", sau khi Duy Vĩ bị truất, Duy Cận là con thứ tư của nhà vua, ra vào phủ Chúa Trịnh, tôn thờ mẹ Trịnh Sâm rất kính cẩn. Bấy giờ hoàng tử thứ tư Duy Cận có quan hệ thân thiết với Nguyễn Thái phi, nên được chọn lên thay làm thái tử.
Bà có những ảnh hưởng nhất định đến việc cai trị của chúa lúc mới nắm quyền, bấy giờ: " chúa Trịnh Sâm hăng hái làm việc, chán thói cẩu thả từ trước, mong có biến thông cổ vũ thực hành chính sự đổi mới" .
Sử sách đánh giá chính sự thời Trịnh Sâm có nhiều tiến bộ tích cực nhưng về sau, vì ông quá say mê sắc đẹp của Tuyên phi Đặng Thị Huệ mà dần bỏ bê việc nước, rồi cho phế con trưởng lập con thứ, lập con thứ Trịnh Cán làm Thế tử. Nhận thấy nguy cơ của sự bất ổn, bà Hoa Dung đã nhiều lần can ngăn nhưng không được Trịnh Sâm nghe theo, bà chán nản rời phủ chúa về sống ở quê Linh Đường, giúp làng sửa đình, chùa, cày cấy, dệt lụa, làm nhiều việc thiện cho dân.
Cụ thể, khi Trịnh Sâm quá mê mẩn Đặng Thị Huệ, muốn bỏ con lớn, lập con nhỏ, thì bà đã vào cung, nói cho Chúa biết điều hơn lẽ thiệt:
Chính biến.
Trịnh Sâm mới tâu với nhà vua lập Trịnh Cán mới 5 tuổi làm thế tử, dùng quận Huy Hoàng Đình Bảo nuôi dạy (1781). Chúa ngã bệnh, ngày càng nguy kịch. Quốc mẫu Hoa Dung hoảng sợ, thường vào cung chăm sóc. Khi Chúa lâm chung, sai thảo cố mệnh đưa Trịnh Cán lên ngôi. Bà đau lòng vì sắp phải vĩnh biệt đứa con độc nhất, nhưng vẫn rất tỉnh táo, bảo đưa chiếu cho xem. Rồi tự tay bà dùng bút son phê: "Không phải bút rồng của tiên vương, không đủ làm bằng"”.
Nhưng tình thế không thể đảo ngược. Phe cánh Thị Huệ áp đảo vì Quận Huy nắm binh quyền đã ngả theo, Trịnh Cán đang thoi thóp trên giường bệnh, vẫn lên ngôi chúa. Thị Huệ và Quận Huy cùng nhiếp chính.
Đầu năm 1783, lính kiêu binh phò thái tôn Duy Khiêm, con thái tử Duy Vĩ về cung. Thái phi sợ Duy Cận mất ngôi thái tử, bèn sai hoạn quan là Liêm Tăng đến bắt ép thái tôn sang chầu, để toan bí mật giết đi. Khi thái tôn đang đi thì bị quân tuần sát ngăn lại. Các quân lính phát hiện âm mưu, la hét ầm ĩ, lùng tìm Liêm Tăng không được, ngờ là Duy Cận chủ mưu. Lúc ấy, Duy Cận đương chầu Trịnh thái phi, nghi trượng để ngoài cửa phủ đường, quân sĩ đều đập phá tan nát. Duy Cận phải thay đổi quần áo đi lẻn về cung. Nhà chúa biết việc này là do thái phi gây ra, nhân dụ dỗ quân sĩ chớ làm huyên náo, rồi lập tức hạ lệnh cho bầy tôi trong triều xin nhà vua lập Duy Khiêm làm hoàng thái tôn, truất Duy Cận làm Sùng Nhượng công.
Sau này, khi quân Tam phủ mưu lật Trịnh Cán để đưa Trịnh Khải lên ngôi chúa, đã xin ý chỉ của Quốc mẫu thì bà đã đồng ý ngay và ra lệnh cho Quận Huy công Hoàng Đình Bảo hãy để Trịnh Khải nắm quyền. Khi Quận Huy không chịu nghe theo thì bà đã để mặc cho quân Tam phủ giết; phế Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ. Tất cả các bước như xin chỉ dụ của Quốc mẫu, rồi tâu lên nhà vua phong Khải làm vương đều có ý kiến và bút phê của Quốc mẫu Hoa Dung. Lên ngôi chúa, Trịnh Khải đã tôn phong bà là Thánh Từ Thái Tôn Thái Phi.
Bà lâm bệnh rồi mất vào ngày 28 tháng 7 năm Giáp Thìn (1784), thọ 65 tuổi vào thời điểm khi mà cơ nghiệp nhà chúa sắp tiêu vong trước cơn bão táp của phong trào Tây Sơn. Năm Bính Ngọ (1786), quân Tây Sơn tiến ra Thăng Long phò Lê diệt Trịnh. Trịnh Khải phải bỏ kinh thành chạy lên phía Bắc, rồi bị bắt và tự sát.
Linh cữu của bà được đưa về an táng tại chân núi Mông Cù (còn có tên là Bút Sơn) ở làng Đa Bút, huyện Vĩnh Lộc, xứ Thanh Hóa. Lăng Hoa Dung được xây bằng đá, dân gian trong vùng gọi là "lăng bà Quốc mẫu" hay "lăng bà Trịnh". Việc chủ trì tế lễ khi khánh thành lăng do đại thần, Tiến sĩ Phan Huy Áng làm chủ tế; còn việc phụ trách, điều hành việc xây dựng lăng do con trai ông là quan Đốc đồng Thanh Hóa, Tiến sĩ Phan Huy Ích đảm nhiệm.
An táng.
Khu lăng mộ Thứ phi Hoa Dung được hoàn thành vào tháng 11 năm Giáp Thìn (1784). Trong tác phẩm Dụ Am thi văn tập của mình, Phan Huy Ích có bài thơ lại ghi việc làm lễ sơn lăng cho bà, có đoạn viết:
Phía trước lăng mộ có dựng tượng 12 võ quan tạc bằng đá nguyên khối, đứng nghiêm trang, kính cẩn thành hai hàng. Đầu tượng đội mũ tròn, mình mặc giáp trụ dài có viền nhiều lớp, chân đi giày chiến kiểu hia cao đường bệ, một tay cầm kiếm, tay còn lại đặt trước ngực như nguyện bảo vệ sự yên giấc của bà Hoa Dung. Ngoài ra, còn hai bức tượng phỗng đá đầu to có ngắn, tóc búi quả đào, mắt lồi, mũi dô, miệng rộng với ý nghĩa là những người hầu cận.
Tượng được tạo tác trong tư thế quỳ chầu đợi lệnh, hai chân quặp ra phía sau, hai tay khoanh trước ngực. Cách lăng mộ không xa còn có ngôi miếu nhỏ thờ tự bà Thứ phi Hoa Dung, phía trước miếu có phiến đá đề dòng chữ Hán: "Thiên tiên quốc thánh mẫu". | 1 | null |
Jindo - Hán-Việt: Trân Đảo (Đảo Trân châu) - là hòn đảo lớn thứ ba của Hàn Quốc. Nó cùng với một số nhóm đảo và đảo nhỏ khác cấu thành nên huyện Jindo, thuộc tỉnh Nam Jeolla. Đảo Jindo được ngăn cách khỏi đất liền bởi eo biển Myeongnyang, đảo và đất liền được nối với nhau bởi cây cầu treo dài nhất của Hàn Quốc kéo dài 484 mét. Năm 1597, đô đốc Yi Sun-sin của Nhà Triều Tiên với quân số ít ỏi đã đánh bại hạm đội Nhật Bản (với số lượng đông hơn nhiều) trong trận Myeongnyang.
Lịch sử.
Đảo Jindo có sự xuất hiện của con người từ thời tiền sử. Năm 995, được gọi là Haeyangdo, sau đó đổi tên thành huyện Okju và trở thành một trong 14 bang hành chính của Triều Tiên. Năm 1001 đảo Okju được đổi tên thành Jindo và tồn tại cho đến ngày nay. Trong cuộc xâm lược của quân Mông Cổ vào Triều Tiên (1231-1270), đảo trở thành nơi trú ẩn cho các lực lượng nổi loạn Sambyeolcho. Tuy nhiên, năm 1271, quân Mông Cổ chiếm được hòn đảo và xóa bỏ tất cả các khu định cư. Người dân trở lại đảo sau cuộc xâm lược Mông Cổ đã liên tục bị đe dọa bởi cuộc xâm lược cướp biển Nhật Bản, và do đó các hòn đảo gần như không có người ở trong suốt thế kỷ 14.
Ngày 16.9.1597, trong cuộc chiến tranh Bảy Năm với Nhật Bản, đô đốc nhà Triều Tiên là Yi Sun-sin đã có một chiến thắng quyết định trong trận Myeongnyang diễn ra tại eo biển Myeongnyang. Với 13 tàu chiến loại panokseons và khoảng 200 người, ông đã đánh bại hạm đội Nhật Bản với 133 tàu chiến và 200 tàu hỗ trợ. | 1 | null |
Thuyết động học mô tả một chất khí là tập hợp của một số lượng lớn các hạt siêu vi (nguyên tử hoặc phân tử), các hạt này đều chuyển động nhanh không ngừng và có sự ngẫu nhiên trong những lần chúng va chạm với nhau và với tường của vật chứa.
Khí lý tưởng.
Khí lý tưởng là khí mà các phân tử là những chất điểm, chuyển động hỗn loạn không ngừng và chỉ tương tác với nhau khi va chạm. Từ khí lý tưởng, ta có thể suy ra gần đúng tính chất của các khí thực được gọi là khí lý tưởng:
Phương trình trạng thái khí lý tưởng.
Thực nghiệm cho thấy, nếu ta chứa 1 mol của nhiều chất khí trong bình cùng thể tích, nhiệt độ thì áp suất đo được gần như tương đương. Mật độ của các phân tử khí càng nhỏ thì sự chênh lệch áp suất đo được càng nhỏ. Khi mật độ các phân tử đủ nhỏ, mọi chất khí tuân theo Phương trình trạng thái khí lý tưởng.
trong đó:
Sử dụng phương trình này, ta có thể suy ra nhiều tính chất của khí thực một cách đơn giản.
Tính chất.
Áp suất và động năng.
Theo thuyết động học, áp suất được tạo ra từ lực các hạt tác động lên thành bình.. Xét một khối khí của N hạt, khối lượng m, chứa trong một bình lập phương thể tích V = L3. Khi một phân tử khí va chạm vuông góc với thành bình theo trục x và nảy lại với cùng tốc độ (va chạm đàn hồi), thì động lượng thành bình nhận được là:
formula_2
Chất điểm tác động vào một phía xác định của thành bình sau mỗi khoảng thời gian là:
formula_3
(trong đó L là khoảng cách giữa hai phía của thành bình).
Lực do chất điểm tạo ra:
formula_4
Tổng lực tác dụng vào thành bình:
formula_5
Vì chất điểm chuyển động theo hướng ngẫu nhiên nên nếu ta chia vector vận tốc của mọi chất điểm theo 3 hướng vuông góc, thì vận tốc trung bình trên mọi hướng phải bằng nhau.
formula_6
Công thức lực có thể viết lại thành:
formula_7
Lực này tác động lên một diện tích L2. Vì thế áp suất chất khí là:
formula_8
Nhiệt độ và động năng.
Từ Phương trình khí lý tưởng:
formula_9
Trong đó formula_10 là hằng số Boltzmann, và T là nhiệt độ tuyệt đối
Từ công thức formula_11 ta có formula_12
Từ đó formula_13
Thì nhiệt độ T có dạng:
formula_14
Ta suy ra công thức động năng của một phân từ:
formula_15
Động năng của hệ gấp N lần động năng của một phân từ formula_16
Nhiệt độ trở thành:
formula_17
Công thức trên là một kết luận quan trọng của thuyết động học: "Động năng trong bình của phân tử tỉ lệ với nhiệt độ tuyệt đối"
Quãng đường di chuyển trung bình.
Một tham số hữu dụng dùng để mô tả chuyển động ngẫu nhiên của các phân tử là "Quãng đường di chuyển trung bình":
formula_18
Trong đó, λ là khoảng cách trung bình mà phân tử đi được giữa các va chạm. Nó tỉ lệ nghịch với N/V, số lượng phân tử trên một đơn vị thể tích. N/V càng lớn thì xảy ra càng nhiều va chạm, đồng thời Quãng đường di chuyển trung bình của các phân tử cũng ngắn lại.
λ cũng tỉ lệ nghịch với kích thước của phân tử qua đường kính d. Kích thước phân tử càng lớn, quãng đường di chuyển càng ngắn.
Lịch sử.
Năm 1738, Daniel Bernoulli xuất bản Hydrodynamica, đặt nền móng cho Thuyết động học chất khí. Bernoulli thừa nhận lý thuyết vẫn còn được dùng đến ngày nay là chất khí bao gồm rất nhiều các phân tử chuyển động liên tục theo mọi hướng, lực tác động của chúng lên bề mặt tạo nên áp suất, và nhiệt chính là động năng của chuyển động đó. Lý thuyết này đã không được chấp nhận ngay tại thời điểm đó, vì vẫn chưa có Định luật bảo toàn năng lượng, và các nhà khoa học vẫn chưa thể khẳng định sự va chạm giữa các phân tử với thành bình là chuyển động đàn hồi.
Những người tiên phong khác của Thuyết động học Chất khí là Mikhail Lomonosov (1747), Georges-Louis Le Sage (1818), John Herapath (1816) and John James Waterston (1843). Năm 1856 August Krönig, chế tạo một mô hình động học chất khí đơn giản, nhưng chỉ được coi là chuyển động tịnh tiến của chất điểm.
Năm 1857, Rudolf Clausius, độc lập với Krönig, phát triển một mô hình tương tự, nhưng phức tạp hơn rất nhiều. Năm 1859, sau khi đọc tài liệu của Clausius, James Clerk Maxwell xây dựng công thức Maxwell về thống kê vận tốc phân tử. Đây chính là lý thuyết thống kê đầu tiên của Vật Lý. Năm 1871, Ludwig Boltzmann tống quát hóa công trình của Maxwell và tạo nên phân bố Maxwell–Boltzmann.
Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ XX, nhiều nhà khoa học cho rằng Nguyên tử không phải là thực thể mà chỉ được xây dựng hoàn toàn trên lý thuyết. | 1 | null |
Người Áo () là một dân tộc, bao gồm tất cả những công dân chính thức của nước Áo, những người cùng chung cả một cội nguồn và nền văn hoá..
Lịch sử.
Áo là một quốc gia có lịch sử độc lập từ Đức. Vì vậy, tổ tiên người Áo chính là người Đức.
Văn hóa.
Nền văn hóa của Áo đã chịu nhiều ảnh hưởng từ các quốc gia lân cận như Đức, Ý, Hungary, Bohemia...
Âm nhạc.
Thủ đô Viên của Áo từ lâu đã là một trung tâm quan trọng về âm nhạc cách tân. Các nhà soạn nhạc thế kỷ 18 và 19 đã đổ về đây thông qua sự bảo trợ của dòng họ Habsburg và biến Viên thành kinh đô âm nhạc cổ điển của châu Âu. Wolfgang Amadeus Mozart và Johann Strauss, Jr. và nhiều soạn giả vĩ đại khác đã từng đặt chân tới thành phố. Trong suốt thời kỳ văn hóa Baroque, các loại hình văn hóa dân gian của người Slav và người Hungary đã để lại ảnh hưởng lên âm nhạc Áo.
Văn học.
Vốn là mảnh đất của nghệ thuật, Áo đã sản sinh ra nhiều những nhà văn, nhà thơ và tiểu thuyết gia vĩ đại. Đây là quê hương của những tiểu thuyết gia như Arthur Schnitzler, Stefan Zweig, Thomas Bernhard, Robert Musil, và các nhà thơ Georg Trakl, Franz Werfel, Franz Grillparzer, Rainer Maria Rilke, Adalbert Stifter. Các nhà soạn kịch và tiểu thuyết gia đương thời của Áo có Elfriede Jelinek và Peter Handke. Các nhà triết học có Ludwig Wittgenstein và Karl Popper. | 1 | null |
Howard Melton Webb (theo thứ tự tên của vương quốc Anh, sinh ngày 14 tháng 6 năm 1971) là trọng tài (bóng đá) chuyên nghiệp người Anh tham gia công tác chủ yếu ở Giải bóng đá ngoại hạng Anh và là trọng tài của FIFA từ năm 2005.
Webb được ghi nhận nằm trong số trọng tài hàng đầu mọi thời đại bởi Lịch sử và thống kê Liên đoàn bóng đá thế giới và là trọng tài bắt nhiều trận đấu nổi bật ở chung kết FA Cup, Siêu cúp Anh và chung kết Cúp Liên đoàn bóng đá Anh.
Năm 2010, Webb trở thành trọng tài bắt chính đầu tiên trong 2 trận chung kết Cúp các đội vô địch bóng đá quốc gia châu Âu và Giải vô địch bóng đá thế giới trong cùng năm.
Tiểu sử.
Webb được sinh ra với bố mẹ là Sylvia và Billy Webb và lớn hơn ở Rotherham, Yorkshire. Cha của Webb cũng làm công tác trọng tài trong 35 năm.
Đời tư.
Webb có gia đình với ba con. Webb từng là trung sĩ thuộc lực lượng Cảnh sát Nam Yorkshire trước khi chuyển sang nghề trọng tài. Webb cũng được chỉ định là Thành viên Trật tự đế chế Anh (MBE) trong dịp vinh danh năm mới 2011 vì những cống hiến cho bóng đá. Anh hiện là người hỗ trợ cho Rotherham United F.C.. | 1 | null |
Trận chung kết giải vô địch bóng đá châu Âu 2012 được diễn ra vào ngày 1 tháng 7 năm 2012 tại Sân vận động Olympic ở Kiev (Ukraine), để xác định nhà vô địch Euro 2012. 2 đội giành quyền lọt vào trận đấu cuối cùng này là: , đương kim vô địch của giải và Ý, đội đã đánh bại Đức 2–1 trong một trận cầu kịch tính tại bán kết. Tây Ban Nha là đội giành chiến thắng trong trận chung kết. Họ trở thành đội bóng đầu tiên vô địch châu Âu 2 lần liên tiếp và là đội tuyển quốc gia đầu tiên vô địch 3 giải đấu lớn liên tiếp (Euro 2008 và World Cup 2010). Đây cũng là lần thứ 4 trong lịch sử giải vô địch châu Âu, hai đội từng đụng độ ở vòng bảng lại gặp nhau lần nữa trong trận chung kết. Các trường hợp trước đó là vào năm 1988, 1996 và 2004.
Thông thường, đội chiến thắng trong trận đấu này sẽ giành quyền tham dự Cúp Liên đoàn các châu lục 2013 tổ chức tại Brasil. Tuy vậy, do Tây Ban Nha đã được nhận 1 suất nhờ vô địch World Cup 2010 nên Ý, dù đã thua trong trận chung kết, vẫn là đội đại diện cho UEFA tham dự giải đấu trên.
Hành trình đến trận chung kết.
Tây Ban Nha.
Tây Ban Nha mở đầu giải đầu với đối thủ mà số phận đã run rủi họ gặp lại ở trân chung kết, đội tuyển Ý với thế trận bị chia sẻ và dẫn trước ở phút 61; tuy nhiên,chỉ 3 phút sau, Cesc Fàbregas đã lấy lai 1 điểm cho đội tuyển bò tót. Trận tiếp theo vòng bảng là dễ dàng hơn với tỉ số 4–0 trước Ireland, trong đó có 2 bàn của Fernando Torres. Kết thúc vòng bảng với tỉ số 1–0 trước Croatia đã đưa đội lên vị trí số một vòng bảng.
Ý.
Ý mở đầu giải đầu với đối thủ mà số phận đã run rủi họ gặp lại ở trân chung kết, đội tuyển Tây Ban Nha với thế trận bị chia sẻ và dẫn trước ở phút 61 do công của lão tướng Di Natale, nhưng bị gỡ hòa chỉ 3 phút sau đó. Ở trận đấu tiếp theo với Croatia, một lần nữa người Ý lại vượt lên dẫn trước sau cú sút phạt tuyệt đẹp của Pirlo phút thứ 39, nhưng họ một lần nữa không thể giành trọn 3 điểm khi để Croatia gỡ hòa vào phút 72. Bước vào loạt trận cuối, chiến thắng trước Ireland với tỉ số 2–0, cùng với việc Croatia thất thủ 0–1 trước Tây Ban Nha đã giúp Ý lọt vào vòng sau với vị trí nhì bảng
Thông tin trước trận chung kết.
Trước giải đấu, hai đội đã gặp nhau 30 lần, với 10 trận thắng cho Ý và 8 trận cho Tây Ban Nha. Lần cuối 2 đội gặp nhau là trong trận giao hữu Ý thắng 2–1 vào ngày 10 tháng 8 năm 2011, trên sân Stadio San Nicola, Bari. Đội tuyển Ý đã 1 lần vô địch châu Âu vào năm 1968, trong khi Tây Ban Nha cũng đã 2 lần bước lên bục cao nhất, vào năm 1964 và 2008. Năm 2000, Ý lần 2 hai lọt vào trận chung kết nhưng để thua 1–2 trong hiệp phụ tryển Pháp, còn Tây Ban Nha cũng đã từng thất bại với tỉ số 2–0 trước Pháp trong trận chung kết năm 1984. Trước khi Euro 2012 khởi tranh, Tây Ban Nha là đội dẫn đầu Bảng xếp hạng bóng đá nam FIFA còn Ý đứng vị trí thứ 12, và thứ 8 tại châu Âu. Tuy vậy, đội tuyển Ý đã có 4 chức vô địch thế giới (1934, 1938, 1982 và 2006), và 2 lần vào đến chung kết năm 1970 và 1994, trong khi Tây Ban Nha mới chỉ vô địch 1 lần năm 2010.
Sân vận động.
Sân vận động Olympic ở Kiev, Ukraina, sân lớn nhất trong 8 sân vận động chính của Euro 2012, đã được lựa chọn là nơi tổ chức trận chung kết Euro 2012, sau cuộc họp tổ chức tại Ukraina vào ngày 25 tháng 6 năm 2007.
Trước trận đấu, Lễ bế mạc Euro đã được tổ chức và kéo dài trong 12 phút, với màn trình diễn của 600 tình nguyện viên. Ca khúc chính thức của giải đấu, Endless Summer (Mùa Hè bất tận), được thể hiện bởi nữ ca sĩ người Đức, Ocean. Ngoài ra, quốc ca của hai đội tuyển lọt vào trận Chung kết được trình bày bởi Tamara Khodakova and Mykhailo Humenniy, những nghệ sĩ tới từ Học viện Opera thành phố Kiev.
Trọng tài.
Pedro Proença, đại diện của liên đoàn bóng đá Bồ Đào Nha đã được UEFA lựa chọn làm trong tài chính trong trận chung kết Euro 2012. Năm 2003, lần đầu tiên ông trở thành trọng tài quốc tế, cũng trong tháng 6 năm đó, Proença đã cầm còi trận đấu vòng một Intertoto Cup 2003 giữa Žalgiris và Örgryte. Proença đã từng bắt chính 2 trận chung kết UEFA, chung kết giải vô địch bóng đá U19 châu Âu 2004 giữa U-19 Thổ Nhĩ Kỳ và U-19 Tây Ban Nha, và chung kết UEFA Champions League 2012 giữa Chelsea và Bayern Munich. Ông cũng đã bắt chính 9 trận đấu khác ở Champions League, và 18 trận ở UEFA Europa League.
Tổ trọng tài trong trận chung kết ngoài Proença còn có các trợ lý Bertino Miranda, Ricardo Santos, Jorge Sousa, và Duarte Gomes, những người đã làm việc cùng Proença trước đấy trong trận bảng C giữa Tây Ban Nha và Cộng hòa Ireland, trận bảng D giữa Thụy Điển và Pháp, và trận tứ kết giữa Anh và Ý. Trọng tài bàn là trọng tài Thổ Nhĩ Kỳ Cüneyt Çakır, người cũng tham gia điều hành trận tứ kết Anh và Ý.
Trận chung kết.
Đội hình xuất phát.
Tây Ban Nha.
Huấn luyện viên Tây Ban Nha Vicente del Bosque đã lên danh sách đội hình với 11 cầu thủ từng góp mặt ở trận đấu vòng bảng giữa 2 đội và ở trận tứ kết gặp Pháp. Tây Ban Nha xuất phát trong trận chung kết bằng sơ đồ 4-3-3 với chỉ một cuộc tranh luận duy nhất rằng liệu Cesc Fàbregas, vốn là một tiền vệ, sẽ xuất phát ở ví trí cao nhất trong sơ đồ (giống trận gặp Ý và Pháp), hay Del Bosque sẽ chọn Fernando Torres (người đá chính trận gặp Cộng hòa Ireland và Croatia), Álvaro Negredo (người đá vị trí tiền đạo trong trận bán kết gặp Bồ Đào Nha), Pedro Rodríguez (dự bị trận Pháp và Bồ Đào Nha) hay Fernando Llorente.
Hàng phòng ngự Tây Ban Nha với phần lớn cầu thủ Real Madrid bao gồm Iker Casillas trong khung gỗ, Álvaro Arbeloa bên cánh phải và Sergio Ramos ở giữa. Các cầu thủ Barcelona gồm Gerard Piqué hợp cùng với Ramos thành cặp trung vệ và đồng đội mới của anh ở câu lạc bộ, Jordi Alba đá bên cánh trái. Tuyến giữa bao gồm các cầu thủ Xavi và Sergio Busquets của Barcelona và Xabi Alonso của Real Madrid, trấn giữ 2 bên cánh là Andrés Iniesta (cũng của Barcelona) và David Silva của Manchester City – cầu thủ duy nhất trong đội hình không chơi cho Barca hay Real.
Ý.
Trái ngược với sự ổn định chiến thuật của Tây Ban Nha, đội tuyển Ý, do chấn thương và thẻ phạt, đã sử dụng một số đội hình khác nhau trong suốt giải đấu. Tuy vậy, sau 2 trận đấu vòng bảng, huấn luyện viên Cesare Prandelli đã dành sự ưu tiên cho sơ đồ 4–1–3–2 với Andrea Pirlo đá vị trí thấp nhất trên hàng tiền vệ. Anh cũng có khuynh hướng hỗ trợ cặp tiền đạo Antonio Cassano và Mario Balotelli ở phía trên. Tiền vệ Daniele De Rossi trong 2 trận đầu tiên đá vị trí hậu vệ quét, nhưng những trận sau đó anh lại thường xuyên được bố trí đá tiền vệ cánh trái.
Thủ môn Gianluigi Buffon, hậu vệ cánh trái Giorgio Chiellini, và các trung vệ Andrea Barzagli và Leonardo Bonucci là những nhân tố phòng ngự chủ chốt cho một mùa giải Serie A 2011–12 bất bại của Juventus. Hỗ trợ họ bên cánh phải là hậu vệ Ignazio Abate của A.C. Milan, người vừa quay trở lại sau khi lỡ trận bán kết vì chấn thương. Andrea Pirlo, cũng là cầu thủ Juventus, tiếp tục đóng vai trò tiền vệ kiến thiết từ tuyến dưới phía sau người đồng đội Claudio Marchisio bên cánh phải, Riccardo Montolivo của Milan ở giữa và Daniele De Rossi của Roma bên cánh trái. Cassano, cầu thủ Milan, và Balotelli (Manchester City) hợp thành cặp tiền đạo ở tuyến trên.
Tóm tắt trận chung kết.
Trong trận chung kết trên sân Olympic, Kiev, Ukraina. Tây Ban Nha đã giành chiến thắng với tỉ số 4–0 trước Ý. Họ nhanh chóng làm chủ thế trận trong hiệp 1, với 1 bàn thắng ở phút 14 sau pha đánh đầu của David Silva, và 1 bàn ở phút 41 của Jordi Alba. Trong hiệp hai, Ý đã sử dụng hết quyền thay người của mình, với Antonio Di Natale và Thiago Motta được thay vào. Tuy vậy, thi đấu chưa được bao lâu, Motta đã dính chấn thương gân kheo và phải rời sân, buộc Ý phải chơi với 10 người trong phần còn lại của hiệp đấu. Tây Ban Nha sau đó đã nới rộng khoảng cách lên 4–0, với pha lập công của Fernando Torres ở phút 84, và Juan Mata ở phút 88, qua đó giúp Tây Ban Nha bảo vệ thành công chức vô địch châu Âu. Đây cũng là danh hiệu thứ 3 liên tiếp của họ (sau Euro 2008 và World Cup 2010). Gerard Piqué (Tây Ban Nha) và Andrea Barzagli (Ý) bị phạt thẻ vàng trong trận đấu. | 1 | null |
Chiến tranh giành độc lập Ý lần thứ nhất diễn ra từ năm 1848 cho đến năm 1849 giữa Vương quốc Sardegna và Đế quốc Áo. Sau một cuộc khởi nghĩa ở Milano chống lại sự thống trị của Áo, Sardinia tuyên chiến với Áo vào ngày 22 tháng 3 năm 1848. Ban đầu, vua Carlo Alberto của Sardinia được nhiều người cấp tiến ủng hộ, nhưng ông kiên quyết phải sáp nhập vùng Lombardy làm dấy lên những e ngại rằng Alberto chủ yếu quan tâm đến việc mở mang vương quốc mình. Trong khi ấy, Thống chế Áo là Joseph Radetzky von Radetz (81 tuổi) đã tập hợp quân lực và đánh bại đối phương. Cuộc chiến kết thúc với thắng lợi của quân Áo dưới quyền ông, tái chiếm Lombardy-Venetia vãn hồi Đế quốc Áo khỏi nguy cơ giải thể. Chiến thắng của ông được nhìn nhận là đã cổ vũ các lực lượng phản cách mạng trên toàn châu Âu và thể hiện tài năng của ông.
Những thắng lợi của Radetzky trong Chiến tranh giành độc lập Ý lần thứ nhất được xem là giai đoạn nổi bật nhất của các cuộc trấn áp cách mạng năm 1848 của Áo và làm nên tiếng tăm cho ông. Tại Viên, nhà soạn nhạc Áo Johann Strauss, Jr. đã tôn vinh chiến thắng của ông trong trận Custoza (1848) bằng bản "Hành khúc Radetzky" trứ danh. | 1 | null |
<ns>0</ns>
<revision>
<parentid>67536073</parentid>
<timestamp>2022-02-23T01:03:04Z</timestamp>
<contributor>
<username>Phong Lăng</username>
</contributor>
<model>wikitext</model>
<format>text/x-wiki</format>
Sư Thiện Ân (?-1941), hay Đại đức Thích Thiện Ân, là một tu sĩ Phật giáo Việt Nam. Sư cũng là một người tham cách mạng Việt Nam, đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, được Nhà nước Việt Nam truy nhận liệt sĩ năm 1996.
Thân thế và hoạt động.
Sư thế danh là Trần Văn Thâu, hiện chưa rõ năm sinh và xuất thân, chỉ biết đầu năm 1941, Sư là đảng viên Đảng Cộng sản Đông Dương, được Liên Tỉnh ủy Hậu Giang cử cùng một số người đến chùa Tam Bảo ở Rạch Giá, do Hòa thượng Thích Trí Thiền trụ trì, để bí mật hoạt động.
Bấy giờ, chùa Tam Bảo là trụ sở của Hội Phật học kiêm tế, do sư Trí Thiện và sư Thiện Chiếu đồng sáng lập, hoạt động chấn hưng Phật giáo và tuyên truyền chống thực dân Pháp. Chùa cũng là cơ quan liên lạc cho Liên tỉnh ủy Hậu Giang và tàng trữ vũ khí sản xuất tại U Minh chuyển ra, để phân phối đi các nơi. Trên cơ sở hợp pháp của báo Tiến hóa, Sư cùng các đồng chí mình đã cho in ấn nhiều truyền đơn và tài liệu cho Tỉnh ủy Rạch Giá, góp phần gầy dựng lại cơ sở lại sau thất bại của Khởi nghĩa Nam Kỳ.
Tuy nhiên, giữa năm 1941, do có nội gián, mật thám Pháp vây bắt chùa Tam Bảo, Hòa thượng Trí Thiền, Sư và một số người khác liên quan bị bắt, trừ Sư Thiện Chiếu trốn thoát được.
Tại chùa, mật thám Pháp thu được một số tài liệu in ấn và bom tự tạo. Trong quá trình thẩm vấn tại chỗ thì một quả bom phát nổ làm bị thương nhiều người. Báo cáo chính trị của Mật thám Nam Kỳ có ghi lại sự việc này như sau:
Sư cùng với Hòa thượng Trí Thiền và những người liên quan bị giải lên Sài Gòn xét xử. Sư nhận hết tội danh về mình, cùng Phan Văn Bảy và Lưu Nhơn Sâm bị kết án tử hình. Sư Trí Thiện bị án 5 năm biệt xứ lưu đày Côn Đảo và mất tại đây năm 1943.
Vinh danh.
Sau khi Sư và Hòa thượng Trí Thiền bị bắt, chùa Tam Bảo bị đóng cửa, không ai được lui tới. Sau Cách mạng tháng Tám, chùa mới được mở cửa lại. Tăng tín đồ Phật tử và nhân dân tổ chức một lễ cầu siêu lớn tại chùa để cầu nguyện cho Hòa thượng Trí Thiền, Sư và nhiều người khác đã chết.
Sư được Nhà nước Việt Nam truy nhận liệt sĩ năm 1996. Tên Sư được đặt cho con đường trước ngôi chùa Tam Bảo mà Sư từng tu hành (đường Sư Thiện Ân) và một cây cầu tại Rạch Giá. | 1 | null |
Johann Strauss I (14 tháng 3 năm 1804 – 25 tháng 9 năm 1849; ; còn gọi là Johann Baptist Strauss, Johann Strauss, Sr., hay Johann Strauss Cha), sinh ra tại Viên, là một nhà soạn nhạc lãng mạn người Áo nổi tiếng vì các điệu walzer của ông và vì cùng với Joseph Lanner phổ biến hóa chúng, đặt nền tảng cho các con ông kế thừa triều đại âm nhạc của mình. Sáng tác nổi tiếng nhất của ông có lẽ là "Hành khúc Radetzky" (để kỷ niệm chiến thắng của Thống chế Joseph Radetzky von Radetz trong trận Custoza năm 1848), được xem là một bản hành khúc sôi động và lý thú. Trong khi đó, bản walzer nổi tiếng nhất của ông có lẽ là "Lorelei Rheinklänge", nhạc kịch số 154. | 1 | null |
Trung tâm Truyền hình cáp - Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh là đơn vị con của "Công ty TNHH MTV Dịch vụ Kỹ thuật Truyền thông HTV-TMS," trực thuộc "Đài Truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh." Trung tâm cung cấp dịch vụ Truyền hình trả tiền và các dịch vụ giá trị gia tăng trên mạng truyền hình cáp tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh khu vực Nam Bộ.
Lịch sử phát triển.
Ngày 1 tháng 7 năm 2003, Trung tâm Truyền hình cáp - Đài truyền hình Thành phố Hồ Chí Minh (HTVC) đã được thành lập.
Năm 2004, HTVC bắt đầu thực hiện triển khai mạng truyền hình cáp hữu tuyến tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Ngày 19 tháng 5 năm 2005, HTVC chính thức cung cấp dịch vụ truyền hình cáp (hữu tuyến và vô tuyến) tại Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phụ cận. Cùng ngày, HTVC (cùng với Truyền hình Cáp Hà Nội) công bố lần đầu tiên phát sóng kênh Disney Channel (Châu Á) tại Việt Nam.
HTVC cũng là đơn vị đầu tiên trong cả nước triển khai ra mắt dịch vụ truyền hình độ phân giải cao (HDTV) với việc ra mắt dịch vụ truyền hình HDTV trên mạng truyền hình cáp vào ngày 6 tháng 8 năm 2008.
HTVC là đơn vị đầu tiên ở Việt Nam sản xuất một kênh truyền hình chuyên biệt về thông tin kinh tế tài chính (FBNC) bằng công nghệ chuẩn Full HD.
Bên cạnh đó, thông qua việc hợp tác với các nhà cung cấp dịch vụ Internet, HTVC cũng đã cung cấp dịch vụ truyền hình qua mạng Internet (IPTV) và dịch vụ truy cập internet trên mạng truyền hình cáp đến khách hàng.
Từ ngày 1 tháng 1 năm 2013, Truyền hình Cáp HTVC được quản lý bởi Công ty Công ty TNHH MTV Dịch vụ kỹ thuật truyền thông HTV (HTV-TMS). Kể từ đó, HTVC chính thức đưa vào sử dụng, vận hành và hoạt động Trung tâm Chăm sóc Khách hàng 24/7 với đường dây nóng: 19001789.
Ngoài ra, nhằm chủ trương của Chính phủ về việc triển khai Số hóa truyền hình trên toàn quốc, từ ngày 1/3/2014, HTVC đã thực hiện nhiều đợt cắt giảm kênh trên hệ thống Analog và chuyển những kênh này sang dạng số, để khuyến khích khách hàng hiểu rằng Số hóa truyền hình là một xu thế tất yếu.
Hiện tại, HTVC đang cung cấp dịch vụ truyền hình cáp, với 3 gói dịch vụ: Truyền hình Kỹ thuật Số Cơ bản (hơn 130 kênh), Truyền hình Kỹ thuật Số Cao cấp (hơn 100 kênh với gần 70 kênh HD) và Truyền hình Cáp (65 kênh). Ngoài ra, HTVC còn cung cấp dịch vụ truy cập internet trên mạng truyền hình cáp, và dịch vụ truyền hình OTT thông qua ứng dụng HTVC. | 1 | null |
"Mobile" là bài hát thứ năm từ album Let Go của nữ ca sĩ người Canada Avril Lavigne. Bài hát này chỉ được phát hành ở Úc và New Zealand dưới dạng đĩa đơn quảng cáo.
Ca khúc cũng được chọn làm nhạc phim của bộ phim "The Medallion" năm 2003.
Video âm nhạc.
Video được quay trên đường phố Los Angeles vào năm 2003 nhưng đã bị huỷ bỏ và không được phát hành vào thời điểm đó. Sau 9 năm, vào tháng 1 năm 2011, Video này bị rò rỉ trên Youtube, cho thấy rằng Video bị huỷ bỏ khi đang dang dở quay. | 1 | null |
SR-1 Vector (tiếng Nga: СР-1 Вектор) hay Gyurza mã GRAU là 6P53 là loại súng ngắn bán tự động được thiết kế để đáp ứng yêu cầu của lực lượng quân đội Nga về một loại súng ngắn bắn đạn mạnh có tầm sát thương không dưới 50m. Tuy nhiên đến giữa những năm 1990 thì quân đội lại chuyển hướng sang loại đạn 9x19mm nên loại súng này đã bị mất đi sự quan tâm của quân đội nhưng các lực lượng thi hành công vụ lại tỏ ra rất thích thú với loại súng này, kết quả là năm 1996 lực lượng FSB (Lực lượng an ninh liên bang) tiền thân là một phần của KGB cùng các cơ quan khác đã đưa loại súng này vào sử dụng. Đến năm 2003 thì lực lượng cảnh sát và quân đội đã chọn một biến thể của loại súng này là SPS để đưa vào trang bị. Hiện nay loại súng này được sử dụng nhiều trong các lực lượng của FSB và FSO (Lực lượng bảo vệ VIP liên bang Nga).
Thiết kế.
SR-1 sử dụng cơ chế nạp đạn bằng độ giật với cơ chế khóa sau nòng. Nòng súng được khóa cố định vào vị trí bằng một đòn bẩy chống vào khe nằm bên dưới. Lò xo đẩy khối trượt trở về vị trí cũ bao quanh nòng súng. Khung súng được làm bằng thép nửa phần trên và nhựa tổng hợp nửa phần dưới. Súng không có nút khóa an toàn mà thay bằng nút khóa nằm ở sau tay cầm cò súng, xạ thủ sẽ mở nút khóa này bằng cách nắm mạnh vào tay cầm cò súng để bắn còn nếu tay của xạ thủ rời ra khỏi khẩu súng thì súng sẽ ngay lập tức tự khóa an toàn. Cơ chế khóa an toàn này dùng để chắc chắn rằng súng sẽ không tự điểm hỏa khi bị rơi. SR-1 không có bộ phận khóa khối trượt vì thế nó không thể khóa khối trượt ở vị trí kéo về phía sau. Búa điểm hỏa có thể kéo ra vị trí nửa quãng đường lên cò để tăng độ an toàn ở vị trí này cơ chế hoạt động kép của súng sẽ không hoạt động. Hộp đạn rời của súng làm bằng thép có thể chứa 18 viên.
Súng sử dụng loại đạn 9x21mm (SP-10) với lõi thép để xuyên các áo giáp chống đạn hay các vật cản như xe cộ, loại đạn này có thể xuyên 30 lớp Kevlar cùng với 2,8 mm titan trong khoảng cách 100m với tỷ lệ xuyên thủng là gần 100%. Ngoài ra các loại đạn 9x21mm khác cũng được phát triển để sử dụng như đạn không nảy cùng các loại đạn có mức sát thương cao khác. | 1 | null |
Kareena Kapoor (tiếng Hindi: करीना कपूर, phiên âm ; sinh ngày 21 tháng 9 năm 1980), còn có tên thân mật là Bebo, là một nữ diễn viên điện ảnh Bollywood. Trong suốt sự nghiệp của mình, cô được chú ý đến với những vai diễn trong các thể loại phim khác nhau; từ phim tình cảm cho đến phim hài.
Các phim đáng chú ý nhất của cô: Kabhi Khushi Kabhie Gham (2001), Chameli (2004), Dev (2004), Omkara (2006), Jab We Met (2007), 3 Idiots (2009). | 1 | null |
Aamir Khan (tiếng Hindi: आमिर खान, sinh ngày 14 tháng 3 năm 1965) là nam diễn viên điện ảnh, nhà sản xuất kiêm đạo diễn phim người Ấn Độ. Anh được xem là người tiên phong và là một trong những diễn viên hàng đầu của điện ảnh Bollywood.
Ngoài ra anh còn là Đại sứ thiện chí UNICEF tại khu vực Nam Á cùng với Sachin Tendulkar. | 1 | null |
là một bộ manga dài hai tập do Inui Sekihiko sáng tác được đăng trên tạp chí Dengeki Teioh và Dengeki Daioh từ năm 2005 đến 2007. Một bộ OVA sáu tập do hãng Marvelous Entertainment và Bee Train sản xuất dựa trên bộ manga này. Anime được chính thức công chiếu và kết thúc vào năm 2007.
Cốt truyện.
Câu truyện bắt đầu vào ngày 4 tháng Phỉ Thúy, năm 672 kỷ Shandina khi Tiến sĩ Akamashi, nguyên nhà khoa học làm việc cho chính quyền đã phát động một cuộc đảo chính giết chết quốc vương Xenos Forland tại vương quốc Forland. Trước lúc lâm chung vì trọng thương, nhà vua xứ này đã gửi công chúa Alita tới tìm hoàng tử Kaito, người đang dẫn đầu một phái đoàn ngoại giao và hộ tống quân sự ở nước ngoài trở về kế thừa ngôi báu, dẹp loạn phiến quân và trị vì vương quốc. Công chúa trốn khỏi lâu đài và chạy đến một khu rừng nằm trên biên giới của vương quốc.
Trên đường chạy trốn, công chúa đã bị té xuống vực và va phải Falis, một nữ thợ săn tiền thưởng nổi tiếng. Trong lúc cận kề cái chết cả hai đã vô tình bị hoán đổi thân xác cho nhau. Sau khi Falis kết liễu con quái thú gác rừng, Alita thỉnh cầu nữ thợ săn tiền thưởng (lúc này đang dùng thân xác công chúa) quay lại thành chiến đấu bảo vệ vương quốc Forland với cơ thể và linh hồn của chính cô ra làm vật thế chấp. Falis đồng ý và kể từ đó hai người bắt đầu dấn thân vào cuộc hành trình đầy thử thách với trọng trách bảo vệ vương quốc Forland và chiến đấu chống lại các thế lực hắc ám.
Anime.
Một bộ OVA dài sáu tập được Marvelous Entertainment sản xuất và hãng phim Bee Train Production Inc thực hiện vào năm 2007. Đây là sản phẩm đầu tiên do Bee Train sản xuất từ năm 1999 mà không do người sáng lập công ty, Giám đốc điều hành kiêm trưởng phòng nhân sự Mashimo Koichi làm đạo diễn. Mashimo đảm nhận vai trò nhân viên lập kế hoạch. Loạt phim do Urahata Tatsuhiko viết kịch bản. Giám đốc nhân sự của Bee Train Kurokawa Tomoyuki làm Tổng Giám đốc kiêm đạo diễn hoạt họa cùng sự trợ giúp của các đạo diễn khác như Kawatsura Shinya và Kado Tomoaki. Giám đốc nghệ thuật của Production AI Umino Yoshimi và Watanabe Shin là Giám đốc nghệ thuật chính cho các đoạn phim, trong khi Yamashita Yoshimitsu phụ trách thiết kế nhân vật, phần âm nhạc do Fukuda Yasufumi sáng tác.
Nhân vật.
Chính diện.
Là người con thứ hai của đức vua Forland. Ngay từ khi cuộc đảo chính của Akamashi bắt đầu diễn ra, mở đầu bằng cái chết của đức vua Forland. Trước khi băng hà, ông căn dặn Alita hãy băng qua rừng Ereru - đi qua ranh giới của vương quốc, để dòng máu hoàng tộc cuối cùng còn được sống sót. Nghe lời cha, Alita đã chạy trốn khỏi lâu đài cùng với 2 người lính hộ vệ. Tại khu rừng Ereru đầy nguy hiểm, cô đã gặp con quái vật gác rừng - Chitabagu. Quá kinh hãi, công chúa cố gắng chạy khỏi nó và vô tình chạy đến vách núi, ngay tại đó, cô đã gặp Falis và cũng vô tình rớt khỏi vách núi kéo theo Falis cùng xuống. Khi tưởng chừng cái chết đã cận kề, linh hồn của Alita và Falis đã hoán đổi cho nhau. Chứng kiến được khả năng của Falis và đồng đội của cô, Alita đã thỏa thuận với họ hãy cứu vương quốc Forland và lấy chính thân mình làm vật thế chấp. Sau đó, cô trở về vương quốc và giả danh Milano (tên người hầu gái cũ và cũng là bạn thân từ nhỏ đã bị giết chết trong cuộc đảo chính), phục vụ cho Falis - với danh phận hiện giờ là công chúa Forland cho tới lúc người anh trai Kaito trở về nối ngôi.
Là một thợ săn tiền thưởng khét tiếng, Falis và 2 người bạn đồng hành của cô là Dominikov và Pete Armstrong tạo thành một đội săn tiền thưởng mạnh nhất đất nước thậm chí họ đã từng giết chết một con rồng. Trong một lần săn quái vật lĩnh thưởng ở rừng Ereru gần biên giới vương quốc Forland, cô đã gặp công chúa Alita đang chạy trốn và vô tình hoán đổi thân xác với Alita. Sau đó, cô đã chấp nhận thỏa thuận bảo vệ vương quốc Forland của Alita với phần thưởng là bất kì điều gì cô muốn. Khi chiến đấu, Falis dùng kết hợp một thanh đoản kiếm và thanh katana, một kỷ vật do người cha để lại tên (thanh katana này có hình thù y hệt thanh kiếm Nhật có thực cùng tên tương truyền rất được lãnh chúa Uesugi Kenshin thời Chiến Quốc ưa thích và luôn mang theo khi chinh chiến). Trải qua những gian khổ trong quá khứ, Falis đã trở nên mạnh mẽ, kiên cường và hơi chút bốc đồng nhưng cô còn được biết đến là người trầm ngâm, chín chắn với đồng cảm hiếm khi nhìn thấy. Vào lúc đầu, Falis cứ nghĩ Alita là một cô công chúa yếu đuối và ngu ngốc đến mức chẳng tự làm được gì. Nhưng về sau thì cô đã thay đổi suy nghĩ khi nhìn thấy ý chí mạnh mẽ và lòng can đảm của Alita đã thúc đẩy cô giữ vững lời hứa của mình là tiếp tục làm công chúa vương quốc Forland. Falis có mối quan hệ lâu bền với Alita, do đó mà cô vẫn trung thành ngay cả sau khi phát hiện ra sự thật về bí mật hoàng tộc Forland của Alita và rất mực bảo vệ cô công chúa đáng thương này, không ngần ngại tấn công bất kỳ đối thủ nào đe dọa đến tính mạng Alita. Sau khi ngăn chặn thành công việc kích hoạch Teoria, Falis dẫn dắt quân đội hoàng gia Forland đích thân chinh chiến với các nước lân bang mang đến nỗi sợ hãi cho quân đội các vương triều, cùng với thanh katana danh bất hư truyền cùng khả năng chiến đấu bất khả chiến bại mà họ gọi cô là "Murder Princess" ("Công Chúa Sát Thủ").
Là đồng đội của Falis, Dominikov cũng là một kẻ săn tiền thưởng với đặc điểm dễ nhận dạng là trang phục đầu lâu cùng chiều cao rất khiêm tốn (như một đứa trẻ lên 6) và kho kiến thức vô cùng phong phú. Trong manga, Dominikov được giới thiệu là thần chết ("Shinigami" trong tiếng Nhật), còn trong anime lại là một dạng robot sinh học. Vũ khí thường sử dụng là một lưỡi hái dài và chiếc môtô bánh lửa.
Là đồng đội của Falis, Pete có ưu thế nổi trội là sức mạnh cơ bắp và tấm lòng nhân hậu bên dưới lớp da màu tím. Tuy khá chậm chạp và khù khờ, nhưng Pete lại có tấm lòng quan tâm đến mọi người xung quanh (đặc biệt là công chúa Alita).
Vốn là quản gia của Hoàng tộc, Jodo thể hiện mình là người rất nghiêm khắc, suy nghĩ sâu rộng ngay từ tập đầu của anime nhưng bản chất, ông lại rất đỗi tình cảm và dễ chịu. Ông là người đã dạy các lễ nghi của một công chúa cho Falis lúc là công chúa.
Là hầu gái riêng và là người bạn thân thân thiết của công chúa từ nhỏ. Do đó, đối với Alita, cô chiếm một vị trí rất quan trọng và ngược lại, tình cảm của cô đối với Alita cũng thế. Ngoài ra, Milano còn là cháu gái của Jodo. Khi cuộc đảo chính của Akamashi diễn ra, để giúp kéo dài thời gian cho việc tẩu thoát của công chúa, Milano đã cải trang thành Alita và chết trong cuộc đảo chính ấy. Sau này, Alita đã lấy danh tính của Milano và tiếp tục công việc hầu gái của cô như muốn tưởng nhớ bạn của mình. Cũng chính Milano đã tặng Alita con mèo bằng sứ.
Phản diện.
Vốn dĩ là một nhà bác học điên, hắn làm việc cho hoàng tộc và là người chế tạo ra các công nghệ tiên tiến cho vương quốc nhưng tham vọng của con người thường rất lớn, Akamashi cũng không ngoại lệ. Hắn muốn chiếm giữ tiềm năng năng lượng quan trọng của Forland. Sau này, trong cuộc chiến với mụ phù thủy Cecilia để bảo vệ Teoria, Akamashi đã hi sinh.
Là một trong 2 robot vệ sĩ quan trọng của Akamashi, Ana được ông chế tạo dưới hình hài của một cô bé con. Mang dáng vẻ tinh nghịch, láu lỉnh, Ana rất thích hạ nhục đối thủ của mình. Vũ khí của cô thường dùng là bàn tay dao găm, tên lửa..v..v... Ana thường được tiến sĩ Akamashi dùng để truyền đạt lời nói của mình. Ana được xem là người chị trong cặp song sinh robot.
Cũng là một trong 2 robot vệ sĩ quan trọng của Akamashi, Yuna cũng được chế tạo dưới hình hài của một cô bé và có gương mặt giống Ana. Trái với tính cách Ana, Yuna trầm tính, rụt rè và nhút nhát hơn hẳn, nhưng không có nghĩa cô bé sẽ không làm hại được ai. Yuna thường dùng tên lửa và súng ống. Yuna cũng hay được tiến sĩ Akamashi dùng để truyền đạt lời nói của mình nhưng ít hơn Ana. Yuna là người em trong cặp song sinh robot.
Là mụ phù thủy độc ác, Cecilia đã giết hại toàn bộ dân làng của Falis, biến hoàng tử Kaito thành chiến binh bóng tối. Sau cùng, Cecilia đã bị Falis giết chết. Cecilia dùng một vũ khí giống cái chày có thể phóng ra sấm sét, chỉ vì muốn thử sức mạnh của vũ khí đó mà Cecilia đã giết hại không biết bao nhiêu người.
Hoàng tử Kaito trong vai
Hoàng tử của Forland, Kaito là anh trai của Alita. Từ khi lên 8 tuổi. Kaito đã tinh thông kiếm thuật và rất được lòng dân, anh cũng hết mực yêu thương cô em gái Alita của mình. Một lần tham dự cuộc đàm phán hòa bình với nước láng giềng phía tây của Forland, vương quốc của Grandel thì anh mất tích, không còn ai thấy Kaito từ đó. Một thời gian sau, Kaito đã trở lại Forland dưới bộ giáp đồ sộ với cái tên "Kị Sĩ Áo Đen".
Âm nhạc.
Phần âm nhạc do Fukuda Yasufumi sáng tác
Bài mở đầu chủ đề:
Bài kết thúc chủ đề:
Đón nhận.
Trong phần phụ lục cuốn "" (Manga: Hướng dẫn toàn tập) của Jason Thompson, tác giả ca ngợi kiểu "cách điệu, hình ảnh nghệ thuật dễ thương" của bộ "Murder Princess", gọi đó là "điểm đặc trưng hay nhất của thể loại truyện tranh hành động phiêu lưu ngắn thuần túy. | 1 | null |
Đây là danh sách các vua hay thủ lĩnh cai trị Người Mông Cổ. Danh sách trình bày theo thứ tự thời gian với các triều đại khác nhau.
Hãn của Liên minh Mông Cổ.
Sau cái chết của Ngạch Triết Hãn, nhà nước Mông Cô tan rã thành 3 quốc gia:
Bogd Khan (thứ 8 Jebtsundamba Khutuktu) (1911-1924) | 1 | null |
Trương Thị Ngọc Chử (chữ Hán: 張氏玉杵, 1666 - 1750), là vợ của Tấn Quang Vương Trịnh Bính, mẹ của chúa Trịnh Cương, bà nội của chúa Trịnh Giang và Trịnh Doanh.
Tiểu sử.
Bà Ngọc Chử sinh ngày 26, tháng 4, năm 1666 tại làng Như Quỳnh (còn gọi là làng Ghênh) thuộc Gia Lâm, phủ Thuận An, xứ Kinh Bắc (nay là Như Quỳnh, huyện Văn Lâm, Hưng Yên).
Bà kết hôn với Tấn Quang Vương Trịnh Bính, con trai của Lương Mục Vương Trịnh Vịnh, cháu đích tôn của Chiêu tổ Khang Vương Trịnh Căn.
Năm 1686, bà 17 tuổi sinh Trịnh Cương. Năm 1697 bà được tiến cử làm Chính phi cho Trịnh Bính khi 28 tuổi.
Năm 1702, bà Ngọc Chử 33 tuổi thì Tấn Quang Vương Trịnh Bính đột ngột qua đời, khi đó Trịnh Cương mới 16 tuổi. Trước tình hình con và cháu lần lượt tạ thế, Chúa Trịnh Căn rất đau buồn, chưa quyết định lập người nối nghiệp nên mời đại thần Liêm Quận Công Nguyễn Quý Đức vào hỏi. Nguyễn Quý Đức thưa: ""Việc vỗ dân, giữ trách nhiệm nặng nề, nên cho thuộc về người chắt (tằng tôn) là dòng đích. Xét theo điển lệ việc đó là rõ rệt rồi. Vậy xin sớm làm cho danh phận được chính xá để chấm dứt sự ngấp nghé nom dòm".
Vậy tháng Giêng (1703), triều đình tấn phong Trịnh Cương, chắt của Chúa Trịnh Căn làm Khâm sai tiết chế các xứ thủy bộ chư doanh, kiêm tổng chính cơ, Thái úy, An Quốc công, cho mở phủ Lý Quốc.
Hưởng phúc đến đời cháu là Đức Dụ tổ Trịnh Giang và Đức Nghị tổ Ân Vương Trịnh Doanh, bà Ngọc Chử được tôn phong là Huy Nhu Thuần Đức Thái tôn Thái phi. Bà mất ngày 28, tháng 8, năm 1750 năm thứ 11 Cảnh Hưng, thọ 82 tuổi.
Mộ táng lúc đầu ở làng Dương Quang (Gia Lâm), sau cải về làng Bái Nhi (Yên Định - Thanh Hoá).
Gặp gỡ Tấn Quang vương.
Vào một ngày đầu xuân, ông Trịnh Bính dùng võng lọng đi du xuân ở một số vùng ngoại thành, khi võng lọng của ông tới đất Như Quỳnh, thì dân làng một số bỏ chạy, một số quỳ lạy. Trong khi đó, bà Trương Thị Ngọc Chử vẫn thản nhiên cắt cỏ ở khu vực Từ Vũ ngày nay, xem như không có chuyện gì xảy ra. Trước thái độ coi thường như vậy, Trịnh Bính đã tới gần, xem rõ sự tình, bà Chử vẫn thản nhiên tay cầm liềm cắt cỏ, miệng cất lên tiếng hát:
Giọng hát ngọt ngào của con nhà nghề đã làm Trịnh Bính nghe thấy lấy làm ngạc nhiên bèn cho gọi cô gái cắt cỏ tới và hỏi vì sao thấy kiệu chúa tới vẫn ngồi cắt cỏ và hát như vậy. Ngọc Chử trả lời: "Chúa ngự giá là việc của chúa, còn tôi cắt cỏ là phận của tôi, chúa hỏi để làm gì ?". Nghe câu trả lời khẳng khái và thấy bà đẹp người, tài giỏi, ông bèn tuyển làm cung phi.
Đến đời sau, Trịnh Cương đã cho xây dựng Từ Vũ, nơi ghi dấu sự hội ngộ của cha mẹ, đồng thời đây cũng là phần mộ của dòng họ Trương.
Ghênh đẻ, Khe nuôi.
Lúc đó, bà Chử sinh ra chúa Trịnh Cương thì bị mất sữa, chúa Trịnh Cương khóc ngằn ngặt suốt ngày đêm, ai bế dỗ cũng không được khiến phủ chúa cũng mất ăn mất ngủ theo. Khi ấy bà có cô em con dì ruột là Nguyễn Thị Cảo lấy chồng về làng Khe cũng vừa sinh con nên mời vào cung nuôi con cùng. Bà Cảo thương chị thương cháu nhận lời, ai dè bà Cảo vừa đón cháu lên tay thì Trịnh Cương đã nín khóc đòi bú liền. Từ đó bà Cảo ở lại trong cung nuôi con nuôi cháu.
Khi chúa Trịnh Cương lên ngôi chúa, tôn bà Chử làm Thái phi, tục gọi là "bà chúa Ghênh"; còn bà Cảo làm Phu nhân, tục gọi là "bà vú Khe", nên dần có câu phương ngôn lưu truyền trong dân gian "Ghênh đẻ, Khe nuôi".
Đường vào phủ Chúa.
Thời Lê có gia đình phú hộ làng Tướng (nay là Thanh Tương, xã Thanh Khương, huyện Thuận Thành) đón thầy địa lý về tìm đất quý đặt mộ mong con cháu vinh hiển. Thầy tìm được đất liền bẻ cành cây đánh dấu, dặn ba ngày sau cành lá vẫn tươi thì táng mộ vào sẽ phát đến công khanh. Không ngờ có người thợ cày ngồi nghỉ giải lao ở bụi cây gần đó nghe được. Chờ mọi người đi khỏi người thợ cày nhổ cành cây cắm ra chỗ khác. Ba ngày sau người phú hộ ra xem cành cây thấy khô héo thì không để ý huyệt đất đó nữa. Người thợ cày bí mật táng hài cốt bố vào nơi thầy địa lý cắm cành cây. Từ đó gia đình này làm ăn khấm khá dần.
Chuyện bà Ngọc Chử vào cung cũng liên quan đến việc đặt mộ. Bấy giờ họ Trương nhà nghèo, bán nước ven đường kiếm sống. Một hôm có vị đạo sĩ vào quán được họ Trương chào mời rất cung kính. Đạo sĩ cảm ơn lòng tốt bằng cách chỉ cho huyệt đất quý. Xong việc đạo sĩ chỉ bảo họ Lã ở đầu ngõ Hàng Nghiên. Họ Trương tìm đến tạ lễ nhưng không có ai họ Lã, chỉ có miếu thờ Thuần Dương tổ sư, tên hiệu của Lã Đồng Tân, mới biết nhà được tiên ông ban phúc. Sau đó họ Trương sinh ra Ngọc Chử rồi duyên may gặp được Tấn Quang vương mê người mê nết và giọng hát hay được kén làm phi.
Gia đình.
Theo gia phả họ Trương và các tài liệu liên quan thì từ nhiều đời trước dòng họ Trương đất Như Kinh (nay là Như Quỳnh) chuyên làm nghề xướng ca, đặc biệt nhờ tài năng vượt trội mà họ thường được lưu diễn trong phủ chúa, cung vua. Hiện nay, còn một toà miếu cổ ở phủ Chí Nguyên thờ họ Trương, tại đây vua Lê Hiển Tông có làm đôi câu đối truy tặng như sau:
Bà Trượng Thị Ngọc Chử là con gái trưởng của cụ Diên Khánh Công Trương Dự, chị gái của Thiêm quận Công Trương Nhưng, Phấn quận công Trương Nhiêu (Nhượng).
Cả thảy bà Ngọc Chử sinh 3 người con (1 trai, 2 gái): An Đô Vương Trịnh Cương và Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Thung, Quận chúa Trịnh Thị Ngọc Cơ. | 1 | null |
Cristiada, còn có tên "For Greater Glory", tên tiếng Việt "Cuộc chiến vĩ đại: Câu chuyện có thật của Cristiada", là bộ phim lịch sử México, do Dean Wright đạo diễn, Michael Love viết kịch bản, chủ đề anh hùng ca, chiến tranh Cristero ở Mexico. Bộ phim công chiếu từ 20.4 ở Mexico và 1.6 ở Mỹ, gây tranh cãi về chính trị. Đây là phim chi phí cao nhất điện ảnh Mexico, và vượt qua Arráncame la vida phim 2008. | 1 | null |
100 nghệ sĩ guitar vĩ đại nhất là một bản danh sách đặc biệt của tờ báo danh tiếng "Rolling Stone" công bố vào cuối tháng 11 năm 2003. Danh sách này được tổng hợp bởi nhà báo David Fricke dựa theo nhiều đánh giá, kèm với đó là những lời giới thiệu ngắn gọn về những nghệ sĩ có tên trong danh sách. Người đứng đầu chính là Jimi Hendrix với lời dẫn của Pete Townshend, người cũng có tên trong danh sách này ở vị trí số 50.
Tuy nhiên bản danh sách này lại nhận được nhiều đánh giá rất trái chiều. Tờ "The Guardian" của Anh viết rằng đó là một sự thiên vị cho nước Mỹ, cùng với đó là chỉ ra 3 ngoại lệ xuất hiện trong Top 10, trong khi tạp chí "Blogcritics" chỉ trích danh sách không khách quan khi bỏ qua nhiều tay guitar kinh điển như Johnny Marr, Phil Keaggy hay John Petrucci.
Năm 2011, "Rolling Stone" đã công bố lại danh sách mới về "100 tay guitar vĩ đại nhất" trong một ấn bản bao gồm nhiều tài liệu liên quan tới họ. Để đảm bảo tính khách quan, một cuộc bình chọn đã được thực hiện bởi các chuyên gia và rất nhiều tay guitar sành sỏi của âm nhạc thế giới, như Anthony DeCurtis (tổng biên tập tờ "Rolling Stone"), Ritchie Blackmore (Deep Purple), Melissa Etheridge, Don Felder (The Eagles), Kirk Hammett (Metallica), Eddie Van Halen, Joe Walsh, Jon Landau, Nils Lofgren (The E Street Band), Mick Mars (Mötley Crüe), Brian May, v.v..
Danh sách năm 2003.
1. Jimi Hendrix
2. Duane Allman
3. B.B. King
4. Eric Clapton
5. Robert Johnson
6. Chuck Berry
7. Stevie Ray Vaughan
8. Ry Cooder
9. Jimmy Page
10. Keith Richards
11. Kirk Hammett
12. Kurt Cobain
13. Jerry Garcia
14. Jeff Beck
15. Carlos Santana
16. Johnny Ramone
17. Jack White
18. John Frusciante
19. Richard Thompson
20. James Burton
Danh sách năm 2011.
1. Jimi Hendrix
2. Eric Clapton
3. Jimmy Page
4. Keith Richards
5. Jeff Beck
6. B.B. King
7. Chuck Berry
8. Eddie Van Halen
9. Duane Allman
10. Pete Townshend
11. George Harrison
12. Stevie Ray Vaughan
13. Albert King
14. David Gilmour
15. Freddy King
16. Derek Trucks
17. Neil Young
18. Les Paul
19. James Burton
20. Carlos Santana | 1 | null |
Nhạc sĩ Viên Tân Điều (hay còn gọi là Tân Điều) sinh ngày 15 tháng 01 năm 1950 tại xã Tân Trào, huyện Sơn Dương, tỉnh Tuyên Quang.
Ông là người dân tộc Tày, vốn là diễn viên hát của Đoàn Ca Múa Tổng cục Chính trị (từ tháng 6-1973 đến tháng 6-1977). Năm 1977 ông chuyển sang làm phóng viên âm nhạc, rồi làm Trưởng ban Văn nghệ Đài Phát thanh - Truyền hình Tuyên Quang. Ông là Hội viên Hội Nhạc sĩ Việt Nam, Phân hội trưởng Phân hội Âm nhạc, Hội Văn học - Nghệ thuật tỉnh Tuyên Quang.
Bắt đầu sáng tác từ năm 1985 với bài "Hát trên quê Bác", sau đó ông sáng tác được một số ca khúc mang âm hưởng dân ca miền núi.
Tác phẩm.
Một số bài hát do ông sáng tác như : Đường về Tân Trào , Áo chàm đi hội (thơ Mã Văn Tính), Niềm vui hôm nay, Anh công an bản em, Lời suối hát, Con gái bản tôi (phổ thơ Mai Liễu), Một nét thành Tuyên (thơ Lê Tuấn Lộc), Tìm em gái Mường (thơ Vương Anh), Mùa hè vui, Tháng Giêng (thơ Vũ Tuấn), Bên dòng thác Bác Pan, Một ngày anh lên Chiêm Hóa
Giải thưởng.
Nhạc sĩ Tân Điều đã giành một số giải thưởng như: Giải thưởng Tân Trào 2012 , giải Nhì cuộc Vận động sáng tác Văn học nghệ thuật tỉnh Tuyên Quang, Bài hát "Tiếng lá rừng" của ông đạt giải A Liên hoan âm nhạc các tỉnh phía Bắc (Hội nhạc sĩ Việt Nam). Năm 1985 với ca khúc "Hát trên quê Bác", tự sáng tác và tự biểu diễn, ông được Huy chương Vàng "Tiếng hát của Làng Sen". | 1 | null |
Mộ Dung Thùy () (326–396), tên tự Đạo Minh (道明), gọi theo thụy hiệu là (Hậu) Yên Vũ Thành Đế ((後)燕武成帝) là một đại tướng của nước Tiền Yên và sau này trở thành hoàng đế khai quốc của Hậu Yên. Ông là một nhân vật gây tranh cãi trong lịch sử Trung Quốc. Ông đã buộc phải chạy trốn khỏi Tiền Yên do sự đố kỵ của nhiếp chính Mộ Dung Bình, ông sau đó đã được hoàng đế Phù Kiên của Tiền Tần tin tưởng nhưng lại phản bội và lập nên nước Hậu Yên. Hơn nữa, danh tiếng của ông đã bị tổn hại ngay sau khi ông qua đời do Hậu Yên đã đại bại dưới tay nước Bắc Ngụy của Thác Bạt Khuê. Người ta cho rằng Mộ Dung Thùy đã góp phần vào thất bại này do đã không xây dựng được một nền móng vững chắc cho đất nước và do ông đã lựa chọn sai lầm người kế vị.
Dưới thời Tiền Yên.
Dưới thời Mộ Dung Hối và Mộ Dung Hoảng.
Mộ Dung Thùy sinh năm 326, cha ông là Mộ Dung Hoảng lúc đó vẫn là thế tử của Liêu Đông công Mộ Dung Hối, một chư hầu của nhà Tấn. Mộ Dung Thùy là con trai thứ năm của Mộ Dung Hoảng. Cha ông sau khi kế vị tước hiệu Liêu Đông công vào năm 333 đã muốn lập ông làm thế tử song các quan lại đã chống lại ý định này và muốn lập người con trưởng của chính thất là Mộ Dung Tuấn, Mộ Dung Hoảng chấp thuận yêu cầu của các bá quan song vẫn rất sủng ái ông và chính thức đặt tên cho ông là Mộ Dung Bá (慕容霸, "Bá" nghĩa là bá chủ). Do vậy, Mộ Dung Tuấn rất ghen tị với người em trai của mình.
Mộ Dung Bá trở thành một tướng quân của phụ thân từ khá sớm, sau khi ông ta xưng làm Yên vương và lập nước Tiền Yên, mặc dù trên danh nghĩa thì Tiền Yên vẫn là một chư hầu của Tấn. Năm 344, vì có những đóng góp trong cuộc chinh phục Vũ Văn bộ, Mộ Dung Bá đã được phong làm Đô Hương hầu. Sau đó, Mộ Dung Bá được phân đến vùng biên giới với kinh địch Hậu Triệu, tướng Đặng Hằng (鄧恆) của Hậu Triệu khi đó đang tìm cơ hội để tiến đánh Tiền Yên, và Mộ Dung Bá đã thắng lợi trước họ Đặng, khiến cho Đặng không thể mở một chiến dịch. Trong một lần săn bắn, ông đã bị ngã ngựa và mất một chiếc răng. Sau khi Mộ Dung Tuấn kế vị Mộ Dung Hoảng năm 348, do ông ta vẫn còn ghen tị với Mộ Dung Bá nên đã đổi tên cho hoàng đệ thành Mộ Dung Quái, song sau đó đã nhanh chóng phát hiện ra rằng "Quái" là một chữ có nghĩa là thịnh vượng trong tiên tri, và do đó lại một lần nữa đổi tên ông thành Mộ Dung Thùy, và từ đó ông được biết đến với cái tên này.
Dưới thời Mộ Dung Tuấn.
Ngay sau khi Mộ Dung Tuấn kế vị Mộ Dung Hoảng, nước Hậu Triệu ở phương nam sụp đổ sau cái chết của Thạch Hổ, các con trai của Thạch Hổ và Thạch Mẫn (về sau cải tên về họ của cha ruột là "Nhiễm") đã xung đột với nhau. Mặc dù phía kình địch đang rối loạn, Mộ Dung Tuấn vẫn lưỡng lự trong việc nam chinh để chiếm lãnh thổ Hậu Triệu, song Mộ Dung Thùy đã thuyết phục ông rằng thời cơ đã chín muồi. Mộ Dung Thùy sau đó là một trong các tướng chính trong đại quân nam chinh của Mộ Dung Tuấn, quân Tiền Yên đã bắt và giết được Nhiễm Mẫn vào năm 352, chiếm được nửa phía đông của lãnh thổ Hậu Triệu. Trong những năm tiếp theo, Mộ Dung Thùy đã tham gia chinh phạt nhiều tướng của Hậu Triệu vẫn còn bán độc lập. Vào mùa đông năm 352, Mộ Dung Tuấn chính thức tuyên bố độc lập khỏi Tấn, xưng đế, và năm 354, ông ta đã lập nhiều hoàng tử, hoàng đệ và hoàng thân làm thân vương, Mộ Dung Thùy khi đó được phong làm Ngô vương.
Tuy nhiên, Mộ Dung Tuấn vẫn tiếp tục ghen tị với tài năng của Mộ Dung Thùy. Trong một thời gian ngắn, Mộ Dung Thùy được giao chức phòng thủ một thành quan trọng và cũng là cố đô, tức Long Thành (龍城, nay là Cẩm Châu, Liêu Ninh), song sau khi Mộ Dung Thùy cai quản khu vực này một cách thành công và giành được sự ủng hộ của người dân, Mộ Dung Tuấn lại sợ hãi và triệu hồi ông về kinh đô Nghiệp Thành (鄴城, nay thuộc Hàm Đan, Hà Bắc).
Năm 358, Mộ Dung Thùy đã mất đi vương phi họ Đoàn của mình trong một mưu đồ chính trị. Đoàn vương phi là con gái của Đoàn Mạt Ba (段末波) và có nguồn gốc từ tộc tưởng của Đoàn bộ, bà tự hào vì xuất thân của mình và thiếu tôn trọng Khả Túc Hồn Hoàng hậu. Có lẽ do bị Hoàng hậu xúi giục nên hoạn quan Niết Hạo (涅浩) đã vu cáo Đoàn vương phi dùng yêu thuật. Mộ Dung Tuấn đã cho bắt bà cùng người bị cho là đồng mưu là Cao Bật (高弼), người này cũng là một trợ thủ của Mộ Dung Thùy.
Đoàn vương phi và Cao Bật đã bị tra tấn, tuy nhiên họ vẫn từ chối nhận tội dùng yêu thuật và vì thế lại càng bị tra tấn hơn nữa. Mộ Dung Thùy đau buồn trước những gì mà vợ mình phải chịu nên ông đã gửi một lời nhắn để thuyết phục bà nhận tội để chấm dứt nỗi đau khổ của mình, song vương phi đã từ chối vì lo sợ nó có thể liên lụy đến gia tộc họ Đoàn của mình.
Trong những lần thẩm vấn, Đoàn vương phi đã trả lời một cách hợp lý và Mộ Dung Thùy đã tránh được việc bị lôi kéo vào vụ việc, tuy vậy vương phi vẫn chết trong ngục do bị tra tấn hoặc bị hành hình bí mật.
Mộ Dung Thùy sau đó lấy chị em gái của bà làm vương phi mới. Tuy nhiên, sau một thời gian ngắn, Khả Túc Hồn Hoàng hậu đã ra lệnh phế bỏ Đoàn vương phi, và gả một chị em gái của Hoàng hậu cho Mộ Dung Thùy làm tân vương phi. Mộ Dung Thùy đã không dám từ chối, song ông cũng không hài lòng, và Hoàng hậu đã trở nên bực tức với ông. Do vậy, Mộ Dung Thùy trong một thời gian ngắn đã bị đưa đi làm thứ sử ở Bình Châu (平州, nay là đông bộ Liêu Ninh) xa xôi. Ông đã chỉ được triệu hồi về kinh khi Mộ Dung Tuấn lâm bệnh vào năm 359.
Năm 360, Mộ Dung Tuấn qua đời và thái tử Mộ Dung Vĩ lên kế vị, người nhiếp chính là Thái Nguyên vương Mộ Dung Khác.
Dưới thời Mộ Dung Vĩ.
Thời Mộ Dung Khác nhiếp chính.
Không giống như Mộ Dung Tuấn, Mộ Dung Khác rất tin tưởng Mộ Dung Thùy và tham khảo ý kiến của ông trong nhiều quyết định, bao gồm phải làm gì với Mộ Dư Căn (慕輿根) khi người này âm mưu làm phản năm 360. Cuối năm đó, Mộ Dung Khác đã cử Mộ Dung Thùy đi bình định các châu phía nam (những nơi này đã rối loạn sau cái chết của Mộ Dung Tuấn). Năm 365, ông đã giúp Mộ Dung Khác chiếm thành Lạc Dương của Đông Tấn, và sau đó đã trở thành chỉ huy quân Tiền Yên ở phương nam, chống lại các cuộc phản công nếu có của Đông Tấn.
Năm 367, Mộ Dung Khác lâm bệnh và lúc trên giường bệnh, ông ta đã khuyên Mộ Dung Vĩ hãy để Mộ Dung Thùy kế nhiệm mình. Ông ta cũng cố thuyết phục anh trai Mộ Dung Vĩ là Mộ Dung Tang (慕容臧) và đồng nhiếp chính Mộ Dung Bình (慕容評) ít nhất cũng nên trao binh quyền cho Mộ Dung Thùy. Tuy vậy, sau cái chết của Mộ Dung Khác, Mộ Dung Bình và Khả Túc Hồn Hoàng hậu đã không làm theo lời khuyên này, Mộ Dung Bình là người nhiếp chính duy nhất trong khi binh quyền nằm trong tay Mộ Dung Xung (慕容沖).
Thời Mộ Dung Bình nhiếp chính.
Cả Mộ Dung Bình và Khả Túc Hồn Hoàng hậu đều không tin tưởng Mộ Dung Thùy, và ông do vậy cũng không được trao các nhiệm vụ quan trọng. Năm 368, khi bốn công tước của nước Tiền Tần nổi loạn chống lại hoàng đế Phù Kiên và tìm kiếm sự hỗ trợ từ Tiền Yên, Mộ Dung Thùy là một trong những người ủng hộ việc trợ giúp cho bốn công tước này và nắm lấy cơ hội để chinh phục Tiền Tần. Tuy nhiên, Mộ Dung Bình đã từ chối làm như vậy, quân Tiền Tần sau đó đã bắt được và giết chết bốn công tước.
Năm 369, tướng Hoàn Ôn của Tấn mở một chiến dịch tấn công Tiền Yên, đánh bại các đội quân Tiền Yên đến giao chiến và tiến đến Phương Đầu (枋頭, nay thuộc Hạc Bích, Hà Nam), gần Nghiệp Thành. Mộ Dung Vĩ và Mộ Dung Bình hoảng sự và nghĩ đến chuyện chạy trốn về cố đô Long Thành. Tuy nhiên, Mộ Dung Thùy đã tình nguyện dẫn quân đi đánh Hoàn Ôn một lần cuối, và ông cùng với em trai Mộ Dung Đức đã khiến cho Hoàn Ôn phải đại bại. Quân cứu viện từ Tiền Tần (được Tiền Yên yêu cầu) sau đó đã đến, và hai đội quân đã đánh bại Hoàn Ôn trong một trận đánh lớn khác, chấm dứt tham vọng tiêu diệt Tiền Yên của Hoàn Ôn.
Tuy nhiên, Mộ Dung Bình và Khả Túc Hồn Hoàng hậu sau đó thậm chí còn có thái độ ghen tị hơn với Mộ Dung Thùy và từ chối ban thưởng cho các binh lính của ông như thỉnh cầu. Mộ Dung Bình và Khả Túc Hồn Hoàng hậu còn tính đến việc giết chết ông. Con trai của Mộ Dung Khác là Mộ Dung Khải (慕容楷) và cậu của Mộ Dung Thùy là Lan Kiến (蘭建) đã đề nghị rằng ông nên tiến hành chính biến, song Mộ Dung Thùy đã từ chối. Thay vào đó, ông nghe theo lời thế tử Mộ Dung Lệnh (慕容令), tìm cách chạy trốn và tiếp quản Long Thành để cố hòa giải với triều đình.
Mộ Dung Thùy thực hiện kế hoạch vào mùa đông năm 369. Tuy nhiên, khi ông rời Nghiệp Thành, người con trai Mộ Dung Lân mà ông không sủng ái đã quay trở lại Nghiệp Thành và báo cáo với triều đình, Mộ Dung Bình vì thế đã cử một đội quân đuổi theo ông. Mộ Dung Thùy sau đó đã thay đổi kế hoạch và chạy trốn đến Tiền Tần. Ông sau đó giải tán những người đi theo và chạy về phía nam. Trên đường, một người con trai khác là Mộ Dung Mã Nô (慕容馬奴) đã muốn chạy về Nghiệp Thành và đã bị ông giết chết. Khi ông dừng chân ở Hoàng Hà, ông đã giết chết chỉ huy của đội quân chặn đường mình, sau đó chạy đến Tiền Tần cùng Đoàn vương phi và các con trai gồm Mộ Dung Lệnh, Mộ Dung Bảo, Mộ Dung Nông, Mộ Dung Long, cùng với Mộ Dung Khải, Lan Kiến và Cao Bật. Còn Khả Túc Hồn vương phi thì vẫn ở lại Nghiệp Thành.
Phụng sự Tiền Tần.
Khi Mộ Dung Thùy đến lãnh thổ Tiền Tần, vì Phù Kiên từ lâu đã muốn chính phục Tiền Yên song vì lo sợ trước tài quân sự của Mộ Dung Thùy, nay đã hết sức hài lòng và đã ra khỏi kinh thành Trường An để đích thân chào đón Mộ Dung Thùy. Hoàng đế Tiền Tần lập Mộ Dung Thùy làm Tân Đồ hầu và trao cho ông nhiều vinh dự, bất chấp mối nghi ngại của thừa tướng Vương Mãnh. Mộ Dung Thùy cũng trở thành một trong các tướng của Tiền Tần.
Đến năm 369, sau khi Mộ Dung Bình từ chối nhượng vùng Lạc Dương cho Tiền Tần (là vùng mà Tiền Yên đã hứa sẽ nhượng lại khi tìm kiếm sự trợ giúp của Tiền Tần nhắm chống Tấn) Phù Kiên đã cử Vương Mãnh đi thảo phạt Tiền Yên. Vương Mãnh yêu cầu Mộ Dung Lệnh đi cùng ông ta với vai trò là người chỉ đường. Sau khi chiếm Lạc Dương vào đầu năm 370, Vương Mãnh hối lộ người hầu cận của Mộ Dung Thùy là Kim Hi (金熙) để hắn gửi cho Mộ Dung Lệnh một thông điệp sai rằng Mộ Dung Thùy đã nghe được tin Khả Túc Hồn Thái hậu đã hối tiếc về hành động của bà và do đó ông đã đào thoát về Tiền Yên. Mộ Dung Lệnh không thể xác minh thực hư của thông điệp và đã quyết định đào thoát về Tiền Yên. Vương Mãnh ngay lập tức cáo buộc Mộ Dung Lệnh tội phản quốc và Mộ Dung Thùy vì sợ hãi nên đã chạy trốn song đã bị bắt. Mặc dù vậy, Phù Kiên tin rằng Mộ Dung Lệnh đã hành động một cách độc lập và đã ân xá cho Mộ Dung Thùy. Triều đình Tiền Yên không tin tưởng Mộ Dung Lệnh và đã cho lưu đày ông, và sau khi Mộ Dung Lệnh cố khởi đầu một cuộc nổi loạn, ông ta đã bị giết chết trong trận chiến sau khi bị em trai Mộ Dung Lân phản bội.
Năm 370, sau khi Vương Mãnh đánh bại Mộ Dung Bình và chinh phục được Tiền Yên, Mộ Dung Thùy đã theo Phù Kiên đến thăm Nghiệp Thành. Ban đầu, ông dã không che giấu sự căm phẫn với các quan lại đã không trợ giúp ông trong cuộc đấu tranh với Mộ Dung Bình và Khả Túc Hồn Thái hậu, song nghe theo đề nghị của Cao Bật, ông đã bắt đầu đối xử với họ tử tế và trong lòng nuôi ý định phục Yên. Tuy nhiên, năm 372, ông cáo buộc Mộ Dung Bình là nguồn gốc của việc Tiền Yên sụp đổ và thỉnh cầu Phù Kiên trả thù Tiền Yên bắt cách hành hình Mộ Dung Bình song Phù Kiên đã không làm theo, Mộ Dung Bình bị đưa đi làm thái thú ở một quận xa xôi.
Năm 378, Mộ Dung Thùy tham gia một chiến dịch do con trai của Phù Kiên, tức Phù Phi chỉ huy để đánh thành Tương Dương của Đông Tấn. Năm 382, khi Phù Kiên muốn mở một chiến dịch lớn nhằm tiêu diệt Tấn và thống nhất Trung Quốc, hầu hết quan lại bao gồm cả thừa tướng Phù Dung đã phản đối song Mộ Dung Thùy và Diêu Trường lại thúc đẩy kế hoạch, cuối cùng thì Phù Kiên đã cho mở chiến dịch vào mùa thu năm 383. Tuy nhiên, quân Tiền Tần do Phù Dung chỉ huy đã đại bại trước quân Tấn trong trận Phì Thủy mặc dù vượt trội về quân số; Phù Dung bị giết và hầu như toàn bộ quân Tiền Tần đã sụp đổ, chỉ có lực lượng do Mộ Dung Thùy chỉ huy là còn nguyên vẹn, và Phù Kiên thì bị một mũi tên làm bị thương trong trận chiến, và đã chạy đến chỗ Mộ Dung Thùy. Con trai của Mộ Dung Thùy là Mộ Dung Bảo và em trai mộ Dung Đức đều cố thuyết phục Mộ Dung Thùy giết chết Phù Kiên trong lúc thuận lợi này và phục Yên, song Mộ Dung Thùy đã từ chối và trao quyền chỉ huy quân lính cho Phù Kiên và trở về Lạc Dương cùng hoàng đế. Tuy nhiên, theo đề xuất của con trai là Mộ Dung Nông, ông đã lên kế hoạch nổi loạn nhằm phục Yên sau đó.
Mộ Dung Thùy nói với Phù Kiên rằng ông lo sợ những người dân trên đất Tiền Yên cũ sẽ nổi loạn và rằng sẽ tốt hơn nếu ông dẫn đầu một đội quân đến bình định khu vực. Phù Kiên chấp thuận điều này bất chấp sự phản đối của Quyền Dực (權翼). Mộ Dung Thùy cầm quân đi đến Nghiệp Thành, thành lúc này đang do Phù Phi bảo vệ. Hai người nghi ngờ lẫn nhau song cả hai đều không phục kích đối phương. Khi tộc trưởng Đinh Linh là Địch Bân (翟斌) nổi loạn và tấn công Lạc Dương (thành đang do em trai của Phù Phi là Phù Huy (苻暉) trấn giữ) Phù Phi đã lệnh cho Mộ Dung Thùy đi đánh dẹp cuộc nổi loạn của Trạch Bân, và Phù Phi cũng cử thuộc hạ là Phù Phi Long (苻飛龍) làm phụ tá cho Mộ Dung Thùy. Tuy nhiên trên đường đi đến Lạc Dương, Mộ Dung Thùy đã giết chết Phù Phi Long cũng các lính người người Đê và chuẩn bị sẵn sàng để công khai nổi loạn. Trong khi đó, mặc dù nghi ngờ Mộ Dung Thùy song Phù Phi lại không giám sát Mộ Dung Nông, Mộ Dung Khải và Mộ Dung Thiệu (慕容紹), và ba người này đã chạy khỏi Nghiệp Thành rồi khởi đầu một cuộc nổi loạn riêng của mình.
Vào mùa xuân năm 384, Mộ Dung Thùy lúc này vẫn chưa công khai nổi loạn chống Tiền Tần, đã đến Lạc Dương song Phù Huy đã nghe tin về cái chết của Phù Phi Long nên đã từ chối nghênh đón ông. Mộ Dung Thùy sau đó lập liên minh với Trạch Bân và người này đã thúc giục ông xưng đế, tuy nhiên, Mộ Dung Thùy đã từ chối và lý luận rằng mình nên chào đón Mộ Dung Vĩ trở lại làm hoàng đế và chỉ xưng làm Yên vương, chính thức tuyệt giao với Tiền Tần và lập nên Hậu Yên.
Hoàng đế Hậu Yên.
Thời kỳ đầu: khởi binh chống Tiền Tần.
Ngay lập tức, Mộ Dung Thùy đã tiến hành giao tranh để chiếm các lãnh thổ của Tiền Yên trước đó. Cả ông và Mộ Dung Nông đều nhanh chóng chiếm được nhiều thành, Lạc Dương và Nghiệp Thành vì thế bị cô lập. Phù Phi đã cố thuyết phục Mộ Dung Thùy chấm dứt cuộc nổi loạn song ông đã từ chối, và Mộ Dung Thùy còn thuyết phục ngược Phù Phi là hãy rời khỏi Nghiệp Thành để bảo toàn lực lượng; Phù Phi từ chối và Mộ Dung Thùy cho bao vây Nghiệp Thành. Tiền Tần nay phải đối mặt cả với cuộc nổi dậy của Mộ Dung Hoằng và Mộ Dung Xung, cùng với Diêu Trường ở phía tây, Nghiệp Thành vì thế không thể nhận được bất cứ tiếp viện nào, tuy vậy Mộ Dung Thùy vẫn không thể chiếm thành một cách nhanh chóng. Khi Trạch Bân thất vọng vì không được trao cho chức thừa tướng và nghĩ đến việc quay sang Tiền Tần, Mộ Dung Thùy đã giết chết ông ta. Cháu trai của Địch Bân là Địch Chân (翟真) đã nổi loạn chống lại Hậu Yên, và trong vài năm tiếp theo, trong khi phải chiến đấu với tàn dư của Tiền Tần, Mộ Dung Thùy cũng phải giao chiến với quân Đinh Linh của Trạch Chân và sau đó là Địch Thành (翟成) và Địch Liêu (翟遼). Một thời gian ngắn vào đầu năm 385, ông cũng phải chiến đấu với quân Tấn, Đông Tấn lúc đó đã chiếm được hầu hết lãnh thổ ở phía nam của Hoàng Hà và đang tạm thời liên minh với Phù Phi. Tương lai của nước Hậu Yên lúc đó thật không sáng sủa. Tuy nhiên, sau khi di chuyển về phía bắc để bình định phần lớn khu vực này là Hà Bắc, Mộ Dung Thùy cuối cùng cũng đã có thể chiếm Nghiệp Thành vào cuối năm 385 khi Phù Phi bỏ thành vào chạy về phía tây rồi xưng đế. Trong khi các ổ kháng cự của Tiền Tần vẫn còn, đến cuối năm 385 thì Tiền Yên đã kiểm soát phần lớn các lãnh thổ ở phía bắc Hoàng Hà và phía đông Thái Hành Sơn.
Thời kỳ giữa: Cố thủ Hậu Yên.
Khoảng tết năm 386, Mộ Dung Thùy quyết định xây dựng lại Trung Sơn (中山, nay thuộc Bảo Định, Hà Bắc), đang do Mộ Dung Ôn (慕容溫) quản lý, để làm kinh thành. Ông cũng xưng làm hoàng đế.
Năm 386, Thác Bạt Khuê, một hậu duệ của hoàng tộc nước Đại, đã tuyên bố phục quốc Đại vào đầu năm song sau đó lại xưng làm Ngụy vương (do vậy lập nước Bắc Ngụy) song phải đối mặt với các cuộc nổi loạn và rối ren nội bộ, đã khuất phục trước Mộ Dung Thùy và nhận làm chư hầu để tìm kiếm sự trợ giúp của Hậu Yên. Mộ Dung Thùy đã cử Mộ Dung Lân đến cứu viện và vì thế mà Bắc Ngụy được bảo vệ.
Năm 387, con trai út của Mộ Dung Thùy là Mộ Dung Nhu (慕容柔), và các con trai của Mộ Dung Bảo là Mộ Dung Thịnh và Mộ Dung Hội (慕容會) đã chạy trốn từ Tây Yên về Hậu Yên, nước Tây Yên ở vùng Sơn Tây ngày nay và khi đó do một người họ hàng xa của Mộ Dung Thùy là Mộ Dung Vĩnh cai quản. Cuối năm đó, tất cả hậu duệ của Mộ Dung Thùy và Mộ Dung Tuấn còn lưu lại Tây Yên đều đã bị Mộ Dung Vĩnh thảm sát.
Sau đó cũng trong năm 387, Mộ Dung Thùy đích thân dẫn quân đi đánh Trạch Liêu, quân Đinh Linh khi đó đang chiếm quận Lê Dương (黎陽, gần tương ứng với Hạc Bích, Hà Nam hiện tại), và Trạch Bích đã phải chịu khuất phục. Tuy nhiên, sau đó Địch Liêu lại nổi loạn và đến năm 388 lại định đầu hàng song lần này Mộ Dung Thùy đã từ chối, Trạch Liêu do vậy tự xưng làm "Thiên vương" của nước Trạch Ngụy.
Năm 388, Mộ Dung Thùy ở tuổi 62, đã giao nhiều quyền lực thường ngày cho Mộ Dung Bảo, lúc đó đang là thái tử, và chỉ đích thân quyết định các vấn đề quan trọng. Ông lập Đoàn Nguyên Phi, cháu gái của hai người vợ trước đã quá cố, làm hoàng hậu.
Thời kỳ sau: khiến quốc gia suy yếu.
Năm 391, một sự kiện đã xảy ra và nó đã khiến cho quan hệ giữa Hậu Yên và Bắc Ngụy tan vỡ. Năm đó, vua Ngụy là Thác Bạt Khuê cử em trai là Thác Bạt Cô (拓拔觚) đến Hậu Yên triều cống. Các hoàng tử của Mộ Dung Thùy đã giam giữ Thác Bạt Cô và lệnh cho Thác Bạt Khuê phải giao ngựa để đổi lấy tự do cho em trai. Thác Bạt Khuê đã từ chối và tuyệt giao quan hệ với Hậu Yên và quay sang liên minh với Tây Yên.
Năm 392, sau khi Địch Liêu và con trai là Địch Chiêu tấn công vào vùng biên giới của Hậu Yên, Mộ Dung Thùy đã đích thân dẫn quân đi đánh kinh thành Hoạt Đài (滑台, nay thuộc An Dương, Hà Nam) của Trạch Ngụy. Địch Chiêu tìm kiếm sự trợ giúp từ Tây Yên song Mộ Dung Vĩnh đã từ chối cử quân đi cứu viện, vì thế Mộ Dung Thùy đã có thể nhanh chóng vượt Hoàng Hà và chiếm Hoạt Đài, diệt nước Trạch Ngụy.
Đến mùa đông năm 393, Mộ Dung Thùy chuyển hướng chú ý sang Tây Yên. Sau khi khiến cho Mộ Dung Vĩnh tin rằng ông sẽ đánh kinh thành Trường Tử (長子, nay thuộc Trường Trị, Sơn Tây) của Tây Yên bằng cách qua Thái Hành quan (太行關, nay thuộc Tiêu Tác, Hà Nam), song thực tế ông lại tiến theo đường qua Thiên Tỉnh quan (天井關, nay thuộc Hàm Đan, Hà Nam), và nhanh chóng tiến đến Trường Tử và bắt đầu vây thành. Mộ Dung Vĩnh tìm kiếm trợ giúp từ Đông Tấn và Bắc Ngụy, song trước khi quân hai nước này có thể đến nơi thì Mộ Dung Thùy đã chiếm được thành và giết chết Mộ Dung Vĩnh, lãnh thổ của Tây Yên bị sáp nhập vào Hậu Yên.
Năm 395, do Bắc Ngụy liên tục cướp phá vùng biên giới nên Mộ Dung Thùy đã cử Mộ Dung Bảo, Mộ Dung Nông, Mộ Dung Lân, Mộ Dung Đức và Mộ Dung Thiệu dẫn khoảng 9 vạn quân đi thảo phạt Bắc Ngụy, trong đó Mộ Dung Bảo là chỉ huy. Thác Bạt Khuê đã rút quân khỏi kinh thành Thịnh Lạc (盛樂, nay thuộc Hohhot, Nội Mông) về phía tây Hoàng Hà. Quân của Mộ Dung Bảo đã đuổi theo và cuối cùng thì kiệt sức, Thác Bạt Khuê loan tin đồn thất thiệt rằng Mộ Dung Thùy đã chết, và điều này khiến quân Hậu Yên trở nên lo lắng. Trong khi đó, một số người ủng hộ của Mộ Dung Lân đã nghĩ đến việc tiến hành chính biến để giúp Mộ Dung Lân lên làm hoàng đế, và mặc dù bản thân Mộ Dung Lân không tự mình dính líu thì việc này cũng khiến hai bên nghi kị lẫn nhau. Mộ Dung Bảo do vậy quyết định rút quân. Vào mùa đông năm 395, quân Bắc Ngụy phục kích quân Hậu Yên trong trận Tham Hợp Pha, giết được nhiều quan Hậu Yên và bắt giữ phần lớn số còn lại. Mộ Dung Bảo và một số tướng lĩnh đã chạy thoát. Ban đầu, Thác Bạt Khuê định thả quân Hậu Yên bị bắt để thể hiện lòng nhân từ, song vì nghe theo lời cảnh báo của Khả Tần Kiến (可頻建) rằng nếu làm vậy sẽ cho phép quân Hậu Yên khôi phục được lực lượng một cách nhanh chóng nên Thác Bạt Khuê đã cho tàn sát tất cả lính Hậu Yên bị bắt giữ.
Mộ Dung Bảo cảm thấy bị làm nhục và khẩn cầu phụ hoàng khởi động một chiến dịch khác để chống lại Bắc Ngụy, và Mộ Dung Đức cũng khẩn cầu Mộ Dung Thùy làm như vậy. Vì thế, ông đã triệu Cao Dương vương Mộ Dung Long và Mộ Dung Thịnh quay trở lại kinh thành Trung Sơn cùng với quân tăng viện ở phía bắc của đất nước, sẵn sàng mở một cuộc tấn công chống Bắc Ngụy vào năm 396. Mộ Dung Thùy sau đó cho mở chiến dịch và nhanh chóng chiếm được Bình Thành (平城, nay thuộc Đại Đồng, Sơn Tây) của Bắc Ngụy và nhắm đến Thịnh Lạc, Thác Bạt Khuê trong hoảng loạn đã nghĩ đến việc một lần nữa bỏ Thịnh Lạc. Tuy nhiên, khi Mộ Dung Thùy dẫn quân qua Tham Hợp Pha, lính Hậu Yên trông thấy nhiều thi thể của các binh lính đồng hương đã chết trong trận trước đó và bắt đầu than khóc, Mộ Dung Thùy trở nên tức giận và xấu hổ đến nỗi đã lâm bệnh. Quân Hậu Yên bắt đầu rút lui và trên đường trở lại Trung Sơn, Mộ Dung Thùy đã qua đời ở Thượng Cốc (上谷, nay thuộc Trương Gia Khẩu, Hà Bắc), thọ 71 tuổi. Cái chết của ông không được công bố cho đến khi quân Hậu Yên về đến Trung Sơn. Mộ Dung Bảo lên kế vị song chỉ không đầy một năm sau đó, hầu hết lãnh thổ Hậu Yên rơi vào tay Bắc Ngụy. | 1 | null |
Traveling Wilburys là một siêu ban nhạc bao gồm Bob Dylan, George Harrison, Jeff Lynne, Roy Orbison và Tom Petty, đi kèm là tay trống Jim Keltner. Họ cùng nhau có 2 album vào năm 1988 và 1990, rồi tan rã sau khi Orbison qua đời trước khi album thứ 2 hoàn thiện.
"Wilbury" là cụm từ mà George Harrison nói khi thực hiện album "Cloud Nine" (1987) cùng Jeff Lynne ""We'll bury" 'em in the mix". Kể từ đó, họ luôn dùng cụm từ này mỗi khi họ mắc những lỗi nhỏ lúc trình diễn, và dần dà họ dùng nhiều mỗi khi biểu diễn cùng nhau. Harrison đã gợi ý cái tên "The Trembling Wilburys" cho ban nhạc, cùng lúc Lynne muốn đổi thành "Traveling" và được tất cả cùng đồng ý.
Lịch sử.
1988–1990.
George Harrison lần đầu nói tới Traveling Wilburys trong buổi nói chuyện với Bob Coburn tại đài phát thanh Rockline tháng 2 năm 1988. Khi được hỏi có dự định gì sau khi album "Cloud Nine" phát hành, anh trả lời: "Điều mà tôi thực sự muốn làm tiếp theo là... thực hiện một album có tôi và vài người bạn... một chút giai điệu, anh biết đấy. Có thể nó sẽ có tên 'The Traveling Wilburys'... đó là ban nhạc mới của tôi: 'The Traveling Wilburys'. Tôi muốn làm album với họ và sau này chúng tôi sẽ có những album của chính chúng tôi."
Với 3 thành viên ban đầu là Roy Orbison, George Harrison và Jeff Lynne, cả ba đã cùng tới nhà của Bob Dylan ở Malibu, California để làm phần mặt B của đĩa đơn "This Is Love" của Harrison. Việc tham gia của Tom Petty là khá tình cờ, khi Harrison để quên chiếc guitar ở nhà Petty, Harrison buộc phải quay lại lấy và sau đó Petty đã theo Harrison vào dự án. Bản thu chung đầu tiên, "Handle with Care", được cả năm người cho là "đủ tốt" để làm đĩa đơn.
Các thành viên vô cùng phấn khích khi làm việc cùng nhau và họ quyết định ra album đầu tay, "Traveling Wilburys Vol. 1". Album được thực hiện trong khoảng 10 ngày của tháng 5 năm 1988 tại nhà của Dave Stewart. Album được phát hành ngày 18 tháng 10 cùng năm. "Wilbury" trở thành một cụm từ ưa thích của họ, tới mức các thành viên tự cho mình là anh em – con của một nhân vật tưởng tượng, Charles Truscott Wilbury, Sr.
Album đầu tay của họ nhanh chóng có được thành công. Tại Mỹ, họ nhận được 3 chứng chỉ Bạch kim. Album nhận được nhiều đề cử và giành giải Grammy cho trình diễn Rock xuất sắc nhất vào năm 1989.
Roy Orbison đột ngột qua đời ngày 6 tháng 12 năm 1988. Để tưởng nhớ Orbison, ban nhạc thực hiện đĩa đơn "End of the Line". Khi tới đoạn Roy hát, video quay chiếc guitar với bức ảnh của anh trong khi những thành viên còn lại vẫn chơi nhạc. Sau đó, Jeff Lynne hợp tác với Del Shannon thực hiện album "Rock On", điều đó làm dấy lên tin đồn rằng Shannon sẽ gia nhập nhóm thay thế Orbison.
Ngày 24 tháng 6 năm 1990, ban nhạc ra mắt đĩa đơn "Nobody's Child" để ủng hộ chương trình "Nobody's Child: Romanian Angel Appeal".
Ngày 30 tháng 10 năm 1990, họ cho ra mắt album cuối cùng của họ, "Traveling Wilburys Vol. 3", nhưng không có được nhiều thành công như album trước đó. Trong bản boxset năm 2007, album có tựa là "George being George" để nói tới rằng Harrison đã cống hiến rất nhiều trong album được coi là "Vol. 2" của họ.
Sau tour diễn của mình tại Nhật Bản vào năm 1991, Harrison nói về tour diễn của Traveling Wilburys: ""Đó là một điều mà tôi thực sự muốn trải nghiệm. Tôi luôn chơi nhạc với mọi cảm xúc và Wilburys tour hoàn toàn có thể xảy ra. Liệu rằng mỗi thành viên chơi solo rồi trở thành Wilburys, hay là chúng tôi đã biến mọi thứ từ khi bắt đầu tới giờ thành Wilburys? Thật là khó nghĩ. Chúng tôi là một ban nhạc tuyệt vời và chúng tôi hoàn toàn có thể chơi acoustic nếu chúng tôi muốn. Chúng tôi đã từng hát "Blowin' in the Wind" và Bob có thể hát "Something". Chúng tôi cũng có thể hát những ca khúc của riêng mỗi người và hợp lại thành một kiểu Wilburys khác, và từ đó có thể thu âm được. Dù thế nào thì chúng tôi cũng có thể thực hiện được.""
Tuy nhiên, The Wilburys tour không thể thực hiện được. Petty nói: "Tôi nghĩ nó có thể được thực hiện, nếu chúng tôi thực sự muốn làm vậy. Tôi không nghĩ rằng chúng tôi đã thực sự chú tâm tới điều đó. Đã có rất nhiều đêm mà các cuộc nói chuyện của chúng tôi quẩn quanh chủ đề đó. Nhưng tôi không nhớ rằng đã có ai đó thực sự nghiêm túc với nó. Điều đó làm mai một dần ý tưởng. Mỗi người bị ép buộc trở nên có trách nhiệm, không phải vì là một nhân vật trong nhóm. Nó trở nên khá là hình thức và đó có thể là một cách nghĩ sai."
2007.
Cho tới cuối những năm 90 đầu những năm 2000, cả 2 album của Traveling Wilburys vẫn chỉ được phát hành khá giới hạn tại một số vùng nhất định. Harrison, người giữ bản quyền của chúng, không hề nhượng lại bản quyền cho tới khi ông qua đời vào năm 2001. Năm 2007, 2 album được tổng hợp trong "The Traveling Wilburys Collection" – một box set bao gồm 2 CD (và bonus track) cùng DVD đi kèm bộ phim tài liệu dài 24 phút và trọn bộ video các ca khúc.
Có ba bản phát hành của box set. Một là bản phổ thông, bao gồm CD và DVD và 16 trang lời tựa. Hai là bản "deluxe" với CD và DVD, kèm theo đó là 40 trang lời tựa, ảnh của các nghệ sĩ. Thứ ba là bản "deluxe" được làm dưới định dạng vinyl. Ấn bản này không có DVD, song lại kèm đĩa vinyl 12inch với vài bản thu hiếm của các ca khúc.
Box set này cũng có được vị trí số 1 tại UK Albums Chart. Tại "Billboard" 200, nó đạt vị trí số 9. Bản tổng hợp bán được khoảng 500.000 bản trong 3 tuần đầu tiên và vẫn nằm trong top 5 tại Anh 7 tuần kể từ ngày phát hành.
Thành viên.
Các thành viên của Traveling Wilburys có tên trong ấn bản năm 2007:
Keltner không xuất hiện trong thành phần của Wilburys trong các album Vol. 1 và Vol. 3, song anh có mặt trong mọi video. Trong bản DVD năm 2007, anh có tên gọi "Buster Sidebury". 2 bonus track "Maxine" và "Like a Ship" có kể tên "Ayrton Wilbury" là tên gọi của Dhani Harrison. "Ayrton" là tên của người bạn gia đình Harrison, Ayrton Senna.
Người chơi lead guitar trong "She's My Baby" là Gary Moore. | 1 | null |
"Push" là đĩa đơn thứ tư trích từ album phòng thu thứ tư của nữ nghệ sĩ người Canada Avril Lavigne, "Goodbye Lullaby". Ca khúc được sáng tác bởi Avril Lavigne, Evan Taubenfeld và được phát hành chỉ riêng tại Nhật bởi hãng thu âm Epic vào tháng 3 năm 2012. "Push" đã đánh vào bảng xếp hạng Japan Hot 100 tại vị trí thứ 35 và vị trí thứ 7 ở Digital and Airplay Overseas. | 1 | null |
Co.opmart (còn được gọi là "Co.op Mart, Co-opmart, Coopmart") là một hệ thống siêu thị bán lẻ của Việt Nam trực thuộc Liên hiệp các Hợp tác xã Thương mại Thành phố Hồ Chí Minh (Saigon Co.op). Co.opmart hiện là doanh nghiệp có nhiều siêu thị nhất Việt Nam, với hơn 140 siêu thị và đại siêu thị (bao gồm Co.opmart, Co.opmart SCA, Finelife, Co.opXtra và Co.opXtraplus).
Lịch sử.
Khởi nghiệp từ năm 1989, sau đại hội Đảng lần thứ VI, nền kinh tế đất nước chuyển từ cơ chế bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng Xã hội Chủ nghĩa, mô hình kinh tế Hợp tác xã (HTX) kiểu cũ thật sự khó khăn và lâm vào tình thế khủng hoảng phải giải thể hàng loạt. Trong bối cảnh như thế, ngày 12/5/1989 - UBND Thành phố Hồ Chí Minh có chủ trương chuyển đổi Ban Quản lý HTX Mua Bán Thành phố trở thành Liên hiệp HTX Mua bán Thành phố Hồ Chí Minh - Saigon Co.op với 2 chức năng trực tiếp kinh doanh và tổ chức vận động phong trào HTX. Saigon Co.op là tổ chức kinh tế HTX theo nguyên tắc xác lập sở hữu tập thể, hoạt động sản xuất kinh doanh tự chủ và tự chịu trách nhiệm.
Từ năm 1992 - 1997, cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, các nguồn vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam làm cho các Doanh nghiệp phải năng động và sáng tạo để nắm bắt các cơ hội kinh doanh, học hỏi kinh nghiệm quản lý từ các đối tác nước ngoài. Saigon Co.op đã khởi đầu bằng việc liên doanh liên kết với các công ty nước ngoài để gia tăng thêm nguồn lực cho hướng phát triển của mình. Là một trong số ít đơn vị có giấy phép xuất nhập khẩu (XNK) trực tiếp của Thành phố, hoạt động XNK phát triển mạnh mẽ mang lại hiệu quả cao, góp phần xác lập uy tín, vị thế của Saigon Co.op trên thị trường trong và ngoài nước.
Sự kiện nổi bật nhất là sự ra đời siêu thị đầu tiên của hệ thống siêu thị Co.opmart là Co.opmart Cống Quỳnh vào ngày 09/02/1996, với sự giúp đỡ của các phong trào HTX quốc tế đến từ Nhật, Singapore và Thụy Điển. Từ đấy loại hình kinh doanh bán lẻ mới, văn minh phù hợp với xu hướng phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh đánh dấu chặng đường mới của Saigon Co.op.
Các thông tin liên quan.
Mua lại Auchan Việt Nam.
Từ 28/6/2019, Saigon Co.op tiếp quản toàn bộ hoạt động kinh doanh và nhân sự của 18 siêu thị Auchan Việt Nam.
Saigon Co.op và nhà bán lẻ Pháp Auchan cho biết hai bên đã đạt thoả thuận chuyển giao tất cả hoạt động bán lẻ Auchan tại thị trường Việt Nam, theo đó, Saigon Co.op sẽ nhận chuyển giao 15 cửa hàng, trong đó 3 cửa hàng còn hoạt động cùng các hoạt động thương mại điện tử, nền tảng online của Auchan. Sau đó, toàn bộ hệ thống, nhân sự, hàng hóa của Auchan tại Việt Nam được Saigon Co.op quản lý. Các thành viên của Auchan sẽ được chuyển đổi sang thành viên của Saigon Co.op theo nguyện vọng.
Giải thưởng, bằng khen.
Hệ thống đã nhận được những danh hiệu: | 1 | null |
Nguyễn Thị Cảo (阮氏暠; 1660 - 1736), là phu nhân của Quận công Nguyễn Gia Đa, nhũ mẫu của chúa Trịnh Cương, em con dì với bà Thái phi Trương Thị Ngọc Chử. Bà là cụ nội của nhà thơ Cung oán ngâm khúc trứ danh, Nguyễn Gia Thiều. Bà cùng với bà Trương Thái phi nổi tiếng qua điển tích "Ghênh đẻ Khe nuôi".
Tiểu sử.
Bà Nguyễn Thị Cảo còn có tên húy là Mêu, hiệu Diệu Thành, Trang Tĩnh đệ nhị nương. Người thôn Đại Tự, tổng Khương Tự, phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, vốn là đào nương ca trù.
Năm bà 16 tuổi, làm dâu dòng họ Nguyễn Gia ở Liễu Ngạn (còn gọi là làng Khe). Vốn con nhà nghèo, thời niên thiếu sống vất vả.
Một lần có gia đình giàu có mời thầy Tàu đến xem đất táng mộ, bà nghe lỏm được thầy địa lý phán:
Nửa đêm bà Cảo đánh tráo vị trí hai cành cây. Sáng hôm sau, thầy địa lý đi rồi, gia đình nhà giàu ra quan sát bỗng thất vọng: hai cành cây đều héo rũ. Họ cho rằng thầy bói nói dóc bèn không chú ý mảnh đất nữa. Chờ dịp thuận lợi, bà di táng hài cốt cha mình đến khu đất ấy.
Dường như lời tiên đoán ứng nghiệm, ông Nguyễn Gia Đa chồng bà, vốn là một quan cấm vệ, được phong chức Thái phó, tước Bỉnh Quận công. Bà sinh được ba con trai, cả ba đều được phong tước Quận công:
Bà mất năm Bính Thìn (1736), thọ 77 tuổi. | 1 | null |
Sinyavino () là một khu dân cư kiểu đô thị của Liên bang Nga, thuộc huyện Kirovsky, tỉnh Leningrad. Dân số ước tính vào năm 2011 là 3.793 người.
Khu dân cư nằm cách Sankt Peterburg về phía Đông và cách Kirovsk cũng về phía Đông. Sinyavino tọa lạc ở gần đường cao tốc P-21 "Kola" (hay còn gọi là đường cao tốc M18) và cách nhà ga Petrokrepost 9 cây số về phía Đông Nam.
Trong quyền quản trị của khu dân cư Sinyavino có một khu làng gọi là Sinyavino II. Ở khu vực xung quanh có tổng cộng 15.000 khu vườn, chủ nhân của những khu vườn này chủ yếu là dân cư của các huyện Nevsky, Vasileostrovsky và Moskovsky của thành phố Sankt Peterburg. Vào mùa hè, "dân cư" tại những khu vực này có thể lên tới 30.000 người.
Lịch sử.
Làng Sinyavino tọa lạc trên điểm cao cùng tên lần đầu tiên được nhắc tới trong lịch sử vào thế kỷ 18, trong một sắc lệnh của Nga hoàng Pyotr Đại đế có nội dung «розданы под поселение российских крестьян» земли: Aleksey Naumovich Senyavin và Trung úy Hải quân Sergey Senyavin.
Vào năm 1928, tại khu đầm lầy Sinyavino cách bãi than bùn của ngôi làng không xa, 9 khu dân cư được Nhà nước Xô Viết tổ chức quy hoạch và xây dựng. Đến năm 1930 tất cả chúng được sáp nhập lại dưới một đơn vị hành chính là khu dân cư Sinyavino. Cùng năm đó, Sinyavino được cấp quy chế khu dân cư kiểu đô thị.
Trong cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại (1941-45), Sinyavino trở thành nơi giao chiến dữ dội giữa Hồng quân Liên Xô và quân xâm lược của phát xít Đức, dưới mưa đạn chiến tranh toàn bộ khu dân cư đã bị phá hủy hoàn toàn. Các trận chiến khốc liệt tại đầu cầu Nevsky Pyatachok trên bờ sông Neva và cao điểm Sinyavino đã lấy đi sinh mạng của 36 vạn binh sĩ. Sau chiến tranh, Sinyavino được xây dựng lại và tiếp tục tồn tại, phát triển đến ngày nay.
Dân cư.
Dưới đây là biểu đồ dân cư của Sinyavino từ năm 1949 tới năm 2011:
Kinh tế.
Cơ sở sản xuất chính của Sinyavino là nhà máy đóng hộp thịt và gia cầm Severnaya.
Huy hiệu của Sinyavino.
Huy hiệu của khu dân cư Sinyavino được chấp thuận bởi quyết định số 24 vào ngày 15 tháng 9 năm 2008 của Ủy ban Đại biểu Quốc phòng. Trưởng nhóm thiết kế huy hiệu là K. S. Bashkirova. Герб внесён в Государственный геральдический регистр РФ № 4372.
Mô tả: huy hiệu hình chữ nhật, nền trắng có sọc đỏ cắt ngang nhau hình chữ thập. Trên huy hiệu có biểu tượng hình chiếc mũ giáp kiểu Nga nằm đè lên hai thanh kiếm vàng bắt chéo nhau. | 1 | null |
Dr. Jin (Tiếng Hàn: 닥터 진) hay Time Slip Dr. Jin là bộ phim truyền hình Hàn Quốc kể về 1 bác sĩ phẫu thuật thần kinh thế kỉ 21 du hành thời gian trở về thời đại Joseon, vai diễn được thủ bởi Song Seung-hun.
Bộ phim dựa trên tập truyện tranh "Jin" được viết bởi Motoka Murakami, đã được chuyển thể thành phim truyền hình "JIN" trước đó, chiếu trên TBS vào năm 2009.
Để phù hợp với lịch sử Triều Tiên, bối cảnh phim được chuyển từ thời kì tiền Edo sang thời đại Joseon và nhân vật lịch sử Nhật Bản thực là Sakamoto Ryoma được thay thế bởi nhân vật chính trị Triều Tiên Lee Ha-eung (Hưng Tuyên Đại Nguyên Quân - Lý Hạ Ứng).
Nội dung.
Jin Hyuk là một bác sĩ phẫu thuật thần kinh thiên tài, sinh ra trong gia đình có truyền thống y học. Với khả năng phân tích tình hình nhanh chóng cùng đôi bàn tay tuyệt diệu, tỉ lệ thành công trong các cuộc phẫu thuật của anh luôn ở mức xấp xỉ 100%. Vì theo đuổi sự hoàn hảo của bản thân mà Jin Hyuk trở nên lãnh đạm, có đôi chút vô cảm. Đang chuẩn bị cầu hôn bạn gái là Mi-na thì cô ấy gặp tai nạn và hôn mê sâu.
Sau một cuộc phẫu thuật cắt bỏ khối u não của một bệnh nhân, một năng lược huyền bí đã đưa Jin Hyuk xuyên không trở về thời Joseon năm 1860 - thời kì mà kĩ thuật y học còn lạc hậu. Anh bắt đầu chữa trị cho bệnh nhân trong vùng, nhưng sự thiếu thốn các dụng cụ y khoa khiến anh phải tự phát minh. Jin Huyk nhận được sự giúp đỡ của nhiều người, đặc biệt là tiểu thư Hong Yeong Rae, Jin Hyuk dần hoàn thiện và trở thành một danh y. | 1 | null |
Bãi Bình Sơn (tiếng Anh: "Iltis Bank"; , Hán-Việt: "Ngân Lịch than") là một bãi ngầm thuộc nhóm đảo An Vĩnh của quần đảo Hoàng Sa. Bãi này nằm cách đảo Phú Lâm 7 hải lý (13 km) về phía tây nam.
Bãi Bình Sơn là đối tượng tranh chấp giữa Việt Nam, Đài Loan và Trung Quốc. Vì là bãi ngầm hoàn toàn chìm sâu 10,6-14,8 m dưới nước biển, nên không một quốc gia nào thực sự kiểm soát bãi Bình Sơn, Trung Quốc kiểm soát vùng biển trên bãi ngầm này bằng các lệnh cấm biển hàng năm, nhưng ngư dân Việt Nam vẫn tham gia đánh bắt hải sản trên bãi ngầm và vùng biển xung quang quần đảo Hoàng Sa, và tàu hải quân Hoa Kỳ những năm gần đây vẫn thường xuyên thực hiện các hoạt động tuần tra tự do hàng hải (FONOP) tại vùng biển quanh quần đảo Hoàng Sa trong đó có vùng biển bãi Bình Sơn.
Tên gọi.
Vào thời Chúa Nguyễn và Nhà Nguyễn, cái tên Bình Sơn từng là tên gọi của huyện Bình Sơn phủ Quảng Nghĩa (Quảng Ngãi) trấn Quảng Nam, thời Nhà Nguyễn phủ Quảng Ngãi tách ra từ Quảng Nam thành tỉnh Quảng Ngãi. Tên gọi nhóm đảo An Vĩnh được Việt Nam đặt theo tên gọi của một xã cổ thuộc phủ Quảng Nghĩa (Quảng Ngãi) sau này là thuộc tỉnh Quảng Ngãi. Phủ biên tạp lục của Lê Quý Đôn có viết:"Xã Phú Xuân thuộc huyện Bình Sơn và xã Phước Khương thuộc huyện Chương Nghĩa phủ Quảng Nghĩa đều ở gần sông... Xã Yên Vĩnh (An Vĩnh) thuộc huyện Bình Sơn phủ Quảng Nghĩa ở gần bãi biển...".
Đặc điểm:.
Bãi ngầm dài 3 hải lý (5,6 km), rộng 1,5 hải lý (2,8 km) và sâu từ 10,6-14,8 m. | 1 | null |
VHDL (VHSIC-HDL, Very High-Speed Integrated Circuit Hardware Description Language, tạm dịch: Ngôn ngữ Mô tả Phần cứng cho Vi mạch tích hợp Tốc độ cao) là một ngôn ngữ lập trình dùng để mô tả phần cứng, dùng trong thiết kế điện tử tự động để mô tả những hệ thống điện tử và bán điện tử như FPGA và các vi mạch tích hợp. VHDL còn được dùng như là một ngôn ngữ đa dụng trong lập trình song song.
Lịch sử.
Vào năm 1983, VHDL được khai triển theo yêu cầu của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ để ghi lại hành vi của các mạch ASIC mà các công ty cung cấp linh kiện đang dùng trong thiết bị của họ. Chuẩn MIL-STD-454N, Yêu cầu 64, Mục 4.5.1 "Ghi chép về ASIC bằng VHDL" có chỉ định rõ yêu cầu ghi chép tư liệu của "Các thiết bị Vi điện tử" bằng ngôn ngữ VHDL.
Ý tưởng giả lập các mạch ASIC chỉ từ thông tin trong các tư liệu trên cuốn hút đến nỗi các trình giả lập mạch logic được phát triển để đọc định dạng file VHDL này. Bước phát triển tiếp sau đó là các công cụ tổng hợp mạch logic đọc mã VHDL và xuất ra cách cài đặt bằng phần cứng của mạch đã cho.
Do Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ yêu cầu cú pháp của VHDL gần với Ada nhất có thể để tránh phải "phát minh lại" các khái niệm đã có sẵn và được thực nghiệm kĩ từ trước trong ngôn ngữ Ada, VHDL mượn khá nhiều khái niệm và cú pháp ngôn ngữ từ Ada.
Phiên bản đầu tiên của VHDL được thiết kế dựa theo chuẩn IEEE 1076-1987, bao gồm các kiểu dữ liệu như:
Phần mềm liên quan.
Bảng dưới đây là danh sách tổng hợp các phần mềm, trình giả lập liên quan đến ngôn ngữ VHDL. | 1 | null |
Hoài Thanh là một phường thuộc thị xã Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định, Việt Nam.
Địa lý.
Phường Hoài Thanh cách trung tâm thị xã Hoài Nhơn 10 km về phía đông, có vị trí địa lý:
Phường Hoài Thanh có diện tích 16,56 km², dân số năm 2019 là 12.480 người, mật độ dân số đạt 754 người/km².
Tỉnh lộ 639 chạy qua địa bàn phường, thuận lợi cho việc vận chuyển hàng hóa, giao lưu với các địa phương lân cận một cách nhanh chóng, thuận lợi.
Hành chính.
Phường Hoài Thanh được chia thành 10 khu phố: An Dinh 1, An Dinh 2, An Lộc 1, An Lộc 2, Lâm Trúc 1, Lâm Trúc 2, Mỹ An 1, Mỹ An 2, Trường An 1, Trường An 2.
Lịch sử.
Sau năm 1975, Hoài Thanh là một xã thuộc huyện Hoài Nhơn.
Ngày 7 tháng 11 năm 1986, xã Hoài Thanh được chia thành hai xã Hoài Thanh và Hoài Thắng (nay là phường Hoài Thanh Tây).
Sau khi điều chỉnh, xã Hoài Thanh có 1.662 ha diện tích tự nhiên và 9.920 người.
Ngày 22 tháng 4 năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành Nghị quyết số 932/NQ-UBTVQH14 về việc thành lập thị xã Hoài Nhơn và các phường thuộc thị xã Hoài Nhơn (nghị quyết có hiệu lực từ ngày 1 tháng 6 năm 2020). Theo đó, thành lập phường Hoài Thanh thuộc thị xã Hoài Nhơn trên cơ sở toàn bộ 16,56 km² diện tích tự nhiên và 12.480 người của xã Hoài Thanh. | 1 | null |
Nguồn gốc của môn bóng chày là một điều vẫn còn nghi ngờ và chưa ai dám chắc chắn. Người ta đã tìm được dấu vết của một môn thể thao chơi ở Ai Cập cổ đại sử dụng chày và bóng và một trái banh có hình dạng tương đương banh bóng chày có niên đại hơn 2000 năm tuổi hiện nay đang được trưng bày tại Bảo tàng Anh quốc tại London.
Những trò chơi khiến chúng ta liên tưởng đến môn bóng chày đã từng xuất hiện ở Walacchia - ngày nay là một phần của Rumani, (Oina: 2 liên bang ở Moldova và Rumani, là những nơi vẫn còn chơi trò chơi đó ở Châu Âu) và Nga (Lapta) trong thế kỷ 14. Trò chơi với chày và bóng đã từng rất phổ biến trong giới tu sĩ ở Pháp trong năm 1330. Trong cùng thời gian, một bài thơ của William Pagula đề cập đến một trò chơi tên là Stoolball, ban đầu được chơi bởi những người vắt sữa, người ta sử dụng milking stools (cái ghế vắt sữa có 3 chân và cũng có nghĩa là ba cái cọc đặt phía sau batter trong môn wickets) giống như môn wickets. Ở Đức người ta cũng từng rất thích một trò chơi có tên là Schlagball (Một đội chơi gồm 12 người), mà người vẫn còn chơi ở khu vực Kiel, tổ chức một vài giải đấu một năm.
Có một số ít bằng chứng cho thấy bóng chày xuất phát từ môn Rounders. Trên thực tế, đó chỉ là bằng chứng của một trò chơi cải tiến từ môn Rounders (Trò chơi này trong đó, bạn sử dụng posts (các cây cọc dùng để đánh dấu chốt chạy cho runner) mà không cần có các base và người tấn công có thể chạy mà không cần đánh trúng bóng) được chơi tại Mỹ trong thế kỷ 19 và được gọi là Town Ball. Trong bất cứ trường hợp nào, sự liên hệ lịch sử tới môn Rounders (Vẫn còn được chơi tại các quần đảo thuộc Anh và theo luật của "Hiệp hội Gaelic Athletic " (www.gaa.ie) cùng với Gaelic football và Hurling) là vào năm 1744 và xuất hiện trong một cuốn sách cho trẻ em in bởi nhà xuất bản Anh John Newbery và đặt tên là "A little pretty pocket book". Cuốn sách vẫn chứa các vần thơ gây nhầm lẫn giữa bóng chày và Rounders.
Có vẻ như bóng chày và Rounders chia sẻ cùng xuất xứ với Cricket, một trò chơi được các mục đồng vùng Flemish (krick trong ngôn ngữ của họ có nghĩa là chày hoặc gậy) mang tới nước Anh trong thế kỷ 14, nhưng đã trở thành một môn thể thao có tổ chức trong thế kỷ 17.
Mặt khác, có bằng chứng rõ ràng rằng trong thế kỷ 18, một trò chơi được gọi là Bóng chày đã được chơi ở Anh. Trong "Northanger Abbey" (Một cuốn sách đã được xuất bản năm 1818, nhưng đã được viết từ năm 1790), tác giả người Anh Jane Austen mô tả nhân vật Catherine Morlan như là một người phụ nữ thích môn cricket, bóng chày. Tác giả người Đức Johann Gutsmuth đã viết vào năm 1796 một cuốn sách về những thú tiêu khiển phổ biến, trong đó ông đề cập đến một trò chơi có tên gọi tiếng Anh là Baseball.
Điều này là không đủ để kết luận rằng các trò chơi chúng ta biết ngày hôm nay như bóng chày là một trò chơi xuất phát từ Anh. Trên thực tế, có một trò chơi có tên tiếng Anh là Baseball (www.britishbaseballassociation.co.uk). Trò chơi đó hiện vẫn còn được chơi ở xứ Wales, luật chơi gồm có 11 cầu thủ trên sân và không có người ném bóng, nhưng lại có bowler (người phát bóng) như trong môn Cricket. Mỗi đội chơi 2 hiệp và một hiệp hoàn thành khi tất cả 11 cầu thủ có cơ hội đánh bóng. Người chạy có điểm cho mỗi lần chiếm chốt.
Việc gì đến cũng phải đến, vào cuối thế kỷ 18, khi các trò chơi đến các thuộc địa. Al Spalding, một cựu Pitcher và là 1 nhà sản xuất dụng cụ thể thao nổi tiếng trên thế giới, đã kiếm được một câu chuyện hoàn hảo về nguồn gốc bóng chày: một người đàn ông tên là Abner Doubleday (một sĩ quan quân đội, một anh hùng trong cuộc chiến tranh Seminoles và là một vị tướng trong cuộc Nội chiến Hoa Kỳ) đã phát minh trò chơi bóng chày vào năm 1839 trong một thành phố được gọi là Cooperstown, một trong những thành phố đầu tiên ở Hoa Kỳ dành riêng cho người bản xứ. Một câu chuyện quá hoàn hảo và Doubleday đã không tự mình tuyên bố.
Việc Doubleday phát minh ra môn bóng chày có lẽ là cơ sở xác thực nhất về nguồn gốc của việc phát minh ra bóng chày, nhưng có một số ít nghi ngờ rằng ông chỉ là người đóng góp trong ý tưởng của việc phát minh ra sân bóng chày (hoặc hình dạng kim cương của nó) như chúng ta đã biết hiện nay. Mặc khác người viết ra luật bóng chày lại là một người bán sách ở New York tên là Alexander Cartwright, ông đã sáng lập một đội bóng tên là The Knickerbockers vào năm 1839, viết các luật bóng chày vào năm 1845 (Quốc hội Mỹ đã thông qua vào năm 1953) và tổ chức các trận đấu đầu tiên tại Hoa Kỳ vào ngày 19 tháng 6 năm 1846 tại Hoboken, New Jersey. Mặc dù vậy, các trận đấu bóng chày đầu tiên không phải là ở Bắc Mỹ. Các trận đấu đầu tiên của bóng chày ở Châu Mỹ bắt đầu từ tháng 6 năm 1838 và là ở Ontario, Canada.
Cũng trong năm đó, bóng chày đã trở thành môn thể thao chuyên nghiệp đầu tiên. Năm 1850, "Hiệp hội quốc gia của các cầu thủ bóng chày" (NABBP) được sinh ra, the National League (liên đoàn bóng chày quốc gia) được thành lập và thi đấu vào năm 1876.
Mỹ đã cố gắng để biến nó thành trò chơi phổ biến trên toàn thế giới. Năm 1878, một cầu thủ chuyên nghiệp tên là Esteban Bellan đã giới thiệu trò chơi này ở Cuba (Phổ biến bóng chày ở toàn bộ vùng biển Caribbean) và năm 1870 chày và bóng đến Nhật Bản (từ đó nhanh chóng đến Triều Tiên và Đài Loan) nhờ Horace Wilson. Bóng chày đã được chơi tại Úc, New Zealand và Nam Thái Bình Dương vào năm 1888 và 1889. Trong tháng 2 năm 1889 một tour du lịch do Albert Spalding tổ chức đã mang trò chơi này đến Ý. Một giải vô địch đã được tổ chức ở Anh vào cuối thế kỷ 18.
Trò chơi thực sự được quốc tế hóa trong thế kỷ 20. Vào năm 1903 tại Hoa Kỳ the American League (Liên đoàn bóng chày Mỹ) bắt đầu thi đấu với the National League trong giải World Series. Baseball Leagues (có thể hiểu là các giải đấu bóng chày) bắt đầu được tổ chức lan rộng trên toàn thế giới: năm 1922 ở Hà Lan, 1934 tại Úc, 1936 tại Nhật Bản, 1938 ở Puertorico, 1945 tại Venezuela và México, năm 1948 tại Ý.
Chú thích.
Bài viết chỉ mang tính tham khảo. Mọi sự sao chép phải có chú thích ghi rõ nguồn gốc của bài. | 1 | null |
Trận Königgrätz, còn gọi là Trận Sadowa hay Trận Sadová theo tiếng Tiệp Khắc, là trận đánh then chốt của cuộc Chiến tranh Áo-Phổ, diễn ra vào ngày 3 tháng 7 năm 1866, và chấm dứt bằng việc quân đội Phổ do Vua Wilhelm I và Tổng tham mưu trưởng Helmuth von Moltke chỉ huy đánh bại hoàn toàn liên quân Áo-Sachsen do tướng Ludwig von Benedeck chỉ huy. Với quy mô vượt mức trận Leipzig năm 1813, đây được xem là cuộc đọ sức lớn nhất của các lực lượng quân sự trong thế giới phương Tây trước Chiến tranh thế giới thứ nhất, với quy mô vượt mức trận Leipzig năm 1813. Kết quả trận này đã xác định hoàn toàn phần thắng của Phổ trong cuộc chiến, dù đây là diều trái ngược với dự đoán của đa số dư luận trước chiến tranh. Trận Königgrätz còn được giới sử học đánh giá là một kiệt tác chiến trận khẳng định ưu thế vượt trội về tổ chức và trang bị của quân đội Phổ so với các nước khắc ở Bắc Đức.
Trận đánh xuất phát từ một kế hoạch của Bộ Tổng tham mưu Phổ, đứng đầu là Moltke, nhằm huy động ba tập đoàn quân lớn hành quân độc lập từ nhiều hướng, tập kết về Königgrätz để bao vây, tiêu diệt quân đội Áo-Sachsen. Sau nhiều thắng lợi ban đầu, quân Phổ áp sát phòng tuyến chính của quân Áo gần Königgrätz. Trận đánh bùng nổ khi quân Phổ thuộc Tập đoàn quân số 1 (Thân vương Friedrich Karl chỉ huy) và Tập đoàn quân Elbe (tướng Herwarth von Bittenfeld chỉ huy) xông lên phá trận. Do tuyến điện báo bị hỏng, Tập đoàn quân số 2 (Phổ) do Thái tử Friedrich Wilhelm chỉ huy còn xa chiến trường mà lại không nhận được lệnh tiến công. Đến trưa, quân Áo với ưu thế về quân số và pháo binh đã bẻ gãy cá mũi tấn công của địch. Cùng lúc đó, các sứ giả của Moltke cuối cùng đã đưa được lệnh tới Tập đoàn quân số 2, khiến cánh quân này phải hành quân gấp qua những đoạn đường lầy lội và vào chiều, họ đã nhập trận và đánh tan cánh phải mỏng manh của địch. Pháo binh dự bị của Quân đoàn Vệ binh Phổ do Vương tước Hohenhole chỉ huy cũng nghiền nát trung quân Áo. Thừa thắng, vua Phổ Wilhelm I hạ lệnh tổng tấn công trên mọi hướng. Bị thiệt hại gấp 6 lần địch và buộc phải hy sinh lực lượng pháo binh và đoàn xe tiếp tế của mình trên trận tuyến, quân chủ lực Áo-Sachsen tháo chạy về pháo đài Königgrätz trong tình trạng vô cùng hỗn loạn và không còn sức kháng cự hiệu quả.
Thắng lợi mau lẹ của quân đội Phổ trước Áo gây cho cả châu Âu hết sức choáng ngợp. Mặc dù sự tồi tệ của giới chỉ huy quân sự Áo đã là một nhân tố quan trọng dẫn đến sự thất trận của họ, điều mà mọi quan sát viên đều chú ý trong chiến dịch Königgrätz là hiệu quả đáng gờm của "súng trường Dreyse", loại súng tối tân có tốc độ bắn vượt xa súng trường nạp trước của Áo và thuận lợi cho phía Phổ cả khi công lẫn thủ. Trong khi đó, phương pháp tác chiến theo các toán quân lẻ của Moltke đã phần nào làm giảm ưu thế về pháo lực của đối phương. Giờ đây, con đường đến đã rộng mở cho người Phổ đánh chiếm đế đô Viên, đẩy triều đại nhà Habsburg đến bờ vực diệt vong. Song, vì mục đích chính trị lâu dài của mình, Thủ tướng Bismarck đã khuyên giải vua Phổ chấm dứt cuộc tiến công và khai mạc đàm phán với chính quyền Viên – vốn cũng không còn cách nào khác ngoài nhượng bộ. Hòa ước được ký kết ở Praha đầu tháng 8, dẫn đến sự thành lập Liên bang Bắc Đức với minh chủ là Vương triều Phổ. Bằng việc xác lập vai trò của nước Phổ dưới trào Bismarck như một trong những cường quốc hàng châu Âu và kết liễu sự bá quyền của nước Áo tại Đức, trận chến Königgrätz đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử.
Bối cảnh lịch sử.
Vào tháng 9 năm 1862, Otto von Bismarck trở thành Thủ tướng của Vương quốc Phổ. Ông chủ trương đối đầu với người Áo và cổ vũ cho Bộ trưởng Bộ Chiến tranh Albrecht von Roon và Tổng tham mưu trưởng Helmuth von Moltke Lớn ra sức cải cách đổi mới lực lượng quân đội Phổ. Vào năm 1864, liên minh Áo-Phổ đã đánh bại Đan Mạch trong cuộc Chiến tranh Schleswig lần thứ hai, buộc Đan Mạch phải nhượng cho họ hai Công quốc Schleswig và Holstein. Tiếp theo đó, vào các năm 1865 – 1865, Bismarck chuẩn bị cho một cuộc chiến tranh mới, lần này là chống lại Đế quốc Áo, nhằm loại bỏ hoàn toàn nước Áo ra khỏi gia đình các dân tộc Teuton.
Một nguyên nhân khiến cho cuộc chiến tranh này sẽ diễn ra là do người Phổ nuôi chí phục thù sự lăng nhục của người Áo đối với họ trong Hiệp ước Olmütz hồi năm 1850 làm tiêu tan hy vọng thống nhất nước Đức. Trước hết, vị Thủ tướng đảm bảo sự trung lập của Đế quốc Nga và Pháp. Người Nga, vốn đang tranh giành quyền lợi với Áo tại vùng Balkan, cũng bất mãn với vai trò của Áo trong cuộc Chiến tranh Krym. Đồng thời, giới lãnh đạo Nga cũng biết ơn Bismarck vì đã niêm phong biên giới của Phổ với Ba Lan trong cuộc khởi nghĩa của nhân dân Ba Lan vào năm 1863 chống lại ách thống trị của người Nga – điều này khiến cho Nga dễ dàng dập tắt cuộc khởi nghĩa. Vào tháng 10 năm 1865, Bismarck tiếp kiến Hoàng đế Pháp là Napoléon III tại Biarritz và hứa hẹn sẽ nhượng bộ vùng ven sông Rhine cho Pháp, đổi lại Pháp phải giữ thái độ trung lập. Napoléon III tỏ ra thèm muốn chiến tranh đến mức mà ông nỗ lực biến Ý thành một đồng minh của Phổ, cũng đồng thời cho nước Áo biết rằng ông ta đang cố gắng bằng mọi giá để mà giữ vững sự trung lập của Ý. Bản thân chính quyền Ý thời bấy giờ cũng muốn giành lại miền Venezia từ Áo.
Sau khi đã cô lập nước Áo, Bismarck bắt đầu phát động cuộc chiến tranh nhằm xóa bỏ Liên minh Đức. Vào ngày 14 tháng 6 năm 1866, trước tình hình nóng bỏng, các quốc gia trực thuộc Liên minh các quốc gia Đức đồng ý liên minh với Áo và khai chiến với Phổ. Đồng thời, quân đội Ý cũng tấn công vùng Venetia thuộc Áo. Vào ngày 18 tháng 6 năm 1866 vua nước Phổ là Wilhelm I đã hiệu triệu nhân dân giương cao khí giới. Vào ngày 21 tháng 6 năm ấy, nước Áo đã tổng động viên quân đội và sau 20 ngày thì nước Phổ theo gót Áo. Như vậy là, một cuộc xung đột đã bùng nổ giữa các quốc gia tại Đức (chủ yếu là Hanover và Sachsen) và Đế quốc Áo với Vương quốc Phổ và Ý. Chỉ có một số nước nhỏ ở miền Bắc Đức là đứng về phía Phổ. Bismarck quyết định sẽ tiến hành một cuộc chiến tranh nhanh gọn, và quả thực, cuộc chiến chỉ kéo dài trong vòng bảy tuần. Các lực lượng bị phân rã của Liên minh Đức không thể nào tập trung, khiến cho hai nước Áo và Phổ trở thành hai phe tham chiến chính yếu của cuộc chiến.
Ngay từ ngày 2 tháng 6 năm 1866, Quốc vương Wilhelm I đã giao cho Tổng tham mưu trưởng của ông là Moltke quyền ban hành mệnh lệnh trên danh nghĩa Đức vua. Moltke đã triển khai ba tập đoàn quân tiến đánh người Áo dọc theo 250 dặm Anh ("miles") ở biên cương. Ông lập kế hoạch cho cả ba Tập đoàn quân đều xuất hành theo ba trục song song về hướng Nam và tiến vào Böhmen. Vùng Böhmen trở thành chiến trường chính yếu của cuộc chiến. Tận dụng triệt để 5 tuyến đường sắt sẵn có của mình nhằm nhanh chóng vận chuyển binh lính và lương thực, Moltke đã quy tụ được ba tập đoàn quân Phổ tại ba địa điểm dọc theo một mặt trận dài 450 km: Tập đoàn quân sông Elbe dưới sự chỉ huy của Tướng Karl Herwarth von Bittenfeld quanh Torgau, Tập đoàn quân số 1 dưới quyền Thân vương Friedrich Karl quanh Görlitz và Tập đoàn quân số 2 dưới quyền Thái tử Friedrich Wilhelm quanh Schweidnitz-Neisse. Thực hiện phương châm "hành quân riêng rẽ và hợp nhất trong trận chiến" của Moltke, Tập đoàn quân số Elbe được lệnh tiến quân qua miền Trung Sachsen ở hướng Tây, trong khi Tập đoàn quân số 1 sẽ kéo vào miền Đông Sachsen và Tập đoàn quân số 2 sẽ thẳng tiến vào vùng Böhmen ở hướng Đông. Với mệnh lệnh ngày 22 tháng 6: "Đức Kim thượng truyền cho cả hai tập đoàn quân tiến vào Böhmen và tìm cách hội quân theo hướng Gitschin", ban bố cho các Tập đoàn quân số và số 2 (có hiệu lực với cả Tập đoàn quân Elbe ở Sachsen, vốn được xem là trực thuộc Tập đoàn quân số 1), Moltke dự kiến sẽ tập kết ba tập đoàn quân ở gần Gitschin (Jiçin) trước khi kéo rốc tới Ölmütz (Olomouc) – nơi mà những thông tin tình báo đã cho biết người Áo dự định tập trung binh lực của mình – nhằm rút ngắn độ dài của cuộc chiến. Mặc dù chỉ ra rằng Gitschin là một địa điểm thuận lợi về giao thông, Moltke cũng nói thêm một câu đầy tính thực dụng với Thái tử: "Dĩ nhiên đó không có nghĩa là Gitschin phải được tiếp cận bằng mọi giá; điều này lệ thuộc vào diễn tiến các sự kiện".
Về phía Áo, cuộc chiến ở Ý năm 1859 cho thấy Hoàng đế Franz Joseph của Áo không là người có khả năng chỉ huy các lực lượng Áo trên trận tiền. Do đó, ông bổ nhệm Ludwig von Benedek – vốn được nhiều người nhìn nhận là viên chỉ huy quân sự xuất sắc nhất của Áo sau Radetzky – làm Tổng chỉ huy Tập đoàn quân Phía Bắc của Áo. Duy chỉ có Benedek hiểu được những hạn chế của mình. Ông biết rằng cuộc chiến tại Böhmen không nằm trong năng lực của mình, trái ngược với các chiến trường ở Ý trước kia. Mặc dù Benedek từ chối, Hoàng đế nhất nhất phải đề cử ông, và Benedek buộc phải miễn cưỡng chấp nhận trọng trách của mình. Trái ngược với Moltke, Benedek không hề sử dụng đầy đủ hệ thống đường sắt của Áo, thành thử phần lớn các trung đoàn của Tập đoàn quân Phía Bắc phải bộ hành từ các đồn binh của họ ở Mähren đến Böhmen. Do không muốn trở thành kẻ gây hấn trong con mắt của châu Âu, người Áo chủ trương giữ thế phòng ngự về cả chính trị và ngoại giao. Không may cho người Áo, thái độ bị động đã bỏ dỡ mọi cơ hội đối với họ. Song, trên khắp châu Âu, họ được dự đoán rộng rãi là sẽ giành phần thắng trong cuộc chiến tranh này. Bên cạnh ưu thế về dân số, quân số và ngân sách quốc phòng, Áo còn có những tướng lĩnh giàu kinh nghiệm hơn so với đối phương: họ vừa đánh với người Pháp và Ý bảy năm trước trong khi Phổ chưa hề đánh với một cường quốc nào kể từ sau những cuộc chiến tranh của Napoléon.
Do chia làm ba tập đoàn quân, lực lượng của Moltke đã có thể tiếp tế cho mình và tiến nhanh hơn nhiều so với dự kiến của Benedek. Mặc dù tốc độ hành quân của Tập đoàn quân số 1 và số 2 không đủ nhanh để thực hiện cuộc hội quân tại Gitschin, chiến lược tấn công của Moltke đã giành được thắng lợi ban đầu: sau khi các Tập đoàn quân số 1 và Elbe hội quân vào ngày 28 tháng 6, quân Phổ đánh thắng quân liên minh Áo và Sachsen trong các trận đánh tại trận Münchengrätz vào ngày 28 tháng 6 và Gitschin vào ngày 29 tháng 6 năm 1866. Trong khi đó, Benedek vẫn tin rằng Tập đoàn quân số 2 của Phổ đang bắc tiến qua vùng núi Böhmen và chưa phải là một vấn đề đáng chú ý. Ông bỏ qua cơ hội tấn công tiêu diệt một trong các tập đoàn quân Phổ sơ hở nhất và đang tiến qua vùng núi chật hẹp và Tập đoàn quân số 2 đã đánh bại các lực lượng Áo trên đường tiến của mình. Sau thất bại ở Gitschin, tướng Clam-Gallas bị huyện chức. Ngoài ra, Thống chế Alfred Freiherr von Henikstein, tham mưu trưởng của Benedek, cũng bị thay thế bằng tướng Baumgarten. Phải đến ngày diễn ra trận Königgräz thì Baumgarten mới đến tổng hành dinh quân đội Áo, và sự trì hoãn này sẽ làm cho tình hình của phía Áo càng thêm rối ren do họ có đến đến hai tham mưu trưởng trên chiến trường trong trận chiến. Chỉ sau vài trận đánh, 35.000 quân Áo đã bị loại khỏi vòng chiến, gây suy nhược tinh thần của toàn bộ quân đội Áo và đánh gục ý chí chiến thắng của Benedek. Ông bị buộc phải hạ lệnh triệt binh khỏi Böhmen về phòng ngự ở Ölmütz. Đồng thời, ở miền Bắc Đức, chỉ hai tuần sau khi tuyên bố chiến tranh, Tập đoàn quân Phía Tây của Phổ dưới quyền Tướng Eduard Vogel von Falkenstein đã đánh thắng quân Hanover trong trận Langensalza và chấm dứt mọi hiểm nguy đến từ hướng đó.
Tình hình hai phe trước trận chiến.
Cuộc triệt binh khởi đầu vào ngày 30 tháng 6 theo hướng Königgrätz, và trên đường rút Benedek đã gặp Beck, một sứ giả của Hoàng đế Áo. Thông qua vị sứ giả, Benedek hối thúc Hoàng đế phải cầu hòa vì đây là cách duy nhất để cứu rỗi quân đội thoát khỏi "thảm họa". Không lâu trước buổi trưa ngày 30 tháng 6, Beck cùng với hai viên chức khác đã đánh điện khẩn cấp yêu cầu Hoàng đế giảng hòa, nhưng vài tiếng đồng hồ sau, Franz Joseph phán: "Không thể nghị hòa. Nếu không tránh khỏi, Trẫm cho phép rút lui trong trật tự. Đã có trận đánh nào diễn ra chưa?" Lời cuối cùng khó hiểu trong bức điện tín của Hoàng đế được Benedek diễn giải là mệnh lệnh không được triệt thoát trước khi đánh một trận lớn. Bản nhân viên Tổng chỉ huy quân Áo giờ đây vẫn nhận thấy khả năng đánh một trận phòng ngự trên khoảng đất cao giữa các sông Bistritz và Elbe. Niềm tin của ông bắt đầu được hồi sinh khi mà ông chỉnh đốn quân ngũ để chuẩn bị trận đánh quyết định sắp sửa xảy ra. Benedeck tập trung binh lực hướng về phía Tây dọc theo một mặt trận trải dài 10 dặm Anh từ Josephstadtz về hướng Nam tới Königgrätz và ở trên ngôi làng Sadowa.. Moltke đã mô tả vị trí phòng ngự của quân Áo đằng sau sông Bistritz là "cực kỳ vững mạnh".
Rút kinh nghiệm từ thất bại của quân Áo trong các trận đánh trên địa hình mở ở Skalitz và Soor, Benedek tận dụng mọi lợi thế mà địa thế rừng đồi của chiến địa đem lại. Ông chia quân làm 4 cụm. Ở trung tâm, tại Chlum - Lipa, Quân đoàn III và Quân đoàn X án ngữ toàn bộ chiến tuyến, với khoảng 44.000 lính và 134 đại bác. Cả hai quân đoàn đều bài trí các đơn vị tiền tiêu gần cầu Sadowa để đánh trả cuộc vượt sông của đối phương. Ở cánh trái, Quân đoàn Sachsen và Quân đoàn VIII, gồm 40.000 lính và 140 đại bác, trấn giữ khu vực bao gồm Techlowitz, Neu Prim, Ober Prim, Nieder Prim và Problus, đồng thời cũng bố trí các tuyến tiền đồn về phía các địa điểm vượt sông Bistritz. Cánh phải, mà cũng là cạnh yếu nhất của quân Áo trên trận tuyến, được phòng bị bởi Quân đoàn IV và Quân đoàn II với 55.000 lính và 176 đại bác, giữa Chlum và Nedelist. Quân Áo đã xây dựng các ụ pháo khổng lồ dọc theo cao điểm giữa Chlum và Nedelist với tầm bắn xuyên địa hình đồi núi và rừng rậm, mặc dù cao điểm này bị chi phối bởi cách không xa bị hướng bắc, cao điểm này bị chi phối bởi các ngọn đồi Maslowed và Horenowes, đồng thời đào một hệ thống chiến hào và công sự. Viên chỉ huy bộ phận kỹ thuật của Benedek, Đại tá Franz Karl Freiherr von Pidoll zu Quintenbach cũng cho người đốn các cây trong khu rừng phía trên Sadowa và thả các ngọn và cành cây về hướng mà địch sẽ tiến tới, để hình thành chiến ngại vật. Cả hai cánh quân Áo đều được một sư đoàn kỵ binh yểm trợ. Giữa Rosberitz và Wsestar, các quân đoàn I và VII, cùng với lực lượng kỵ binh và pháo binh hạng nặng, hình thành cụm quân trừ bị với 47.000 bộ binh, 11.435 kỵ binh và 320 đại bác. Các số liệu này đều lấy từ cuốn "The Battle of Königgrätz: Prussia's Victory Over Austria, 1866" của Gordon A. Craig, các trang 88-89.
Benedek hy vọng sẽ chiến đấu ở thế phòng ngự, rồi đến một thời khắc định đoạt thì tung một đòn hồi mã thương để phá vỡ trung quân Phổ. Nhưng, bất chấp những lời cảnh báo từ viên sĩ quan tình báo hàng đầu của ông, Benedek nghĩ rằng ông sẽ đương đầu với mỗi Tập đoàn quân số 1 của đối phương. Điều đó được thể hiện qua một sơ hở trong hệ thống phòng thủ hình bán nguyệt của ông: cả hai cánh quân Áo đều dựa lưng vào sông Elbe, tạo cho họ khó có thể đương đầu với một đòn hợp vây của địch. Do đường rút của họ chạy dọc theo con đường chính Sadowa-Königgräz, nó dễ dàng bị cắt đứt.
Quân đội hai bên có quân số ngang ngửa nhau. Theo học giả Hoa Kỳ là Spencer Tucker, Moltke thống lĩnh khoảng 221 nghìn quân cùng với 702 khẩu pháo, trong khi dưới tay Benedeck có 206 nghìn quân (trong đó có 184 nghìn quân Áo và 22 nghìn quân Sachsen) cùng với 650 khẩu pháo. Cuốn "Encyclopedia of Modern War" của tác giả Roger Parkinson cũng cho biết Moltke đã dẫn đầu 22 vạn quân chống lại 19 vạn quân Áo và 25 nghìn quân Sachsen. Còn theo tác giả Bayard Taylor trong cuốn "History of Germany" thì tổng binh lực của phía Phổ là 26 vạn người kèm theo 790 khẩu pháo, trong khi phía Áo có quân số tương đương. Nhà sử học quân sự người Úc là John Laffin cũng cho biết, tập đoàn quân của Benedeck gồm thâu 215.000 người Áo, Sachsen và Hungary. Quân đội Áo có kỵ binh và pháo binh mạnh hơn đối phương, nhưng súng trường Lorenz nạp trước của họ không thể bì được súng trường nạp hậu "Dreyse" của Phổ. Mặc dù khẩu Lorenz có tầm bắn xa và độ bắn chính xác hơn Dreyse, loại súng trường nạp hậu của Phổ có tốc độ bắn nhanh gấp năm lần so với súng trường của đối phương. Khẩu Dreyse có thể được sử dụng hiệu quả khi quỳ hoặc nằm rạp trong phòng ngự, cũng như khi di chuyển linh hoạt trong tấn công; trái lại, sau mỗi phát bắn, người lính Áo phải đứng nạp đạn cho súng trường của họ rồi mới bắn tiếp được. Vì thế, lính bộ binh Áo dễ trở thành mồi ngon của súng trường Phổ.
Phía Phổ xác định vị trí phòng ngự của đối phương.
Về phía Phổ, vào cuối tháng 6 năm 1866, sau những thắng lợi liên tiếp của các đạo quân trên chiến trường, Moltke và các sĩ quan tham mưu đã có thể rời Berlin ra mặt trận, cùng với nhà vua và tướng Albrecht von Roon. Nếu như trong giai đoạn đầu của chiến dịch, Moltke sử dụng điện báo để liên lạc với các tướng lĩnh trên chiến trường, thì bước sang giai đoạn thứ hai, ông trực tiếp chỉ đạo chiến dịch. Đi từ Berlin đến Reichenberg ở Böhmen theo đường sắt, Moltke dừng chân ở Kohlfurt trong buổi sáng ngày 30 tháng 6, để ra huấn lệnh cho các tập đoàn quân số 1 và số 2 bằng một bản điện báo ngắn. Bản huấn lệnh cho thấy Moltke có thể đã nhìn nhận tình hình như vậy: sau những chiến thắng của mình vào các ngày 27 và 28 tháng 6 (ông vẫn chưa hay tin về các cuộc giao chiến ngày 29 tháng 6), Tập đoàn quân số 2 đang tiến về sông Elbe, do đó vị Tổng tham mưu trưởng dự kiến cho đạo quân này trụ lại ở bờ trái (Đông) sông Elbe, với lực lượng cánh phải (bao gồm các Quân đoàn V và VI) ở tư thế sẵn sàng hội quân với cánh trái của Tập đoàn quân số 1 ở bên kia Königinhof. Trong khi đó, Tập đoàn quân số 1 – được báo cáo gần thời điểm đó nhất là đang tiến về phía đông mà không hề gặp phải đối phương – được tiếp tục bước tiến của mình "không ngừng nghỉ" theo hướng Königgrätz – nghĩa là, tới một địa điểm trên sông Elbe thấp hơn nơi mà Tập đoàn quân số 2 đang hướng tới. Do thiếu trinh sát nên cũng như các tướng lĩnh dưới quyền của mình, Moltke không hề hay biết về địa điểm đóng quân và kế hoạch của Benedek, song chắc hẳn ông tin rằng viên tướng Áo đã vượt bờ Đông sông Elbe và rời Böhmen. Ngày 30 tháng 6, Bộ Tổng chỉ huy đến Reichenberg và nhận được một bản báo cáo nặng tính tô hồng về chiến thắng Gitschin của Friedrich Karl ngày hôm trước, theo đó trận Gitschin thắng lợi quyết định đến mức quân Áo bị tan vỡ và phải tháo chạy qua sông Elbe.
Buổi trưa ngày hôm đó, khi đến Schirow, nơi đã được liên kết với tổng hành dinh của Friedrich Karl và Berlin qua điện báo vào lúc sáng, Moltke phát hiện một bản điện báo cho biết Quân đoàn I đã vượt sông Elbe và các đơn vị khác của Tập đoàn quân số 2 được hoạch định là sẽ vượt sông vào các ngày tới. Không hề giận dữ, Moltke đánh điện tới Tập đoàn quân số 2: "Bản điện báo được mã hóa ngày hôm qua ra lệnh cho Tập đoàn quân số 2 ở lại bờ trái sông Elbe. Liệu các ông đã không nhận được bản điện báo này, hay là các ông có một lý do cụ thể nào đó để vượt sông cùng với toàn bộ binh lực của mình". Có lẽ sự biến mất hoàn toàn và đột ngột của quân Áo khỏi tầm mắt của cả hai tập đoàn quân làm cho ý định ban đầu của Moltke có sự thay đổi, và ông bổ sung thêm một bản điện tín cho tham mưu trưởng Tập đoàn quân số 2 là Leonhard von Blumenthal: "Tôi sẽ đến Gitschin vào buổi tối thay đổi. Tập đoàn quân số 1 sẽ nghỉ ngơi vào ngày mai và có lẽ là vào ngày hôm sau nữa. Đang mong đợi một cuộc hợp mặt với sĩ quan của các ông". Trên thực tế, tại Königinhof, Blumenthal đã nhận được bản điện tín mà Moltke gửi từ Kohlfurt, nhưng không hiểu được ý nghĩa của mệnh lệnh do một lỗi trong quá trình đánh máy. Cũng như Friedrich Karl, Blumenthal chưa hề có dự đoán mơ hồ nhất về địa điểm cố thủ của Benedek và tin rằng những thắng lợi của quân mình trong các ngày trước đã đẩy quân Áo qua song Elbe, dù là theo một hướng khác. Giờ đây, ông tin rằng quân Áo đã rút "vào những vùng sâu xa của Böhmen". Những mệnh lệnh của Moltke từ lúc ông đến Böhmen cho thấy vị Tổng tham mưu trưởng chủ trương trì hoãn sự hợp nhất hai tập đoàn quân Phổ, tạo điều kiện cho việc tạo thế gọng kìm hợp vây quân của Benedek tại nơi mà ông ta sẽ được tìm thấy. Về sau, Schlieffen có lẽ đã đúng khi cho rằng các chỉ huy dưới quyền Moltke chưa hề am hiểu thấu đáo và hoàn toàn đồng thuận với các khái niệm truy kích và hợp vây. Họ chỉ tin rằng những thắng lợi vừa qua là một cuộc thử sức, khúc dạo đầu của cuộc giao tranh thực sự sắp diễn ra và do đó họ muốn quy tụ mọi lực lượng của mình. Trong khi Moltke muốn giữ vững tính linh hoạt do sự phân rẽ các đạo quân đem lại, các chỉ huy tập đoàn quân mang hãy còn lo sợ quân của Benedek đột ngột xuất hiện và đánh bại từng tập đoàn quân riêng lẻ. Do vậy, Blumenthal yêu cầu cho Tập đoàn quân số 2 vượt sông Elbe để hội quân với Friedrich Karl và truy đuổi địch quân, nhưng bị Moltke bác bỏ.
Sáng ngày 2 tháng 7, nhận được đề nghị thứ hai của Moltke nhằm tiến hành một cuộc hội ý, Blumenthal cùng Verdy du Vernois lên xe ngựa đến hội kiến với Moltke ở Gitschin. Buổi chiều ngày 2 tháng 7, ngày mà vua Wilhelm I của Phổ thiết lập Tổng hành dinh tại Gitschin và được bộ tham mưu cùng với quân đội chào đón nồng nhiệt, một hội nghị tham mưu – đây không nên được gọi là một hội đồng chiến tranh do không có mặt tư lệnh các tập đoàn quân – được tổ chức với sự chứng giám của Đức vua. Tướng phụ tá Gustav von Alvensleben, Tham mưu trưởng Tập đoàn quân số 1 Voigts-Rhetz và Blumenthal đã bày tỏ những bất đồng của mình với Moltke. Họ kêu gọi thống nhất ba tập đoàn quân, và thậm chí Blumenthal còn đưa ra một đề xuất mang nặng phong cách Napoléon nhằm "tiến thẳng về Viên mà không cần biết quân địch ở đâu". Dù đang bị cảm nặng, Moltke vẫn giữ cái đầu lạnh và đề xuất của Blumenthal bị từ chối. Hội nghị quyết định giữ khoảng cách giữa hai Tập đoàn quân số 1 và 2 chí ít là cho đến khi vị trí phòng ngự của Áo được xác định. Trong khi đó, ngày 3 tháng 7 sẽ là ngày nghỉ của phần lớn quân đội Phổ, ngoại trừ Quân đoàn I được dự trù là sẽ di chuyển đến các vị trí thuận lợi cho việc liên lạc với cánh trái của Tập đoàn quân số 1, và các lực lượng của Bittenfeld – được lệnh tiến đến trấn giữ các đầu cầu sông Elbe dưới Pardubitz. Sau đó buổi hợp kết thúc và những người tham gia lần lượt trở về tổng hành dinh của mình. Đức vua và Moltke trở về những ngôi nhà được sắp đặt cho họ, Voitgts-Rhetz về Bộ Chỉ huy Tập đoàn quân số 1 của Thân vương Friedrich Karl tại Kamenetz còn Blumenthal thì về đến tổng hành dinh Könighinhof lúc nửa đêm. Nhưng rồi, sự thiếu thốn thông tin về quân Áo của Benedek chỉ còn là quá khứ trong khi buổi họp mặt đang tiếp diễn, và quan điểm chung của mọi người – rằng quân Áo đã rút qua sông Elbe – đã đúng.
Đêm ngày 1 tháng 7 năm 1866, tiền quân của Sư đoàn số 7 (tướng Fransecky) do Đại tá Franz von Zychlinski chỉ huy đã hạ trại tại lâu đài Cerekwitz, tại bờ sông cách Sadowa 8 km về hướng bắc. Zychlinski để ý thấy rất nhiều ánh lửa trên các cao điểm ở phía đông, và ngày hôm sau, sau khi báo cáo những gì mà ông nhìn thấy cho Bộ Chỉ huy, ông cử một đội kỵ binh đi thám sát. Các kỵ mã đã lao vào một toán bộ binh Áo, bắt được một binh sĩ Áo rồi trốn thoát. Sau khi bị tra khảo,tù binh này nói với Zychlinski rằng Quân đoàn III của Áo đang đóng quân trên các cao điểm Clum và Lipa. Trưa ngày 2 tháng 7, Zychlinski đưa tin đến Kamenetz. Friedrich Karl quyết định phải tiến hành điều tra và truyền lệnh cho Thiếu tá Ernst von Unger tiến hành thám sát lực lượng địch ở thung lũng Bistritz. Cùng với một hạ sĩ và 6 lính thương kỵ binh, Unger đã dong ngựa lên ngọn đồi Dub, nơi ông tin rằng ông có thể nhìn được toàn cảnh thung lũng. Nhưng trước khi ông tới được mục tiêu này, ông phát hiện đội tuần tiễu của kỵ binh Áo ở bờ kia. Một binh sĩ Phổ nổ súng, đốn ngã hai lính Áo vào buộc số còn lại phải bỏ chạy. Lính Phổ liền bắt lấy hai binh sĩ Áo và thu thập thông tin rằng có ít nhất là 4 quân đoàn Áo đang tập trung tại khu vực giữa Bistritz và Königgrätz. Sau đó đội tuần tiễu kéo đến làng Dub và trên đường tiến, họ gặp phải vài tốp kỵ binh Áo và lính kỵ binh Áo đã vẫy chào do tưởng họ là đồng minh Sachsen của mình. Cuối cùng, trên ngọn đồi ở làng Dub, họ đã quan sát được một số lượng đáng kể quân Áo tập kết dọc theo vùng hạ lưu sông Elbe về hướng Bắc Königgrätz. Nhưng chẳng bấy lâu sau, họ đã bị một tốp kỵ binh Áo phát giác và truy kích dữ dội. Dù suýt nữa thì bị một ngọn giáo Ba Lan giết chết, Unger đã trốn được thoát mà không phải chịu thiệt hại nào. Khoảng 6 hoặc 7 giờ đêm ngày hôm đó, Unger đã có mặt tại tổng hành dinh của Thân vương Friedrich Karl ở Kamenetz, mang theo những thông tin mà cả Tập đoàn quân số 2 đang mong đợi. Giờ đây, tập đoàn quân của Benedeck đã nằm trong tầm tay của Tập đoàn quân Elbe dưới quyền tướng Bittenfeld và Tập đoàn quân số 1 dưới quyền Friedrich Karl.
Tin tức mà Unger thu thập được đã thay đổi hoàn toàn thái độ thận trọng của Friedrich Karl trong cuộc chiến. Ông đề ra một quyết định mà được các nhà viết tiểu sử về sau này nhìn nhận là vĩ đại nhất và có ý nghĩa nhất trong sự nghiệp quân sự của ông: huy động toàn bộ lực lượng của mình để tấn công quân địch trong buổi sáng ngày hôm sau. Từ 7 đến 9 giờ tối, ông cùng với Voights-Rhetz vạch ra kế hoạch tổ chức một cuộc tấn công trực diện bằng toàn bộ lực lượng của Tập đoàn quân số 1, khởi đầu lúc 7 giờ sáng ngày 3 tháng 7, trong khi Bittenfeld tiến quân đến Nechanitz để đánh bọc sườn trái của Áo ở phía nam. Đến 9 giờ 30, các kế hoạch đã được hoàn tất và thượng lệnh được ban bố cho các đơn vị trực thuộc Tập đoàn quân số 1, ngoài ra một thông điệp được đưa đến Tập đoàn quân số 2 để yêu cầu sự trợ giúp. Giờ đây, ít nhất đã 3 tiếng đồng hồ sau khi được thông báo về sự hiện diện của quân Áo và sau khi các sư đoàn của Tập đoàn quân số 1 được lệnh tiến về các khởi điểm của mình, Friedrich Karl và tham mưu trưởng của ông mới quyết định báo tin cho Moltke. Voights-Rhetz đến Gitschin vào khoảng 10 giờ tối và nhìn thấy Wilhelm I đang ngủ. Ông đã đánh thức quân vương dậy và báo cáo về những quyết định vừa qua của Friedrich Karl. Sau một cuộc tranh luận ngắn – mà theo lời kể của Voights-Rhetz là Đức vua hoàn toàn đồng thuận với mọi sự bố trí binh lực của Tập đoàn quân số 1 – ông vào tiếp kiến Moltke, người cũng đang ngủ. Sau khi thức dậy với câu: "Chúa phải được tôn cao", vị Tổng tham mưu trưởng tiếp nhận báo cáo của Voights-Rhetz. Do Tập đoàn quân số 1 đã dàn xếp xong xuôi mọi thứ trong thời gian này, Moltke không còn gì khác ngoài việc ưng thuận kế hoạch được đệ trình cho ông; song, việc ông có hoàn toàn hài lòng với bản kế hoạch này – một cuộc tấn công trực diện vào hệ thống phòng ngự rắn chắc của Áo mà kết quả tốt nhất chỉ có thể là một cuộc triệt binh của Áo – hay không là điều đáng nghi vấn.
Trước tình hình đó, Moltke hạ lệnh cho Thái tử Friedrich hiệp binh với hai tập đoàn quân khác tại điểm hội tụ của quân Áo, nhưng do tuyến điện báo đến các vị trí đóng quân của Tập đoàn quân số 2 bị hỏng, do đó đòi hỏi hai viên sĩ quan phải phóng ngựa mang tin kịp thời đến Tập đoàn quân số 2 cách đó hơn 32 km. Họ đã đến vào lúc 4 giờ sáng ngày 3 tháng 7. Mệnh lệnh mà Moltke ban hành cho Thái tử được đánh giá là một tuyệt tác của sự khúc chiết và mạch lạc. Thoạt tiên, thông qua việc nhắc tên của các ngôi làng, thượng lệnh đã xác định địa điểm cụ thể nơi Tập đoàn quân số 1 sẽ chống nhau với người Áo. Tiếp theo đó, thượng lệnh nêu rõ:
Qua đó, Moltke không hề chỉ ra chi tiết cách thức mà Tập đoàn quân số 2 phải thực thi mệnh lệnh của ông, đồng thời không xác định lộ trình của họ đến tiếp viện cho trận đánh. Thay vì đó, ông giao cho viên chỉ huy tập đoàn quân này tự quyết định, theo như cái gọi là "Sứ mệnh lệnh". Ông cũng giao một bản sao của mệnh lệnh cho viên sĩ quan hầu cận của nhà vua là Finck von Finckenstein và một bản sao khác cho Voights-Rhetz. Sau khi Tập đoàn quân số 2 nhận được trọng trách của mình, Blumenthal, một người có tài mưu lược, ngay lập tức chỉnh đốn kế hoạch hành quân của đạo quân này.
Diễn biến trận đánh.
Tập đoàn quân của Benedek phải đương đầu với hai tập đoàn quân Phổ với tổng binh lực ít hơn (Tập đoàn quân Elbe - 39.000 người và Tập đoàn quân số 1 - 85.000 người) vào ngày 3 tháng 7. Vào lúc rạng đông, trận đánh khởi đầu trong mưa xối xả sương và mù, khi các đội hình chính quy Phổ, được sự yểm trợ của các toán tản binh, thiết lập các vị trí của mình về phía tây sông Bystřice. Dự kiến của thân vương Friedrich Karl vốn dĩ là đánh chiếm các tiền đồn của Áo và thọc sâu vào trận tuyến của Benedek sau khi thiết lập chỗ đứng vững chãi ở hữu ngạn sông. Phải sau nhiều khó nhọc thì Moltke mới thuyết phục được Friedrich Karl rằng trách nhiệm của ông chỉ giới hạn đến việc ngăn chân quân địch cho đến khi Tập đoàn quân số 2 đánh bọc sườn quân Áo. Để vậy, vào lúc 7 giờ sáng, Moltke hạ lệnh cho Sư đoàn số 8 tiến đánh Sadowa trong khi các sư đoàn số 3 và 4, hình thành một trận tuyến cùng Sư đoàn số 8, tiến về hướng nam tuyến đường bộ chính, đánh vào Unter-Dohalitz và Mokrowous. Các sư đoàn số 5 và 6 cũng được lệnh theo chân Sư đoàn số 8 tiến công đối phương. Giữa các lực lượng này, một quân đoàn kỵ binh phối hợp có nhiệm vụ giữ liên lạc với Tập đoàn quân Elbe. Ở cánh cực trái, Trung tướng Fransecky sẽ kéo Sư đoàn số 7 của mình tiến công làng Benatek, dùng một sư đoàn kỵ binh duy nhất để giữ liên lạc với các lực lượng còn lại của Tập đoàn quân số 1. Trọng trách là Fransecky được giao phó là rất nặng nề, do ông phải cầm chân quân cánh phải Áo cho đến khi Thái tử kéo quân đến viện chiến. Trong suốt quá trình phục vụ của mình trước trận chiến, Fransecky được biết đến trong quân đội Phổ như một trí thức quân sự, chứ không phải là một chiến binh. Ông chưa hề chỉ huy bất kỳ một đại đội hay một tiểu đoàn nào. Bất chấp sự non kinh nghiệm của mình, ông đã đóng một vai trò hết sức quan trọng ở trận Königgrätz, và không một viên chỉ huy đơn vị nào có được nhiều vinh quang trong trận chiến như ông.
Những diễn tiến ban đầu.
Ở cánh phải của Phổ, dưới quyền chỉ huy của tướng Herwarth von Bittenfeld, quân của Tập đoàn quân Elbe đã đến Alt Nechanitz vào khoảng 8 giờ sáng. Trong thời gian này, pháo chiến cũng diễn ra giữa pháo binh hai bên, trong đó chưa phe nào gây ra thiệt hại đáng kể. Lực lượng tiền vệ của Bittenfeld, bao gồm 7 tiểu đoàn do Thiếu tướng von Schöler chỉ huy, đã phát động tấn công Nechanitz, giành giật ác liệt với các lực lượng Sachsen thuộc hữu quân Áo và chiếm được các mục tiêu từ tay quân địch. Dưới sự chỉ huy của Thái tử Albert, quân Sachsen đã bị buộc phải rút lui về Prim và Probus trong trật tự với sự yểm trợ của kỵ binh và pháo binh, để giữ các vị trí của mình xung quanh Prim. Họ tiếp tục bắn xối xả vào quân cánh phải của Phổ tiến xuống từ địa hình cao. Herwarth von Bittenfeld do dự trong việc điều quân qua sông, vì tin rằng ông sẽ bị cô lập nếu như quân Áo mở một đợt tấn công nhằm vào trung quân Phổ. Do đó, vào lúc 10 giờ sáng, đội tiền vệ của Schöler, không được một sự yểm trợ nào, bị đẩy lui bởi một đợt phản công quyết liệt của Lữ đoàn Hộ vệ Sachsen đẩy lui từ Nieder Prim về cao điểm Hradek-Lubno ridge, và phải giữ thế phòng ngự.
Ở trung tâm, vào 8 giờ 30 phút, Sư đoàn số 8 của Phổ do tướng August von Horn chỉ huy bắt đầu tiến công Sadowa. Đồng thời, ở bên phải, Sư đoàn số 4 (Trung tướng von Herwath) hành quân về phía Unter-Dohalitz, trong khi Sư đoàn số 3 đánh vào Mokrovows. Chiến thuật của quân Áo cũng tương tự như quân Sachsen ở Nechanitz trước đó: chống trả quyết liệt tại chiến tuyến sông Bistritz trước khi triệt thoái trong trật tự về các cao điểm. Ở tuyến sông, quân Phổ giành giật từng tấc đất với đối phương để tiếp tục bước tiến của mình. Bộ binh Áo trấn giữ các ngọn cầu và làng bản, và bắn xối xả vào các đội hình tiến công của Phổ. Quân Phổ chỉ có thể tiến chậm dọc theo những nẻo đường chật hẹp và đánh trả sự kháng cự của quân Áo trong các căn nhà. Hỏa lực của người Áo đã đốn quỵ từng lớp quân địch. Trong khi đó, lợi thế mà súng trường nạp hậu "Dreyse" đem lại cho quân Phổ bị vô hiệu hóa: những ngôi nhà, cây cối và khói súng của quân Áo đã che khuất các mục tiêu của họ. Đằng sau những bụi cây, các tiểu đoàn khinh chiến của Áo xả súng bắn lia lịa theo hướng có tiếng chân của các đoàn quân địch. Các đội hình chặt chẽ của Phổ bị tổn thất hết sức nặng nề, nhưng bằng tinh thần dũng cảm và bền bỉ của mình, quân Phổ đã cải thiện tình hình của họ, mặc dù chậm rãi. Tiếp sau đó, để hỗ trợ cho bộ binh tấn công hiệu quả, lực lượng pháo binh Phổ đã khai hỏa khốc liệt vào các ngôi làng, bất chấp những khẩu đổi pháo ưu việt của địch, gây tàn phá khủng khiếp cho các ngôi nhà. Cả Mokrovows lẫn Unter-Dohalitz đều bốc cháy, và những quả đạn pháo rơi vào quân phòng ngự Áo trong các khu xóm đang cháy với hiệu quả đáng sợ. Không lâu trước 10 giờ, nhờ vào lòng can đảm và nghị lực của các trung đoàn số 14 và 54, kết hợp với sự yểm trợ đắc lực của pháo binh, quân Áo đã bị quét tan khỏi Mokrowens và Unter-Dohalitz. Tuy nhiên, sau khi chiếm được Mokrovows, bước tiến của Sư đoàn số 3 bị chặn đứng trong gần 4 tiếng đồng hồ. Bởi lẽ, đằng sau khoảng đất mà họ đã giành được về tay mình, một trận địa pháo hùng hậu của các quân đoàn III và X của Áo đã được hình thành từ Langenhof tới Lipa, và không ngừng oanh tạc quân Phổ. Trên thực tế, chỉ một phần hỏa lực của các khẩu đội Áo là nhằm vào Sư đoàn số 3, nhưng điều đó đã đủ để kìm chân Sư đoàn này. Thực hiện kỷ luật hết sức cứng rắn, viên chỉ huy sư đoàn là tướng August von Werder cấm tiệt mọi bước tiến của binh lính dưới quyền, và ra lệnh cho họ kiếm chỗ nào thích hợp để ẩn náu trước khi có cơ hội bọc sườn các khẩu đội pháo của địch.
Trong khi đó, bằng một sự phối hợp chính xác, các sư đoàn số 8 và 4 của Phổ đã hợp vây được Sadowa. Giữa lúc đạo quân tiền vệ của Sư đoàn số 8 giao chiến trực diện với Lữ đoàn Prohaska của Áo trấn giữ thị trấn này, quân chủ lực của sư đoàn (hay "Gros") và lực lượng tiền vệ của Sư đoàn số 4 đã được lệnh tiến từ hướng bắc vào khu rừng nằm ở phía sau Sadowa, nằm cắt đứt đường rút của quân phòng thủ. Vận động này hầu như đã thành công, nhưng người Áo đã phát giác kịp thời mối nguy cơ bị bao vây tiêu diệt. Lữ đoàn Prohaska nhanh chóng rút khỏi thị trấn và tháo lui về Lipa, với sự yểm trợ của Trung đoàn Khinh chiến số 34 và Trung đoàn Roman-Banat – các đơn vị trấn giữ khu rừng cho đến khi cuộc triệt thoát được hoàn tất, rồi sau đó cũng rút lui. Sau khi chiếm được Sadowa một cách dễ dàng, các tiểu đoàn tiên phong của hai sư đoàn 4 và 8, cùng với các tiểu đoàn án ngữ làng Ober-Dohalitz sau lưng họ, rơi vào tình trạng rất giống với sư đoàn của Werder. Bởi lẽ, một bộ phận không nhỏ của các khẩu đội Áo dàn trận trên các cao điểm đã tập trung hỏa lực về phía sau. Bị buộc phải ẩn náu dưới các bụi cây của rừng "Holawald" và đống đổ nát của Ober-Dohalitz, nhưng cả rừng lẫn làng mạc đều không thể là nơi trú ẩn an toàn dưới làn đạn pháo hết sức kinh hoàng của đối phương. Để thoát khỏi địa ngục của cuộc pháo kích, một số đơn vị Phổ mở những đợt tấn công ác liệt như vô ích về phía cao điểm nơi các khẩu đội của Áo dàn trận. Trong bộ dạng tơi tả và không còn sức chịu đựng nữa, các tiểu đoàn Phổ lao về phía trước, và không làm được gì trừ việc bị đạn pháo của Áo cày nát. Các sĩ quan Phổ phải khó nhọc ngăn chặn những đợt tấn công tự sát như vậy. Không lâu sau khi bộ binh Phổ bắt đầu tiến công, vua Phổ đã dời đại bản doanh của mình từ đồi Roskosberg về phía sau Sadowa. Vua Wilhelm I, cùng với các nhà lãnh đạo quan trọng của Phổ là Bismarck, Moltke và Roon ở bên cạnh ông, ngồi trên lưng ngựa quan sát trận chiến. Từ đằng sau Sadowa, nhà vua dễ dàng quan sát trận địa, dù dĩ nhiên là không phải san sẽ sự trừng phạt mà các sư đoàn số 4 và số 8 của mình đang gánh chịu – có lẽ điều này đã khiến dễ dàng quy tội cho những đơn vị không còn sức chiến đấu nữa là hèn nhát. Vào buổi trưa, khi viên Thượng tá bị thương Heinrich von Valentini rút khỏi rừng "Holawald", dẫn theo một số tiểu đoàn tàn tạ của các trung đoàn số 31 và 71 – vốn đã dẫn đường vào khu rừng lúc 8 giờ 30 và chống chịu hỏa lực ác liệt của địch, nhìn thấy sự trừng phạt mà các sư đoàn số 4 và 8 của mình đang hứng chịu, nhà vua nổi giận dong ngựa về phía họ, trách mắng Valentini và hô ta: "Ta đang đưa các ngươi trở lại phía trước. Hãy để thấy các người chiến đấu như những người Phổ dũng cảm".
Trong tình huống khó chịu này, Thân vương Friedrich Karl, người đã từng nói: "Không thể nghi vấn rằng sự hiện diện của Đức vua trong trận chiến các tác dụng truyền cảm lớn nhất đối với sĩ quan và binh lính. Dưới mắt Đức vua, người lính Phổ đi về cái chết hạnh phúc hơn thường lệ.", hẳn là đã bắt đầu có chút ngờ vực về lợi thế của sự thân chinh của đế vương. Ông vốn đã phát hiện ra rằng ông bị mất một nửa lực lượng kỵ binh được dự trữ chu đáo của mình do sự phóng khoáng của một người thuộc ban tham mưu của Đức vua khi Bittenfeld yêu càu giúp đỡ. Giờ đây, bản thân quân vương không hề có thái độ hào phóng với các lực lượng đã chiến đấu tốt, và không ai lo lắng giữ gìn uy tín của mình bằng người chỉ huy Tập đoàn quân số 1. Friedrich Karl đã khuyên ngăn Đức vua, chỉ ra rằng các trung đoàn số 31 và 71 đã làm được còn hơn cả hoàn thành bổn phận của mình, và khẳng định rằng ông có đủ quân trừ bị để cầm cự khu rừng đang bị giằng co. Khi buổi sáng trôi qua, tướng Horn đã đưa được lực lượng pháo binh của mình lên quãng đường yên ngựa giữa Ober-Dohalitz và Dohalitzka, giảm phần nào áp lực cho lính bộ binh Phổ. Vào trưa, 17 khẩu đội pháo Phổ đã nhập trận, và trong đó có một số khẩu pháo nòng trơn 12 pao. Những khẩu pháo này nhanh chóng thể hiện sự kém hiệu quả của mình và bị loại khỏi vòng chiến. Tuy nhiên, phần còn lại của các khẩu đội đã kiên quyết đáp trả hỏa lực của pháo binh địch. Sư đoàn số 8 và lực lượng pháo binh trừ bị cũng tung thêm 18 khẩu đội nữa lên mạn bắc rừng "Holawald" để pháo chiến với địch. Tuy vậy nhưng điều không thể chối cãi là thiệt hại của quân Phổ trong khu rừng đã rất nặng nề vào thời điểm trưa, và sự hao tổn xương máu lính Phổ như vậy chưa thể tạo được bất kỳ một ấn tượng nào, dù là nhỏ nhất, về phía trận tuyến quân Áo.
Trận chiến ở rừng Swiepwald.
Trái ngược hoàn toàn với thái độ lề mề của viên chỉ huy Tập đoàn quân Elbe, tướng Fransecky chỉ huy Sư đoàn số 7 đã lập được chiến công lớn trong ngày. Ngay sau khi cử sứ giả đến yêu cầu Tập đoàn quân số 2 của Thái tử khẩn cấp tăng viện, Fransecky huy động 4 tiểu đoàn tấn công làng Benatek và sau một đợt giao tranh ngắn ngủi, họ chiếm được Benatek vào khoảng 8 giờ sáng. Sau đó, họ định đánh ra ngoài làng nhưng lo ngại trước các lực lượng được bố trí dày đặc của Áo trong các khu rừng ở sườn trái của họ. Sư đoàn trưởng Fransecky xuống lệnh dừng chân cho đến khi các Trung đoàn 26 và 66 có cơ hội đến ứng chiến rồi ra lệnh cho Lữ đoàn Bộ binh số 14 do tướng Helmuth von Gordon chỉ huy đổ vào rừng "Swiepwald". Trước khi xung phong, để động viên tinh thần của quân sĩ, Zychlinski đã hô khẩu lệnh quen thuộc các thống chế Gebhard von Blücher và Friedrich von Wrangel ngày trước, cùng với câu "Vượt lên!" ("Durch") trong thơ ca của Carl Theodor Körner, một thi sĩ thời Chiến tranh Giải phóng. Gordon cũng hô to: "Cá tươi! Cá ngon!" để động viên binh lính của mình tiến về phía trước. Cùng với hai tiểu đoàn hỏa mai thuộc Trung đoàn số 26 ở cánh trái, các tiểu đoàn hỏa mai thuộc các trung đoàn số 27 và 67 ở cánh phải dưới quyền Zychlinski đã đánh bật được quân Áo mà không bị tổn thất đáng kể.
Sau đó, được Tiểu đoàn II của Trung đoàn số 27 được tăng viện, Zychlinski đánh Cistowes, nơi được lữ đoàn của Appiano phòng ngự rắn chắc. Sau khi tập trung hỏa lực khốc liệt, bắn Zychlinski bị thương và giết chết Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn I của Trung đoàn số 27 – Thượng tá von Sommerfeld, Tiểu đoàn IV Khinh chiến và hai tiểu đoàn thuộc trung đoàn Đại Công tước Heinrich của Áo phản công đẩy lùi quân Phổ. Mặc dù bị sứt đầu mẻ trán, Trung đoàn số 27 giờ đây nhận được sự tiếp viện từ Trung đoàn số 66 và tiếp tục giao chiến. Bất chấp chiến thuật dùng cây cối để yểm trợ khéo léo của lính Khinh chiến Steiermark của Áo (hệt như cha ông của họ khi chiến đấu dưới ngọn cờ khởi nghĩa của Andreas Hofer ngày trước) và sự tiếp viện của các đơn vị đến từ Quân đoàn IV Áo dưới quyền chỉ huy của Trung tướng Tassilo "Graf" Festetics trấn thủ phía mạn đông nam Maslowed, quân đội Phổ đã dần dần quét sạch quân Áo ra khỏi vùng rừng, buộc quân Áo phải rút chạy về sườn đồi rừng rậm theo hướng Cistowes. Môi trường chật hẹp của rừng Swiepwald khiến cho quân Áo không thể khai thác thế mạnh áp đảo về quân số của mình. Quân Phổ cũng chiếm được làng Cistowes. Chỉ trong vòng một tiếng đồng hồ giao tranh dữ dội, 6 tiểu đoàn Phổ của Zychlinski và Gordon đã đập tan hơn 10 tiểu đoàn Áo. Trong đó, họ tiêu diệt Lữ đoàn Bramdenstein chỉ trong 30 phút và giết chết viên lữ đoàn trưởng, buộc lữ đoàn này phải rút chạy về Maslowed mà không thể chiếm lại được Swiepwald. Về sau này, Zychlinski đã ghi nhận về cuộc chiến ở rừng Swiepwald như là một hình thức giao chiến mà trong đó sĩ quan chỉ huy bị mất hết kiểm soát, và các đơn vị chiến thuật dần dần nhỏ đi, cho đến đỉnh điểm là mỗi binh lính có lẽ đều chiến đấu riêng mình. Một hạ sĩ Phổ cũng đồng ý với Zychlinski, và cho biết rằng, trong tình huống đó, các sĩ quan cao cấp của Phổ – do không có gì để chỉ đạo – chỉ có thể truyền cảm binh lính bằng tấm gương về lòng dũng cảm cá nhân của họ.
Festetics, một chỉ huy có tài năng hạn chế nhưng rất giàu có và lắm mối quen biết, đã làm trái với thượng lệnh của Benedek.. Khoảng từ 4 đến 5 giờ sáng, ông nhận được những huấn lệnh của Benedek, theo đó ông cùng với Quân đoàn II do tướng Carl "Graf" von Thun Hohenstein chỉ huy phải dàn đội hình trên chiến tuyến Chlum - Nedelist - sông Elbe để hình thành cánh phải, phòng vệ bên sườn quân Áo. Vào lúc 8 giờ, Festetics rời trại của mình ở Nedehst để thực thi mệnh lệnh. Nhưng trong lúc Quân đoàn IV đang di chuyển về vị trí đã được giao, tham mưu trưởng của ông là Đại tá von Gorz chỉ ra rằng trận tuyến này bị chế ngự bởi cao điểm Maslowed và nếu quân địch đánh chiếm Maslowed thì Quân đoàn IV cũng khó lòng giữ nổi trận tuyến. Vì thế, Festetics đã cố tình dời lên một khoảng đất cao hơn, nằm giữa Cistowes và Maslowed. Giờ đây, số phận bi đát của Lữ đoàn Brandenstein – một trong các lữ đoàn của ông đã khiến cho Festetics nổi điên, và cơn giận của ông đã khởi đầu cho một tiến trình mà trong đó Quân đoàn IV của ông và Quân đoàn II bị lôi kéo vào cuộc đổ máu ở rừng Swiepwald, với hậu quả chiến lược nghiêm trọng. Vào lúc 9:30 phút sáng, viên chỉ huy Quân đoàn IV đổ thêm hai lữ đoàn nữa, do Đại tá Carl von Pöckh và Fleischhacker chỉ huy, để giành lại rừng Swiepwald, mặc dù vị trí không có ý nghĩa chiến lược đối với chiến tuyến Chlum-Maslowed-Horenowes mà Festetics trấn giữ. Để chuẩn bị cho cuộc tấn công sắp tới, viên tướng Áo bố trí một hàng rào gồm 80 khẩu đại bác trải dài từ cao điểm Maslowed. Trong khi các khẩu pháo Áo gầm vang trên trận địa, pháo binh Phổ bắn trả mạnh mẽ. Một quả đạn pháo rơi vào sở chỉ huy của Festetics, lấy đi mạng sống của von Gorz và thổi bay một phần bàn chân của Festetics. Sự việc này buộc ông phải trao quyền chỉ huy quân đoàn cho viên Phó Tư lệnh - Thiếu tướng Anton von Mollinary. Thay vì hình thành một tuyến phòng ngự ở Maslowed, Mollinary còn quyết tâm cao độ hơn cả Festetics trong việc đánh đuổi quân Phổ ra khỏi rừng Swiepwald. Không chỉ xác nhận mệnh lệnh phát động cuộc tấn công mới, ông ta còn gửi thông điệp đến Bá tước Thun, yêu cầu sự hỗ trợ của Quân đoàn II trong chiến đấu.
Trong giai đoạn thứ hai của cuộc chiến ở Swiepwald, người Áo dùng lại chiến thuật đã gây cho họ tổn thất to lớn ở Podol và Nachod. Quân Áo thuộc Lữ đoàn Fleischhacker xung phong từ hướng Maslowed vào Swiepwald với những tiếng trống đánh, kèn thổi, và ra sức quét sạch quân Phổ khỏi rừng bằng thế mạnh mạnh tuyệt đối về uy lực tấn công của mình. Họ đánh mạnh vào sườn trái và hậu quân địch, chiếm lại được làng Cistowes. Tuy nhiên, quân Phổ phòng ngự rắn rỏi trên đỉnh của ngọn đồi được rừng bao phủ hai bên, dựa trên sự ưu việt vượt trội của súng trường nạp hậu "Dreyse". Fransecky, người mà cho đến thời điểm này đã dùng đến 4 tiểu đoàn trừ bị của mình, đã kịp thời nhận được sự tiếp viện của hai tiểu đoàn thuộc Sư đoàn số 8. Và, màn hỏa lực của các Tiểu đoàn số 1 và Lính bắn súng trường của Trung đoàn 26 đã xé toạc lữ đoàn Fleischhacker ra thành từng mảnh.
Nhưng Mollinary vẫn không nản chí. Vung cao thanh kiếm của mình với khí thế mãnh liệt, ông điều động thêm một lữ đoàn nữa với toàn bộ binh lực do viên đại tá dũng cảm von Poekh cầm đầu. Với sự tiên phong của Trung đoàn 51 (gồm các binh sĩ người Romania và Hungary), cuộc tấn công mang lại cho quân Áo tổn thất không nhỏ, nhưng họ đã đập vỡ lực lượng chính diện và cánh trái của quân địch. Trước sức tiến công như vũ bão của các đội hình dày đặc của Áo, các đơn vị Magdeburg ương ngạnh phải nháo nhác bỏ chạy về những giới hạn xa nhất của khu rừng. Một tác giả ví von cảnh tượng này như "những mũi thuyền rẽ sóng đại dương", và triển vọng đã đến với Poeckh để lập công đầu cho thắng lợi của Áo trong trận chiến. Tuy nhiên, "như những dòng nước", quân Phổ ùa ra quanh quân Áo, bắn xối xả với những cánh quân không được yểm trợ của Áo vốn đang tiến qua những bụi rậm. Lớp quân đầu tiên của Lữ đoàn Poekh chỉ vừa mới ngưng để thở khi mà "trên một ngọn đồi cây phủ bên sườn phải, những khối quân Phổ… dội một màn hỏa lực tàn sát tàn sát vào lữ đoàn cực kỳ sơ hở. Tại đây nó hứng chịu những tổn thất to lớn nhất của nó". Viên chỉ huy lữ đoàn và toàn bộ các sĩ quan tham mưu của ông đều thiệt mạng, trừ một người duy nhất sống sốt: Đại úy tham mưu von Klobus, người đã cố gắng thúc ngựa chạy khỏi chiến tuyến của địch để yêu cầu sự trợ giúp, và để thoát thân, ông phải chịu mất con ngựa của mình. Trong khi ấy, "tình hình ở khúc rừng này trở nên không thể chịu đựng nổi" đối với quân Áo. "Có lúc phải vật lộn tay không với địch, như những vết đụng ngập và thương tích do bị lê đâm của họ cho thấy, chỉ có một nhúm tàn quân là thoát được". Thiệt hại của Trung đoàn 51 và Tiểu đoàn Khinh chiến 8 yểm trợ cho họ là rất to lớn. Trong tổng số 4.000 quân Áo tham gia cuộc xung phong, chỉ có 1.800 người là chạy thoát, với thương tích trên người và tinh thần suy sụp..
Mặt khác, bây giờ đã là 11 giờ sáng. Trong khi thiệt hại của Sư đoàn 7 Phổ ngày càng gia tăng, người Áo dứt khoát phải tiếp tục cuộc tấn công của mình. Trong khoảng thời gian này, khi một trong các sĩ quan phụ tá của Đức vua là Thượng tá Friedrich Karl Walther Degenhard Freiherr von Loë đến tiếp kiện viên chỉ huy Sư đoàn 7, Fransecky bày tỏ với vị sứ giả nguồn nhân lực, tài lực của ông đang cạn kiệt, song ông khẳng định sẽ chiến đấu cho đến người cuối cùng. Loë phi ngựa về tổng hành dinh và yêu cầu tăng cường bộ binh cho Sư đoàn 7. Trong khi nhà vua đang suy xét về việc này, Moltke dứt khoát phản bác và nói bằng giọng điệu cứng cỏi:
Và, nhà vua nghe theo lời khuyên của vị Tham mưu trưởng của mình. Về phía Áo, Bá tước Thun giờ đây đã chấp thuận thỉnh cầu của Mollivary và đặt hai lữ đoàn nguyên vẹn dưới quyền Thiếu tướng von Saffran và Quận công xứ Württemberg trong tay viên Phó Tư lệnh Quân đoàn IV. Trong khi đó, tin tức về sự bất tuân của những viên tướng quý tộc Áo làm cho Benedek thất vọng. Viên Tổng chỉ huy gửi một thông điệp đến Mollinary, ra lệnh cho ông giữ thế phòng thủ với Quân đoàn III ở cánh trái của mình cho đến khi có thời khắc thuận lợi để phát động tổng tiến công. Mollinary trả lời một cách khó hiểu, theo đó cuộc tấn công đã được hoạch định của Quân đoàn II sẽ được tiến hành để yểm trợ cho quân của ông rút lui. Sau đó, ông tung các lữ đoàn mới cứng vào tử địa để hoàn toàn quá trình mà Quân đoàn IV đã khởi đầu. Chúng bao gồm 14 tiểu đoàn, dẫn đầu là lính Steiermärker của Trung đoàn 57 và lính Ba Lan của Trung đoàn 57, với một dũng khí mà quân phòng ngự không thể sánh bằng. Ba thập kỷ sau đó, một đại tá quân đội Phổ đã đánh giá các cuộc tấn công trực diện của các đội hình hàng dọc hình thành từ các tiểu đoàn Áo là sản phẩm của hài kịch. Song, đạn dược của quân Phổ đã cạn kiệt sau hàng tiếng đồng hồ giao chiến. Mặc dù Quân đoàn II cũng bị quân phòng thủ Phổ đánh cho sứt đầu mẻ trán y hệt như Quân đoàn IV trong các đợt tấn công tự sát trước đó, một lần nữa, quân Áo đã dần dần đẩy được quân Phổ ra mép rừng Swiepwald. Trong khi tình hình càng lúc càng đen tối, dấu hiệu tuyệt vọng có thể được tìm thấy trong phản hồi của Fransecky khi nhà vua sai sứ đi dò hỏi tình trạng quân lực: "Nói với Thánh thượng rằng Sư đoàn số 7 bị thiệt hại nặng nhưng sẽ giữ chặt vị trí". Trải qua hàng tiếng đồng hồ cho đến giờ, các sĩ quan Sư đoàn số 7 luôn miệng cầu khẩn: "Chỉ còn nửa tiếng đồng hồ nữa! Thái tử sẽ đến!". Nhưng Thái tử vẫn chưa đến, trong khi sức chịu đựng của sư đoàn đã đến giới hạn.
Nhìn chung, trong suốt thời gian vừa qua, 19 tiểu đoàn Phổ đã đứng vững trước các đợt tấn công không ngưng nghỉ của 49 tiểu đoàn địch, trong số đó 28 tiểu đoàn bị tận diệt và chỉ có 13 tiểu đoàn là còn nguyên vẹn. Cuộc chiến ở Swiepwald cho thấy hỏa lực ngày càng gia tăng của các lực lượng được trang bị vũ khí nạp hậu, là nguồn cổ vũ to lớn cho họ đánh chặn các đợt tiến công của địch mặc dù bị thiệt hại nặng. Thêm vào đó, trận đánh còn đem lại một minh chứng cụ thể cho sự kém hiệu quả của chiến thuật tấn công bằng lưỡi lê trong chiến tranh hiện đại: những các tiểu đoàn Áo dũng cảm, với các đội nhạc binh chơi bản "Hành khúc Radetzky" và sĩ quan vung kiếm tiến lên phía trước, bị thảm sát hàng loạt trong các cuộc tấn công tự sát của mình, mà phần nhiều trong số họ không thể tiếp cận quân địch gần hơn 50 km. Chiến trường đã trở thành một nghĩa địa của người Áo, Ý, Hungary, Romania và Croatia, với số quân bị loại khỏi vòng chiến lên đến khoảng 15.000. Nhưng, để giam chân thành công 1/4 lực lượng của Áo như vậy, Sư đoàn số 7 phải trả một cái giá đắt: con số tổn thất lên đến 84 sĩ quan và 2.036 binh lính, và giờ đây tuyến phòng ngự của họ đã bị vỡ. Trong Tiểu đoàn I của Trung đoàn 66 Phổ, hầu hết các sĩ quan đều bị thương. Tinh thần quân lực Phổ đã bắt đầu suy sụp trong buổi trưa. Đúng vào lúc vua Wilhelm quở trách Thượng tá Valentini và buộc ông này phải đưa quân trở lại rừng Holawald, Fransecky kêu gọi quân lính của mình:
Giờ đâu, quân Áo đã cầm chắc phần thắng trong tay. Sau suốt một buổi sáng giao chiến, mặc dù phía Phổ đã sài hết lực lượng trừ bị của mình, chiến tuyến của Áo vẫn vững chãi, và các khẩu đại bác của họ đã tiêu hao sinh lực quân của Friedrich Karl. Các tiểu đoàn Phổ trong các khu rừng ở Maslowed và Sadowa đang đuối dần đi, nhưng chưa hề có dấu hiệu nào cho thấy quân của Thái tử đã đủ gần để có thể vãn hồi tình hình của quân Phổ. Viễn cảnh tăm tối này được thể hiện qua câu nói của Fransecky với một sĩ quan thuộc ban tham mưu của Tập đoàn quân số 2, khi ông này đến tiếp kiến Fransecky và thông báo với ông rằng quân tiên phong của Vệ binh Phổ do Constantin von Alvensleben chỉ huy đang kéo đến: "Ở trường chúng ta đã học câu nói: `Tôi mong đêm sẽ đến, hoặc là Blücher′. Ở đây chúng tôi không phải là Wellington, nhưng đó chính là cảm giác của chúng tôi". Trước tình hình đó, vào buổi trưa, có lúc khi đứng trên ngọn đồi nhìn xuống, nhà vua tuyên bố với tham mưu trưởng của mình: "Moltke, Moltke, chúng ta đang thất trận". Bên cạnh vua, Bismarck, được mô tả là không kém phần lo âu. Ông chưa được chuẩn bị để làm quen với sự tàn khốc của chiến tranh và lo lắng cho con trai mình là Herbert, người mang quân phục xanh của quân đội Phổ. Trước tình hình đó, duy chỉ Moltke có vẫn điềm tĩnh. Ông nhận một điếu xì gà từ tay Bismarck, qua đó ông khẳng định với vị Thủ tướng rằng tình hình sẽ tốt đẹp. Ông khẳng định: "Bệ hạ sẽ chiến thắng cả một chiến dịch chứ không chỉ một trận đánh". Moltke vẫn tin tưởng vào những kế hoạch đã được bày biện kỹ lưỡng của mình, nhưng chắc hẳn ông cũng đôi chút lo lắng vì sự đến trễ của Tập đoàn quân số 2. Tình hình gợi cho phóng viên báo "The Times" hồi tưởng đến giai đoạn cuối trận Waterloo, khi mà Công tước Wellington chỉ huy quân Anh mong mỏi trông chờ quân tiếp viện Phổ của Blücher. Về sau này, khi ca ngợi sự linh hoạt của Bộ Tổng tham mưu, tướng Albrecht von Stosch đã cho biết, "có câu chuyện rằng trong những giờ phút gian khó tại Königgrätz có người hỏi Moltke rằng ông đã quyết định ra sao về rút lui và Moltke hồi đáp, tại đây là vấn đề quyết định toàn bộ tương lai của nước Phổ, tại đây sẽ không có cuộc rút lui nào′".
Hoạt động của khinh kỵ binh Phổ ở Swiepwald.
Trong trận đánh giằng co ở Swiepwald, có thể kể đến cuộc tấn công của một khối khinh kỵ binh thuộc Trung đoàn Khinh kỵ binh 101 Magdeburg bắt gọn một tiểu đoàn Áo. Trung đoàn Khinh kỵ binh 10 Magdeburg, một đơn vị tháp tùng theo Sư đoàn 7 của Fransecky, đã được lệnh tiến quân tới Cerekwitz trong đêm ngày 2 tháng 7, và vào 2 giờ sáng ngày 3 tháng 7, họ đến bên ánh lửa trại của các tiền đồn rồi ở lại đây cho đến lúc 7 giờ rưỡi sáng.
Khoảng từ lúc 10 đến 11 giờ sáng, khi nhìn thấy một đội hình hàng dọc của Áo xuất hiện từ rừng Swiepwald và tiến chiếm Benatek, các khối kỵ binh 2, 3 và 4 – án ngữ ở hướng đông Benatek – đã xung phong và đánh bật quân địch vào rừng. Về phía minh, khối kỵ binh 1, được chỉ định là bộ phận tiên phong của quân tiền vệ Sư đoàn số 7, đã di chuyển khỏi vị trí đóng quân của mình. Họ phối hợp với bộ binh tiến về phía tây rừng Swiepwald khi bộ binh dồn trận tuyến về phía quân Áo, và cũng cùng với bộ binh rút lui khi quân Áo đánh bật quân Phổ về phía bắc. Vào buổi trưa, khối kỵ binh bị đặt trên một đoạn đường rỗng dài 0,37 km về hướng tây nam Benatek. Người chỉ huy trung đoàn khinh kỵ binh 10, Đại úy Humbert, cùng với viên sĩ quan cấp dưới của ông là Bá tước von der Schulenburg phải ngồi ở một ngọn đồi phía trên để tránh đạn pháo của Áo.
Vào lúc 1 giờ 15 chiều, họ nhìn thấy một toán bộ binh Áo tiến ra ngoài rừng. Toán quân này đã đánh bại những lực lượng Phổ đương đầu với họ và giờ đây họ hành quân trong tư thế không hề phòng bị. Sau khi phi ngựa xuống đồi để trinh sát lực lượng địch, Đại úy Humbert và viên sĩ quan cấp dưới của mình trở lại đồi và chấn chỉnh đội hình khối kỵ binh một trong tuyệt mật. Và, ông thúc các kỵ binh của mình phi nước đại về phía đối phương. Với những tiếng hô "Buông vũ khí xuống! Đầu hàng!", khinh kỵ binh Phổ lăn xả vào quân Áo. Bị choáng ngợp, một số sĩ quan Áo đã đầu hàng, sau đó một số binh sĩ Áo cũng làm theo họ. Chỉ trong vòng vài phút, mọi khẩu súng của tiểu đoàn đã bị buông xuống đất. Lính bộ binh Áo sau đó bị giải về làng Benatek, nơi đang rực cháy. Theo tài liệu chính thức của Phổ, khối kỵ binh 1 của Trung đoàn Khinh kỵ binh 10 tuyên bố bắt được 681 sĩ quan và binh lính, đồng thời thu giữ một hiệu kỳ. Khối kỵ binh đã bắt gọn một tiểu đoàn Áo mà không chịu thương vong, nhưng sau đó, khi nhìn thấy một ngọn hiệu kỳ khác trong rừng, Trung tá Bá tước von der Schulenburg đã lăn xả về hướng này cùng một nhúm khinh kỵ binh. Ông bị một số bộ binh Áo bắn trọng thương từ đằng sau cây cối, và 4 ngày sau đó thì ông mất.
Bước ngoặt của trận chiến.
Vào lúc 12 giờ 30, các đơn vị tiền quân của Tập đoàn quân số 2 cuối cùng cũng gia nhập trận chiến. Vốn đã tiến quân từ Dobrawitz ngay từ khi các sĩ quan nhận được yêu cầu giúp đỡ của Fransecky, giờ đây Sư đoàn Vệ binh số 1 của Phổ dưới quyền Trung tướng Friedrich Hiller von Gärtringen (thuộc Quân đoàn Vệ binh do Vương công August xứ Württemberg chỉ huy) tiến xuống các ngọn đồi thấp ở phía trước Wrchownitz để bọc sườn phải của Áo vốn đang thiếu vắng binh lực. Cách hậu quân của họ không xa là Sư đoàn Vệ binh Vệ binh số 2 do tướng Heinrich von Plonski chỉ huy, với lực lượng tiền vệ giờ đây đã đến gần Zizelowes. Về hướng đông, tướng Louis von Mutius chỉ huy Quân đoàn VI được lệnh tiến thẳng đến Racitz, với Sư đoàn 11 do Trung tướng von Zastrow chỉ huy ở bên phải sông Trotina và Sư đoàn 12 do Trung tướng von Prondzynsk chỉ huy ở bên trái. Cả hai đơn vị đều chưa dày dạn chiến trận cho lắm, nhưng họ háo hức thể hiện khả năng của mình trong chiến đấu trước khi được hỗ trợ bởi những đồng đội giàu kinh nghiệm hơn của mình là Quân đoàn V do tướng Karl Friedrich von Steinmetz chỉ huy – vốn còn đang ở một khoảng cách với hậu quân của Quân đoàn VI.
Khởi đầu vào 7 giờ sáng – khi Sư đoàn Vệ binh số 2 được lệnh tiến về Könighinhof, cuộc hành quân của Tập đoàn quân số 2 vài trận Königgrätz diễn ra chậm rãi do điều kiện thời tiết bất lợi. Do những đoạn đường không đủ lớn để chứa đựng một số lượng sĩ tốt đông đảo như vậy, họ buộc phải hành quân trên các cánh đồng vốn đã bị mưa làm lầy lội. Môi trường này gây khó khăn rất lớn cho họ trong việc vận chuyển pháo binh. Lúc 11 giờ 30, Benedek đã nhận được hung tin rằng một lực lượng lớn khác của Phổ đang đến gần. Thế nhưng, thái độ bất tuân của Mollinary và Thun – những vị tướng không hề ngờ tới sự tham chiến của các lực lượng dưới quyền Thái tử Phổ – đã gây ra một hậu quả chiến lược nặng nề: họ dồn quá nhiều binh lực ở cánh phải vào trận đánh ở rừng Swiepwald, do đó cánh này giờ đây không còn đủ lực lượng để có thể đối phó với cuộc tấn công của quân tiếp viện Phổ.
Thực ra, trong cuộc chiến ở Swiepwald, Benedek đã từng có ý định tiến hành phản công, nhưng không thể thực thi. Bây giờ, ông không còn cách nào khác ngoài việc ban bố mệnh lệnh cho các Quân đoàn II và IV rút về vị trí ban đầu của họ giữa Chlum và Nedelist.. Thượng lệnh của Benedek được thực thi một cách khó nhọc, không chỉ là do số lượng lớn của các đơn vị bị lôi kéo vào cuộc chiến ở Swiepwald, mà còn do sự sa sút tinh thần của các lực lượng này, vì, sau khi thắng được quân Phổ ở Swiepwald, họ lỡ mang ấn tượng rằng họ đã chiến thắng trận đánh. Hậu quả là cuộc triệt thoái của Quân đoàn IV đã diễn ra hết sức nhốn nháo. Quân đoàn II triệt thoái ổn định hơn và đẩy lui một đợt xung phong của kỵ binh Phổ. Trong khi đó, sau khi nhanh chóng nhìn nhận tình hình chiến cuộc, Thái tử nước Phổ đã triển khai bộ binh tấn công đối phương. Tại Racitz và dọc theo hạ lưu sông Trotina, các đơn vị thuộc Quân đoàn VI chỉ gặp phải sự kháng cự của các thành phần yếu ớt thuộc lữ đoàn tướng Henriquez (Quân đoàn II) – một trong số ít các lực lượng Áo được giữ lại phòng vệ sườn phải, trong khi Quân đoàn Vệ binh nhận thấy làng Horenowes được phòng vệ mỏng manh. Nhiều binh sĩ Áo không hề tiên liệu sự tham chiến của Tập đoàn quân số 2, và trong tâm trạng bất ngờ họ đã đầu hàng mà không phải giao tranh khi đạo quân này bước vào trận chiến.
Dưới sự chỉ huy của Vương tước Hohenhole, các khẩu đội của lực lượng pháo binh trừ bị của Quân đoàn Vệ binh Phổ, được đặt tại Zizelowes, Racitz và Habrina, đã giã đạn vào vị trí phòng ngự của quân Áo giữa Horenowes và Trotina. Pháo chiến đã diễn ra giữa pháo binh của Tập đoàn quân số 2 với 5 khẩu đội pháo của địch trên các cao điểm về phía đông nam Horenowes. Được tăng viện thêm 7 khẩu đội nữa, pháo binh Phổ đã có được ưu thế áp đảo so với đối phương: 90 khẩu đại bác của Phổ đấu với 40 khẩu đại bác của Áo. Và, vào lúc 13 giờ, Sư đoàn Vệ binh số 1 đã giành được làng Horenowes. Quân đoàn VI của Phổ cũng nhanh chóng đoạt được Racitz và đỉnh phía tây của đồi Horickaberg. Do bị bọc sườn trái, Lữ đoàn Henriquez rút về Lochenitz ven sông Elbe và chốt ba tiểu đoàn tại đây, trong khi các tiểu đoàn khác rút về bên kia sông theo lệnh của Bá tước Thun: mặc dù cuộc triệt thoái của quân đoàn ông khỏi Swiepwald thành công hơn của Quân đoàn IV và trong tay ông vẫn còn nhiều binh lực, trước sự thất vọng của các sĩ quan Áo, Thun dường như đã bỏ cuộc và quyết định rút quân về thượng lưu sông Elbe – một hành động đã gây cho các sĩ quan thất vọng đồng thời đẩy tuyến đường rút của phần còn lại của quân đội Benedek vào mối đe dọa nghiêm trọng. Bất chấp những nỗ lực của Thun về sau này nhằm biện minh rằng cuộc triệt binh của ông chỉ khởi đầu sau khi quân Áo rút chạy trên toàn tuyến, điều không thể chối cãi là Thun đã ra lệnh cho các đơn vị thuộc Lữ đoàn Henriquez chuẩn bị vượt sông ở Predmeritz nửa tiếng đồng hồ trước khi quân Phổ đánh chiếm Chlum. Các lực lượng khác của ông cũng được lệnh tiến hành rút lui ngay lập tức với sự yểm trợ của kỵ binh. Trong khi Sư đoàn Kỵ binh nhẹ số 2 của Áo dưới quyền Thiếu tướng Vương tước Von Thurn und Taxis (Quân đoàn X) thiết lập một vị trí về hướng tây Lochenitz, Sư đoàn 12 của Phổ chiếm đóng Sendracitz. Lúc 14 giờ, toán lính Áo cuối cùng đã bị đẩy lui khỏi Maslowed, và quân Phổ làm chủ được hàng loạt các cao điểm. Mặc dù trận đánh sẽ còn ác liệt, Moltke hiểu rằng chiến lược của mình đã thành công. Tương truyền ông nói: "Chiến thắng đã trọn vẹn, Viên nằm dưới chân Bệ hạ".
Giờ đây, với sự tan vỡ của quân cánh phải, trận tuyến pháo binh Áo cũng buộc phải rút về một vị trí giữa Langenhof và Wsestar. Tại đây, quân Áo hình thành một chiến tuyến bao gồm 120 khẩu pháo. Gärtringen đã nhận thấy bản lề của toàn bộ vị trí phòng ngự của địch nằm ở ngôi làng Chlum đằng sau trung quân, với địa hình cao. Nhiệm vụ trấn giữ làng này vốn được giao cho lữ đoàn của Chuẩn tướng Carl von Appiano, song, ít lâu sau 13 giờ, Appiano ra lệnh các thành phần của lữ đoàn đang hứng chịu hỏa lực địch rút xuống một vị trí ở dưới và mất tầm nhìn cao điểm này. Các sĩ quan của lữ đoàn đã dự đoán được hậu quả của hành động này, nhưng họ không còn cách nào khác. Nhiệm vụ phòng ngự cao điểm sau đó thuộc về Đại tá Slaveczi, viên chỉ huy các Trung đoàn 46 Sachsen-Meiningen và 62 Đại Công quốc Heinrich – với thành phần chủ lực là người Hungary. Dưới sự yểm trợ của 70 khẩu đại bác, quân Phổ di chuyển nhanh nhạy trong tuyệt mật lên Chlum, dưới sự yểm trợ của làn sương mù và những ngọn cỏ cao. Pháo binh Áo bắn vào trận tuyến của bộ binh địch, nhưng bộ binh Áo hoàn toàn bị choáng ngợp khi họ bị tập kích "từ hướng bắc". Slaveczi, sau khi hay tin các binh lính áo xanh đang tiến lên đồi, nghĩ rằng đây chắc hẳn là quân đồng minh Sachsen. Khi một thuộc cấp khẳng định đây thực sự là quân Phổ, ông ta nói: "Anh đang nhìn thấy ma". Và, vào lúc 15 giờ, tiểu đoàn thứ nhất và các lực lượng bắn súng hỏa mai thuộc Trung đoàn Bộ binh Cận vệ số 1 đã đột chiếm Chlum từ tay Tiểu đoàn 3 của Trung đoàn Sachsen-Meiningen, đúng lúc Slaveczi đang nói: "Anh đang nhìn thấy ma" lần cuối. Slaveczi tử trận khi những lời nói này vẫn còn trên môi ông. Từ mọi phía, quân Phổ nã súng trường "Dreyse" xối xả vào vị trí phòng ngự của Tiểu đoàn 3, và chỉ sau 5 phút thì tiểu đoàn này coi như đã bị tiêu diệt. Sau đó, Vệ binh Phổ cắt đôi làng Chlum và khóa chặt Tiểu đoàn 2. Dưới sự chỉ huy của Thượng tá Freiherr von Schimmelpenning, quân Áo ra sức mở đường máu nhưng bất thành. Schimmelpenning cùng với hàng trăm quân của ông đã bị ngã rạp trước hỏa lực súng trường của Phổ, trong khi 600 binh lính còn lại đầu hàng.
Một tiểu đoàn khác của Trung đoàn 46 trấn thủ phía nam làng. Nghe tiếng hỏa lực bộ binh ở Chlum, người chỉ huy tiểu đoàn là Thiếu tá von Noack đã ra lệnh cho họ tấn công, với niềm tin rằng Appiano sẽ tăng viện một trung đoàn cho ông. Tiểu đoàn đã hành quân về hướng Chlum dưới làn đạn ác liệt của địch, và khi họ đã đi được nửa đường thì bất chợt một tốp kỵ binh Áo xuất hiện, đâm thẳng vào sườn của tiểu đoàn và buộc họ phải bỏ chạy thục mạng. Một lần nữa, những sai lầm của Festetics, Gorz và Mollinary gây tai hại cho quân đội. Việc rút các lực lượng Áo bị đẩy vào cuộc chiến ở Swiepwald là rất khó, như đã thấy, và cuộc triệt thoái đã không thể hoàn tất trước khi Tập đoàn quân số 2 tấn công sườn quân Áo. Tàn quân của lữ đoàn Đại tá Fleischhacker vẫn còn ở Cistowes cùng với Trung đoàn Khinh kỵ binh 7. Để cứu vãn tình hình của mình, lính khinh kỵ Áo phản công theo hướng Maslowed nhưng hành động của họ đã thu hút các khẩu đội pháo của Hohenlohe. Kết quả là họ bị đại bác Phổ băm vằn và phải chạy về Chlum. Cuộc chạy dài của quân khinh kỵ Áo đã biến họ thành một cơn lốc xoáy vào tiểu đoàn Noack. Họ len qua những người lính bộ binh nổi điên và rơi vào màn hỏa lực của lính Khinh chiến Cận vệ Phổ, khiến đội hình của họ tan vỡ và họ phải chạy về Horenowes, nơi họ bị Trung đoàn Vệ binh 2 và lính khinh kỵ Vệ binh Phổ tập trung hỏa lực súng trường và tàn sát. Với tổn thất nghiêm trọng, quân khinh kỵ Áo chạy lao đao sang hướng Nam và trốn thoát, để lại Chlum trong hỗn loạn. Chiếm được Chlum, quân Phổ cũng giành được 14 khẩu pháo từ tay địch chỉ trong vòng vài phút. Lữ đoàn trưởng Appiano được mô tả là khá thụ động khi đứng trước tình huống rối ren ở Chlum. Chỉ đến khi mà Trung đoàn Sachsen-Meiningen, một trung đoàn có thành tích chiến đấu ở Ý và Đan Mạch, bị loại trên 2.000 quân (trong đó hơn 400 người thiệt mạng) thì Appiano mới dẫn các đơn vị thuộc Trung đoàn Đại Công tước Heinrich (62) thực hiện một cuộc điều tra nửa vời theo hướng Chlum. Không ưu ý với những gì mà ông nhìn thấy ở đây, Appiano liền kéo quân thẳng về Sweti và Königgrätz. Ngược lại, một khẩu đội kỵ binh đơn độc thuộc Trung đoàn số 8 của Áo – Khẩu đội 7 do Đại úy August von der Groeben chỉ huy đã cố ngăn ngừa bước tiến của quân Phổ từ Chlum không lâu sau khi quân Áo bại binh tại đây. Sau những tràng đạn đầu tiên của khẩu đội, quân Phổ đáp trả bằng hỏa lực hết sức khủng khiếp từ nhiều phía và cuộc tấn công của người Phổ thành công nhanh chóng đến mức mà chỉ trong vòng 5 phút Groeben bị giết chết cùng với một trung úy, 53 lính thường và 68 ngựa chiến. Khẩu đội cũng mất 7 trong số 8 khẩu pháo của mình, song hành động can đảm của Groeben đã tạo điều kiện cho tàn quân Áo rút lui khỏi Chlum. Mặc dù vậy, ngày nay, tên tuổi ông chẳng mấy khi được nhớ đến. Một đài tưởng niệm thô kệch đã được dựng lên tại đây với dòng chữ "Khẩu đội pháo Tử thần".
Ban đầu, khi nhận được tin dữ, Benedek không thể tin rằng vị trí quan trọng ở Chlum đã thất thủ. Nhưng, khi ông cùng bộ tham mưu đi ngựa đến đây để theo dõi chuyện gi đã xảy ra, một tràng đạn của quân địch đã giết chết con ngựa của một viên sĩ quan tham mưu của ông, làm trọng thương Bà tước Gruenne và đốn một viên sĩ quan tham mưu khác ngã ngựa. Loạt đạn này khẳng địch với ông rằng trung quân Áo thật sự đã tan vỡ. Quân Áo đã ra sức phản công để giành lại Chlum: một cuộc phản kích của hai tiểu đoàn Áo bị quân Phổ đập vỡ, tiếp theo đó 6 khối kỵ binh thuộc Sư đoàn Kỵ binh Trừ bị 1 đã mở một đợt phản công mạnh mẽ hơn nhằm vào ba tiểu đoàn Vệ binh do Đại tá Bernhard von Kessel chỉ huy. Trong lúc họ đang xung phong về phía trận tuyến của địch, kỵ binh Áo lao phải một cái hố đã bị lấp kín. Trong khi gắng sức làm chủ những con ngựa khủng hoảng của mình và giải thoát cho mình trước khi bị đè bẹp bởi các khối kỵ binh phía sau, Trung đoàn Thiết kỵ binh Franz Joseph đã bị hỏa lực của súng trường nạp hậu Phổ gần như xóa sạch. Trung đoàn Thương kỵ binh cũng bị quét tan. Dưới sự yểm trợ của pháo lực, tàn binh của Sư đoàn Kỵ binh Trừ bị 1 chấn chỉnh lại đội hình và chạy về Langenhof. Trên đà thắng lợi, quân của Kessel quay sang hướng nam và đánh chiếm Rosberitz. Lực lượng pháo binh trừ bị của Quân đoàn Vệ binh Phổ do Hohenhole chỉ huy cũng được đưa lên các cao điểm về hướng đông Chlum, và chĩa nòng pháo vào bình nguyên để băm vằm các lực lượng Áo lan rộng ở đây. Trong khi Sư đoàn Vệ binh số 1 giành thắng lợi vang dội ở trung tâm, Tập đoàn quân số 2 đã củng cố vị thế của mình ở hai bên Chlum. Về hướng đông, Sư đoàn số 11 đã vượt qua Sendrasitz và tiến vào Nedelist, bắt được một số lượng tù binh Áo. Đồng thời, 5 tiểu đoàn của Sư đoàn số 12 cũng đã vượt sông Trotina tại ngôi làng trùng tên và tiến theo con đường chính về Königgrätz. Với những bước tiến của Quân đoàn VI Phổ, tàn binh của Quân đoàn II đã bị đánh bật về phía sau sông Elbe. Trong khi đó, lữ đoàn Alvensleben cũng không kém thành công ở hướng đông. Họ đã tràn vào rừng Lipa và chiếm được rừng này sau một đợt đụng độ dữ dội với tàn tích của các đội hình rã rời dưới quyền Fleischhacker – vốn đang tiến hành cuộc triệt thoái đầy khổ ải của mình khỏi Cistowes và cuối cùng đã thoát kịp trước khi quân địch giăng bẫy. Ngay sau khi rừng Lipa thất thủ, lực lượng tiền vệ của Sư đoàn Vệ binh số 2 thừa thắng phát động tiến công và giành được làng Lipa.
Vào thời điểm này, vị thế của người Áo bị suy giảm nhanh chóng, bởi do thiệt hại hết sức nặng nề, thiếu sự yểm trợ của kỵ binh và pháo binh và phía Phổ đã kiểm soát được phần đất cao. Trong khi quân của Thái tử tiến công cánh phải quân Áo, tướng Bittenfeld, Tổng tư lệnh Tập đoàn quân Elbe vốn chỉ giữ thế phòng ngự sau khi bị pháo binh Áo và bộ binh Sachsen đánh thiệt hại nặng vào đầu buổi sáng, đã quyết định tiến công Probus và để đạt được mục tiêu này, ông huy động Sư đoàn số 15 cùng với một lữ đoàn kỵ binh tiến đánh Ober-Prim theo đường Hradek, trong khi Sư đoàn số 15, bấy giờ còn án ngữ ở phía tây Nechanitz, đánh Probus. Để đối phó với trận hợp vây của địch, Thái tử Albert của Sachsen đã phát lệnh cho Lữ đoàn Hộ vệ phản công theo hướng Hradek, song lữ đoàn này bị giáng vào sườn trái và buộc phải rút chạy.hưng bị quân Phổ. Sau đó, Đại Công tước Ernerst chỉ huy Quân đoàn VIII của Áo đã phái các lữ đoàn Schulz và Roth tham gia phản kích quân Phổ tại Ober-Prim. Giờ đây, Albert quyết định đưa thêm lữ đoàn Sachsen số 2 vào cuộc và sử dụng toàn bộ lực lượng của 4 lữ đoàn Áo-Sáchen để tiếp tục phản kích. Một lần nữa, cuộc phản công bất thành, do ở trung tâm lữ đoàn Schulz đã vấp phải sự kháng cự của Lữ đoàn số 30 mới nhập trận của Phổ và bị đánh tơi tả. Sự thua chạy cua lữ đoàn Schulz làm hở sườn trái của quân Sachsen, buộc Lữ đoàn Sachsen số 2 phải rút lui. Trong khi đó, lữ đoàn Roth cũng rơi vào tình trạng hết sức náo loạn và rút chạy vào rừng Brizerwald. Quân Phổ làm chủ được Ober-Prim. Cho đến 15 giờ chiều, rừng Brizerwald và Probus cũng đã rơi vào tay quân Phổ. Cũng trong thời điểm này, quân đội Phổ đã có thể nhận thấy được sự suy giảm của hỏa lực pháo binh Áo. Khi nhận thấy quân Sachsen dần dần bị đánh đuổi khỏi Problus, Tư lệnh Quân đoàn I của Áo điều một lữ đoàn đến phối hợp với họ. Sau khi đến gần Bor, lữ đoàn mở một cuộc tấn công vào Problus nhưng bị bẻ gãy và vào lúc 16 giờ chiều, lữ đoàn này cũng rút về Ziogclschlag, đồng thời với cuộc rút chạy của trung quân Áo. Chiếm được Prim và Probus, Tập đoàn quân Elbe đã chọc thủng hoàn toàn sườn trái của đối phương, và một người con của Bittenfeld đã tử trận ở Prim. Nhưng rồi, Bittenfeld một lần nữa lại tỏ ra uể oải, và sau khi đẩy lui được địch, ông ra lệnh cho Tập đoàn quân Elbe dừng chân. Trong tay ông vẫn còn Sư đoàn số 16 chưa được tung vào trận, nhưng giờ đây ông chỉ củng cố vị trí của mình quanh Probus. Do vậy, một cơ hội để hợp vây quân của Benedek từ hai phía đã bị đánh mất.
Các cuộc phản công cuối cùng và cuộc rút chạy của quân Áo.
Dù sao đây nữa thì trong thời gian này, Benedek không gì khác ngoài việc tiến hành rút lui toàn bộ binh lực của mình. Thế nhưng, phó chỉ huy Quân đoàn IV là Trung tướng Anton von Mollinary và Tư lệnh Quân đoàn VI là tướng Wilhelm Freiherr von Ramming nài nỉ chỉ huy của mình phát động phản công, nhưng lúc này Benedek đã mất mọi quyền kiểm soát trận đánh. Lúc 15 giờ 30, Ramming đích thân ra lệnh hai lữ đoàn còn nguyên vẹn phản công chiếm lại Rosberitz và Chlum mà không hề có mệnh lệnh trực tiếp. Đồng thời, các khẩu đại bác của Áo tại Langenhof đã tăng gấp đôi hỏa lực của mình để yểm trợ cho cuộc tấn công. Trước những đợt tiến công ào ạt của quân địch, quân Phổ thuộc Sư đoàn Vệ binh số 1 của Phổ (trong đó có viên Thiếu úy trẻ tuổi Paul von Hindenburg) đã tổ chức phòng ngự tại các ngôi nhà, nông trang và sân nhà thờ, gây cho quân Áo bị thiệt hại to lớn chỉ trong vòng 20 phút. Nhưng cuối cùng, do số lượng áp đảo của quân Áo, họ bị đánh bật từ Rosberitz về Chlum, và bị truy kích bởi các tiểu đoàn vốn đã sứt đầu mẻ trán của lữ đoàn Áo dưới quyền Chuẩn tướng Ferdinand Rosenzweig von Dreuwehr. Đợt phản công quyết liệt đã mang lại cho quân Áo 3 khẩu pháo, ngoài ra thân vương Anton von Hohenzollern của Phổ cũng bị thương và bị bắt, song nhiều đơn vị Phổ đã đổ vào trận đánh để tiếp viện cho Sư đoàn Vệ binh số 1. Giờ đây, Sư đoàn Vệ binh số 2 đã nhập trận, cùng với các thành phần thuộc Quân đoàn I của Phổ. Các đơn vị đã tham gia một đợt tiến công đúng lúc của Sư đoàn số 11 (từ hướng Nedelist), đập tan lữ đoàn của Rozenweig và buộc quân địch phải tháo chạy về Rosberitz. Tuy nhiên, giao chiến ác liệt vẫn tiếp tục kéo dài thêm một khoảng thời gian nữa. Các Quân đoàn I và VI đã chiến đấu dũng cảm tại Rosberitz để ngăn chặn sức tiến công mạnh như vũ bão của quân Phổ, nhưng bị lính Vệ binh Phổ đánh tan tành. Gần như bị vây chặt bởi số lượng ngày càng gia tăng của quân địch, các đơn vị Áo này phải rút lui dần dần sau khi hứng chịu thiệt hại khủng khiếp, để lại Rosberitz (và cả Chlum) trong tay địch. Trong cuộc hỗn chiến, Gärtringen đã bị trúng một quả đạn pháo và không lâu sau đó ông qua đời, nhưng đã kịp nhìn thấy quân của mình cầm chắc Chlum trong tay.
Với sự tan rã của hai cánh quân Áo, các Quân đoàn III và X của Áo triệt thoái về Rosnitz theo đường Sadowa-Königgrätz. Sau khi xác định tình hình, vào lúc 16 giờ, Moltke cuối cùng đã phát lệnh cho Tập đoàn quân số 1 tiến về hướng trung tâm. Lính Phổ lăn xả về phía trước, "với những tiếng reo vang và trống đánh" nhưc một phóng viên chiến trường mô tả. Quân tiền vệ của Friedrich Karl đã làm chủ được các cao điểm mà tại đó pháo binh Áo tra tấn họ trong suốt buổi sáng, và bước tiến mau lẹ của các đoàn quân chiến thắng đã uy hiếp đoạn đường Sadowa-Königgrätz. Từ Langenhof, các khẩu đội của hai quân đoàn Áo rút lui, một số về Rosnitz và số khác thì về Wsestar. Quân bộ binh Áo tháo chạy dưới sự yểm trợ của pháo lực – điều duy nhất trì hoãn thế mạnh như vũ bão của quân địch. Đồng thời, Benedek huy động Sư đoàn Kỵ binh Trừ bị số 1 dưới quyền Chuẩn tướng Carl Graf Condenove và Sư đoàn Kỵ binh Trừ bị số 3 dưới quyền vương công xứ Holstein phản công về hướng tây để yểm trợ cho cuộc triệt binh mà ông đã khởi đầu vào lúc 15 giờ. Vào lúc 16 giờ 30, khi mà các lực lượng Áo đều đang rút chạy, các thành phần thuộc Sư đoàn Kỵ binh số 2 của Phổ đã tiến công với Sư đoàn Kỵ binh Trừ bị số 1 tại Stretelitz. Do kỵ binh Phổ yếu thế về số lượng, họ bị đẩy lui trong đợt giao tranh đầu tiên. Tuy nhiên, khi phía Phổ đổ thêm nhiều trung đoàn khác vào ứng chiến và lính thiết kỵ binh Áo rơi vào hỏa lực bộ binh Phổ từ Langenhof, quân Áo bị đánh đuổi về Bor, và bị truy sát gắt gao bởi các khối kỵ binh mới của Phổ cho đến khi rút về Rosnitz. Đồng thời, hai trung đoàn khác cũng thuộc biên chế Sư đoàn Kỵ binh số 2 đã tiến đánh Sư đoàn Kỵ binh Trừ bị số 3 của Áo gần Langenhof. Tại đây, sau một đợt giao chiến khốc liệt, kỵ binh Áo cũng bị đánh tan. Không những thế, họ còn hứng chịu hỏa lực của bộ binh Phổ và các khối kỵ binh Áo cũng trở thành mối ngon của hỏa lực tầm xa của pháo binh địch, chưa kể họ còn bị các khối kỵ binh Phổ mới toanh đổ ra đánh cho sứt đầu mẻ trán. Cái giá của thất bại này thật sự là ghê gớm, không thua kém gì cuộc tấn công của Lữ đoàn Kỵ binh nhẹ trong trận Balaclava: mặc dù kỵ binh nặng Áo, rực rỡ trong những bộ binh giáp sáng loáng và mũ sắt cắm lông vũ, đã được rèn luyện thành "những bức tường" ngựa phi để đập vỡ chiến tuyến địch bằng những cuộc "tấn công bão táp", họ không hề chiến tuyến quân Phổ ở Königgrätz. Thay vì đó, các khẩu đội pháo và súng trường của Phổ đã loại 30% lực lượng của họ ra khỏi vòng chiến và chung cuộc, họ phải cuống cuồng tháo chạy theo mọi hướng – một kết thúc tối tăm cho một trận bại binh.. Thương vong của kỵ binh Áo lên đến 64 sĩ quan, 1.984 lính và 1.681 ngựa chiến. Mặc khác, qua các trận xáp chiến nêu trên quân thiết kỵ, thương kỵ và long kỵ binh Áo cũng gây cho đội hình kỵ binh Phổ loạng choạng đồng thời giam chân bộ binh trong vòng hơn nửa tiếng đồng hồ.
Dù thảm bại nhưng những cuộc giao chiến bằng kỵ binh của Quân đoàn I, đã làm chậm bước tiến của quân địch và tại điều kiện tạo điều kiện cho bính lính của Benedek rút chạy qua các ngọn cầu trên sông Elbe, mặc dù quân Áo đang rút chậm một cách đáng quan ngại. Sau tất cả những trận giao tranh đã nêu, toàn bộ quân Áo đều rút lui qua sông Elbe, ngoại trừ các Sư đoàn Kỵ binh Nhẹ II và I ở cánh phải và trái, cùng với Sư đoàn Kỵ binh Trừ II ở trung tâm; ba sư đoàn này yểm trợ cuộc lui quân, cùng với 28 khẩu đội, cho đến 18 giờ 30. Nhưng sau đó, cuộc pháo chiến với 34 khẩu đội của Phổ vẫn tiếp diễn cho đến khi màn đêm buông xuống. Lúc 21 giờ, pháo đội kỵ binh của Áo nã những phát đạn cuối cùng của trận chiến. Trước đó, vào lúc 20 giờ, quân đội Phổ đã nhận được mệnh lệnh mà Moltke đã ban bố lúc 18 giờ 30 nhằm chấm ứt trận tàn sát. Trong khi đó, không khí tại Königgrätz bao trùm trong hỗn loạn, do các đội quân bại trận của Áo chen chúc nhau thành một đống bát nháo gồm người, ngựa và xe goòng.. Trên đường chạy, nhiều binh sĩ Áo đã chết đuối ở sông Elbe. Số còn lại vượt được sông, nhưng phải mất hàng tiếng đồng hồ mới thuyết phục được viên chỉ huy pháo đài Königgrätz, người đã đóng cửa do lo sợ quân Phổ xâm chiếm pháo đài, mở cửa. Lính Áo xô đẩy nhau lao vào thành, làm nhiều người bị chết ngạt. Khi quân Áo thảm bại, đồng minh của họ quân Sachsen do Albert chỉ huy, được lệnh rút lui về Placka, nhưng đường rút của họ bị cản trở bởi một đống tàn quân Áo đang tìm cách chạy về Koniggratz. Một toán quân Sachsen đã đến được Placka và vượt sông tại đây trước khi ngọn cầu bị phá hủy, nhưng phần còn lại bị buộc phải chuyển sang hướng nam và chạy về Pardubitz. Về phía mình, Benedek đã vượt sông Elbe và lúc 18 giờ và vài tiếng đồng hồ sau, ông thông báo cho hoàng đế biết rằng thảm họa mà ông từng cảnh báo và thực sự đã xảy ra.
Trong ngày hôm đó, hiểu rằng quân Phổ sẽ thua nếu không có sự tiếp viện kịp thời của Thái tử, Quốc vương đã sai sứ giả mang huân chương Thập tự Xanh cao quý nhất của Phổ đến trao tặng cho con trai mình, song viên sứ giả không tìm thấy Thái tử. Đến đêm, trong một tình huống bất ngờ, vua cha đã hội ngộ với Thái tử với nhau trên chiến địa. Sau khi nhận ra nhau, vua cha ôm lấy Tháo tử, và gỡ chiếc Thập tự Xanh của mình ra để đeo lên cổ con trai. Trận đánh chấm dứt với thương vong to lớn cho cả hai phía. Bộ Tổng tham mưu Áo cho biết quân đội Áo chịu thiệt hại 1.313 sĩ quan, 41.499 binh lính và 6.010 ngựa chiến, trong số đó 330 sĩ quan và 5.328 binh lính chết trận, 431 sĩ quan và 7.143 binh lính bị thương, 43 sĩ quan và 7.367 binh lính mất tích, 509 sĩ quan cùng với 21.661 binh lính bị bắt làm tù binh. Chỉ riêng cuộc tấn công thất bại ở Chlum đã gây thương vong 150 sĩ quan và 5.800 lính của họ (chưa kể 2.800 người còn sống từ bỏ cuộc chiến đấu và rơi vào tay quân Phổ).. Ngoài ra, quân Áo cũng đánh mất 160 khẩu pháo và 5 cờ hiệu. Đồng minh của họ là Sachsen chịu thương vong 55 sĩ quan và 1.446 binh lính, bao gồm 15 sĩ quan và 120 binh lính tử trận, 40 sĩ quan và 900 binh lính bị thương, và 426 người mất tích. Quân đội Phổ tổn thất nhẹ hơn nhiều so với kẻ thù của mình, với 359 sĩ quan, 8.975 binh lính và 909 ngựa chiến (bao gồm 99 sĩ quan và 1.830 binh lính tử trận, 260 sĩ quan và 6.688 binh lính bị thương và 276 người bị mất tích). Hơn nửa con số thương vong này thuộc về Tập đoàn quân số 1. Thêm vào đó, chính người Áo cũng làm gia tăng chênh lệch về số người bị thương và mất tích giữa hai phe vì không ký Công ước Genève thứ nhất năm 1864. Do không được sự bảo hộ của Hội Chữ Thập đỏ, nhân viên y tế của Áo bị xếp loại như những người tham chiến và phải rút khỏi chiến địa cùng với toàn bộ quân đội Áo, khiến cho những người bị thương nếu không thể xoay xở thì đành phải chịu chết hoặc là bị bắt sống. Trong đêm, binh lính Phổ đã hát vang bài thánh ca "Nun danket alle Gott", giống như những tiền bối của họ sau chiến thắng của Friedrich Đại đế ở Leuthen ngày trước.
Sau trận đánh.
Quân Phổ đã gần như gói gọn quân Áo, nhưng không thể tiêu diệt hoàn toàn theo ý muốn của Moltke. Người Áo đã rút chạy thành công trong gang tấc. Trái ngược với toan tính của Moltke, trận đánh lớn bằng kỵ binh ở Stresetice không hề nổ ra. Cuộc chiến năm 1866 cho thấy sự bất lực của lực lượng kỵ binh Phổ về nhiều mặt. Chỉ có 39 trong 350 khối kỵ binh Phổ, vốn được giao nhiệm vụ dẫn đầu cuộc truy sát quân đội Áo bại trận, đã nhập trận tại Stresetice, và không một khối kỵ binh nào truy kích những mớ bộ binh náo loạn của Tập đoàn quân phía Bắc sau khi các đợt phản công của kỵ binh trừ bị Áo bị đập tan. Bên cạnh tinh thần chiến đấu hy sinh của kỵ binh và pháo binh Áo, quân tướng Phổ đã kiệt sức ("nhiều người trong số họ đã hành binh 19 tiếng đồng hồ và đánh địch 10 tiếng đồng hồ" theo chính sử của Bộ Tổng tham mưu) để có thể truy kích hiệu quả, trong khi các đơn vị quân đội bị biến thành một đống hỗn tạp khó thể gỡ ra do binh lính của Tập đoàn quân số 2 đã đổ dồn vào phía trước Tập đoàn quân số 1. Rạng sáng ngày 4 tháng 7 năm 1866, tin tức về cuộc tháo chạy an toàn của quân Áo làm cho Moltke thất vọng, và vào năm 1867 ông đã bày tỏ thái độ hối tiếc và sự thất bại này. Song, trận Sedan bốn năm sau đó cho thấy ông và các tướng lĩnh dưới quyền đã rút ra bài học kinh nghiệm từ đống hỗn độn này. Một số nhà bình luận, trong đó có sử gia người Mỹ Geoffrey Wawro, quy cho Moltke trách nhiệm về việc để quân chủ lực Áo rút khỏi trận địa, song sử gia Mỹ Max Boot khẳng định rằng đây không phải là một thiếu sót lớn. Quân Áo đã thiệt hại hết sức nặng nề trong khi pháo binh và tiếp tế của họ bị bỏ lại chiến trường. Dù gì đi nữa, Königgrätz cũng là trận đánh quyết định của chiến dịch. Không một lữ đoàn bộ binh nào của Benedek là còn có khả năng tác chiến hiệu quả. Một sĩ quan tham mưu của ông ta khi thị sát các lực lượng rệu rã của Tập đoàn quân phía Bắc đã cho biết họ "không còn là một tập đoàn quân nữa, mà đúng hơn là một đám khố rách áo ôm gồm những tên ngu dốt, lười biếng và lập dị". Trong những tuần lễ sau đó, quân đội Phổ tiếp tục truy kích đối thủ bại trận. Giờ đây, con đường đã rộng mở cho quân đội Phổ tiến vào Viên và sự sụp đổ của vương triều Habsburg là điều hoàn toàn có thể xảy ra.
Để nhanh chóng đánh chiếm Viên và áp đặt một nền hòa bình với Áo trước khi Áo và Nga – giờ đây đang bận tâm về một sự thay đổi cán cân quyền lực ở châu Âu – có thể can thiệp bằng vũ lực, Moltke hạ lệnh cho các lực lượng Phổ từ bỏ các đoàn tiếp tế lương thảo của mình và thay vì đó phải trưng dụng lương thực để sống. Giữa tháng 7 năm 1866, một nhà ngoại giao Anh cho biết, ba tập đoàn quân Phổ cùng với các toán "biệt kích trưng dụng" của họ đã biến lãnh thổ phía bắc sông Donau của Áo thành một "sa mạc rộng lớn". Đối mặt với sự tàn phá có hệ thống trên những vương thổ giàu có nhất của mình, Franz Joseph hy vọng Pháp sẽ can thiệp. Ngay từ ngày 5 tháng 7, ông ra lệnh cho Đại sứ Áo ở Paris, Vương công Richard Metternich (con của nhà ngoại giao nổi tiếng Klemens von Metternich giữa thế kỷ 19) cầu khẩn Napoléon tấn công Phổ. Tuy nhiên, yêu cầu của Franz Joseph đã không được Napoléon đáp trả. Giữa lúc quân Phổ đang kéo về Viên, Bá tước Beust, Thủ tướng Sachsen, sang Pháp để lặp lại lời cầu cứu Napoléon. Beust đã tiên đoán đúng khi ông cảnh báo Napoléon rằng nếu không đánh Phổ ngay bên giờ, Pháp sẽ phải đương đầu với toàn bộ nước Đức được vũ trang về sau này. Nhưng, do không lường trước được chiến thắng Königgrätz của Phổ, hoàng đế nước Pháp chưa chuẩn bị trước và không có tâm tạng để đối mắt với những người thắng trận này. Tình hình vẫn chưa phải là hoàn toàn tuyệt vọng với Áo sau trận Königgrätz, do thắng lợi của họ trước quân Ý trong trận Custozza đã tạo điều kiện cho Tập đoàn quân phía Nam của Áo rảnh tay để đối phó với quân Phổ về hướng bắc, và viên chỉ huy của tập đoàn quân này là Albrecht đã được bổ nhiệm làm Tổng tư lệnh tất cả các tập đoàn quân Áo vào ngày 10 tháng 7 để tổ chức phòng nự kinh thành Viên. Song, sự tan rã của Tập đoàn quân phía Bắc ngoài mặt trận, kết hợp với sự suy sụp tinh thần của dân chúng Áo tại hậu phương cũng chứng tỏ người Áo không thể tiếp tục chiến tranh. Phần lớn công chúng Áo phản đối tiến hành chiến tranh du kích – một cuộc đấu tranh tới cùng để bảo vệ Tổ quốc, mà thay vì đó họ ép buộc Hoàng đế phải nghị hòa. Giờ đây, hoàng đế Áo cố gắng cứu vãn những gì còn có thể cứu được bằng một hiệp ước hoà bình với Phổ, với hy vọng sẽ phục thù trong tương lai. Vào ngày 22 tháng 7 năm 1866, Franz Joseph I quyết định nhân nhượng với Phổ. Trận đánh cuối cùng của cuộc chiến đã diễn ra ở Blumenau đúng vào ngày hôm đó, khi Hiệp định đình chiến giữa hai bên đang được ký kết.
Trong khi các võ tướng Phổ đều nóng lòng khai thác thắng lợi của mình, và Moltke cũng không ngoại lệ, quan điểm Bismarck thì ngược lại. Với tầm nhìn ngoại giao của mình, ông không hề có ý định đạp đổ nền quân chủ Habsburg, thay vì đó ông mong muốn chấm dứt sớm chiến tranh trước khi Nga và Pháp có thể can dự. Bismarck đã ra sức thuyết phục vua Wilhelm I không nên áp đặt những điều khoản hòa bình khắc nghiệt đối với Áo. Phấn khởi vì chiến thắng, nhà vua muốn buộc Áo và Bayern cắt đất cho mình và tổ chức lễ diễu binh khải hoàn ở Viên. Trái lại, Bismarck chủ trương đề xuất những điều khoản mềm dịu, nhằm loại nước Áo ra khỏi Đức nhưng đồng thời tránh hạ nhục Áo càng nhiều càng tốt, đặt nền tảng cho sự hợp tác giữa hai nước trong tương lai. Ông thậm chí còn dùng đến cả nước mắt trong những cuộc tranh cãi quyết liệt với nhà vua. Cuối cùng thì Bismarck đã thắng. Hai bên ký kết hòa ước sơ bộ ở Nikolsburg (Nam Mähren) vào ngày 26 tháng 6 năm 1866, và những điều khoản của nó được xác nhận tại Hòa ước Praha vào ngày 23 tháng 8 năm 1866. Theo đó, Áo bị loại ra khỏi Đức, và chấp thuận bất kỳ một sắp đặt nào mà Phổ mong muốn đối với phần lãnh thổ phía Bắc sông Main, nói cách khác là miền Bắc Đức. Liên minh các quốc gia Đức bị giải tán, và phần lớn các bang Bắc Đức (trong đó có Schleswig và Holstein) bị sáp nhập vào lãnh thổ Phổ. Về sau, Liên bang Bắc Đức được hình thành từ các bang còn lại nhà nước và công quốc còn lại ở miền Bắc Đức, do Triều đình Berlin lãnh đạo. Phổ cũng buộc Áo phải nộp một khoản chiến phí gồm 20 triệu thaler (tương đương với 15 triệu Mỹ kim), nhưng không giành lấy một lãnh thổ nào của Áo.
Ngoài ra, chiến thắng oanh liệt của Phổ trong trận này đã làm cho nước Pháp hết sức kinh ngạc. Hầu như chỉ trong chốc lát, một lân bang nhỏ bé và dễ kiềm chế đã vươn lên thành một thế lực quân sự và công nghiệp khổng lồ. Với việc vinh quang của Solferino bị lu mờ trước Königgrätz, những thắng lợi của Phổ đánh một đòn nặng nề vào niềm kiêu hãnh và tinh thần dân tộc của Pháp, làm người Pháp cảm thấy bị mình xúc phạm và thách thức. Các quan chức của Napoléon III đã khuyên hoàng đế phải ra tay ngay lập tức để ngăn ngừa hậu họa. "Sự vĩ đại là tương đối", viên cơ mật đại thần của hoàng đế Pháp cảnh báo, ""sức mạnh của một quốc gia có thể bị tiêu ma chỉ do một sự thật là những lực lượng "mới nổi" đang tụ tập quanh nó"". Eugène Rouher, Quốc vụ khanh Pháp, còn nói cụ thể hơn: "Đập nát Phổ và chiếm vùng Rhein". Nói đến Rhein, Rouher ám chỉ các thành phố ở miền Tây Phổ (Köln, Düsseldorf và vùng Ruhr với các thành phố Essen, Bochum và Dortmund ở Westfalen), những trung tâm công nghiệp quan trọng mà Berlin không thể tồn tại nếu không có. Ngay cả những người theo chủ nghĩa tự do đối lập với Napoléon cũng chủ trương ủng hộ các cuộc phiêu lưu quân sự. Thay vì đó, Napoléon chưa gây chiến mà ông ta thử lừa phỉnh Bismarck. Đầu tháng 8 năm 1866, một tháng sau trận Königgrätz, khi quân đội Phổ còn đang lo bình định đất Áo, Napoléon đột ngột yêu cầu Phổ hỗ trợ cho người Pháp lập lại "những đường biên giới năm 1814", nói cách khác là Pháp muốn giành lại vùng lãnh thổ hình vuông ở bờ trái sông Rhein đã bị sáp nhập vào Pháp trong Chiến tranh Cách mạng Pháp và được trả lại cho các bang Đức sau trận Waterloo. Không may cho Pháp, tham vọng bành trướng này đã triệt hạ khả năng xây dựng hình ảnh của họ như là "người bảo hộ các quốc gia Nam Đức". Bismarck lấy đó làm cơ sở để đe dọa sẽ thống nhất toàn bộ nước Đức chống lại Pháp đồng thời tiến hành ký kết những bản hòa ước riêng lẻ của Phổ với các quốc gia Nam Đức nhằm hướng đến những liên minh quân sự theo đó Phổ chỉ huy quân đội và các tuyến đường sắt của những nước này trong thời bình. Hoàng đế Pháp đành phải bỏ cuộc và Hòa ước Praha được ký kết vào ngày 23 tháng 8 như đã nêu. Nhìn nhận trận đánh như là một thất bại của Pháp, dư luận Pháp trong tâm trạng phẫn nộ đã đề nghị "Revanche pour Sadova", có nghĩa là "Báo thù cho Sadowa". Điều này đã góp phần dẫn đến cuộc Chiến tranh Pháp-Đức năm 1870, trong đó Moltke đã bắt gọn 9 vạn quân chủ lực Pháp của Napoléon III ở Sedan vào ngày 11 tháng 9.
Ý nghĩa của trận đánh.
Cho đến ngày nay, Königgrätz vẫn được nhìn nhận là một trong những trận đánh quyết định nhất trong thời kỳ cận đại-hiện đại. Đại thắng của người Phổ đã gây chấn động cho cả châu Âu chấn động đồng thời góp phần khơi gợi tinh thần dân tộc chủ nghĩa Đức. Là "một bước ngoặt của lịch sử" (theo Wawro), trận đánh và các sự kiện diễn ra sau đó là những minh chứng cho thấy rằng những trận đánh lớn có thể làm thay đổi cục diện của lịch sử. Sáu năm trước đó, thời báo "The Times" của Luân Đôn đã chế giễu: "Phổ mà không có đồng minh thì sẽ không thể giữ nổi sông Rhine hoặc sông Vistula được một tháng", Giờ đây, chỉ trong khoảng thời gian tính bằng ngày, nước Phổ đã leo từ hạng thấp lên hàng đầu trong các liệt cường. Thắng lợi của cuộc chiến đem lại cho Phổ 3357 km² lãnh thổ với 7 triệu dân. Dưới sự lãnh đạo của Bismarck, Phổ đã làm chủ phần lớn Đức và có thế để thâu tóm phần còn lại – điều mà họ đã hoàn thành với sự kiện thống nhất nước Đức ngày 18 tháng 1 năm 1871, khi Phổ và liên minh Đức đã nắm chắc phần thắng trong cuộc chiến tranh với Pháp. Trong khi đó, kể từ sau thất bại ở Königgrätz, đế quốc Áo 600 năm tuổi không còn đóng một vai trò chi phối nào trên trường quốc tế.
Trận chiến Königgrätz cũng góp phần báo hiệu tính quyết liệt của chiến tranh hiện đại. Quân số tại đây đông hơn gấp đôi quân số tham chiến trong trận Gettysburg đúng ba năm trước đó, trận đánh lớn nhất của cuộc Nội chiến Hoa Kỳ. 1/4 trong tổng số nửa triệu binh sĩ tham chiến trong trận Königgrätz đều tử trận hoặc bị thương. Trên một trận địa rộng khoảng 20 km, pháo binh Áo rền vang với tốc độ bắn mà trước đây hầu như chưa từng thấy, khai hỏa với tỷ lệ hỏa lực, báo hiệu cường độ khủng khiếp của những hàng rào pháo trong Chiến tranh thế giới thứ nhất. Ngoài ra, mặc dù diễn biến của trận đánh cho thấy kỵ binh Áo là lực lượng tốt và kỵ luật nhất trong việc trì hoãn bước tiến thắng lợi của bộ binh Phổ, thiệt hại hết sức thảm khốc mà súng trường nạp hậu Phổ gây ra cho họ đã góp phần khẳng định rằng những ngày tháng vinh quang của các trung đoàn kỵ binh kiểu cũ chỉ còn đếm trên đầu ngón tay.
Các nhà sử học quy trách Benedek vì thái độ chần chừ của ông trong trận đánh vào buổi sáng. Mặc dù phía Áo có quân số vượt trội so với đối phương, Benedek đã không chớp thời cơ phát động một cuộc tấn công tổng lực nhằm đánh bại các lực lượng của Friedrich Karl và Bittenfeld trước khi Thái tử Phổ đưa quân đến ứng chiến. Theo Max Boot, khi đã không làm được như vậy, Benedek nên rút khỏi trận địa lúc diễn tiến còn đang thuận lợi cho người Áo, thay vì đó ông ở lại trận đánh và cuối cùng gánh chịu hậu quả của sự suy yếu cánh phải của mình. Về sự sơ hở này, Giáo sư Lịch sử Quân sự Erik Durschmied trong cuốn "The Hinge Factor: How Chance and Stupidity Have Changed History" đã nhấn mạnh trách nhiệm của các chỉ huy quý tộc của hai quân đoàn IV và II đối với thảm bại của Áo qua việc tự ý điều quân cánh phải vào các cuộc phản công đẫm máu ở rừng Swiepwald. Durschmied cho rằng nếu các vị tướng này giữ chặt vị trí của mình, quân Áo với thế mạnh về pháo binh sẽ giành được phần thắng.
Ngoài ra, những người đương thời, trong đó có Friedrich Engels, chú trọng vai trò của khẩu súng trường nạp hậu "Dreyse" của Phổ đối với chiến thắng. Loại súng này đã tạo điều kiện cho các đơn vị nhỏ bé của Phổ đánh trả thành công quân số áp đảo của địch, và điều này được thể hiện cụ thể trong cuộc chiến đấu của Fransecky ở rừng Swiepwald. Theo Max Boot, ưu điểm về pháo binh của Áo không đủ để vô hiệu lợi thế của Phổ do trong thời đại này súng trường đã trở thành "nữ hoàng của chiến trường" thay pháo binh.
Thắng lợi của chiến dịch Böhmen, với đỉnh điểm là đại thắng Königgrätz, được xem là minh chứng cho sức mạnh tinh nhuệ của quân đội Phổ cũng như sự linh hoạt của Bộ Tổng Tham mưu Phổ dưới quyền Moltke trong việc dàn dựng kế hoạch chu đáo trước chiến tranh, áp dụng thuần thục kỹ nghệ đường sắt và hoạt động tham mưu hiệu quả. Họ đã nhanh chóng chấn chỉnh những sai sót trong buổi sáng để giành thắng lợi trong trận đánh.
Thắng lợi quyết định ở Königgrätz đã khẳng định niềm tin của Moltke vào sức mạnh của quân lực Phổ thời bấy giờ.
Trong văn hóa.
Nhà soạn nhạc quân sự Phổ là Johann Gottfried Piefke đã sáng tác bản "Hành khúc Königgrätz" (Quân hành ca II, 197) để kỷ niệm chiến thắng này. "Hành khúc Hohenfriedberg" được Piefke sử dụng làm phần tam tấu của bản quân hành ca, như để ghi nhớ những thắng lợi của Friedrich II trước người Áo. Ngày nay, "Hành khúc Königgrätz" là một trong những bản quân hành ca quan trọng và nổi tiếng nhất của Đức, thường được trình tấu trong các nghi lễ. Trái lại, bản hành khúc rất hiếm khi được nghe ở Áo vì những lý do cụ thể.
Trong tiểu thuyết hiện thực "Effi Briest" (1894 – 1895) của văn hào Đức Theodor Fontane, nhân vật cùng tên truyện đã sinh ra đứa con gái duy nhất của cô là Annie đúng vào dịp kỷ niệm đại thắng Königgrätz.
Bộ phim Đức Quốc xã Bismarck (1940), đạo diễn bởi Wolfgang Liebeneiner, có đoạn nói về chiến thắng Königgrätz. Trong phim, trận chiến được miêu tả như một công trình hoàn toàn của Helmuth von Moltke; cảnh phim không cho thấy một người lính nào.
Do trận thảm bại này mà cho đến nay từ "Königgrätz" vẫn được sử dụng như một từ lóng ở Áo, có nghĩa là "thất bại", tương tự như "Waterloo" trong tiếng Anh.
Chú giải.
• a) Các nhà văn Pháp trong và sau năm 1866 thường ưu tiên dùng cái tên "Sadowa" hơn là "Königgrätz", gọi trận đánh theo tên một ngôi làng trên sông Bistritz nơi mà giao chiến đã diễn ra giữa trung quân Phổ với đối phương vào buổi sáng ngày 3 tháng 7. Các tác giả khác chỉ ra rằng tên gọi hợp lý nhất của trận đánh phải là "Chlum", do trận đánh chiếm cao điểm Chlum của lực lượng Vệ binh Phổ là một nhân tố quyết định chiến thắng của họ. Song, các trận đánh thường được đặt tên bởi người chiến thắng, và trận này cũng không ngoại lệ. Tên gọi được vua Wilhelm I chọn trong buổi tối sau chiến thắng lớn nhất của mình là "Königgrätz", mặc dù pháo đài mang tên này nằm sau sông Bistritz vài dặm Anh và không gắn liền với trận chiến này.
• b) Quân đoàn V, đơn vị cuối cùng của Tập đoàn quân số 2 hành binh từ Josephstadt, mới đến Chlum. Các sĩ quan tham mưu Áo tra khảo tù binh Phổ sau trận chiến đều ngạc nhiên khi biết rằng các sư đoàn của Steinmetz, vốn gặp một số sai sót về đường đi, đã tiến dọc trên một đoạn đường gần 40 km để tới sông Bystrice. Xem "The Austro-Prussian War: Austria's War with Prussia and Italy in 1866", trang 272. | 1 | null |
Có sáu quận của Israel, được biết đến trong tiếng Hebrew là mehozot (מחוזות; số ít: "mahoz") và 15 tiểu quận (sub-district) được gọi là nafot (נפות; số ít: "nafa"). Mỗi tiểu quận được chia thành các vùng tự nhiên(natural regions), và có 50 vùng.
Các con số trong bài viết này được dựa trên con số từ Cục Thống kê Trung ương Israel (Israeli Central Bureau of Statistics) do đó, bao gồm tất cả các địa điểm dưới sự cai trị dân sự của Israel bao gồm cả những vùng lãnh thổ Israel chiếm đóng Vì vậy, tiểu quận Golan và bốn vùng tự nhiên được bao gồm trong các số của tiểu quận và các vùng tự nhiên nó không được công nhận bởi Liên hợp quốc hoặc cộng đồng quốc tế là lãnh thổ Israel. Tương tự như vậy, con số dân số dưới đây cho quận Jerusalem đã được tính toán bao gồm cả Đông Jerusalem đã bị Israel sáp nhập gây nên những tranh cãi rộng rãi. Khu vực Judea và Samaria, tuy nhiên, nó không thuộc một hay tiểu quận nào như Israel đã không được áp dụng thẩm quyền dân sự của nó trong một phần của Bờ Tây.
Quận Jerusalem.
Quận Jerusalem ("Mehoz Yerushalayim"). Dân số: 907.300
Thủ phủ: Jerusalem
Quận Bắc.
Quận Bắc ("Mehoz HaTzafon"). Dân số: 1.241.900
Thủ phủ: Nazareth
Quận Haifa.
Quận Haifa ("Mehoz Heifa"). Dân số: 880.700
Thủ phủ: Haifa
Quận Trung.
Quận Central ("Mehoz HaMerkaz"). Dân số: 1.770.000
Thủ phủ: Ramla
Quận Tel Aviv.
Quận Tel Aviv ("Mehoz Tel Aviv"). Dân số: 1.227.900
Thủ phủ: Tel Aviv
Quận Nam.
Quận Nam ("Mehoz HaDarom"). Dân số: 1.201.200
Thủ phủ: Beersheba
Trước đây Hội đồng khu vực Hof Aza với dân số khoảng 10.000 người định cư Israel là một phần của quận này, nhưng các khu định cư được thành lập đã được sơ tán khi kế hoạch triệt thoái đã được thực hiện trong Dải Gaza. Hiện tại chỉ có cơ quan Điều phối và Quản lý liên lạc (Coordination and Liaison Administration) hoạt động ở đây.
Vùng Judea và Samaria.
Khu vực Judea và Samaria ("Ezor Yehuda VeShomron").
Dân số: 327.750 người định cư Israel (cho người Palestine
Thành phố lớn nhất của người Israel: Modi'in Illit
Khu vực này là sự phân loại địa lý cho khu định cư Israel trong Bờ Tây khác hơn là Đông Jerusalem và khu vực Israel thuộc Jordan cũ không có người ở gần Latrun. Khu vực đã dưới sự kiểm soát của Israelkể từ Chiến tranh Sáu ngày 1967 nhưng không được sáp nhập vào Israel, trong khi chờ đàm phán về tình trạng của nó. Nhiều người Israel coi nó là một phần của đất của Israel, nhưng nó không được bất kỳ quốc gia nào hoặc UN công nhận là một phần của Nhà nước Israel. Xem Quyền Quốc gia Palestine cho Chính quyền Palestine. Cơ quan Quản lý dân sự Israel(Israeli Civil Administration) có trách nhiệm phối hợp với PNA. | 1 | null |
, thường được biết đến là (1534-2 tháng 5 1589) là tên của thủ lĩnh nhóm Saika Ikki. Ông nổi tiếng với việc võ trang lực lượng của mình bằng súng hỏa mai với biểu tượng là yatagarasu.
Saika (Suzuki) Magoichi là tên gọi chung của 3 người gồm , và . Trong đó Suzuki Sadayū là được biết đến hơn cả, ông là người đã hỗ trợ lực lượng tộc Hatakeyama chống lại Oda Nobunaga trong trận Komaki-Nagakute. | 1 | null |
"Lights" là bài hát của nghệ sĩ thu âm người Anh Ellie Goulding từ album đầu tay của cô, "Lights" (2010). Ca khúc được phát hành tại Anh vào ngày 13 tháng 3 năm 2011, là đĩa đơn thứ 6 trích từ album, và thứ 2 trích từ album phát hành lại "Bright Lights". Ban đầu đây chỉ là một track nhạc bonus trên iTunes, bài hát đã được biên tập lại và đưa vào album "Bright Lights" vào cưới năm 2010, như một phiên bản đĩa đơn chính thức.
Ca khúc được phát hành như một đĩa đơn dẫn đầu từ album "Lights" tại Bắc Mỹ vào tháng 5 năm 2011. Vào đầu tháng 5 năm 2012, đĩa đơn đã được chứng nhận bạch kim bởi Hiệp hội Công nghiệp Thu âm Mỹ (RIAA), với doanh số hơn 1 triệu 9 lượt tải về tại Hoa Kỳ.
Bối cảnh phát hành.
"Lights" ban đầu được công bố là một đĩa đơn vào ngày 8 tháng 9 năm 2010 trên trang Twitter chính thức của Goulding, và được lên lịch phát hành vào ngày 1 tháng 11 năm 2010. Cô ca sĩ này cũng lên lịch phát hành ca khúc như track dẫn đầu trích từ album phát hành lại "Bright Lights". Tuy nhiên, kế hoạch này không thực hiện được do đã phát hành thay thế ca khúc "Your Song" nhằm tận dụng chiến dịch quảng bá trong dịp Giáng sinh của John Lewis, giúp ca khúc có thể nổi bật được. Sau đó album "Bright Lights" được phát hành lại thay cho "Lights". | 1 | null |
Các ngôn ngữ tại Ấn Độ thuộc một số ngữ hệ khác nhau, trong đó có ngữ chi Indo-Arya (được 72% người Ấn Độ sử dụng) và ngữ hệ Dravida (được 25% người Ấn Độ sử dụng). Các ngôn ngữ khác tại Ấn Độ thuộc về các ngữ hệ Hán-Tạng, ngữ hệ Nam Á, ngữ hệ Tai-Kadai và một số ngữ hệ phụ và các ngôn ngữ biệt lập.
Ngôn ngữ chính thức thứ nhất tại Cộng hòa Ấn Độ là tiếng Hindi tiêu chuẩn trong khi tiếng Anh là ngôn ngữ chính thức thứ hai Hiến pháp của Ấn Độ quy định "Ngôn ngữ chính thức của Liên bang là tiếng Hindi với hệ thống chữ viết Devanagari." Cả Hiến pháp cũng như luật pháp của Ấn Độ đều không quy định rõ ngôn ngữ quốc gia, đây là một quan điểm được hỗ trợ bởi một phán quyết của Tòa án Tối cao. Tuy nhiên, các ngôn ngữ được liệt kê trong Mục lục 8 của Hiến pháp Ấn Độ 8 đôi khi được nhắc tới, không giá trị pháp lý, là ngôn ngữ quốc gia của Ấn Độ..
Ngôn ngữ chính thức của Ấn Độ.
Ấn Độ có tổng cộng 22 ngôn ngữ đồng chính thức. Điều này cũng dễ hiểu vì Ấn Độ rất đông dân mà không có một ngôn ngữ đồng nhất như quốc gia láng giềng Trung Quốc. Sau đây là danh sách các ngôn ngữ phổ biến nhất tại Ấn Độ, bao gồm cả ngôn ngữ chính thức lẫn ngôn ngữ sử dụng phổ biến trên thực tế: | 1 | null |
Chiến dịch tấn công Sinyavino là một chiến dịch quân sự xảy ra trong Chiến tranh Xô-Đức, do Hồng quân Liên Xô tổ chức nhằm tấn công vào quân đội Đức Quốc xã. Mục tiêu của chiến dịch là phá vỡ vòng vây trên bộ của quân Đức đối với thành phố Leningrad và thiết lập một đường tiếp tế trên bộ đối với thành phố này. Cùng lúc đó, phía Đức cũng đang âm thầm chuẩn bị một chiến dịch mang tên là "Ánh sáng phương Bắc" () với mục tiêu đánh chiếm Leningrad và liên kết với quân Phần Lan ở phía Bắc. Để chuẩn bị cho trận đánh hạ gục Leningrad, nhiều đơn vị quân với trang bị nặng đã được chuyển từ phía Nam lên tăng cường cho Cụm Tập đoàn quân Bắc, trong đó có nhiều binh lực vừa mới tham gia trận đánh ở Sevastopol hồi tháng 7 năm 1942. Cả hai phe Đức và Liên Xô đều không biết gì về kế hoạch tấn công của đối phương, vì vậy những gì xảy ra trong trận Sinyavino đều diễn biến theo hướng hoàn toàn khác so với dự kiến của cả hai bên.
Trận đánh ở Sinyavino bắt đầu vào ngày 19 tháng 8 khi Phương diện quân Leningrad nổ súng tấn công từ phía Tây; sau đó đến ngày 27 tháng 8 thì Phương diện quân Volkhov cũng bắt đầu khởi binh. Từ ngày 28 trở đi, phía Đức buộc phải tung lực lượng dự trữ vốn dành cho chiến dịch "Ánh sáng phương Bắc" để chặn đứng đòn tấn công của quân đội Liên Xô. Ban đầu, các đợt phản công của quân Đức thất bại, nhưng đà tiến công của phía Liên Xô cũng bị chững lại, và suốt 10 ngày mặt trận lâm vào tình thế cù cưa. Cuối cùng, vào ngày 21 tháng 9, quân Đức sau khi được tăng viện đáng kể đã tung một đợt phản công mạnh vào quân đội Liên Xô, và sau 5 ngày chiến đấu dữ dội đã cắt đứt và bao vây một khối quân lớn của phương diện quân Volkhov. Cho đến ngày 10 tháng 10, quân đội Liên Xô bị đẩy lui về tuyến xuất phát, tuy nhiên số quân Liên Xô bị vây vẫn tiếp tục kháng cự kiên cường cho đến ngày 15 tháng 10.
Kết quả cho thấy đợt tấn công của quân đội Liên Xô đã hoàn toàn thất bại, tuy nhiên quân Đức cũng chịu thiệt hại quá nặng đến mức họ phải chuyển sang thế phòng ngự và không thể tấn công Leningrad như dự kiến. Vào tháng 11 năm 1942, một phần binh lực của Cụm Tập đoàn quân Bắc bị điều xuống phía Nam để chiến đấu ở Stalingrad và vì vậy, trước tình hình thiếu hụt binh lực, kế hoạch "Ánh sáng phương Bắc" chính thức bị hủy bỏ.
Bối cảnh.
Thành phố Leningrad bị quân đội phát xít Đức tấn công vào đầu mùa thu năm 1941 và đến ngày 9 tháng 8 năm đó, quân Đức và Phần Lan đã bao vây thành phố, cắt đứt mọi con đường tiếp tế trên bộ cho Leningrad và những vùng phụ cận. Tuy nhiên, mọi nỗ lực nhằm hạ gục thành phố đều bị đập tan và người dân và binh sĩ trong thành Leningrad vẫn nhận được tiếp tế qua một "con đường Sống" ở hồ Ladoga, có thể bằng tàu thủy, bằng những đường ống dẫn dầu và khí đốt, hoặc bằng những đoàn xe tải chạy qua mặt hồ đóng băng vào mùa Đông. Trong lúc đó, vào ngày 4 tháng 7 năm 1942, Chiến dịch Krym-Sevastopol kết thúc với việc quân Đức đánh chiếm Sevastopol và Tập đoàn quân số 11 của Đức tại đây đã có thể rảnh tay để tác chiến ở những khu vực khác. Vì vậy, Hitler quyết định sẽ đem lực lượng này lên phía Bắc để tham chiến ở Leningrad.
Về phía Liên Xô, họ cũng đang tích cực chuẩn bị lực lượng để phá vỡ vòng vây ở Leningrad. Tuy không thể bóp chết đượd thành phố, vòng vây của quân phát xít đã gây ra những thiệt hại nặng nề về người và tài sản. "Con đường sống" băng qua hồ Ladoga cũng không phải là giải pháp lâu dài vì nó thường xuyên bị không quân Đức đánh phá. Trong năm 1942, quân đội Liên Xô đã tổ chức một vài đợt tấn công nhằm giải vây cho thành phố nhưng thất bại. Trong đó, thảm họa ở Lyuban đã tập đoàn quân xung kích số 2 bị bao vây và tiêu diệt toàn bộ. Bất chấp tất cả những khó khăn và thất bại liên tiếp đó, quân đội Liên Xô vẫn tiếp tục chuẩn bị binh lực cho một đợt tấn công mới vì hơn ai hết họ hiểu rõ tầm quan trọng to lón của việc mở một con đường tiếp tế cho thành phố Leningrad.
Địa hình và tình hình mặt trận.
Khu vực phía Nam hồ Ladoga là một vùng nhiều rừng và đầm lầy dày đặc gần hồ, đặc biệt hiện diện nhiều bãi than bùn. Thêm vào đó, rừng rậm đã hạn chế đáng kể tầm nhìn của binh sĩ. Tất cả các yếu tố đó gây nhiều khó khăn cho việc triển khai và vận động các lực lượng pháo binh và thiết giáp của đôi bên, tạo ra tình thế dễ thủ khó công. Một trong những vị trí then chốt tại khu vực là điểm cao Sinyavino với chiều cao 150 mét so với khu vực bằng phẳng xung quanh. Đây cũng chính là một trong những nơi hiếm hoi có đất nền khô ráo và cùng cấp tầm nhìn tốt cho những ai chiếm giữ nó. Do mặt trận không thay đổi gì nhiều kể từ khi quân Đức xiết vòng vây ở Leningrad, người Đức đã tận dụng sự tĩnh tại này để thiết lập một hệ thống phòng thủ dày đặc và vững chắc bao gồm nhiều hỏa điểm mạnh liên kết với nhau bằng các chiến hào và được bảo vệ bởi nhiều vật cản cùng hỏa lực pháo binh và súng cối phối hợp chặt chẽ với nhau.
Binh lực và kế hoạch.
Quân đội Liên Xô.
Trong suốt năm 1942, quân đội Liên Xô đã tổ chức nhiều đợt tấn công nhằm giải vây cho Leningrad, nhưng đều không thành công. Cho đến sau chiến dịch Lyuban, nằm giữa Phương diện quân Leningrad và Phương diện quân Volkhov là một cái "cổ chai" với chiều sâu chỉ . Mục tiêu của cuộc tấn công là phá vỡ cái "cổ chai" 16 km ấy để hai phương diện quân gặp nhau và hình thành một hành lang trên bộ nối liền Leningrad với vùng nội địa Liên Xô. Trong thời điểm đó, binh lực của Phương diện quân Leningrad yếu hơn, cho nên đòn tấn công chính do Phương diện quân Volkhov đảm đương, còn Phương diện quân Leningrad chỉ thực hiện các đòn tấn công cục bộ nhằm chiếm giữ các bàn đạp vượt sông Neva. Lực lượng dẫn đầu cuộc tấn công của Phương diện quân Volkhov là Tập đoàn quân số 8, tiếp theo sau là Quân đoàn cận vệ số 4 và Tập đoàn quân xung kích số 2 đi sau cùng.
Hiểu được địa hình phức tạp của chiến trường cũng như hệ thống phòng ngự vững chắc của quân địch, lần ra quân này quân đội Liên Xô được trang bị kỹ lưỡng hơn rất nhiều. Tập đoàn quân số 8 được tăng cường thêm rất nhiều pháo và xe tăng. Trung bình, mỗi sư đoàn ở hàng đầu được tăng cường một lữ đoàn xe tăng, một vài trung đoàn pháo binh và 1-2 trung đoàn hỏa tiễn Katyusha. Điều này giúp cho quân đội Liên Xô có thể triển khai 60-100 khẩu pháo và 5-9 xe tăng trên một km chính diện mặt trận ở hướng tấn công chính. Đồng thời, bộ binh cũng được trang bị một số lượng lớn súng tiểu liên PPD-40 và PPSh-41. Lực lượng công binh được phối thuộc cho từng trung đoàn pháo binh, có tác dụng làm tăng khả năng cơ động binh lực.
Quân đội Đức Quốc xã.
Kế hoạch đánh chiếm Leningrad vào giai đoạn xuân-hè 1942 được Bộ Tư lệnh tối cao quân đội Đức Quốc xã (OKW) phác thảo lần đầu qua chỉ thị số 41 vào ngày 5 tháng 4 năm 1942. Theo chỉ thị này, việc đánh chiếm Leningrad ở phía Bắc và thọc sâu vào khu vực Kavkaz ở phía Nam sẽ là hai mục tiêu chính trong chiến dịch mùa hè 1942 ở mặt trận Xô-Đức.
Trong cuộc thảo luận với Hitler vào ngày 30 tháng 6 năm 1942, tư lệnh của Cụm Tập đoàn quân Bắc, thống chế Georg von Küchler đã trình cho Hitler một số phương án để hoàn thành mục tiêu đề ra của chỉ thị. Dựa theo kết quả của các cuộc thảo luận đó, Bộ Tư lệnh tối cao Lục quân Đức Quốc xã (OKH) đã bắt đầu điều các lực lượng pháo binh hạng nặng, bao gồm các trung đoàn pháo công thành Gustav, Dora và Karl sang hỗ trợ cho việc tiêu diệt các cứ điểm của Liên Xô và pháo đài Kronshtadt. Việc điều quân được hoàn tất vào ngày 23 tháng 7. Cùng hôm đó, Hitler ban hành chỉ thị số 45 yêu cầu Cụm Tập đoàn quân Bắc phải đánh chiếm Leningrad vào đầu tháng Chín. Kế hoạch tấn công được đặt tên là "Ngọn lửa ma thuật" ("Feuerzauber"). Theo dự kiến, đòn tấn công sẽ do Tập đoàn quân số 11 - vốn đang rảnh rỗi sau khi hoàn tất việc đánh chiếm Sevastopol - thực thi. Đồng thời, OKH cũng tăng cường thêm cho mặt trận này Quân đoàn không quân số 8 để hỗ trợ trên không. Vào ngày 30 tháng 7, chiến dịch được đổi tên thành "Ánh sáng phương Bắc" ().
Kế hoạch tấn công của phía Đức yêu cầu cần ba quân đoàn để xuyên phá được phòng tuyến của Hồng quân ở phía Nam Leningrad. Sau đó, một quân đoàn sẽ tiến công và cắt đứt Leningrad khỏi quân đội Liên Xô ở mặt Tây và mặt Nam, còn hai quân đoàn còn lại sẽ vòng qua phía Đông và tiêu diệt Hồng quân ở khu vực giữa sông Neva và hồ Ladoga. Khi các mục tiêu đó hoàn thành xong, quân Đức có thể đánh chiếm Leningrad mà không gặp phải sự kháng cự đáng kể nào.
Việc đánh chiếm thành công Leningrad sẽ giúp quân Đức giải phóng một lực lượng lớn ở đây và có thể thuyên chuyển chúng sang những khu vực khác cần thiết hơn - nhất là trong khoảng thời gian này quân Đức cũng đang chuẩn bị cho một cuộc tấn công vào phía Nam của Liên Xô. Tập đoàn quân số 11 của Đức, được điều lên phía Bắc, lúc này có binh lực tổng cộng 12 sư đoàn.
Diễn biến.
Như đã đề cập, quân đội Liên Xô lẫn quân đội Đức Quốc xã đều không biết gì về kế hoạch tiến công của đối phương. Phía Đức chỉ biết rõ mọi sự sau khi đợt tấn công lớn của Tập đoàn quân số 8 (Liên Xô) mở màn vào ngày 27 tháng 8. Điều này khiến tập đoàn quân số 11 và Quân đoàn không quân số 8 của Đức - vốn được giao nhiệm vụ tấn công Leningrad - phải hủy bỏ kế hoạch ban đầu và chuyển sang cứu nguy cho quân Đức đang bị tấn công. Tương tự, quân đội Liên Xô cũng không hề biết về việc điều chuyển Tập đoàn quân số 11 của Đức từ Krym đến khu vực Leningrad; họ tin rằng mình chỉ phải đối đầu với binh lực của Tập đoàn quân số 18. Chính vì vậy, Hồng quân đã mở đợt tấn công trong tình thế phải chịu bất lợi lớn về binh lực, điều mà họ không ngờ tới.
Phương diện quân Leningrad tấn công (19-26 tháng 8).
Cuối cùng, người mở đòn tấn công trước là quân đội Liên Xô. Trận đánh mở màn với đòn tấn công của phương diện quân Leningrad ở phía Tây vào ngày 19 tháng 8, mặc dù các tài liệu Đức đưa ra con số ngày giờ muộn hơn. Do thiếu hụt về vũ khí, trang bị và nhân lực, phương diện quân Leningrad chỉ có thể chiếm giữ một số đầu cầu nhỏ trên bờ sông Neva nhằm giúp họ có thể nối liền với phương diện quân Volkhov sắp sửa tấn công từ mặt Đông. Cho đến tận lúc này, phía Đức vẫn coi nhẹ đòn tấn công của phương diện quân Leningrad vì trước đó họ đã tổ chức một số đợt tấn công tương tự vào tháng 7 và đầu tháng 8. Nhật ký ngày 19 tháng 8 của tướng Franz Halder miêu tả cuộc tấn công này chỉ mang tính chất cục bộ như thường lệ và vì vậy, quân Đức cũng chỉ tổ chức phòng ngự như thường lệ mà không thực thi những biện pháp phòng ngự nào khác.
Phương diện quân Volkhov tấn công (27 tháng 8 - 9 tháng 9).
Phương diện quân Volkhov bắt đầu tiến công vào sáng sớm ngày 27 tháng 8. Do đã bí mật chuẩn bị một lực lượng đáng kể, họ đã đạt được ưu thế lớn về binh lực ở địa đoạn đột phá và khiến quân Đức bất ngờ. Tập đoàn quân số 8 (Liên Xô) đã đạt được thành quả lớn trong những ngày đầu tiến công và đã đập nát phòng tuyến đầu tiên của quân Đức, tỉ như tại vị trí của sư đoàn bộ binh số 223 (Đức), và tiến sâu đến trong ngày đầu tiên. Tuy nhiên, những đợt tấn công đầu tiên nhằm mở rộng vào hai bên cạnh sườn đã thất bại do sự kháng cự quyết liệt của quân Đức tại đây. Phía Đức phản ứng bằng việc đưa sư đoàn sơn cước số 5 và sư đoàn bộ binh nhẹ biệt động số 28 - vốn dành cho chiến dịch "ánh sáng phương Bắc" sang giải nguy cho khu vực bị tấn công. Những đơn vị tiên phong của sư đoàn bộ binh số 170, vốn chỉ mới vừa đến Mga, cũng liền được tung vào mặt trận để chặn mũi công kích của quân Liên Xô. Thêm vào đó, Hitler cũng điều sư đoàn sơn cước số 3 sang khu vực Estonia thay vì đến Phần Lan bằng đường biển như dự kiến.
Vào ngày 29 tháng 8, lỗ thủng trên trận tuyến của quân Đức đã sâu tới . Nhằm tập trung đủ binh lực đột phá tới Sinyavino, quân đội Liên Xô đã tung các lực lượng ở thê đội thứ hai vào trận tuyến. Lúc này quân Đức cũng tăng cường thêm cho mặt trận sư đoàn thiết giáp số 12 và một phần của sư đoàn bộ binh số 86. Đây cũng là lần đầu tiên mà các xe tăng "Con hổ" hạng nặng của Đức tham chiến - chúng được phiên chế vào tiểu đoàn xe tăng số 502. Vào ngày 29 tháng 8 đã có 4 chiếc "Hổ" xuất hiện trên trận địa. Tuy nhiên các đợt phản kích do chúng tham gia đều thất bại do hai chiếc bị trục trặc giữa đường và động cơ của chiếc thứ ba bị sốc nhiệt.
Trong thời gian này, hỗ trợ về không quân của phía Đức được giao cho Sư đoàn không quân số 1 của Bộ tư lệnh Không quân phía Đông ("Luftwaffenkommando Ost"). Bộ tư lệnh tối cao Không quân Đức ("Oberkommando der Luftwaffe") cũng triển khai vài không đoàn ra mặt trận nhằm hỗ trợ quân Đức phòng thủ trước những đợt ném bom dữ dội của không quân xô Viết. Các máy bay của không đoàn 54 và 77 đã cấp tốc bay thẳng ra chiến trường để đảm bảo ưu thế trên không của quân đội Đức tại đây. Mặc dù chiếm ưu thế 2 chọi 1 về binh lực, Tập đoàn quân không quân số 14 của Liên Xô lại không đạt được ưu thế trên không so với quân Đức tại đây. 42 máy bay của họ đã bị bắn hạ trong các trận không chiến vào ngày 1 và 2 tháng 9. Tình hình chiến đấu không khả quan khiến tinh thần các phi công bị sa sút, làm hiệu quả chiến đấu bị suy giảm. Việc này khiến I. V. Stalin rất giận dữ và đã hạ lệnh đem bất cứ phi không nào không chịu chiến đấu ra tòa án binh.
Vào ngày 5 tháng 9, chiều sâu đột phá của phương diện quân Volkhov đã tăng lên đến và đó là điểm xa nhất mà họ tiến được trong trận chiến. Lúc này quân đội Liên Xô chỉ còn cách sông Neva có . Tuy nhiên mọi nỗ lực nhằm đánh chiếm điểm cao Sinyavino và các khu vực xung quanh đều không thành công trước sự kháng cự cứng rắn của quân Đức. Ở hai cánh, Hồng quân cũng đã hạ gục các cứ điểm của quân Đức tại khu công nhân số 8 và Mishino vào ngày 3 tháng 9, tiếp sau đó là Voronovo vào ngày 7. Tuy nhiên sau đó phía Liên Xô không thể tiến thêm được nữa và mặt trận rơi vào bế tắc. Nhằm tăng sức mạnh đột phá, thê đội số 3 (Tập đoàn quân xung kích số 2) được tung vào mặt trận, tuy nhiên một đợt phản kích của quân Đức vào cạnh sườn đã chặn đứng đòn tấn công của quân đội Liên Xô. Vào ngày 7 tháng 9, phương diện quân Vokhov rút 2 sư đoàn của Tập đoàn quân số 8 về hậu tuyến và thay thế chúng bằng một sư đoàn và một lữ đoàn xe tăng còn sung sức để tăng cường sức mạnh đột phá.
Mặt trận bế tắc, 10-20 tháng 9.
Trong suốt 10 ngày, mặt trận trở nên tĩnh tại và hai bên - dù đã mở một số đợt tấn công - không tiến được thêm một thước tấc nào. Trong thời gian này, phía Liên Xô quyết định chờ cho viện binh đến sau đó mới mở tiếp một đợt công kích mới, dự định sẽ tiếp tục đột phá được còn lại để nối liền với phương diện quân Leningrad trong vài tuần tới. Tuy nhiên, để viện binh đến được tới nơi thì cần thời gian.
Về phía Đức, họ cũng quyết định đánh một lần dứt điểm luôn đòn tấn công của quân địch. Lúc này Manstein được Hitler ủy quyền cho việc chỉ huy toàn bộ quân Đức tại khu vực và ông ta dự tính sẽ cắt đứt và tiêu diệt số quân Liên Xô đang trú đóng tại khu vực cửa đột phá. Tuy nhiên, đợt phản công đầu tiên của quân Đức vào ngày 10 tháng 9 đã gặp phải hỏa lực pháo binh dữ dội cùng với những bãi mìn đầy đặc của Hồng quân, do vậy họ phải rút lui với tổn thất hết sức nặng nề. Trước tình hình đó, Manstein tạm dừng tấn công để xây dựng một lực lượng mạnh để đảm bảo đánh chắc thắng, trong khi đó số quân Đức đang trú đóng ở tiền tuyến cố gắng giữ vững phòng tuyến và ngăn chặn các đợt tấn công của Hồng quân.
Quân Đức phản công (21 tháng 9-15 tháng 10).
Đòn phản công của quân Đức bắt đầu vào ngày 21 tháng 9. Binh lực tham gia cuộc phản công bao gồm 6 sư đoàn, với sư đoàn bộ binh số 121 đánh từ phía Bắc và các sư đoàn bộ binh số 24, 132, 170 đánh từ phía Nam. Các sư đoàn bộ binh nhẹ số 28 và sư đoàn sơn cước số 3 có nhiệm vụ găm giữ quân đối phương. Sư đoàn sơn cước số 5 bị thiệt hại quá nặng nên không đóng vài trò đáng kể trong cuộc phản công.
Đợt phản công lần này của quân Đức cũng gặp phải những vấn đề y hệt như quân đội Liên Xô trước đó. Địa hình khó khăn khiến đà tiến quân trở nên rất chậm và quân Đức chịu thương vong lớn. Mãi sau 5 ngày chiến đấu đẫm máu, vào ngày 25 tháng 9 hai mũi tấn công của quân Đức mới gặp nhau ở Gaitolovo, bao vây sư đoàn bộ binh cận vệ số 6 (của Tập đoàn quân số 8) và Tập đoàn quân xung kích số 2. Tiếp đó, quân Đức một mặt đánh chặn các đợt tấn công phá vây của phía Liên Xô, mặt khác liên tục oanh tạc số quân Liên Xô bị vây bằng đại bác và không quân. Cùng lúc đó, sư đoàn bộ binh nhẹ số 28 và sư đoàn thiết giáp số 12 cũng đánh bại các đợt tấn công của phương diện quân Leningrad nhằm mở rộng bàn đạp ở bờ Đông sông Neva.
Sau nhiều trận đánh đẫm máu, cuối cùng vào ngày 15 tháng 10, quân Đức cũng thanh toán xong khối quân Liên Xô bị vây và đánh chiếm lại những vùng đất bị mất trước kia, ngoại trừ một đầu cầu nhỏ vượt sông Neva ở gần Moskovkaya Dubrovka.
Kết quả.
Đối với Liên Xô, chiến dịch Sinyavino là một thất bại, tuy nhiên dù gì thiệt hại của họ thấp hơn rất nhiều so với những gì đã xảy ra ở Lyuban hồi tháng 6 và tháng 7 cùng năm - khi đó nguyên Tập đoàn quân xung kích số 2 bị bao vây và tiêu diệt với 33.000 binh sĩ bị bắt làm tù binh. Và, chỉ 3 tháng sau thất bại Sinyavino, Hồng quân đã mở chiến dịch Tia Lửa vào tháng 1 năm 1943 và lần này họ đã thành công.
Trận đánh tại Sinyavino cũng gây ra những ảnh hưởng tiêu cực đáng kể cho quân phát xít Đức, thậm chí còn nghiêm trọng hơn cả so với phía Liên Xô. Mặc dù cuộc tấn công của quân đội Liên Xô bi đập tan và Tập đoàn quân sô 18 đã khôi phục lại trận tuyến như ban đầu, tập đoàn quân số 11 của Đức đã phải gánh chịu thiệt hại rất nghiêm trọng về nhân lực cũng như vũ khí, trang bị. Tập đoàn quân số 18 cũng chịu những thiệt hại rất nặng nề, nhất là đối với sư đoàn bộ binh số 223 vốn hứng chịu đòn tấn công của quân đội Liên Xô ngay từ ngày đầu tiên của chiến dịch. Những thiệt hại nặng nề đó đã buộc Bộ Tư lệnh tối cao Lục quân Đức phải ra mệnh lệnh số 1 yêu cầu Cụm Tập đoàn quân Bắc phải chuyển sang phòng ngự trong suốt cả mùa Đông. Vào tháng 11, Hồng quân Liên Xô mở đợt phản công lớn ở Stalingrad khiến cho một bộ phận lớn binh lực của Cụm Tập đoàn quân Bắc phải bị điều xuống phía Nam, điều này khiến kế hoạch "Ánh sáng phương Bắc" của phía Đức chính thức bị hủy bỏ. | 1 | null |
Saif Ali Khan (phát âm [ˈsɛːf əˈli ˈxaːn]; sinh 16 tháng 8 năm 1970), là diễn viên Ấn Độ, làm việc tại Bollywood.
Các phim nổi tiếng: Main Khiladi Tu Anari và Yeh Dillagi (1994), Dil Chahta Hai (2001), Kal Ho Naa Ho (2003), Hum Tum (2004), Salaam Namaste (2005), Race (2008) Parineeta (2005), Being Cyrus và Omkara (2006)... | 1 | null |
Shah Rukh Khan, gọi tắt là SRK (tên khai sinh; Shahrukh Khan; sinh ngày 2 tháng 11 năm 1965), là diễn viên, nhà sản xuất và nhân vật truyền hình Ấn Độ. Được biết đến trên các phương tiện truyền thông như là "Baadshah của Bollywood", "Vua của Bollywood" hay "Vua Khan", Khan đã diễn xuất trong hơn 80 bộ phim tiếng Hindi. | 1 | null |
Salman Khan (phát âm: [səlma ː n xa ː n]; tên đầy đủ Abdul Rashid Salim Salman Khan sinh ngày 27 tháng 12 năm 1965), là diễn viên Ấn Độ, đóng trong hơn 80 bộ phim tiếng Hindi.
Các phim tiêu biểu: Maine Pyar Kiya (1989), Saajan (1991), Hum Aapke Hain Koun..! (1994), Karan Arjun (1995), Judwaa (1997), Pyar Kiya To Darna Kya (1998), Biwi No.1 (1999), Kuch Kuch Hota Hai (1998), Hum Dil De Chuke Sanam (1999), Tere Naam (2003), Mujhse Shaadi Karogi (2004), No Entry (2005), Partner (2007), Wanted (2009), Dabangg (2010), Ready (2011) và Bodyguard (2011)... | 1 | null |
Hrithik Roshan ([ˈrɪt̪ʰɪk ˈroːʃən];sinh 10 tháng Giêng 1974), diễn viên điện ảnh Ấn Độ. Các phim tiêu biểu: Kaho Naa... Pyaar Hai (2000), Fiza, Mission Kashmir (2000), Kabhi Khushi Kabhie Gham... (2001), Koi... Mil Gaya (2003), Krrish (2006), Dhoom 2 (2006), Jodhaa Akbar (2008), Guzaarish (2010), Zindagi Na Milegi Dobara (2011), Agneepath (2012). | 1 | null |
Deepika Padukone (sinh ngày 5 tháng 1 năm 1986) là một nữ diễn viên người Ấn Độ hoạt động chủ yếu tại ngành điện ảnh Bollywood. Là một trong những nữ diễn viên được trả cát-xê cao nhất Ấn Độ, Deepika đã giành được vô số giải thưởng, bao gồm ba giải Filmfare Awards. Cô có trong danh sách những nhân vật nổi tiếng nhất của quốc gia.
Deepika Padukone là con gái của tay chơi cầu lông Prakash Padukone, sinh ra tại Copenhagen và lớn lên ở Bangalore. Ở độ tuổi thiếu niên, cô chơi cầu lông trong những trận vô địch quốc gia, nhưng sớm rời sự nghiệp thể thao và chuyển sang làm người mẫu.Cô sớm nhậm được đề cử cho vai diễn với tư cách diễn viên chính trong bộ phim bằng tiếng Kannada "Aishwarya" năm 2006. Vào năm 2007,Deepika đóng hai vai trong bộ phim Bollywood đầu tiên của cô, "Om Shanti Om" và giành được giải Filmfare cho nữ diễn viên xuất sắc nhất. Deepika nhận được khá nhiều lời khen ngợi từ những vai chính của cô trong "Love Aaj Kal" (2009) và "Lafangey Parindey" (2010), nhưng trái lại, những vai diễn của cô trong bộ phim hài "Housefull" (2010) và phim lãng mạn "Bachna Ae Haseeno" (2008) lại gặp phải nhiều nhận xét tiêu cực.
Bộ phim hài lãng mạn "Cocktail" (2012) đánh dấu bước ngoặt trong sự nghiệp của Deepika, nhận được lời khen ngợi và đề cử cho Nữ diễn viên xuất sắc nhất tại một số buổi lễ trao giải. Cô đã chứng tỏ bản thân trong phim hài lãng mạn "Yeh Jawaani Hai Deewani" (2013), "Chennai Express" (2013),"Happy New Year" (2014) và các bộ phim chính kịch lịch sử của Sanjay Leela Bhansali như "Bajirao Mastani" và "Padmaavat" (2018), tất cả đều được xếp hạng trong "Danh sách những bộ phim Ấn Độ có thu nhập cao nhất mọi thời đại". Nhân vật Leela của Deepika Padukone dựa theo câu chuyện về nàng Juliet trong "Goliyon Ki Rasleele Ram-Leela" của Bhansali và vai diễn Piku, một cô kến trúc sư cứng đầu trong bộ phim cùng tên năm 2015. | 1 | null |
Kajol Devgn (nhũ danh Mukherjee) (sinh ngày 05 tháng 8 năm 1974), được biết đến là Kajol, là một nữ diễn viên Ấn Độ xuất hiện trong bộ phim tiếng Hinđi và Tamil.
Các bộ phim nổi tiếng: Baazigar (1993), Dilwale Dulhaniya Le Jayenge (1995), Kuch Kuch Hota Hai (1998), Kabhi Khushi Kabhie Gham... (2001), Gupt (1997), Dushman (1998), Fanaa (2006), U Me Aur Hum (2008), We Are Family, My Name Is Khan (2010)... | 1 | null |
Genelia D'Souza (sinh ngày 05 Tháng Tám năm 1987) là một nữ diễn viên điện ảnh Ấn Độ, người mẫu. Cô đã xuất hiện trong các phim tiếng Telugu, Tiếng Hinđi, Tamil, Kannada, và tiếng Malayalam.
Các phim tiêu biểu: Bommarillu (2006), Santosh Subramaniam (2008), Jaane Tu... Ya Jaane Na (2008)... | 1 | null |
Imran Khan (tên khai sinh Imran Pal, sinh ngày 13 tháng 1 năm 1983) là diễn viên Ấn Độ, cháu trai của diễn viên Aamir Khan và đạo diễn, nhà sản xuất Mansoor Khan.
Các phim tiêu biểu: Jaane Tu... Ya Jaane Na (2008), I Hate Luv Storys (2010), Delhi Belly (2011), Mere Brother Ki Dulhan (2011) và Ek Main Aur Ekk Tu (2012) | 1 | null |
Madhuri Dixit (sinh 15 tháng 5 năm 1967), diễn viên Ấn Độ. Các phim tiêu biểu cô đóng: Tezaab (1988), Dil (1990), Saajan (1991), Beta (1992), Hum Aapke Hain Koun..! (1994) và Raja (1995), Dil To Pagal Hai (1997). Cô giành 5 giải Filmfare.
Các phim đã đóng.
Vào năm 2012, cô được trao giải Platinum Diva nhờ những cống hiến trong điện ảnh. | 1 | null |
Manisha Koirala (sinh 16 tháng 8 năm 1970), diễn viên Nepal - Ấn Độ, xuất hiện trong nhiều phim tiếng Hindi, Tamil, Telugu và Malayalam. Các bộ phim nổi tiếng cô đóng: Saudagar (1991), (1994), Agni Sakshi (1996), Gupt (1997), Bombay (1995), Akele Hum Akele Tum (1995), (1996), Dil Se.. (1998), Company (2002)và Elektra (2010). | 1 | null |
2K6 "Luna" (; – Mặt Trăng) là một tổ hợp tên lửa đường đạn tầm ngắn của Liên Xô. Đạn phản lực của Luna dùng nhiên liệu rắn, không dẫn đường và có khả năng ổn định quay. "2K6" là mã định danh của GRAU. Tên mã định danh NATO là FROG-3 (với đạn tên lửa 3R9) và FROG-5 (với đạn tên lửa 3R10). Từ năm 1965, 2K6 Luna được thay thế bằng các tổ hợp 9K52 Luna-M hiện đại hơn.
Lịch sử thiết kế.
Tổ hợp "Luna" được phát triển tại NII-1 từ năm 1953, dưới sự giám sát của N. P. Mazurov. Luna là thiết kế tiếp sau các thiết kế 2K1 "Mars" và 2K4 "Filin". Trong khi NII-1 chịu trách nhiệm về đạn phản lực, thì xe mang phóng và xe chở đạn-nạp đạn sẽ do TsNII-58 thiết kế. Tên ban đầu của tổ hợp là S-125A "Pion". Năm 1957, mẫu thử của xe phóng (SPU S-123A trên khung gầm "Ob'yekt 160"), xe chở-tiếp đạn (TZM S-124A trên khung gầm "Ob'yekt 161") và đạn phản lực 3R5 đã sẵn sàng cho các thử nghiệm. Các thử nghiệm diễn ra vào năm 1958 tại Kapustin Yar và năm 1959 tại quân khu Transbaikal. Sau các thử nghiệm, đã rút ra kết luận là từ bỏ TZM, để cải tiến SPU và thiết kế lại đạn tên lửa. Từ đây các đạn tên lửa 3R9 và 3R10 đã được phát triển. Quyết định bắt đầu sản xuất hàng loạt được đưa ra vào ngày 29 tháng 12 năm 1959. 5 tổ hợp đầu tiên sẵn sàng vào tháng 1 năm 1960 sau khi các cuộc nghiệm thu nhà nước diễn ra cho đến tháng 3 cùng năm. Năm 1960, tổ hợp Luna được đưa vào trang bị cho Lục quân Liên Xô và phục vụ cho đến năm 1982. Từ năm 1960 tới năm 1964, tổng cộng đã có 432 xe SPU 2P16 được chế tạo. Trong năm đầu tên, 80 xe phóng và 365 đạn tên lửa đã được sản xuất.
Cấu thành của hệ thống.
Tổ hợp tên lửa gồm:
Đã có vài biến thể của xe phóng, ví dụ như 2P21 hay còn gọi là Br-226-II trên xe tải 8x8 ZiL-134 nhưng không được đưa vào trang bị.
FROG-6 theo nguồn phương Tây là tên định danh cho hệ thống huấn luyện dựa trên xe tải PV-65. Nhưng theo các nguồn của Nga thì hệ thống này là mẫu thử của xe phóng Br-226-I dựa trên khung gầm KrAZ-214.
Lịch sử hoạt động.
Luna được đưa vào trang bị năm 1960 và phục vụ cho đến năm 1982. Mỗi sư đoàn tăng và súng trường cơ giới hóa có một tiểu đoàn Luna với hai khẩu đội, mỗi khẩu đội có 2 xe 2P16. Trong cuộc khủng hoảng tên lửa Cuba, 12 tổ hợp 2K6 đã được đưa tới Cuba. | 1 | null |
Diệp Tuyền (葉璇) là một nữ diễn viên người Trung Quốc.
Tiểu sử.
Diệp Tuyền (叶璇) sinh ra ở Hàng Châu, lớn lên ở Mỹ quốc, Diệp Tuyền sinh trưởng trong một gia đình rạn nứt. Lên 9 tuổi, mẹ Diệp Tuyền bỏ nhà ra đi, năm 13 tuổi, Diệp Tuyền đã học cách sống độc lập. Năm 18 tuổi, Diệp Tuyền đại diện cho bang New York đi dự thi Hoa hậu Hoa Kiều quốc tế, và đã thắng giải hoa hậu.Diệp Tuyền ký hợp đồng với TVB sau khi thắng giải Hoa hậu Hoa Kiều thế giới, bắt đầu bước chân vào ngành giải trí và trở thành minh tinh.Phim truyền hình đầu tiên Diệp Tuyền đóng là Đát Kỷ Trụ Vương, sau đó là Cuộc Đời tươi Đẹp, Chuyện Tình Trên Mạng, và nhiều bộ phim khác và đã trở thành hoa đán nổi tiếng nhất của TVB.
Quảng cáo.
2000 – County Garden
2004 – Người đại diện Royal Bodyperfect
2005 – Người đại diện Bio cosmetic products (HK)
2006 – France Scented Princess Bath Foam
2005-2006 – Người đại diện Breast enhancement and slimming products (HK & Macau)
2005-2007 – Người đại diện Warm undergarments (China)
2007 – S&H beauty products
2008 – Fantasy Seahorse Bath Foam
2008 – Người đại diện mỹ phẩm JINOL’AI
Tham gia diễn xuất trong video nhạc.
Trịnh Y Kiện – Thiên sát cô tinh
Trần Hiểu Đông – Yêu em từ trong tim
Lương Hán Văn – Vận mệnh của tôi
Tôn Nam - Frank
Khác.
Notebook of the blue head – vai Tina
Phim quảng cáo Kim Chi Dục Nghiệt
Phim quảng cáo Tỉ muội kinh hồn
Giải thưởng đạt được.
1998 - Giải nhất Cuộc thi Khoa học Thực Vật Thanh Niên Quốc tế ISEF
1999 – Nét đẹp cổ điển cuộc thi Hoa hậu Hoa Kiều Quốc tế
1999 – Quán quân cuộc thi Hoa hậu Hoa Kiều Quốc tế
2006 – Nữ diễn viên tiến bộ nhanh nhất Tân Thành
2008 – Nữ diễn viên điện ảnh bảng Phong Thường Trung Quốc
2010 - Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất giải thưởng điện ảnh Kim Tượng lần thứ 29 | Woman (Accident)
2010 - Nữ diễn viên ưu tú "Liên hoan video Thanh niên Quốc tế" | Nhân hữu tam gấp
2010 - Nữ diễn viên xuất sắc tại "Liên hoan Phim ĐA Người Mới" | Nhân hữu tam gấp
Đã từng được vào danh sách đề cử.
2002 – Nữ diễn viên tiến bộ nhanh nhất của TVB | Mạnh Lệ Quân, Bước Ngoặc Cuộc Đời
2006 – Nữ diễn viên mới giải Kim Tượng HK | Moonlight In Tokyo
2009 - Nữ diễn viên chính xuất sắc LHP ĐA Quốc tế Venice lần thứ 66 | Accident
2009 - Nữ diễn viên chính xuất sắc LHP ĐA châu Á Thái Bình Dương lần thứ 53 | Accident
2010 - Top 3 nữ diễn viên chính xuất sắc "Hội bình luận phim ĐAHK" lần thứ 16 | Accident
2010 - Nữ diễn viên phụ xuất sắc nhất LHP ĐAHK Kim Tượng | Accident
2010 - Nữ diễn viên chính xuất sắc Far East Film Festival | Fire Of Conscience
2010 - Nữ diễn viên chính xuất sắc 14th Puchon International Fantastic Film Festival | Fire Of Conscience | 1 | null |
9K52 "Luna-M" (; – Mặt Trăng) là một tổ hợp tên lửa đường đạn tầm ngắn của Liên Xô. Đạn tên lửa 9M21 có khả năng ổn định quay và không dẫn đường. "9K52" là mã định danh của GRAU, tên định danh NATO của tổ hợp này là FROG-7.
Đạn tên lửa 9M21 được đặt trên xe mang phóng thẳng đứng (TEL) bánh lốp 9P113 dựa trên khung gầm xe tải quân sự ZIL-135 8x8. TEL có một cần cẩu thủy lực để nạp đạn tên lửa từ xe chở đạn 9T29 (cũng dựa trên khung gầm ZIL-135). 9M21 có tầm bắn lên tới 70 km và có sai số (CEP) từ 500 m tới 700 m. Đạn phản lực có đầu đạn nặng 550 kg (đầu đạn có thể là liều nổ mạnh, hóa học hoặc hạt nhân). 9M21 được giới thiệu lần đầu vào năm 1965 và triển khai rộng rãi trên khắp các quốc gia vệ tinh của Liên Xô. Đạn phản lực được xuất khẩu rộng rãi tới nhiều quốc gia. Sau chiến tranh với Iran, Iraq đã sửa đổi 9M21 để nâng tầm bắn lên 90 km và mang một đầu đạn phụ. Tên lửa có tên mới là Laith-90.
Trong cuộc xâm lược Iraq năm 2003, ở trận Karbala Gap (2003), Trung tâm chiến dịch chiến thuật (TOC) của đại tá David Perkins ở sở chỉ huy của Lữ đoàn 2, sư đoàn bộ binh 3 Hoa Ky là mục tiêu và bị tấn công bởi đạn tên lửa FROG-7 hay biến thể Ababil-100 SSM của Iraq, giết chết 3 binh sĩ. 14 lính khác bị thương và 22 xe quân sự bị phá hủy,
Các máy bay phản lực RAF trong cuộc nội chiến Libya năm 2011 có nhiệm vụ tìm kiếm và phá hủy các xe phóng FROG-7 của lực lượng trung thành với ông Gaddafi. | 1 | null |
(26 tháng 3 -) tên thật là Seki Inuhiko là một mangaka Nhật Bản đồng thời là tác gia dōjinshi.
Tiểu sử.
Ông bắt đầu khởi nghiệp manga bằng hoạt động vẽ dōjinshi trong câu lạc bộ thể thao mang tên MIX-ISM tại Comiket mùa đông năm 1997 ở Tokyo, Nhật Bản. | 1 | null |
John Joseph Travolta (sinh ngày 18 tháng 2 năm 1954) là một nam diễn viên, vũ công và ca sĩ người Mỹ. Travolta lần đầu tiên được biết đến khi xuất hiện trong series truyền hình "Welcome Back, Kotter", và 2 phim thành công "Saturday Night Fever" và "Grease". Sự nghiệp ông đi xuống từ đầu cho đến cuối thập niên 80. Trong thập niên 1990, sự nghiệp ông thăng tiến trở lại với vai diễn trong "Pulp Fiction" và từ đó ông tiếp tục đóng trong những phim như "Face/Off", "Ladder 49", và "Wild Hogs". Travolta được đề cử cho Giải Oscar cho nam diễn viên chính xuất sắc nhất nhờ những vai diễn trong "Saturday Night Fever" và "Pulp Fiction". Ông giành giải Giải Quả cầu vàng cho nam diễn viên phim ca nhạc hoặc phim hài xuất sắc nhất với phim "Get Shorty".
Đời sống cá nhân.
Travolta thành hôn với Kelly Preston vào năm 1991. Hai người có một đứa con, Jett (13 tháng 4 năm 1992 – 2 tháng 1 năm 2009). Con gái họ, Ella Bleu, sinh năm 2000. Vào ngày 18 tháng 5 năm 2010, Travolta và Preston cho biết là họ sấp có một đứa con nữa, và về sau cho biết sẽ là con trai. Con trai thứ ba, Benjamin, được sinh ra ngày 23 tháng 9 năm 2010 tại Florida.
Travolta và Preston thường xuyên đi tư vấn hôn nhân; Travolta nói rằng điều này đã giúp ích cho hôn nhân của họ. Vào tháng 7 năm 2020, Preston qua đời vì bệnh ung thư. | 1 | null |
Cú lợn đỏ Madagascar (danh pháp hai phần: Tyto soumagnei) là một loài chim thuộc họ Cú lợn ("Tytonidae"). Cú lợn đỏ Madagascar là loài định cư hiếm ở Madagascar và gần như chưa phát hiện ra nó vào năm 1878 cho đến khi phát hiện lại vào năm bởi các nhà nghiên cứu từ Quỹ bảo vệ thiên nhiên vào năm 1993. Nó được liệt kê như là dễ bị tổn thương vì mất nơi sống, nhưng thông tin đang thiếu và nó có thể có một phạm vi rộng hơn so với so với mức người ta tin. Phạm vi phân bố của nó có thể bị bỏ qua vì sự tương đồng loài cú lợn lưng xám có mối liên hệ chặt chẽ.
Loài cú lợn đỏ Madagascar giống với cú lợn lưng xám phân bố toàn cầu nhưng nhỏ hơn (27–30 cm) và có bộ lông màu cam phong phú với các đốm đen. Nó sinh sống ở vùng rừng thường xanh ẩm ướt ở phía đông đảo, được tìm thấy ở rừng nguyên sinh và ở rừng thứ sinh xáo trộn. Nó ăn các loài động vật có vú như Tenrecidae và Eliurus. | 1 | null |
Chuột chù đuôi ngắn Carolina (danh pháp hai phần: Blarina carolinensis) là một loài động vật có vú trong họ Chuột chù, bộ Soricomorpha, được John Bachman mô tả năm 1837.. Chúng là một loài động vật nhỏ màu xám, đuôi ngắn động vật có vú sống ở miền đông Hoa Kỳ. Bề ngoài tổng thể là phần nào giống như động vật gặm nhấm, nhưng là một thành viên của bộ Soricomorpha và không nên bị nhầm lẫn với một thành viên của bộ Gặm nhấm. Chuột chù này có mõm, tai dài và nhọn và gần như che giấu dưới lớp lông dày đặc của nó mềm. Loài này được tìm thấy trong rừng và đồng cỏ, nơi có thức ăn phong phú và bụi rậm.
Hang của nó có hai lớp, một trong gần bề mặt, và một sâu hơn tham gia bên dưới nó. Hang thường được xây dựng dưới các khúc gỗ, có thể được thâm nhập và đục lỗ chỗ nếu khúc gỗ bị mục. Loài chuột chù này là một loài động vật có tính xã hội chia sẻ hệ thống hang đào của mình với một vài cá nhân. Con đực và con cái sống với nhau trước khi sinh sản. Chế độ ăn của nó bao gồm côn trùng, giun đốt, chất thực vật, rết, nhện, bọ cạp, động vật thân mềm, động vật gặm nhấm và các loài bò sát, nó lữu trữ ốc sên cho mùa đông. Nước bọt của nó có nọc độc và được tiêm vào vết thương của con mồi của nó bằng răng. Nọc độc của nó đủ mạnh để giết chuột, nhưng không gây tử vong cho người | 1 | null |