File size: 42,040 Bytes
2073e54
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12
13
14
15
16
17
18
19
20
21
22
23
24
25
26
27
28
29
30
31
32
33
34
35
36
37
38
39
40
41
42
43
44
45
46
47
48
49
50
51
52
53
54
55
56
57
58
59
60
61
62
63
64
65
66
67
68
69
70
71
72
73
74
75
76
77
78
79
80
81
82
83
84
85
86
87
88
89
90
91
92
93
94
95
96
97
98
99
100
101
102
103
104
105
106
107
108
109
110
111
112
113
114
115
116
117
118
119
120
121
122
123
124
125
126
127
128
129
130
131
132
133
134
135
136
137
138
139
140
141
142
143
144
145
146
147
148
149
150
151
152
153
154
155
156
157
158
159
160
161
162
163
164
165
166
167
168
169
170
171
172
173
174
175
176
177
178
179
180
181
182
183
184
185
186
187
188
189
190
191
192
193
194
195
NỘI DUNG CHÍNH
I. TỔNG QUAN
1. Vị trí địa lý
- Vị trí địa lý: Khu du lịch tâm linh chùa Tam Chúc cách thủ đô Hà Nội hơn 60km, cách thành phố Phủ Lý 12km, thuộc thị trấn Ba Sao, huyện Kim Bảng, tỉnh Hà Nam.
- Tam giác tâm linh:
+ Chùa nằm ở một vị trí rất đặc biệt. Đây là một góc quan trọng của vùng tam giác tâm linh.
+ Góc thứ hai là khu du lịch Chùa Hương. Chùa Tam Chúc chỉ nằm cách chùa Hương có 2km đường chim bay. Trong 99 ngọn núi hình con voi chầu về Chùa Hương thì ngọn núi hình con voi đầu tiên nằm tại chùa Tam Chúc này
+ Góc thứ ba của vùng tam giác tâm linh chính là khu văn hóa tâm linh chùa Bái Đính kết hợp với khu du lịch sinh thái Tràng An cùng khu du lịch Tam Cốc - Bích Động (Ninh Bình).
Ba điểm tâm linh nằm trên ba tỉnh thành là Hà Nội, Hà Nam, Ninh Bình đã  tạo nên một tam giác tâm linh với các công trình kiến trúc tâm linh độc đáo.
=> Vị trí này đã góp phần làm cho Tam Chúc nói riêng và tam giác tâm linh nói trên trở thành điểm đỏ trên bản đồ tâm linh Việt Nam.
2. Địa hình và cảnh quan
* Địa hình:
Khu du lịch tâm linh chùa Tam Chúc có tổng diện tích 4000 hecta
(theo quyết định 526 được thủ tướng chính phủ phê duyệt ) với cảnh quan và địa thế hiếm thấy:
- Toàn bộ khu du lịch nằm trọn vẹn và ẩn mình trong quần thể núi đá vôi ngập nước độc đáo
- Nơi đây được nhiều nhà phong thủy đánh giá là chốn địa linh chính bởi địa thế “tựa sơn, hướng thủy” nhưng hơn thế nữa là cả 3 mặt của khu quần thể tâm linh này đều được bao bọc bởi một dãy núi đá hình tay ngai => Đây được coi là vị thế vững chãi nhất.
- Trước mặt chùa là một hồ nước có diện tích 600 hecta => Một trong những hồ nước tự nhiên rộng nhất Việt Nam. Dưới hồ có 6 ngọn núi đá vôi hình quả chuông nổi lên mặt nước => Hồ nước có tên gọi là hồ Lục Nhạc.
Truyền thuyết Tiền Lục Nhạc: “Xưa kia, từ thuở khai thiên lập địa, có 7 nàng công chúa xinh đẹp con của Ngọc hoàng thượng đế đã giáng xuống trần gian để ngao du sơn thủy. Và khi đến vùng đất Tam Chúc bây giờ, các nàng tiên vì mê mẩn với cảnh sắc hữu tình chốn này mà đã quyết định lại nơi đây. Trước tình cảnh đó, Ngọc hoàng ngày đêm sầu muộn/thương nhớ khôn nguôi nên đã 6 lần cử thiên binh, thiên tướng xuống trần gian để gọi các nàng về. Và mỗi lần thiên binh, thiên tướng hạ phàm thì họ lại dùng một binh khí rất độc đáo, đó chính là một quả chuông. Sáu lần hạ phàm là sáu quả chuông tất cả. Tuy nhiên, bảy nàng tiên nhất định không quay về trời. Sáu quả chuông hóa thành sáu ngọn núi nằm rải rác trên lòng hồ, mỗi quả núi đều có hình dạng tựa những quả chuông nên hậu thế gọi đó là hồ Lục Nhạc
Truyền thuyết Hậu Thất Tinh: Bảy nàng công chúa năm xưa đã hóa thân thành bảy ngọn núi nằm phía sau chùa Tam Chúc, bởi vậy dân làng nơi đây gọi đó là núi Thất Tinh. Truyền thuyết xưa kể lại rằng: “Trên cả 7 ngọn núi đều xuất hiện những đốm sáng lớn tựa như 7 ngôi sao lấp lánh suốt đêm ngày. Ánh sáng lung linh từ trên cao rọi xuống một vùng rộng lớn. Vì vậy, dân làng gọi đây là núi Thất Tinh. Ánh sáng kỳ diệu của 7 ngôi sao đã tạo nên những lời đồn đại về giá trị của chúng. Vì vậy, một thời gian sau, có người đã lẻn đến núi Thất Tinh rắp tâm hủy hoại 7 ngôi sao đó. Họ chất củi thành đống lớn và đốt nhiều ngày khiến cho 4 ngôi sao bị mờ dần đi nhưng cuối cùng có 3 ngôi sao còn lại vẫn sáng”. Vì thế thị trấn Ba Sao cũng được lấy tên từ tích ấy.
* Cảnh quan:
Cảnh quan nơi đây được ví như chốn bồng lai tiên cảnh:.
- Những dãy núi đá vôi nhấp nhô với muôn hình vạn trạng hình dạng khác nhau.
- Hồ nước rộng mênh mông và cũng là nơi cư trú của hàng chục loài động vật hoang dã, trong đó có rất nhiều loài chim quý hiếm như loài sâm cầm.
- Xen kẽ với những dãy núi đá và hồ nước là những hàng cây cổ thụ hay những thảm cây xanh, những hàng cây sala và đặc biệt là những hàng cây bồ đề.
- Nổi bật trên nền thiên nhiên nguyên sơ đó là những công trình kiến trúc tâm linh với tầm vóc đồ sộ nhưng lại vô cùng tinh tế và khoáng đạt. Toàn bộ quần thể khu du lịch tâm linh chùa Tam Chúc từ dưới đi lên bao gồm: Cổng Tam quan nội, Vườn cột kinh, điện Quán Âm, điện Giáo chủ, điện Tam Thế và cuối cùng là chùa Ngọc.
3. Giá trị lịch sử
- Giá trị lịch sử:
+ Vùng đất này chính là nơi lưu giữ những dấu tích tôn giáo của các triều đại Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần trong lịch sử dân tộc.
+ Nơi đây cũng là nơi ghi lại những dấu chân của Thiền sư Nguyễn Minh Không trên bước đường tu hành, xây dựng chùa chiền, cứu nhân độ thế của ngài.
=> Quần thể chùa Tam Chúc là gạch nối giữa quá khứ và hiện tại, giữa nền văn hóa phương Đông và phương Tây dựa trên nền tảng Phật giáo.
- Khu tâm linh được quy hoạch là 147 hecta trong đó khu chùa Tam Chúc rộng 44 hecta. Ý tưởng và việc chuẩn bị mặt bằng để xây dựng đã được doanh nghiệp Xuân Trường/ban quản lý triển khai thực hiện từ năm 1999. Và đến năm 2013 chùa được chính thức khởi công xây dựng.
- Quá trình xây dựng chùa là một quá trình công phu, tỉ mỉ, thể hiện trình độ thi công bê tông cốt thép và cốp pha định hình đã đạt đến độ điêu luyện của những người thợ Việt Nam. Và công trình chùa Tam Chúc cũng là một minh chứng rõ nét thể hiện bàn tay tạo tác tinh xảo của những nghệ nhân điêu khắc đến từ các quốc gia như Việt Nam, Ấn Độ và Indonesia.
- Quá trình xây dựng chùa Tam Chúc đã hoàn thành xong giai đoạn một và dự kiến  sẽ hoàn thành vào năm 2048. Lúc đó, chùa Tam Chúc sẽ là một trong những ngôi chùa lớn nhất thế giới.
- Với những giá trị tiêu biểu hiện có thì Tam Chúc sẽ được xây dựng để trở thành một trong 47 Khu du lịch trọng điểm của quốc gia. Và tháng 5/2019, Chùa Tam Chúc vinh dự là nơi đăng cai tổ chức Đại lễ Vesak Liên hợp quốc 2019.
II. CÁC ĐỐI TƯỢNG THAM QUAN CHÍNH
 TRUNG TÂM HỘI NGHỊ QUỐC TẾ
- Tên gọi: Công trình còn có tên gọi khác là nhà Đón tiếp (vì là nơi đón tiếp khách), là Tòa thủy đình (vì được xây nổi trên mặt nước) hay nhà Vesak (vì là nơi tổ chức đại lễ Vesak Liên hợp quốc từ ngày 12-14/05/2019).
- Tòa nhà được xây dựng theo lối kiến trúc đình chùa truyền thống của Việt Nam. Công trình có ba tầng, diện tích sàn 10.000m2, có thể phục vụ 3.500 chỗ ngồi. Trong dịp đại lễ Vesak Liên hợp quốc 2019, trung tâm hội nghị quốc tế đã đón tiếp khoảng 1.500 vị lãnh đạo các giáo hội, học giả, Phật tử đến từ hơn 112 quốc gia và vùng lãnh thổ, cùng 10.000 đồng bào Phật tử, nhân dân Việt Nam.
- Đây là công trình được xây dựng trong khoảng thời gian vô cùng gấp rút để chào đón đại lễ Vesak
- Đây cũng là bến lên thuyền của du khách tham quan, chiêm bái khung cảnh Tam Chúc bằng đường thủy.
 	ĐÌNH LÀNG TAM CHÚC
- Đình làng Tam Chúc:
+ Nằm trên một hòn đảo nhỏ giữa lòng hồ Lục Nhạc.
+ Công trình này được phục dựng hoàn toàn bằng gỗ theo phong cách truyền thống trên diện tích đất 3700m2, gồm: Đình Chính, Nhà Tả Vu, Nhà Hữu Vu, Nhà Thủ Từ.
+ Đình chính có quy nhỏ, mang kiến trúc đặc trưng của đình làng Bắc Bộ.
- Theo những thông tin được ghi trong Thần tích, Thần sắc của làng Tam Chúc thì Đình Tam chúc thờ ngài Đại càn Quốc gia Nam Hải
- Trong những câu chuyện truyền miệng, người dân nơi đây vẫn kể về một ngôi chùa Tam Chúc thời xa xưa. Rất có thể hàng ngàn năm trước, tại nơi đây đã có một ngôi chùa có quy mô lớn. Điều này càng được khẳng định vì khi tiến hành nạo vét hồ Lục Nhạc thì người ta đã trục vớt được một số tàn tích dưới lòng hồ. Đó là:
+ Những cột gỗ cỡ lớn có hình dáng bên ngoài xơ tướp (do thời gian) rất giống với những cây gỗ làm cung điện thời nhà Đinh (hiện đang được sưu tầm trong Bảo tàng Ninh Bình).
+ Còn đây là một xà ngang hoặc cũng có thể là xà dọc làm bằng đá, có kích thước dài hơn 5m, đường kính 30cm.
+ Đây là những bệ trụ cột bằng đá có họa tiết cánh sen tương đồng với họa tiết với thời Đinh - Tiền Lê.
Hiện nay thì đây là minh chứng thuyết phục nhất về một công trình có quy mô, rất có thể là một ngôi chùa lớn cách đây hàng ngàn năm đã từng tồn tại trên mảnh đất này. Theo quá trình biến động của lịch sử, ngôi chùa nay không còn, nhưng ngôi đình hiện đã được phục dựng lại.
=> Đình làng Tam Chúc được phục dựng chính là sự sống lại của một ngàn năm lịch sử trên vùng đất này.
CỔNG TAM QUAN NỘI
- Công trình được xây dựng trên hệ thống cọc khoan nhồi vững chắc, vật liệu bằng bê tông cốt thép, kết cấu là khung cột.
- Chiều cao của công trình là 29m, diện tích sàn cả ba tầng là 3.600m2 (trong đó, tầng 1 là 2.000m2, tầng 2 là 1.200m2, tầng 3 là 400m2)
- Cổng tam quan có ba lối vào mà chúng ta thường thấy ở các ngôi chùa truyền thống Việt Nam. Tam quan thể hiện “ba cái nhìn” của Phật giáo, đó là Không quan, Trung quan và Giả quan. Nghĩa là cái sắc, cái không và cái trung dung của cả hai. Triết lý sắc sắc không không là triết lý vô cùng sâu sắc của đạo Phật.
- Những hàng gạch xây thô phía trước với những viên gạch vồ kích thước lớn:
+ Đóng hoàn toàn thủ công.
+ Gạch được đặt hàng sản xuất tại làng gốm cổ Kim Lan, Gia Lâm, Hà Nội, chính là nơi đã từng nung lò, đốt gạch xây thành Đại La xưa kia.
+ Để tạo ra được những viên gạch có màu sắc như vậy thì người thợ thủ công đã phải sử dụng nguyên liệu pha chế bao gồm 4-5 loại chất đất, vỏ bao, xỉ...
+ Mỗi viên gạch này có trọng lượng rất lớn, gạch mộc thì nặng 10kg, sau khi thành phẩm thì mỗi viên nặng 9kg.
- Ngói lợp mái cũng ngoại cỡ:
+ Nếu như ngói bình thường có kích thước 20cm*12cm thì ngói chùa Tam Chúc có kích cỡ là 35cm*20cm mà vẫn phải đảm bảo độ sắc nét của viên ngói.
+ Ngói chùa màu nâu đen trầm mặc, đảm bảo không bị phai màu và không bị phong hóa theo thời gian.
- Điểm nhấn nổi bật của Cổng tam quan nội là có ba lối vào, ba tầng lầu và ba tầng mái cong mềm mại thể hiện tầm vóc đồ sộ và đường nét duyên dáng của công trình.
VƯỜN CỘT KINH
- Vườn cột kinh này được xây dựng dựa trên ý tưởng cột kinh Phật - bảo vật quốc gia đang được đặt tại chùa Nhất Trụ (Ninh Bình).
- Mỗi cột kinh được làm hoàn toàn bằng đá:
+ Đây là loại đá xanh Thanh Hóa.
+ Loại đá này có đặc tính là đá tự nhiên cứng và khả năng chống mài mòn tốt.
+ Chính vì vậy mà đá xanh Thanh Hóa luôn gắn liền với những công trình tâm linh từ xưa đến nay.
- Cột kinh Phật này có kích thước và trọng lượng vô cùng lớn:
+ Mỗi cột cao 14m, đường kính hơn 2m, nặng khoảng 200 tấn.
+ Toàn bộ cột được lắp ghép bởi 6 bộ phận: đế lớp 1, đế lớp 2, phần cột, đấu cột hình lục giác, bát đỡ và nụ sen.
- Sau khi các cột kinh được dựng lên thì những lời Phật dạy sẽ được khắc trên những cột kinh này để nhắc nhở thế hệ hiện tại cũng như thế hệ mai sau về những triết lý sống cao đẹp. Đây cũng chính là tâm nguyện của vua Lê Đại Hành khi ông cho dựng cột kinh Phật khi xưa.
- Công trình này đang trong quá trình thi công, giai đoạn đầu sẽ có 32 cột đá. Dự kiến khi hoàn thành với số lượng 1.000 cột đá thì đây sẽ là Vườn cột kinh Phật lớn nhất thế giới.
ĐIỆN QUÁN ÂM
- Điện cao 30,5m, diện tích sàn 3.000m2, (diện tích tầng hầm là 1.800m2). Bên trong đại điện có đặt một pho tượng Quán Âm Bồ Tát bằng đồng nguyên khối, pho tượng nặng 100 tấn do các nghệ nhân Việt Nam chế tác.
- Quán Thế Âm Bồ Tát:
+ Đây là danh hiệu của một vị Phật đáng lẽ đã chứng quả Phật nhưng vì chúng sinh còn khổ đau nên ngài nguyện đi - về giữa cõi Niết Bàn và cõi Ta Bà để cứu độ chúng sinh. (Cũng có sách cho rằng đây là một ứng thân của Đức Phật, khi Ngài còn tu hạnh Bồ Tát, phải trải qua vô số kiếp luân hồi khổ tu mới chứng thành đạo quả).
+ Quán có nghĩa là quán xuyến, âm có nghĩa là âm thanh. Quán Thế Âm nghĩa là lắng nghe những âm thanh, đặc biệt là những tiếng kêu than của chúng sinh trong thế gian để độ cho họ thoát cảnh lầm than.
+ Ngài dùng sự huyền diệu để cứu độ chúng sinh không biết bao nhiêu mà kể. Vì vậy, Quán Thế Âm Bồ Tát là hiện thân của từ bi (vì chỉ có từ bi mới giải trừ được đau khổ).
- Tranh đá ở điện Quán Âm:
+ 8.500 miếng ghép khác nhau
+ Những bức tranh trong Điện Quán Âm truyền tải thông điệp về vẻ đẹp chân - thiện - mỹ và những đạo lý nhân - quả tốt đẹp của con người.
+ Điểm nhấn nổi bật trên các bức tường ở Điện Quán Âm đây là bốn bức tranh thể hiện những hiện thân khác nhau của Quán Thế Âm Bồ Tát với những tên gọi khác nhau là Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, Quan Âm Tọa Sơn, Quan Âm Nam Hải và Quan Âm Tống Tử. Các bức tranh này càng trở nên nổi bật bởi được đặt trên nền phong cảnh thiên nhiên hữu tình của Tràng An (Ninh Bình) và Tam Chúc (Hà Nam).
=> Với những câu chuyện như vậy thì các bức tranh ở đây được coi là một cuốn kinh bằng đá khổng lồ. Khi đọc những nội dung này thì mỗi chúng ta sẽ thấm nhuần những bài học về đạo lý và lẽ sống cao đẹp. Đấy cũng chính là triết lý cao cả của Phật giáo để hướng tới một cuộc sống an lạc.  
ĐIỆN GIÁO CHỦ
- Điện nằm ở giữa Điện Quán Âm và Điện Tam Thế. Điện có kiến trúc 2 tầng mái cong được xây dựng theo lối kiến trúc đặc trưng của những ngôi chùa Việt.
- Điện Giáo Chủ có chiều cao 31m, diện tích sàn 3.000m2. Tại điện đặt ban thờ gồm 01 pho tượng Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đồng nguyên khối, pho tượng nặng 150 tấn do các nghệ nhân Việt Nam chế tác.
- Với kích thước và trọng lượng của tượng Phật lớn như vậy nên khi thi công, những người thợ xây dựng phải làm một công việc hơi ngược so với thông thường là họ đặt tượng trước sau đó mới thi công công trình. Khi cẩu lên núi, đấu hai cẩu lớn 160 tấn/cẩu mới có thể đưa tượng lên được bệ tượng. Sau khi đặt tượng xong thì người ta mới xây dựng phần cột và mái chùa.
- Điện có tên gọi là Giáo Chủ vì điện thờ Đức Phật Thích Ca Mâu Ni có tên thế tục là Tất Đạt Đa. Đức Phật Thích Ca sinh ra thuộc dòng dõi quý tộc của Ấn Độ cổ đại. Thân sinh Ngài là vua Tịnh Phạn và thân mẫu là hoàng hậu Ma Gia ở thành Ca Tỳ La Vệ. Ngài được nhân loại tôn xưng là Giáo Chủ cõi Ta Bà, Bậc Giác Ngộ khai sáng ra Đạo Phật và đưa nhân loại đi vào con đường giải thoát khổ đau.
- Điểm nổi bật trong Điện Giáo Chủ là 10.000 miếng ghép đá:
+ Tạo nên bức tranh miêu tả chi tiết về từng giai đoạn trong cuộc đời của Đức Phật, từ lúc Ngài đản sinh, thành đạo, thuyết pháp cuối cùng là nhập Niết bàn.
+ Các bức tranh điêu khắc trên đá như câu chuyện liên hoàn tái diễn lại lịch sử chân thực, sống động của một bậc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác.
+ Chính vì vậy, những bức tranh này có ý nghĩa sâu sắc trong việc lan tỏa giáo lý của đạo Phật để mọi người theo đó sống một cuộc đời cao đẹp như Đức Phật.
ĐIỆN TAM THẾ
- Điện Tam Thế nằm ở độ cao 45m so với mực nước biển.
- Công trình này là hạng mục lớn nhất và được khởi công xây dựng và hoàn thiện đầu tiên.
- Và khi khánh thành, vị thế tựa sơn, hướng thủy của chùa Tam Chúc được thể hiện rõ nhất tại đây.
- Điểm nhấn ấn tượng của điện Tam Thế là ba lớp mái chùa đồ sộ. (Lối kiến trúc con chồng kẻ bảy của kiến trúc truyền thống mái chùa Việt vẫn được giữ nguyên nhưng quy mô lớn hơn rất nhiều).
- Tượng thờ:
+ Chính giữa của điện thờ có ba pho tượng Phật Tam Thế là bộ ba pho tượng có kích thước giống nhau đều ngồi trên tòa sen, phía sau là lá Bồ Đề.
+ Đây là sự tượng trưng cho sự hiện diện của Phật giáo ở cả ba thời: Quá khứ, hiện tại, vị lai. Trong đó, phật A Di Đà là đại diện của các vị Phật trong quá khứ; Phật Thích Ca Mâu Ni là đại diện cho các vị Phật ở hiện tại, còn Phật Di Lặc là tượng trưng cho các vị phật thời tương lai. Trong đó, mỗi một thời là bao gồm 1.000 vị Phật. Vì vậy, nói rộng ra thì Tam Thế Phật chính là vô lượng, vô biên, vô số chư Phật mười phương.
+ Tam Thế Phật ba bức mỗi bức 80 tấn được đúc bằng đồng nguyên khối, do các nghệ nhân ở Ý Yên, Nam Định chế tác. Đài sen phía bên dưới nặng 30 tấn. Một điều đặc biệt là với kích thước và khối lượng khổng lồ như thế này nhưng các bức tượng đều được tạc nguyên khối. Mỗi lá bồ đề nặng 5 tấn, được chế tác phần lõi là bằng đồng và phần họa tiết vân mây là được trang trí hoàn toàn bằng vàng.
- Điện Tam Thế có chiều cao là 45m. Hệ cột trụ nâng đỡ mái chùa được thiết kế đặc biệt để tạo hình mái chùa truyền thống. Để làm được điều đó thì chỉ riêng điện này đã có 4 loại cột khác nhau:
+ Ngoài cùng là cột hiên đường kính 0,6m
+ Cột hành lang: 0,8m
+ Bên trong là 1,2m
+ Cột trụ chính: 1,7m.
Chiều cao từ móng lên hết cột là 39m.
- Chính giữa điện đây là khoảng rộng 1.000m2, là không gian đặt tượng và cũng là không gian khách bước vào đầu tiên. Không có một chiếc cột nào chia cắt không gian này. Để đạt được thành tựu xây dựng như thế này thì những người thợ xây dựng đã dùng cách thức thi công bê tông đặc biệt. Đó là trong lõi các xà ngang bê tông không phải là cốt thép thông thường mà là cáp chịu lực.
- Diện tích sàn của điện Tam Thế là hơn 5.100m2 (và diện tích tầng hầm là 2.200m2). Với diện tích lớn như vậy thì khu vực chính điện có sức chứa tới 5.000 Phật tử hành lễ cùng một lúc.
- Những viên gạch lát sàn đặc biệt có kích cỡ đặc biệt, đó là 80cm*80cm, trọng lượng 80kg/viên. Chỉ có những xưởng sản xuất giàu kinh nghiệm mới có thể sản xuất ra được những viên gạch như thế này. Và người ta đã tính toán rằng mỗi viên vừa đủ dành cho một người ngồi khi hành lễ.
- Tranh đá tại điện Tam Thế:
+ 12.000 miếng ghép tạo nên các bức tranh đá.
+ Mỗi bức tranh đá ở đây đều là (sự gửi gắm) một câu chuyện vô cùng nhân văn tái hiện cuộc đời Đức Phật. Đó là những bức tranh về cõi Niết Bàn, chốn bồng lai tiên cảnh, nơi ẩn chứa tất cả những vẻ đẹp chân - thiện - mỹ mà con người hằng mong ước.
+ Mỗi bức tường của điện Tam Thế thể hiện một chủ điểm và các chủ điểm được sắp đặt theo trình tự rất khoa học, từ trái qua phải theo chiều kim đồng hồ và logic câu chuyện cũng được sắp đặt theo chiều quay đó.
TẠI SÂN ĐIỆN TAM THẾ:
Cây bồ đề Vĩ Đại Cát Tường:
+ Sân điện Tam Thế hiện đang trồng một cây rất quý, đó chính là cây bồ đề được chiết ra từ “Cây Bồ Ðề Vĩ Ðại Cát Tường” ở Thánh tích Mahamegha, cố đô Anuradhapura của Sri Lanka.
+ Cây này do Chủ tịch Quốc hội Sri Lanka tặng cho Việt Nam.
+ Cây bồ đề này được coi là cây bồ đề có tuổi thọ cao nhất thế giới hiện nay và được coi là báu vật của quốc đảo này.
 Chiếc vạc đồng:
+ Vạc này được đúc năm 2009 dựa trên ý tưởng của Vạc Phổ Minh - một trong An Nam Tứ đại khí của thời đại Lý - Trần.
+ Vạc là hình ảnh quen thuộc của người Việt vì vạc thường được người dân dùng để nấu ăn. Khi đất nước hưng thịnh thì các bậc vua chúa cho đúc vạc để thể hiện sức mạnh dân tộc và để cảm tạ trời đất. Đặc biệt, vạc còn nhắc nhở con người về quy luật nhân - quả, hướng con người tới một cuộc sống thiện lương.
+ Chiếc vạc này được đúc bằng đồng, nặng khoảng 30 tấn
+ Mặt ngoài có khắc chân dung thiền sư Nguyễn Minh Không và các hình ảnh về chùa Bái Đính, Tràng An, chùa Tam Chúc và chùa Song Tử Tây
NHÀ THỜ TỔ
Nhà thờ tổ tại chùa Tam Chúc hiện tại đang dành để thờ những vị sư tổ có công khai sang và truyền bá đạo phật tại việt Nam
Đạt Ma sư tổ hay còn gọi là Bồ đề Đạt Ma
Vị trí ngồi: Chính giữa, hàng trên cùng  Bồ Ðề Đạt Ma tên thật là Bồ Ðề Ða La (Bodhi Tara), con thứ ba của vua Chí Vương, thuộc giòng Sát Ðế Ly, nước Quốc Hương, Nam Thiên Trúc (vùng cao nguyên Dekkan), thuộc phía nam Ấn Ðộ.
Bồ Ðề Đạt Ma là pháp hiệu, được đặt khi bái sư với ngài Bát Nhã Ða La (Prajanatra), một tổ sư Thiền Tông đời thứ 27 của Ấn Ðộ. Bồ Ðề Đạt Ma được sư phụ truyền thụ y bát, để kế thừa nhiệm vụ Tổ Thiền Tông Ấn Ðộ đời thứ 28.
Ðể thực hiện lời di huấn của thầy mình, vào năm 517, Tổ sư Bồ Ðề Đạt Ma từ giả Ấn Ðộ, dùng thuyền vượt biển, trong ba năm, đến Quảng Châu, Trung Hoa vào ngày 21 tháng 9 năm 520 (Canh Tý), triều Lương Võ Ðế, niên hiệu Phổ Thông thứ bảy.
Theo Nguyễn Lang trong Việt Nam Phật giáo sử luận thì Bồ-đề-đạt-ma có thể từng đến Việt Nam (Giao Châu) cuối đời nhà Tống (420-447) cùng với một vị sư Ấn Độ tên là Pháp Thiên (sa. dharmadeva). Bởi vậy mà trong các ngôi chùa tại Việt nam thường thờ Bồ đề Đạt Ma.
Khuông Việt ( 933-1011) trước tên là Ngô Chân Lưu ), tu chùa Phật Đà, làng Cát Lợi, Thường Lạc (nay là Vệ Linh, Sóc Sơn, Hà Nội). Sư là người Cát Lợi, hậu duệ nhà Ngô , thuộc đời (hay thế hệ) thứ 4, dòng Vô Ngôn Thông. Đại sư Khuông Việt là vị thiền sư được phong Tăng thống đầu tiên trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Tăng Thống Ngô Chân Lưu, được ban danh hiệu Khuông Việt đại sư năm 971, quê quán tại hương Cát Lợi, huyện Thường Lạc, sau là thôn Đoài xã Da Hạ, huyện Kim Hoa phủ Bắc Hà, nay là thôn Thụy Hương, xã Phú Cường, huyện Sóc Sơn, Hà Nội.
Vua Lê Đại Hành đã nhờ Pháp Thuận và Khuông Việt cùng đứng ra đón tiếp. Pháp Thuận đã đón Lý Giác từ chùa Sông Sách, nay thuộc tỉnh Hải Dương, để đưa về kinh ấp Hoa Lư. Đến Hoa Lư, Khuông Việt đã đứng ra tiếp.
Trước khi Lý Giác ra về, vua Lê Đại Hành đã ra lệnh cho Khuông Việt viết một khúc nhạc để tiễn đưa phái bộ. Đây có thể nói là lần đầu tiên văn chương nghệ thuật đã công khai đưa vào phục vụ sự nghiệp chính trị ngoại giao. Đây là một loại từ khúc lưu hành khá phổ biến thời bấy giờ, có thể dùng như lời của một bản nhạc để hát với việc sử dụng các nhạc khí để tấu kèm theo. Khúc từ này có tên là Ngọc Lang Quy, mà truyền bản nhà Nguyễn viết thành Vương Lang Quy.
Pháp Thuận ( 914-990) tên thật là Đỗ Pháp Thuận, là thiền sư đời thứ 10, dòng Tỳ-ni-đa-lưu-chi. Sư trụ trì ở Chùa Cổ Sơn, làng Thừ, quận Ải. Không biết ông là người ở đâu. Sư họ Ðỗ, học rộng, thơ hay, có tài giúp vua, hiểu rõ việc nước. Nhỏ đã xuất gia, thờ Thiền sư Phù Trì chùa Long Thọ làm thầy. Sau khi đắc pháp, sư nói ra lời nào cũng phù hợp với sấm ngữ.
Ðang vào lúc nhà Tiền Lê dựng nghiệp, trù kế hoạch định sách lược, sư tham dự đắc lực. Ðến khi thiên hạ thái bình, sư không nhận phong thưởng. Vua Lê Ðại Hành càng thêm kính trọng, thường không gọi tên, chỉ gọi Ðỗ Pháp sư và đem việc soạn thảo văn thư giao phó cho sư.
Lý Quốc Sư (chữ Hán: 15 tháng 10 năm 1065 – 1141) là tên gọi theo quốc tính họ Vua do nhà Lý ban cho và ghép với chức danh pháp lý cao nhất của một vị thiền sư từng là dược sư, pháp sư, đại sư rồi quốc sư tên hiệu Nguyễn Minh Không. Đạo hiệu Phù Vân quảng đạt đại pháp sư, dân một số nơi ở Ninh Bình thường gọi Đức thánh Nguyễn.
Ông là một vị cao tăng đứng đầu tổ chức Phật giáo của triều đại nhà Lý trong lịch sử, là vị thiền sư sáng lập nên nhiều ngôi chùa nhất ở Việt Nam, được tôn vinh là ông tổ nghề đúc đồng và cũng là ông tổ nghề Đông y Việt Nam.
Vì có nhiều công lớn chữa bệnh cho vua và nhân dân mà ông cùng với Trần Hưng Đạo, là những nhân vật lịch sử có thật, sau này được người Việt tôn sùng là đức thánh Nguyễn, đức thánh Trần và ông được hậu thế thờ ở rất nhiều đền, đình, và cả trong chùa theo kiểu tiền Phật hậu Thánh. Một số ghi chép xưa xếp ông là vị thánh trong tứ bất tử. Trong truyền thuyết dân gian, Nguyễn Minh Không là một nhân vật huyền thoại, xuất hiện với nhiều tình tiết kỳ bí thậm chí hoang đường như khi tu thiền đắc đạo có thể đi mây về gió, niệm chú cho chim lạ rơi xuống đất, ngả nón làm thuyền vượt sông cả, cho cả kho đồng nước Tống vào túi đem về đúc Tứ Đại khí, thò tay vào vạc dầu đang sôi vớt hàng trăm chiếc kim chữa bệnh cho vua Lý Thần Tông. Hiện nay ở vùng châu thổ sông Hồng có rất nhiều nơi còn đền thờ ông như ở Ninh Bình, Bắc Ninh, Hà Nội, Nam Định, Hải Dương, Thái Bình, Quảng Ninh…
Trần Nhân Tông (chữ Hán:  sinh ngày 7 tháng 12 năm 1258 -16 tháng 12 năm 1308) tên khai sinh là Trần Khâm, là vị hoàng đế thứ ba của Hoàng triều Trần nước Đại Việt. Ông trị vì từ ngày 8 tháng 11 năm 1278 đến ngày 16 tháng 4 năm 1293, sau đó làm Thái thượng hoàng cho đến khi qua đời. Trần Nhân Tông được sử Việt đánh giá là một vị vua anh minh, đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển bền vững của Đại Việt cuối thế kỷ XIII, cũng như việc bảo vệ nền độc lập và mở rộng cương thổ đất nước. Ngoài ra, ông cũng là một thiền sư lớn của Phật giáo Việt Nam thời trung đại. Ông là 1 trong 14 vị anh hùng tiêu biểu của dân tộc Việt Nam.
Sau khi đẩy lùi các cuộc xâm lược của người Mông Cổ, Trần Nhân Tông đã khôi phục được sự hưng thịnh của Đại Việt đồng thời thực thi phương sách ngoại giao vừa mềm dẻo, vừa cứng rắn với nhà Nguyên. Năm 1293, ông truyền ngôi cho Thái tử Trần Thuyên (tức vua Trần Anh Tông) và lên làm Thái thượng hoàng. Sau đó Nhân Tông xuất gia tu hành theo đạo Phật và lấy hiệu Trúc Lâm Đại sĩ ; nhưng ông vẫn tham gia điều hành chính sự, đánh dẹp quân Ai Lao xâm phạm biên giới và mở rộng bờ cõi về phương Nam bằng phương pháp ngoại giao. Trần Nhân Tông cũng chính là vị tổ sáng lập Thiền phái Trúc Lâm, một dòng thiền Phật giáo mang bản sắc văn hóa Việt Nam và tinh thần nhập thế.
NHÀ TỨ ÂN
 Đây là gian thờ cư sĩ phật tử Diệu Liên. “Cư sĩ phật tử Diệu Liên”, tức là bà Phạm Thị Lan (1961 – 2018), quê xã Ninh Xuân, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình. Bà là người có công lớn trong việc tôn tạo, xây dựng và quản lý Quần thể danh thắng Tràng An - Bái Đính (Ninh Bình), nơi đây đã được UNESCO công nhận là Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới vào năm 2014. Đây là di sản hỗn hợp đầu tiên ở Đông Nam Á.
 Ngoài chùa Bái Đính, chùa Tam Chúc, bà Phạm Thị Lan còn là người góp công xây dựng những ngôi chùa như: chùa Vàng, chùa Bạc, chùa Báo Hiếu, chùa Thiên Phúc (tỉnh Ninh Bình). Đặc biệt là các ngôi chùa: Song Tử Tây, Đảo Đá Tây A, Trường Sa Đông, Trường Sa Lớn, Sinh Tồn Đông, Phan Vinh... trên quần đảo Trường Sa (tỉnh Khánh Hòa) góp phần bảo vệ biên cương của Tổ quốc và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
CHÙA NGỌC
- Chùa Ngọc tọa lạc trên đỉnh núi Thất Tinh, ở độ cao 200m so với mực nước biển.
- Việc xây dựng trên đỉnh núi cheo leo như thế này là vô cùng khó khăn:
+ Để có thể tiến hành xây dựng được công trình thì những người thợ đã phải chuẩn bị một mặt bằng thi công bằng bê tông cốt thép, cố gắng ít can thiệp nhất vào địa hình tự nhiên của đỉnh núi.
+ Do đường lên núi nhỏ, nhiều đoạn gấp khúc nên các công nhân phải vận chuyển vật liệu lên đỉnh núi bằng hệ thống tời kéo. Nhờ thế mà toàn bộ các khối đá granit được vận chuyển lên đỉnh núi một cách an toàn, trong đó có khối đá nặng đến 5 tấn.
- Công trình chùa Ngọc mang phong cách kiến trúc chùa cổ truyền Việt Nam. Chùa có diện tích 36m2, chiều cao 13m  nặng 2.000 tấn với 3 tầng mái cong.
- Chùa được xây dựng hoàn toàn bằng đá Granit đỏ:
+ Các phiến đá này được các nghệ nhân Hindu giáo người Ấn Độ chế tác và vận chuyển nguyên liệu sang rồi trực tiếp lắp đặt tại đây.
+ Việc lắp dựng các phiến đá với nhau đều ko sử dụng một chất keo kết dính nào, không cần bê tông hay xi măng mà sử dụng phương pháp kết dính theo phương thức cổ truyền của người Ấn Độ.
+ Đó là tất cả các phiến đá được chồng xếp khéo léo bằng mộng âm dương và cân bằng đối trọng.
- Để chinh phục chùa Ngọc thì phải qua 299 bậc đá,
- Chùa Ngọc đặt pho tượng Phật A Di Đà bằng ngọc nguyên khối nặng 4,9 tấn. 	 Đứng tại chùa Ngọc nhìn xuống dưới sẽ thấy toàn bộ khu tâm linh chùa Tam Chúc giống như chốn bồng lai tiên cảnh với núi non, hồ nước, thảm thực vật và những công trình kiến trúc độc đáo.
CHÙA BA SAO
Ngôi chùa được xây dựng trên lưng chừng núi, phía trước hướng về dãy núi Thất tinh. Tương truyền rằng dưới thời lý Thiền sư Nguyễn Minh Không trên đường đi hành đạo đã đi qua vùng đất Tam chúc- Hà Nam. Ngài thấy giữa vùng núi non hùng vĩ lại có dãy núi có khả năng phát sáng tựa những vì sao, cho rằng thế đất này linh thiêng nên đã dừng chân quan sát kỹ hơn thì thấy trên lưng chừng núi có ngôi chùa nhỏ bằng tranh tre, nứa lá đơn sơ, Khi tìm hiểu thì được biết đó là chùa “Tam Tinh”, Ngài đã dùng gạch, đá để xây dựng lại cho khang trang kiên cố hơn và đổi tên chùa thành “Ba Sao”. Đây cũng chính là nơi ngài tu tập và hái thuốc chữa bệnh cứu người trong suốt hành trình cứu nhân độ thế của mình.
Dưới thời Trần ngôi chùa được trùng tu tôn tạo lại, lối lên được làm chắc chắn và kiên cố hơn. Vào năm 2018 do phong hóa thời gian, ngôi chùa đổ nát khá nhiều cho nên đã được Ban quản lý chùa Tam chúc tiến hành trùng tu tôn tạo lại.
KIẾN TRÚC CHUNG (Dành để tham khảo)
Việc xây dựng thành công chùa Tam Chúc là một thành tựu nổi bật trong lĩnh vực xây dựng:
- Địa thế/mặt bằng thi công rất khó khăn vì chiều sâu bị hạn chế, mặt bằng dốc, đổ rộng sang hai bên. Nếu như chiều sâu của chùa Bái Đính là hơn 1000m thì chiều sâu của toàn bộ khu chùa Tam Chúc chỉ có 300m .
- Các nhà thi công đã rất khéo léo tận dụng địa hình tự nhiên, đưa khối kiến trúc đồ sộ nhất là điện Tam Thế kề cận chân núi còn các điện khác nhỏ hơn thì thoải dần xuống phía dưới. => Dù nhìn từ trên cao xuống hay nhìn từ dưới thấp lên thì các công trình cũng không bị che khuất tầm nhìn.
- Tất cả các công trình xây dựng trong khu tâm linh này được xây dựng theo lối thần đạo:
+ Nghĩa là tất cả các công trình chính nằm trên một đường thẳng, còn các công trình phụ thì nằm đăng đối hai bên.
+ Kiểu kiến trúc này càng làm nổi bật địa thế “tựa sơn hướng thủy” của công trình chùa Tam Chúc.
- Toàn bộ các hạng mục xây dựng của chùa Tam Chúc đều làm bằng bê tông cốt thép:
+ Bởi lẽ với quy mô xây dựng cực lớn, khoảng vượt không gian rộng, khiến vật liệu gỗ không thể sử dụng được tại đây.
+ Trình độ thi công bê tông cốt thép với cốp pha định hình của những người thợ Việt Nam đã đạt mức điêu luyện.
+ Những người thợ có thể tạo hình nên dáng vẻ mềm mại, cổ kính cho tất cả các khối kiến trúc dù là bằng bê tông hay gạch xây.
- Tất cả các cấu kiện bê tông:
+ Được sơn giả gỗ => giống vật liệu truyền thống.
+ Phần lớn các họa tiết, hoa văn trên dầm, xà đều được đúc cùng lúc đổ bê tông nghĩa là được tạo hình ngay trong quá trình lắp dựng cốp pha.
- Nguyên liệu thi công:
+ Ngay từ đầu chủ đầu tư/ban quản lý đã có ý tưởng lựa chọn nguyên liệu thô sơ, đảm bảo tính cổ kính cho một công trình ngay sau khi nó vừa hoàn thành.
+ Vì vậy, trong hầu hết các công trình thì có rất nhiều các bức tường cổ kính.
(THUYẾT MINH BỨC TRANH ĐÁ)
- Các bức tranh đá này được chạm khắc vô cùng tinh xảo. Và mỗi bức tranh lại được ghép bằng nhiều tấm đá khác nhau.
- Những bức tranh đá này được chế tác hoàn toàn thủ công bởi các nghệ nhân tài hoa đến từ Java, Indonesia. Và cũng chính những nghệ nhân điêu khắc này lại trực tiếp từ Indonesia sang Việt Nam và tận tay tạo ghép những bức tranh lên tường.
- Nguyên nhân: Người phát tâm xây chùa- ông Nguyễn Văn Trường trong một lần tình cờ đã nhìn thấy và bị cuốn hút bởi những bức tượng được tạc tại khu đền tháp Mỹ Sơn. Từ đó, ông đã nung nấu/ấp ủ ý tưởng sẽ trang trí tất cả các bức tường tại chùa Tam Chúc bằng những bức tranh có phong cách như thế. Từ đó, ông đi đến quốc gia nào cũng để tâm quan sát những bức phù điêu dù lớn hay nhỏ. Và thật may mắn, khi tới Indonesia, cụ thể ở đây là tham quan đền Borobudur, ông đã tận mắt nhìn thấy những bức điêu khắc đá có rất nhiều nét tương đồng với những bức tượng tại khu đền tháp Mỹ Sơn. Sau nhiều lần dò hỏi, cuối cùng ông đã tìm đến các nghệ nhân chế tác đá Java, Indonesia. Tổ tiên của họ chính là những người đã tạo (tác) ra những tác phẩm điêu khắc nổi tiếng tại Angkor Watt hay đền Borobudur và nhiều công trình vĩ đại khác. Ngay sau đó/lập tức, quá trình tạo tác các bức tranh đá đặc biệt được bắt đầu.
- Quá trình thi công: 1.000 người làm việc liên tục trong nhiều tháng bao gồm cả việc vận chuyển đá từ trên núi xuống, mang về xưởng, tạc theo các mẫu tranh. Mỗi bức tranh là một tấm đá. Sau khi thành phẩm thì mỗi tấm đá đó lại được xẻ thành nhiều tấm đá nhỏ, sau đó được đóng kiện chuyển sang Việt Nam. Sau khi được chuyển sang Việt Nam thì những người thợ lại mất thêm 18 tháng để lắp ghép những tấm đá này lên tường để thành những bức tranh hoàn chỉnh. Và cách thức lắp ghép là ghép khít, để đảm bảo tính thô mộc cho bề mặt bức tranh thì chỉ một mặt sau là có chất kết dính.
- Nguyên liệu chế tác tranh: Một loại đá đặc biệt.
+ Đá này được hình thành từ khu vực núi lửa ngàn năm của Indonesia nên còn được gọi đá núi lửa.
+ Đá có độ xốp, không quá nặng do đó dễ chế tác, kể cả đó là những tiểu tiết tinh xảo.
+ Và một ưu điểm nổi trội là màu sắc của đá cổ kính như những tác phẩm có tuổi thọ hàng ngàn năm.
+ Vì vậy, càng trải qua thời gian thì vẻ đẹp của các bức tranh đá này càng trở nên hoàn mỹ.
- Nội dung của tất cả các tranh đá ở chùa Tam Chúc: Kể về cuộc đời đức Phật, mỗi bức tranh là một câu chuyện vô cùng nhân văn và sâu sắc.
+ Các bức tranh ở điện Tam Thế là những câu chuyện về cõi niết bàn, chốn bồng lai tiên cảnh
+ Các bức tranh ở điện Giáo Chủ là sự tập hợp các câu chuyện về cuộc đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni
+ Các bức tranh ở điện Quan Âm là một kho tàng phong phú những câu chuyện kể về tấm lòng từ bi của Bồ tát trong sứ mệnh cao cả là cứu nhân độ thế .